Thất bại thực sự duy nhất chính là không dám khởi sự.

Harold Blake Walker

 
 
 
 
 
Tác giả: Martin Cruz Smith
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
esley và ba đặc vụ FBI khác mang một túi giấy đựng bữa sáng gồm cà phê và bánh rán đến phòng khách sạn. Arkady uống một cốc. Irina đang thay đồ trong phòng tắm.
“Tôi biết liên lạc viên của sở cảnh sát New York là trung úy Kirwill,” Ray nói. Một gã nhỏ con, đỏm dáng gốc Mexico, Ray là đặc vụ duy nhất không đặt chân lên bàn. “Có vấn đề gì sao?”
“Không có gì,” Wesley nói. “Chỉ là việc cá nhân thôi.”
“Tôi nghe bảo là khá điên đấy,” George nói. George là gã với bọng mắt đầy hung dữ mà Arkady nhìn thấy ở tiền sảnh tối hôm trước. Đôi khi hắn được gọi là ‘người Hy Lạp’. Hắn xỉa răng bằng diêm.
Thứ tiếng Anh mà Wesley nói nghe như một dạng mới của Latin, hai mặt một cách máy móc, rõ ràng như giấy bóng kính và khiến người ta phải diễn giải theo nhiều cách khác nhau.
“Anh phải hiểu lịch sử của cấp tiến xã hội chủ nghĩa ở New York, cũng như truyền thống hào hùng của người Ai-len - Mỹ trong quân đội. Hoặc anh không phải hiểu gì cả,” Wesley nói, “vì điều quan trọng nhất là Kirwill muốn cứu đội Đỏ.”
“Đội Đỏ là gì?” Arkady hỏi.
Bầu không khí trở nên khó chịu cho đến khi Wesley nhẹ nhàng nói. “Sở cảnh sát New York có một đội Đỏ. Cứ mười năm một lần, họ lại đổi tên hay sao đó - Cục cấp tiến, Đối Ngoại, An ninh công cộng. Bây giờ nó được gọi là Điều tra an ninh, nhưng nó vẫn luôn là đội Đỏ. Trung úy Kirwill có cái bàn Nga trên đội Đỏ. Mà anh chính là màu Đỏ.”
“Anh là gì?” Arkady hỏi viên đặc vụ. “Anh đưa chúng tôi đến Mỹ để làm gì? Chúng tôi còn phải ở đây bao lâu nữa?”
Al đổi chủ đề để phá vỡ sự im lặng. Là đặc vụ già nhất, ông có làn da đầy tàn nhang như hoa ly và cung cách của bậc chú bác. “Có chuyện với em trai anh ta, và Kirwill ra khỏi đội Đỏ. Giờ người em trai đó đã chết ở Moscow và anh ta lại quay về.”
“Kirwill sẽ cố quay về dù có làm chúng ta tổn hại,” Wesley nói. “Chúng ta có mối quan hệ hoàn hảo với Cục cảnh sát, nhưng họ sẽ đâm lén chúng ta nếu có cơ hội - mà chúng ta thực ra cũng sẵn sàng làm thế với họ thôi.”
“Mười năm trước, đội Đỏ là tinh hoa của giới thám tử.” Al phủi vụn đường bánh rán rơi trên bụng xuống. Họ điều tra tất cả mọi người. Nhớ đám Do Thái bắn phái đoàn Liên Xô không? Đội Đỏ đã ngăn chúng lại. Rồi đám muốn cho nổ tung tượng nữ thần tự do nữa? Cũng chính đội đã thâm nhập vào chúng.”
“Họ đã rất thành công,” Wesley tán thành. “Đội đã ở đó khi Malcolm X bị ám sát. Vệ sĩ của Malcolm là một đặc vụ đội Đỏ.
“Chuyện gì đã xảy ra với đội Đỏ?” Ray hỏi.
“Vụ Watergate,” Wesley trả lời.
“Khốn kiếp, cả họ cũng bị dính à,” George lẩm bẩm.
Có một khoảng lặng đầy thương cảm trước khi Al giải thích. “Suốt vụ điều trần Watergate, hóa ra trợ lý an ninh đặc biệt của Nixon, một người có trách nhiệm thuê những gã khác làm những việc dơ bẩn, là John Caulfield. Caulfield đến từ đội Đỏ, hắn từng làm vệ sĩ cho Nixon hồi còn ở New York trước khi ông ta trở thành Tổng thống. Khi Caulfield ở Nhà Trắng, hắn đưa vào một người bạn cũ cũng từ đội Đỏ, một gã tên là Tony Ulasewicz.”
