Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 24
H
ai ba ngày sau, khi tôi đã thu xếp ổn thỏa trong phòng của mình và đi
đi lại lại tới London vài lần, đặt mua tất cả những gì tôi muốn từ các nhà cung
cấp, ông Pocket và tôi cùng đi dạo một lúc lâu. Ông biết về con đường sự
nghiệp tương lai của tôi còn hơn cả chính tôi, vì ông nói đã biết từ ông
Jaggers rằng tôi chưa được hướng nghiệp cho bất cứ nghề nào, và tôi sẽ được
coi là nhận đủ giáo dục cho vận mệnh của mình nếu có thể “ngang hàng” với
mức trung bình của các chàng trai trẻ trong hoàn cảnh giàu có. Tất nhiên là
tôi ưng thuận, vì chẳng biết gì ngược lại.
Ông Pocket khuyên tôi tới một số nơi ở London để thu nhận được
những hiểu biết sơ đẳng như tôi muốn, và hãy ủy thác cho ông nhiệm vụ giải
thích và chỉ dẫn cho tôi trong học hỏi mọi thứ. Ông hy vọng với sự hỗ trợ
sáng suốt, tôi sẽ không gặp phải nhiều điều khiến tôi nản lòng, và sẽ sớm
không còn cần đến bất cứ sự trợ giúp nào khác nữa, ngoại trừ của ông. Qua
cách ông Pocket nói ra những điều này, và còn nhiều hơn thế qua mục đích
tương tự, ông tự đặt mình trong mối giao hảo thân tình với tôi một cách rất
đáng mến; và tôi có thể nói ngay là ông luôn rất nhiệt tình và có trách nhiệm
trong việc hoàn thành bổn phận với tôi, cũng như làm tôi trở nên nhiệt tình và
có trách nhiệm trong việc hoàn thành bổn phận của tôi với ông. Nếu ông
Pocket tỏ ra là một vị sư phụ dửng dưng, tôi chẳng có chút nghi ngờ nào là
hẳn tôi đã đáp lại tương tự trên tư cách đệ tử; nhưng ông chẳng dành cho tôi
cớ nào như thế, và mỗi người chúng tôi đều trân trọng người kia. Tôi cũng
chưa bao giờ nhìn thấy điều gì lố bịch ở ông - hay bất cứ gì khác ngoài sự
nghiêm túc, chân thành và tử tế - trong việc trao đổi về việc chỉ dạy với tôi.
Khi những điểm này được thiết lập và triển khai tới mức tôi bắt đầu
thực sự vào việc, tôi chợt nghĩ nếu tôi có thể giữ lại căn phòng tại Nhà họ
Barnard, cuộc đời tôi rất có thể phong phú hơn một cách dễ chịu, trong khi
phong cách của tôi cũng chẳng vì thế mà tệ đi khi có Herbert ở bên. Ông
Pocket không phản đối cách thu xếp này, song nhấn mạnh rằng trước khi thực
hiện bước nào theo hướng đó, chuyện này cần được đệ trình lên người giám
hộ của tôi. Tôi cảm thấy sự tế nhị này xuất phát từ cân nhắc tới việc kế hoạch
đó có thể giúp Herbert bớt được ít nhiều chi tiêu, vậy là tôi lên đường tới
Little Britain để bày tỏ ý nguyện với ông Jaggers.
“Nếu cháu có thể mua những món đồ hiện đang được thuê cho cháu,”
tôi nói, “và một vài thứ vặt vãnh khác, cháu sẽ thoải mái ở đó như ở nhà
thôi.”
“Được thôi!” ông Jaggers nói kèm một tiếng cười cộc lốc. “Tôi đã nói
với cậu là cậu sẽ hợp với chuyện này mà. Được! Cậu muốn bao nhiêu?”
Tôi nói tôi không biết cần bao nhiêu.
“Thôi nào!” ông Jaggers gặng hỏi lại. “Bao nhiêu? Năm mươi bảng
nhé?”
“Ôi, không nhiều đến thế đâu ạ.”
“Năm bảng chăng?” ông Jaggers nói.
Quả là một mức giảm ghê gớm, đến mức tôi bối rối nói, “À, nhiều hơn
thế.”