“Gã béo theo dõi Muskie hả?” George hỏi.
“Cho CREEP.” Wesley nói.
“Gã đó không thú vị sao?”, George hỏi tiếp. “Giữ một cái máy đổi tiền xu chỗ thắt lưng để dùng điện thoại công cộng? Hiển nhiên rồi!”
“Chà, vụ Watergate đã chấm dứt những ngày huy hoàng của đội Đỏ,” Al nói. “Sau đó thì không khí chính trị đã thay đổi.”
“Cái đó bao giờ chả loạn,” George nói.
“Chúng tôi có phải là tù nhân không? Các anh sợ chúng tôi à?” Arkady hỏi.
“Bây giờ đội Đỏ làm gì?” Ray lấp vào khoảng lặng.
“Họ truy lùng những tên ngoại quốc bất hợp pháp.” Wesley nhìn Arkady. “Người Haiti, Jamaica, bất cứ cái gì họ có thể bắt.”
“Người Haiti, Jamaica? Thật đáng thương,” George nói.
“Nếu xét xem đội Đỏ đã từng như thế nào.” Wesley thở dài. “Khi nhớ lại họ đã từng có hàng triệu tên trong hồ sơ, có trụ sở đặc biệt của chính họ ở Đại lộ Park, có những buổi tập huấn bí mật với CIA.”
“CIA?” George ngạc nhiên. “Giờ như thế là bất hợp pháp.”
Nicky và Rurik, hai người đàn ông từ phái đoàn Liên Xô, khăng khăng đòi gặp Arkady. Họ không giống những đặc vụ KGB mà anh từng gặp trước đó. Họ mặc com-lê chỉn chu, hơn cả của những đặc vụ FBI đã chào họ, có thái độ chuẩn mực, giao tiếp tốt, và còn có sự suồng sã kiểu Mỹ. Họ thậm chí còn Mỹ hơn cả người Mỹ thật. Họ chỉ bị lộ bởi cái vòng eo rắn chắc, dấu tích của một tuổi thơ đầy khoai tây.
“Tôi sẽ nói bằng tiếng Anh,” Nicky đốt một điếu xì gà cho Arkady “nếu thế sẽ không có gì bị giấu giếm cả. Bởi vì đây là một hành động bình thường hóa quan hệ. Hai nước chúng ta đã hợp tác, thông qua các trung gian phù hợp, để mang một tên sát nhân tàn bạo ra ánh sáng. Gã điên này sẽ bị mang ra trước công lý với sự giúp sức của các anh.”
“Sao ông lại mang cô ấy đến đây?” Arkady hỏi bằng tiếng Nga. Irina vẫn ở ngoài tầm nghe.
“Làm ơn nói tiếng Anh,” Rurik nói. Hắn cao hơn Nicky và mái tóc đỏ được cắt đầy, kiểu Mỹ. Những đặc vụ FBI gọi hắn là ‘Rick’.
“Cô ta được mang đến đây theo yêu cầu của bạn chúng tôi ở trong sở. Họ có rất nhiều câu hỏi. Anh phải hiểu, người Mỹ không quen với những câu chuyện về cộng sản và bọn cướp Siberi. Dẫn độ là một đề tài rất nhạy cảm.”
“Đặc biệt là việc dẫn độ một gã giàu có và quan hệ với giới thượng lưu.” Nicky nhìn Wesley. “Đúng không, Wes?”
“Tôi đoán bạn hắn ở đây cũng nhiều như ở đó vậy.” Wesley khiến tất cả các đặc vụ cười phá lên, cả đặc vụ Mỹ và Xô Viết.
“Hãy cho là anh hạnh phúc,” Rurik nói với Arkady. “Hẳn là các đối tác của chúng tôi ở đây thiết đãi anh tử tế? Anh có một căn phòng đáng yêu trên một đại lộ thượng lưu. Tôi còn nhìn thấy tòa Empire State từ cửa sổ phòng anh. Tuyệt hảo. Vậy hãy cho là anh sẽ làm cô gái hạnh phúc. Thoải mái và dễ giải quyết hơn chưa? Đó hẳn là một việc dễ chịu.
“Anh rất may mắn mới có được cơ hội thứ hai này,” Nicky nói. “Nó sẽ tạo nên tất cả sự khác biệt trong việc tiếp đón khi anh về nhà. Trong vòng vài ngày, anh sẽ có lại căn hộ của mình, thậm chí cả một công việc từ ủy ban Trung ương. Anh thật là một gã may mắn.”
“Tôi phải làm gì để được như thế?” Arkady hỏi.
“Tôi đã nói rồi,” Rurik trả lời. “Làm cô ấy hạnh phúc.”
“Và ngừng đặt câu hỏi đi,” Wesley thêm vào.
“Đúng,” Rurik tán thành, “ngừng đặt câu hỏi đi.”
“Để chúng tôi nhắc cho anh nhớ,” Nicky nói, “anh không còn là điều tra viên trưởng nữa. Anh là một tên tội phạm Xô Viết, kẻ vẫn còn sống nhờ ơn chúng tôi và chúng tôi là những người bạn duy nhất của anh.”
“Kirwill đang ở đâu?” Arkady hỏi.
Cuộc hội thoại chấm dứt khi Irina bước ra từ nhà tắm, khoác trên mình một cái váy gabardine màu đen và áo lụa để lộ vòng cổ hổ phách. Mái tóc nâu của cô được vén sang một bên và cô đang đeo một cái vòng tay bằng vàng. Arkady đồng thời chịu hai cú sốc: đầu tiên, Irina đang mặc thứ trang phục đắt tiền đến thế, thứ hai, trông chúng thật hợp với cô. Sau đó, anh nhận ra vết bớt trên má phải cô, cái mạch xanh xao biểu lộ nỗi đau khổ, đã biến mất, được khéo léo che đậy bởi lớp trang điểm. Cô thật hoàn hảo.
“Được rồi, đi thôi.” Wesley ngồi dậy, tất cả vớ lấy mớ áo khoác và mũ mà họ vứt tứ tung trên giường. Al lấy từ tủ đồ một cái áo lông dài và giúp Irina khoác vào. Arkady nhận ra đó là một cái áo khoác lông chồn zibelin.
“Đừng lo,” Irina nói với Arkady lúc cô được dẫn đi.
“Chúng tôi sẽ cử người đến sửa.” George chỉ vào cái điện thoại. “Đừng mó tay vào nữa. Đó là đồ của khách sạn.”
“Tài sản riêng - Nicky lướt tay qua Wesley khi họ rời đi - “là cái tôi thích nhất ở một đất nước độc lập.”
Chỉ còn lại một mình, Arkady kiểm tra căn phòng, nó giống như một giấc mơ nơi mà mọi thứ đều cong vênh. Chân anh lún sâu vào tấm thảm. Đầu giường được độn bông. Bàn uống cà phê làm bằng thứ nhựa vân gỗ, oằn xuống dưới những ngón tay.
Ray trở lại và sửa cái điện thoại. Khi Ray rời đi, Arkady nhận ra điện thoại chỉ có thể nhận cuộc gọi đến. Anh tìm thấy một chiếc micro giấu trong đèn trần nhà tắm. Cái ti vi được đặt trên một giá gắn chặt với sàn nhà nên anh không thể lấy được. Cửa ra hành lang bị khóa từ bên ngoài.
Cánh cửa bật mở khi viên đặc vụ FBI George bị đẩy vào.
“Người đàn ông này được liên bang bảo vệ,” George phản đối.
“Tôi là liên lạc viên của sở cảnh sát, tôi phải kiểm tra xem đây có đúng là người Nga đó không.” Kirwill án ngữ lối vào.
“Xin chào,” tiếng Arkady vang lên từ phía bên kia căn phòng.
“Đây là một đặc vụ của sở, thưa trung úy,” George cảnh cáo.
“Đây là New York, đồ khốn ạ.” Anh ta đẩy George sang một bên. Kirwill ăn vận y như lần đầu tiên Arkady thấy anh ta ở khách sạn Metropole, ngoại trừ cái áo mưa màu đen thay vì nâu vàng. Vẫn chiếc mũ ngắn vành lật ra sau vầng trán rộng, nhăn nheo và mớ tóc muối tiêu. Cái cà vạt thắt lỏng lẻo. Tiến lại gần hơn, Arkady thấy những vết bẩn trên cái áo mưa. Khuôn mặt Kirwill đỏ ửng lên vì hơi men và sự hưng phấn. Anh ta thỏa mãn vỗ đôi bàn tay to, đôi mắt xanh lóe lên khi dò xét khắp căn phòng. So với những đặc vụ FBI, trông anh ta nhếch nhác và thiếu kiềm chế hơn. Anh ta trao cho Arkady một nụ cười ngạo nghễ đầy nguy hiểm. “Thằng khốn, ra đó là anh.”