“Nhiều hơn thế cơ đấy!” ông Jaggers vặn lại, chờ sẵn rình rập tôi, hai
bàn tay đút vào túi, đầu ngả sang một bên, mắt nhìn vào bức tường đằng sau
tôi, “nhiều hơn bao nhiêu?”
“Thật khó ấn định một con số,” tôi ngần ngừ.
“Thôi nào!” ông Jaggers nói. “Hãy nói cụ thể ra. Hai lần năm có đủ
không? Ba lần năm có đủ không? Bốn lần năm có đủ không?”
Tôi nói tôi nghĩ chừng đó sẽ đủ dư dả.
“Vậy là bốn lần năm sẽ đủ dư dả, phải không nào?” ông Jaggers nhíu
mày nói. “Mà với cậu bốn lần năm là gì?”
“Với cháu là gì ạ?”
“À!” ông Jaggers thốt lên, “bao nhiêu?”
“Cháu đoán ông sẽ tính là hai mươi bảng,” tôi mỉm cười nói.
“Đừng bận tâm việc tôi tính ra gì từ nó, anh bạn,” ông Jaggers bình
luận, đồng thời lắc đầu đầy hiểu biết và phản bác. “Tôi muốn biết cậu tính ra
bao nhiêu.”
“Hai mươi bảng, tất nhiên rồi.”
“Wemmick!” ông Jaggers vừa mở cửa văn phòng vừa gọi. “Hãy nhận
yêu cầu viết tay của cậu Pip, và thanh toán hai mươi bảng cho cậu ấy.”
Cách xử lý công việc cực kỳ đáng chú ý này tạo nên một ấn tượng cực
kỳ sâu sắc với tôi, và không phải là một ấn tượng dễ chịu. Ông Jaggers chẳng
bao giờ cười thành tiếng; nhưng ông đi đôi bốt to sáng bóng luôn kêu răng
rắc, và trong khi ngự trên đôi bốt đó, cái đầu to cúi xuống, đôi lông mày chập
dính vào nhau chờ đợi một câu trả lời, đôi khi ông lại làm đôi bốt kêu lên
răng rắc, như thể chúng đang khô khan cười khùng khục đầy ngờ vực. Vì tình
cờ lúc này ông luật sư chuẩn bị ra ngoài, còn Wemmick lại hay chuyện cởi
mở, tôi bèn nói với Wemmick là tôi hầu như không hiểu nổi nên nghĩ sao về
thái độ của ông Jaggers.
“Hãy nói thế với ông ấy, và ông ấy sẽ coi đó là một lời khen ngợi,”
Wemmick đáp, “ông không hề có ý muốn cậu biết cần nghĩ sao về thái độ của
mình. - Ồ!” ông này nói tiếp khi thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, “nó không hề
mang tính cá nhân đâu; đây là chuyện công việc, thuần túy công việc.”
Wemmick đang ngồi tại bàn làm việc, ăn trưa - và nhai rau ráu - một
thứ bánh quy khô cứng queo; cứ chốc chốc ông ta lại ném từng miếng bánh
vào khe miệng hẹp của mình, cứ như thể đang bỏ chúng vào thùng thư vậy.
“Tôi luôn có cảm giác,” Wemmick nói, “dường như ông ấy đang bày ra
một cái bẫy cho người khác và quan sát nó. Rồi bất ngờ - tách - cậu đã bị
tóm!”
Không đề cập tới chuyện những cái bẫy người này chẳng hề thuộc về
phần dễ chịu của cuộc đời, tôi nói chắc hẳn ông luật sư phải rất khôn ngoan.
“Sâu,” Wemmick nói, “như Australia vậy.” Ông ta cầm bút chỉ xuống
sàn phòng để giải thích rằng Australia được hiểu, nhằm mục đích so sánh, là
nằm đối xứng bên đối diện trên địa cầu. “Nếu có thứ gì sâu hơn,” Wemmick
nói thêm, đưa bút trở lại mặt giấy, “thì cũng vẫn chính là ông ấy.”