“Phải.”
Kirwill mang một biểu cảm khôi hài pha giữa vui thú và đau khổ.
“Thừa nhận đi, Renko, anh làm mọi thứ rối tung. Tất cả những gì anh phải làm chỉ là nói với tôi kẻ đó là Osborne. Nếu thế tôi đã chăm sóc hắn lúc ở Moscow rồi. Một vụ tai nạn - sẽ chả ai biết được. Hắn sẽ chết, tôi sẽ vui sướng và anh vẫn là điều tra viên trưởng.”
“Tôi thừa nhận.”
George nói qua điện thoại mà không quay số.
“Họ nghĩ anh là một gã rất nguy hiểm.” Kirwill chỉ ngón cái về hướng George. “Anh bắn sếp của chính mình. Anh đâm Unmann. Họ nghĩ anh còn giết gã ở hồ nữa. Họ nghĩ anh chỉ là tên sát nhân tâm thần. Coi chừng đấy, họ rất hung hăng.”
“Nhưng tôi đang được bảo vệ bởi FBI.”
“Đó là người mà tôi đang nói đến đó. Như thể chơi với con quay vậy, chúng giết anh.”
“Con quay?”
“Thôi quên đi.” Kirwill tiếp tục di chuyển, đi xung quanh căn phòng. “Chúa ơi, xem họ cho anh ở đâu này. Đây là cái ổ điếm. Nhìn mấy vết cháy xì gà trên cái thảm cạnh giường đi. Cả cái mớ hoa hòe trên giấy dán tường này nữa. Tôi nghĩ họ đang ngầm nói gì với anh đấy, Renko.”
“Anh nói anh là liên lạc viên?” Arkady chuyển sang nói tiếng Nga. “Anh có thứ anh cần rồi, anh đang nắm quyền kiểm soát.”
“Tôi là liên lạc viên để họ có thể canh chừng tôi thôi.” Kirwill vẫn dùng tiếng Anh. “Thấy chưa, anh không bao giờ nói với tôi tên của Osborne, nhưng lại để lộ tên tôi với tất cả mọi người. Anh hại tôi.” Anh ta phát âm chuẩn xác.
“Anh chơi tôi. Cô ta chơi anh. Anh nghĩ ai chơi cô ta?”
“Ý anh là gì?”
“Tôi khá thất vọng về anh đấy,” Kirwill tiếp tục. “Tôi không nghĩ anh lại đồng ý làm thế, thậm chí còn đến đây.”
“Đồng ý cái gì? Đây là một vụ dẫn độ...”
“Dẫn độ? Bọn chúng nói với anh thế à?” Kirwill cười phá lên, miệng há to đầy thích thú.
Ba đặc vụ FBI Arkady chưa từng gặp trước đó ùa vào và cùng với George, họ đủ dũng cảm đẩy Kirwill ra tiền sảnh. Viên thám tử quá bận lau đám nước mắt chảy ra vì cười để mà phản kháng.
Arkady thử mở cửa thêm lần nữa. Nó vẫn khóa và lần này hai giọng nói vọng vào từ hành lang bảo anh đừng bày trò với cái nắm cửa nữa.
Anh đi đi lại lại khắp phòng. Từ góc phía tây nam đi một bước là đến nhà tắm, một bước từ phòng tắm là đến giường và bàn đầu giường, một bước từ đây là đến góc tây bắc, hai bước nữa là đến đôi cửa sổ kính một lớp nhìn ra đường Hai mươi chín, ba bước qua cửa sổ là đến cái bàn sát tường với điện thoại, thêm nửa bước là đến góc đông bắc, một bước đến cửa ra hành lang, một bước từ cửa đến ghế sô pha, hai bước từ đầu kia của sô pha đến góc tây nam, nửa bước là đến cửa tủ đồ, thêm nữa bước từ cửa là đến bàn làm việc và thêm một bước nữa từ bàn để quay lại góc tây nam. Trong phòng có hai cái ghế đẩu gỗ và bàn cà phê nhựa vân gỗ, bộ ti vi, một cái sọt rác và một xô đựng đá viên. Phòng tắm có một cái toilet, một cái bồn rửa mặt và một bồn tắm với vòi hoa sen mà chỉ một người rất bé mới có thể duỗi ra thoải mái. Tất cả đèn trần đều màu hồng. Thảm màu xanh ô-liu. Giấy dán tường màu xanh da trời nhạt nhú lên những nụ hoa hồng phấn. Bàn làm việc và ghế sơn màu kem và lỗ chỗ những vết đốt xì gà. Khăn trải giường mang màu hoa cà.
Arkady không biết anh mong đợi điều gì từ Kirwill. Anh nghĩ họ đã thấu hiểu lẫn nhau khi ở Moscow, nhưng ở đây, có vẻ như họ vẫn lại là kẻ thù. Tuy thế, Kirwill mang cái vẻ chân thành mà Wesley không có. Arkady có cảm giác bất cứ lúc nào, căn phòng khách sạn có thể lún xuống và sụp đổ như đám đạo cụ trên sân khấu. Anh tức giận với Kirwill và muốn Kirwill quay lại.
Anh đi lại quanh phòng còn bồn chồn hơn trước. Tủ đồ chỉ có hai bộ đồ, còn không có thêm đôi giày nào. Một cái áo cánh còn vương mùi thơm của Irina. Anh áp nó vào mặt.
Ngày đầy nắng.
Nhìn sang phải, xa nhất anh có thể thấy, qua đại lộ Madison là một tấm biển ghi GIỜ VUI VẺ. Ngay đối diện khách sạn là một cửa hàng bán ô giấy dầu từ Trung Quốc. Phía trên cửa hàng là mười ba tầng gồm các văn phòng. Nhìn sang trái, anh nhận ra thảm cỏ mòn vẹt và những phiến đá nâu đỏ của sân nhà thờ. Lá khô lơ lửng như bồ hóng qua các con đường.
Các thư ký đang đánh máy và những người đàn ông trong bộ áo dài tay và cà vạt nói chuyện điện thoại trong văn phòng bên kia đường. Văn phòng có dây leo thường xuân và những bức vẽ. Một cái xe đẩy bằng thép phục vụ cà phê trong sảnh. Hai người đàn ông da đen đang sơn cái văn phòng đối diện Arkady. Thứ trông giống như radio bỏ túi với kích cỡ cái va li được đặt trên cửa sổ.
Một quầng sáng tụ lại làm những ngón tay anh nổi lên trên mặt kính.
“Tôi ở đây.”
“Anh có thích trò chơi truyền hình không?” Al bật ti vi khi mang một cái sandwich cho Arkady.
“Tôi thường không thích trò chơi.”
“Nhưng mà chương trình này tuyệt lắm,” Al nói.
Ban đầu Arkady không hiểu chương trình đó lắm. Không có trò chơi nào cả, tất cả những gì thí sinh làm chỉ là đoán xem số giải thưởng - lò nướng, bếp, kì nghỉ, nhà - đáng giá bao nhiêu tiền. Mọi thứ - kiến thức, thể lực, may mắn - đều bị loại bỏ trừ lòng tham. Sự đơn giản của khái niệm này thật đáng kinh ngạc.
“Anh thật sự là một Đảng viên, đúng không?” Al nói.
Cái bóng bên ngoài chỉ di chuyển khi mắt anh nhìn sang chỗ khác. Khi đó chúng sẽ chuyển từ phía bên này của gờ cửa sổ sang phía bên kia, hoặc hướng lên một tòa nhà khác. Ai mà biết tiếp sau nó sẽ dừng lại ở đâu?
Irina trở về vào chạng vạng tối, vứt đống hộp lên giường và cười. Sự lo lắng của Arkady biến mất. Cô mang sự sống đến cho căn phòng, khiến nó lại trở nên thu hút. Những từ sáo rỗng nhất phát ra từ kẻ mất hồn.
“Em nhớ anh, Arkady.”
Cô mang về những hộp spaghetti với thịt, sò và sốt kem. Mặt trời lặn khi họ thưởng thức những món ăn lạ với dĩa nhựa. Anh chợt nhận ra, lần đầu tiên trong đời, mình sống trong một căn phòng không bốc lên cái mùi, dù chỉ thoang thoảng, của rác thải.
Cô mở mấy cái hộp và kiêu hãnh khoe số quần áo cô mua cho anh. Như đồ của cô trong tủ, có những màu sắc, kiểu cắt và chất lượng gia công lạ lẫm với Arkady. Có quần, áo, tất, cà vạt, áo khoác thể thao, pijama, áo choàng và một cái mũ. Họ kiểm tra từng đường may mũi chi, lớp lót, mấy cái mác Pháp. Irina cột tóc thành búi và mặc mẫu mọi thứ cho anh với một gương mặt nghiêm trọng.