Tiếp theo, tôi nói chắc hẳn việc làm ăn ông Jaggers phải rất tốt, và
Wemmick nói, “H-ạ-n-g n-h-ấ-t!” Tiếp theo tôi hỏi liệu tại đây có nhiều trợ lý
hay không? Với câu hỏi này ông ta đáp:
“Chúng ta sẽ không bắt gặp quá nhiều trợ lý, vì chỉ có duy nhất một
Jaggers, và người ta không muốn gặp ông ấy qua trung gian. Chỉ có tất cả
bốn người chúng tôi. Cậu có muốn gặp họ không. Cậu là một trong số chúng
tôi, tôi có thể nói vậy.”
Tôi chấp nhận lời đề nghị. Khi ông Wemmick đã gửi hết chỗ bánh quy
vào thùng thư, đồng thời đã thanh toán tiền cho tôi từ hộp đựng tiền mặt
trong két an toàn, chìa khóa két được ông cất đâu đó phía dưới đằng sau
người và lấy từ trong cổ cồn áo khoác ra như một cái đuôi sam bằng sắt,
chúng tôi đi lên lầu. Ngôi nhà rất tối tăm tồi tàn, và những đôi vai trơn nhẫy
đã để lại dấu vết trong phòng ông Jaggers dường như đã hối hả đi lên đi
xuống cầu thang này suốt nhiều năm. Ở phía trước lầu một, một viên trợ lý có
bộ dạng nằm đâu đó giữa một người thu thuế và một kẻ bắt chuột - một người
đàn ông to béo, phì nộn, nhợt nhạt - đang bận bịu nói chuyện với ba bốn
người vẻ ngoài rách rưới, những người này được ông ta đối xử chẳng chút
khách khí, cũng hệt như cách dường như tất cả những ai đóng góp vào hòm
tiền của ông Jaggers đều được đối xử. “Hãy tập hợp các bằng chứng,” ông
Wemmick nói khi chúng tôi đi ra, “cho Bailey*.”
Nơi đặt tòa án hình sự trung ương của Anh và xứ Wales.
Trong căn phòng đằng sau đó, viên trợ lý bộ dạng như một con chó sục
mềm nhẽo với mái tóc lòa xòa (có vẻ như chuyện cắt tóc của anh ta đã bị lãng
quên từ khi còn nhỏ xíu) cũng đang tiếp chuyện một người đàn ông có đôi
mắt yếu đuối, ông Wemmick giới thiệu với tôi đây là một thợ luyện kim luôn
giữ cho nồi nấu của anh ta sôi lục bục, và sẵn sàng nấu chảy cho tôi bất cứ
thứ gì tôi thích - và người này đang mồ hôi ròng ròng, như thể anh ta cố thử
ngón nghề của bản thân lên chính mình. Trong một căn phòng ở đằng sau,
một người đàn ông vai nhô cao với khuôn mặt nhăn nhó bao quanh bằng vải
flannel bẩn thỉu trong bộ đồ đen cũ kỹ trông như được chuốt sáp đang ngồi
cúi người xuống bàn làm việc, sao lại cẩn thận các ghi chú của hai quý ông
vừa kể ở trên để dành cho chính ông Jaggers sử dụng.
Đó là tất cả cơ ngơi. Khi chúng tôi lại quay xuống cầu thang,
Wemmick dẫn tôi vào phòng người giám hộ của tôi và nói, “Chỗ này cậu đã
thấy rồi.”
“Kia,” tôi lên tiếng, vì lúc ấy hai hình đúc khuôn với cái nhìn ma mãnh
bực dọc lại rơi vào tầm mắt, “là tượng của ai vậy?”
“Kia ư?” Wemmick hỏi lại, đứng lên một cái ghế, thổi bụi khỏi hai cái
đầu kinh khủng trước khi bê chúng xuống. “Đây là hai nhân vật tiếng tăm.
Hai khách hàng nổi danh đã mang tới cho chúng tôi rất nhiều uy tín. Gã này
(tại sao mày nhất định phải đi xuống vào ban đêm và nhìn trộm vào khay
mực để rồi bị dính mực lên lông mày hả, đồ khốn!) sát hại ông chủ của hắn,
và nếu tính đến chuyện hắn không để lại chứng cứ nào, quả là gã này lên kế
hoạch không tồi chút nào.”