“Anh trông như thế à?” Arkady hỏi.
“Không, không. Arkady phiên bản Mỹ thôi,” cô quả quyết, diễu hành với dáng vẻ nghênh ngang vô lo, cái mũ bị kéo xuống che mất một mắt.
Khi cô mặc thử bộ pijama, Arkady tắt đèn. “Anh yêu em,” anh nói.
“Chúng ta sẽ hạnh phúc.”
Arkady mở khuy áo pijama, cởi nó ra, hôn cổ và môi cô. Cái mũ rơi xuống và lăn tròn dưới bàn.
Màn đêm cuốn trôi những sắc màu sặc sỡ khỏi bức tường.
Trên giường, anh lại mò mẫm thân thể Irina. Người đàn bà anh đã thấy đang đi bộ dưới đường có bề ngoài nhỏ bé. Irina cao hơn, gợi tình hơn và hoang dại hơn. Xương sườn cô không còn mang vẻ u sầu đau khổ như hồi còn ở Moscow, móng tay cũng dài hơn và được tô vẽ. Nhưng từ làn môi mềm mại cho đến hõm cổ vẫn như cũ. Răng cô vẫn cắn chặt, vẫn là những giọt mồ hôi ở thánh điện của cô.
“Từng tế bào trong em mơ về đôi tay anh,” cô cầm lấy tay anh “đây, và cả đây nữa. Cảm nhận chúng, nhưng không thể nhìn thấy. Nó khiến em cảm thấy mình được sống. Em yêu anh vì anh khiến em cảm thấy mình còn sống, và thậm chí anh còn không ở đó. Ban đầu, họ nói anh đã kể cho họ nghe mọi chuyện. Họ là điều tra viên, nên anh đã phải làm vậy. Thế nhưng càng nghĩ về anh, em càng chắc chắn anh không nói gì với họ. Họ hỏi em rằng anh có điên không. Em nói anh là người đàn ông điên dại nhất em từng gặp. Họ hỏi anh có phải tội phạm không. Em nói anh là người đàn ông thành thật nhất em biết. Cuối cùng họ càng ghét anh hơn. Và em thì càng yêu anh hơn nữa.”
“Anh là một tên tội phạm”. Arkady nằm lên người cô. “Ở đó anh là tội phạm còn ở đây anh là tù nhân.”
“Dịu dàng thôi,” cô đỡ lời anh.
Cô đã mang về một cái đài bán dẫn mini và cả căn phòng bị bao trùm bởi thứ âm nhạc chát chúa, lộn xộn. Đống hộp và quần áo vương vãi khắp căn phòng. Trên bàn, mấy cái dĩa nhựa nhét trong hộp bằng bìa các tông.
“Làm ơn đừng hỏi em đã ở đây bao lâu hay chính xác là chuyện gì đã xảy ra,” Irina nói. “Mọi thứ đang diễn ra ở những cấp độ mới, những cấp mới mà chúng ta chưa từng biết đến. Đừng đặt câu hỏi. Chúng ta đang ở đây. Tất cả những gì em từng muốn chỉ là được ở đây. Và em có anh ở bên mình. Em yêu anh, Arkady. Anh không nên hỏi gì cả.”
“Họ sẽ gửi chúng ta về. Vài ngày nữa, họ nói thế.”
Cô ôm chặt anh, hôn anh và thì thầm đầy mãnh liệt vào tai anh, “Tất cả sẽ kết thúc trong một hay hai ngày, nhưng họ sẽ không bao giờ gửi chúng ta về. Không bao giờ!”
Đầu ngón tay cô lần tìm khuôn mặt anh. “Anh có thể có làn da rám nắng như chàng cao bồi, với tóc mai dài, một cái khăn rằn và chiếc mũ cao bồi. Chúng ta sẽ du ngoạn. Ai cũng có ô tô, rồi anh sẽ thấy.”
“Nếu là cao bồi thì anh phải cưỡi ngựa mới đúng.”
“Anh có thể có một con ngựa ở đây. Em từng thấy cao bồi ở New York.”
“Anh muốn đi về hướng tây. Anh muốn đi khắp các dãy núi và trở thành cướp giống như Kostia Borodin. Anh muốn học từ người Ấn Độ.”
“Hoặc chúng ta có thể đến California, hay đến Hollywood. Chúng ta sẽ có căn nhà gỗ một lầu cạnh bờ biển, thảm cỏ xanh và cả cây cam nữa. Em sẽ rất vui nếu không bao giờ phải nhìn thấy tuyết trong đời này thêm lần nào nữa. Em có thể sống trong bộ đồ tắm.”
“Hoặc không gì cả.” Anh mơn trớn chân cô rồi gối đầu lên nó, khi những ngón tay cô vuốt ve ngực anh. Họ phải nói những chuyện mơ mộng vì cái micro. Anh không thể hỏi cô tại sao cô lại quả quyết rằng cô sẽ không quay về. Cô van xin anh đừng hỏi thêm gì nữa. Dẫu sao, khi đề cập đến nước Mỹ, tất cả những gì họ có thể tưởng tượng ra là mơ mộng. Anh cảm thấy đầu ngón tay cô lướt tìm vết sẹo dài ngang bụng. “Anh sẽ cột con ngựa vào cây cam vàng đằng sau căn nhà,” anh nói.
“Thực ra,” Irina nói khi cô châm xì gà từ điếu của anh, “kẻ cố giết em ở Moscow không phải là Osborne.”
“Cái gì?”
“Đó là công tố viên Iamskoy và gã người Đức Unmann. Chúng hợp tác với nhau, Osborne chả biết gì cả.”
“Osborne đã cố giết em hai lần. Em ở đó, anh cũng có mặt, không nhớ sao?” Đột nhiên Arkady trở nên phẫn nộ. “Ai nói với em Osborne không liên quan gì?”
“Wesley”.
“Wesley là kẻ dối trá.” Anh lặp lại bằng tiếng Anh. “Wesley là kẻ dối trá!”
“Suỵt, muộn rồi đấy.” Irina đặt ngón tay lên môi anh. Cô chuyển chủ đề, kiên nhẫn và mặc cơn giận đang bùng phát của anh, cô cảm thấy tự hài lòng với bản thân.
Nhưng Arkady cảm thấy khó chịu. “Tại sao em lại che vết bớt trên má?” anh hỏi.
“Em muốn thế thôi. Ở Mỹ người ta có đồ trang điểm.”
“Ở Liên Xô cũng có, nhưng ở đó em có che nó đi đâu.”
“Ở đó nó chả có gì khác lạ lắm,” cô nhún vai.
“Thế sao ở đây nó lại khác?”
“Không phải quá hiển nhiên sao?” Đến lượt Irina nổi giận. “Đó là một cái vết Nga. Em không che một cái vết Nga với mỹ phẩm Nga, nhưng sẽ che với mỹ phẩm Mỹ. Em sẽ tống khứ tất cả những gì thuộc về Nga. Nếu có một bác sĩ ở đây để cắt não em ngay lúc này và lấy ra tất cả những gì thuộc về Nga, mọi ký ức mà em có, em cũng làm.”
“Thế tại sao em lại muốn anh ở đây?”
“Em yêu anh và anh yêu em.”
Cô run rẩy đến mức không thể cất tiếng. Anh khoác lớp chăn quanh cô và ôm cô thật chặt. Anh không nên giận cô mới phải, anh tự nhủ. Bất cứ điều gì cô đang làm đều vì hai người. Cô đã cứu mạng anh và đem anh đến Mỹ với cô, bằng những cái giá cô phải trả mà anh không biết đến và cũng không có quyền tranh cãi. Anh, như mọi người vẫn nhắc cho anh biết, không còn là điều tra viên trưởng mà chỉ là tên tội phạm. Cả hai người bọn họ đều là tội phạm, và thứ khiến họ còn sống chính là người kia. Anh thấy điếu xì gà của cô lăn trên thảm và đốt thêm một cái lỗ mới, anh giữ nó trên môi cô để cô có thể hút. Bây giờ cả hai đều có thể tận hưởng thuốc lá Virginia hảo hạng. Sự chính xác của một người tình tuyệt vời đến nỗi anh có thể nhắc đến vết bớt đó và khiến cô tổn thương dễ dàng đến thế.
“Chỉ là đừng nói với anh rằng Osborne không cố giết em,” anh nói.
“Mọi thứ ở đây thật khác biệt,” cô nói. Cô lại bắt đầu run rẩy. “Em không thể trả lời bất cứ câu hỏi nào. Làm ơn, đừng hỏi em gì cả.”