“Trông nó có giống hắn không?” tôi hỏi, lùi xa khỏi bức tượng kẻ sát
nhân, trong khi Wemmick nhổ nước bọt lên lông mày gã và đưa tay áo lên cọ
một cái.
“Giống hắn không ư? Đây chính là hắn, cậu biết đấy. Khuôn đúc được
làm ở Newgate, ngay sau khi hắn được hạ xuống*. Mày đặc biệt thích tao mà,
phải không, Đồ Xảo quyệt?” Wemmick nói. Sau đó, ông ta giải thích về
thoáng chốc xúc cảm này bằng cách chạm tay vào đồ cài áo chạm hình quý
bà và cây liễu bên nấm mộ với bình đựng cốt đặt bên trên, và nói, “Hắn đã
đặt làm gấp nó cho tôi đấy!”
Hạ xuống từ máy chém.
“Quý bà này có phải là ai đó cụ thể không?” tôi hỏi.
“Không,” Wemmick đáp lại. “Chỉ là con mồi của hắn thôi. (Mày thích
con mồi của mày mà, phải không?) Không; chẳng có quý bà nào trong vụ này
hết, cậu Pip, ngoại trừ một - và bà ta không phải loại quý bà mảnh mai thế
này, và cậu sẽ không thể bắt gặp bà ta trông coi cái bình này, trừ phi có thứ
gì để uống trong đó.” Sự chú ý của Wemmick vậy là được chuyển sang đồ cài
áo, ông ta để bức tượng đầu xuống, dùng khăn tay lau đồ cài đến bóng lên.
“Có phải gã còn lại cũng gặp kết cục tương tự không?” tôi hỏi. “Trông
bộ dạng hắn cũng y hệt.”
“Cậu nói đúng đấy,” Wemmick nói, “đó là vẻ mặt thực sự. Cứ như thể
một bên lỗ mũi bị một cái móc câu xỏ lông đuôi ngựa móc lên vậy. Phải, hắn
cũng có kết cục tương tự; lần này là một kết cục khá tự nhiên, xin cam đoan
với cậu. Hắn giả mạo di chúc, gã khốn này đã làm thế, nếu không phải hắn
cũng đã đưa luôn cả những người được cho là lập di chúc đi ngủ. Dù vậy,
mày vẫn quả là một gã có khí khái quý ông,” (Ông Wemmick một lần nữa lại
đầy xúc cảm), “và mày nói có thể viết được tiếng Hy Lạp. Phải, đồ khoác lác!
Mày đúng là một kẻ dối trá! Tao chưa bao giờ gặp kẻ dối trá nào như mày!”
Trước khi trả lại ông bạn quá cố lên giá, Wemmick chạm tay vào chiếc nhẫn
để tang lớn nhất của ông ta và nói, “Hắn đã nhờ người đi mua nó cho tôi,
ngay ngày hôm trước.”
Trong khi người trợ lý cất nốt bức tượng đầu còn lại và xuống khỏi
ghế, trong đầu tôi chợt thoáng qua ý nghĩ tất cả các món đồ trang sức của ông
ta đều bắt nguồn từ bối cảnh tương tự. Vì ông ta chẳng hề tỏ ra e dè về chủ đề
này, tôi liền đánh bạo đưa ra câu hỏi đó trong khi ông đứng trước mặt tôi phủi
bụi hai bàn tay.
“À phải,” ông Wemmick đáp, “tất cả chỗ này đều là những món quà
kiểu đó. Món này lại dẫn tới món tiếp theo, cậu thấy đấy; chuyện là như thế.
Tôi luôn đón nhận chúng. Chúng là những món đồ kỳ lạ. Và là tài sản. Có thể
chúng không đáng giá là mấy, nhưng nói gì thì nói vẫn là tài sản và có thể
mang theo người. Điều này không mấy có ý nghĩa với một người bảnh bao
như cậu, nhưng với tôi thì kim chỉ nam của tôi luôn là, ‘Sưu tầm những tài
sản có thể mang theo người.’”