Họ ngồi trên giường và xem ti vi màu. Trên màn hình, một người trông như giáo sư đang đọc sách ở một cái bàn trên thảm cỏ cạnh hồ bơi. Từ trong bụi rậm nhảy ra một chàng trai với súng nước.
“Chúa ơi, anh làm tôi sợ đấy!” Người đang đọc sách suýt ngã ra khỏi ghế và quyển sách bị rơi xuống bể bơi. Ông ta chỉ tay vào nó và nói, “Tôi đã đủ lo lắng rồi, mà cậu còn bày ra trò đùa ngu ngốc này. May là nó chỉ là bìa giấy đấy.”
“Đây là Chekhov hả?” Arkady cười. “Y như cảnh em quay ở Mosfilm khi chúng ta gặp nhau ấy.”
“Không.”
Gã cầm súng nước bị đuổi theo bởi đám con gái mặc đồ bơi, một kẻ đang kéo dù và một nhóm nhảy.
“Ừm, đây không phải là Chekhov,” Arkady đồng ý.
“Hay đấy.”
Anh nghĩ cô đang đùa, nhưng Irina hoàn toàn bị cuốn vào màn hình. Anh biết cô không theo dõi câu chuyện đang tiến triển, chẳng cần thiết vì màn hình đã tự phát ra những tràng cười tán thưởng rồi. Anh thấy cô đang bị thu hút bởi màu xanh ngọc của cái hồ bơi, màu xanh lá của cây bơ, sắc tím của hoa giấy quanh đường xe chạy, khảm cao tốc của xa lộ. Cô đã tìm thấy, bằng cách mà anh không thể, những gì quan trọng ở trên màn hình. Ánh sáng của nó lan ra và bao trùm căn phòng. Khi một người phụ nữ nức nở, Irina nhìn bộ váy, nhẫn, tóc, những cái gối lông trên nội thất liễu gai, một sân thượng bằng gỗ tuyết tùng đỏ và hoàng hôn trên Thái Bình Dương.
Cô quay lại và thấy vẻ kinh hoàng của Arkady. “Em biết anh nghĩ điều đó không có thật, Arkady. Anh nhầm rồi - ở đây nó có thật.”
“Nó không có thật.”
“Nó có thật và em khao khát nó.”
Arkady dịu lại. “Thế thì em phải có được nó.” Anh gối đầu trong lòng cô và nhắm mắt lại khi cái ti vi vẫn thì thầm và cười phá lên.
Anh nhận ra Irina đang xức một mùi hương mới. Ở Nga chỉ có vài loại nước hoa, và chúng đặc, mùi không có gì đặc biệt. Loại ưa thích của Zoya là Moscow Nights. Đó là loại nước hoa hàng đầu. Moscow Nights mang lại những cảm xúc quen thuộc.
“Anh có thể tha thứ cho em vì khát khao đó không, Arkady?”
Anh nghe thấy sự lo lắng trong giọng cô. “Anh cũng muốn dành điều đó cho em.”
Irina tắt ti vi và Arkady để cho bóng của cửa sổ táp lấy như một vụ nổ. Tòa nhà văn phòng bên kia đường là một cái khung chứa đầy bóng tối và những ô cửa trống rỗng.
Anh cười để làm yên lòng Irina rồi quay sang cái đài bán dẫn mà cô đã mua. Một điệu nhảy samba. Dũng khí của cô trỗi dậy, và họ nhảy trên tấm thảm màu xám, theo sau bởi những cái bóng in trên bức tường xám. Anh nâng cô lên và xoay cô. Cả hai mắt đồng thời mở to với niềm hạnh phúc.
Cô nằm trên, mái tóc cô phủ lên khuôn mặt của cả hai.
Cô nằm dưới, như một con thuyền đưa cả hai đi xa.
“Chúng ta là những kẻ bỏ đi bị xua đuổi,” Arkady nói. “Sẽ không đất nước nào chứa chấp chúng ta.”
“Chúng ta là đất nước của chính mình,” Irina nói.
“Với rừng xanh của chính chúng ta.” Arkady chỉ vào giấy dán tường hoa. “Nhạc samba,” anh chỉ vào cái đài và cái micro bí mật, “và bọn gián điệp.”
Án Mạng Ở Công Viên Gorky Án Mạng Ở Công Viên Gorky - Martin Cruz Smith Án Mạng Ở Công Viên Gorky