Khi tôi đã tỏ lòng ngưỡng mộ sự khai sáng, ông ta nói tiếp với vẻ thân
tình:
“Nếu lúc nào rỗi rãi cậu không có gì tốt hơn để làm, đừng e ngại tới
Walworth gặp tôi, tôi có thể dành cho cậu một chiếc giường, và sẽ coi đó như
một vinh hạnh. Tôi không có nhiều thứ để chỉ cho cậu thấy; nhưng vài ba thứ
lạ lẫ
m của tôi có thể cậu sẽ thích xem qua; và tôi thích một khu vườn nhỏ và
một ngôi nhà mùa hè.”
Tôi nói sẽ rất vui mừng đón nhận lòng hiếu khách của ông.
“Cảm ơn cậu,” ông nói, “vậy chúng ta sẽ coi như chuyện đó sẽ diễn ra,
khi nào tiện cho cậu. Cậu đã dùng bữa với ông Jaggers chưa?”
“Vẫn chưa.”
“Được,” Wemmick nói, “ông ấy sẽ mời cậu dùng vang, và là vang
ngon. Tôi sẽ mời cậu punch*, và là thứ punch không tồi. Và giờ tôi sẽ cho
cậu hay một thứ. Khi cậu dùng bữa với ông Jaggers, hãy để ý nhìn người
quản gia của ông ấy.”
Rượu mạnh pha với đường, sữa, chanh, gia vị…
“Tôi sẽ thấy gì bất thường lắm sao?”
“À,” Wemmick nói, “cậu sẽ thấy một con thú hoang bị thuần phục.
Cũng không mấy lạ thường, hẳn cậu sẽ nói với tôi thế. Xin trả lời là điều đó
phụ thuộc vào mức độ hoang dã nguyên thủy của con thú, và mức độ thuần
hóa. Nó sẽ không hạ thấp những gì cậu nhìn nhận về sức mạnh của ông
Jaggers đâu. Hãy để mắt nhìn xem.”
Tôi nói với ông sẽ làm như thế, với tất cả sự quan tâm tò mò mà màn
chuẩn bị của ông đã đánh thức dậy. Khi tôi định cáo từ, ông hỏi tôi có vui
lòng dành ra năm phút để chứng kiến ông Jaggers “tại đó” không?
Vì một vài lý do, trong đó bao gồm cả chuyện tôi không thực sự biết rõ
ông Jaggers sẽ bị bắt gặp đang “tại” cái gì, tôi liền trả lời là có. Chúng tôi đi
vào khu City, tới một tòa án trị an đông nghịt người, tại đây một người có
quan hệ máu (theo nghĩa sát nhân) với người quá cố, đồng thời cũng có sở
thích kỳ khôi về những đồ cài áo, đang đứng trước vành móng ngựa, bứt rứt
nhai thứ gì đó; cùng lúc, người giám hộ của tôi đang lấy khẩu cung hay kiểm
tra chéo khẩu cung - tôi không rõ là việc nào - một người phụ nữ, và đang
khiến người phụ nữ này, quan tòa cũng như tất cả mọi người có mặt sợ một
phép. Nếu có ai đó, ở bất cứ mức độ nào, nói một lời ông không tán đồng,
ông luật sư lập tức yêu cầu “loại bỏ” nó. Nếu ai đó không chịu thú nhận, ông
liền nói, “Tôi sẽ khiến các người khai ra!” Chỉ một cái chỉ tay của ông cũng
làm các quan tòa rùng mình. Đám kẻ trộm và cả những người bắt trộm sợ đến
đờ người ra trước những lời lẽ của ông, và co rúm lại khi một sợi lông mày
của ngài luật sư chĩa về phía họ. Ông đang ở về bên nào thì tôi chịu không
đoán ra nổi, vì dường như ông đang nghiền nát cả nơi này trong một cái cối;
tôi chỉ biết được điều đó khi rón rén đi ra, ông luật sư không đứng về phía
quan tòa; vì ông đang khiến cho đôi chân quý ông già cả chủ trì phiên tòa run
lẩy bẩy dưới gầm bàn bằng những lời chỉ trích cách hành xử của ông ta trên
ghế đại diện cho luật pháp Anh quốc và công lý ngày hôm đó.