A book must be an ice-axe to break the seas frozen inside our soul.

Franz Kafka

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 23
Ông Pocket nói ông rất vui được gặp tôi, và hy vọng tôi không quá
phiền lòng khi gặp ông. “Vì quả thực tôi không phải là một nhân vật đáng
sợ,” ông nói thêm kèm theo nụ cười hệt như của cậu con trai. Ông có vẻ trẻ
trung, bất chấp vẻ lúng túng và mái tóc rất xám, và thái độ của ông dường
như khá tự nhiên. Tôi nói tự nhiên theo nghĩa nó không giả tạo; có gì đó hài
hước trong vẻ bồn chồn của ông, như thể đáng ra nó đã trở nên lố bịch rành
rành nếu không nhờ vào sự nhìn nhận của chính ông rằng nó đã ở rất gần
mức trở thành như thế. Sau khi đã trò chuyện được với tôi chút ít, ông nói với
bà Pocket, đôi lông mày đen nhánh rất đẹp của ông nhíu lại có phần lo âu,
“Belinda, anh hy vọng em đã chào đón cậu Pip rồi chứ?” Và bà vợ ngẩng lên
khỏi cuốn sách của bà rồi nói, “Vâng.” Sau đó, bà mỉm cười với tôi một cách
lơ đãng, và hỏi tôi có thích hương vị của nước hoa cam không? Vì câu hỏi
này chẳng hề có chút liên quan nào, dù xa hay gần, tới bất cứ biến cố nào đã
qua hay sắp tới, tôi đoán nó được đưa ra, cũng hệt như những lần trước, chỉ
để hạ cố trò chuyện chung chung cho có.
Tôi biết được trong vòng vài giờ sau đó, và có thể nói ra luôn ở đây,
rằng bà Pocket là con gái độc nhất của một vị Hiệp sĩ quá cố đã trở thành
Hiệp sĩ một cách khá tình cờ, người đã tự phát minh ra cho mình một niềm
tin chắc chắn rằng thân phụ đã quá cố của ông đáng lẽ đã được phong Nam
tước nếu không có sự phản đối cương quyết của một người khác, xuất phát
hoàn toàn từ động cơ cá nhân - nếu như từng có lúc nào biết thì giờ tôi cũng
chẳng còn nhớ những động cơ ấy thuộc về ai - nhà vua, thủ tướng, Đại pháp
quan, Tổng Giám mục Canterbury hay ai khác - và đã gắn mình vào hàng ngũ
quý tộc của đất nước dựa vào lý do khá là giả mạo này. Tôi tin ông ta đã tự
phong hiệp sĩ cho mình vì đã tấn công ngữ pháp tiếng Anh bằng ngòi bút,
trong một bài diễn văn tuyệt vọng được viết tràn trề trên giấy da hảo hạng,
vào dịp đặt viên đá đầu tiên cho tòa nhà này hay công trình kia, và vì đưa cho
một thành viên hoàng gia nào đó cái bay hoặc ít vữa. Dù có là gì đi nữa, ông
bố đã hướng bà Pocket tới chỗ được nuôi dạy từ trong nôi thành một người
mà như một lẽ tất nhiên phải cưới một người có tước vị, một người cần được
bảo vệ để tránh phải tiếp nhận những hiểu biết tề gia nội trợ bình dân. Một
quá trình uốn nắn nuôi dạy cực kỳ thành công đã được vị thân phụ sáng suốt
này áp dụng cho cô con gái, kết quả là cô lớn lên thành một món đồ trang sức
lộng lẫy, nhưng lại hoàn toàn vô dụng và bất lực. Với tính cách được định
hình đầy hạnh phúc như thế, giữa tuổi thanh xuân cô thiếu nữ gặp gỡ ông
Pocket: ông này dạo đó cũng đang ở độ tuổi thanh xuân, và vẫn chưa quyết
định được nên gây dựng sự nghiệp tại Nghị viện hay dấn bước trong Giáo
hội. Vì chuyện ông này đi theo một trong hai con đường chỉ còn đơn thuần là
vấn đề thời gian, ông và bà Pocket liền túm ngay lấy tóc thời gian (vào thời
điểm nó dường như cần phải được cắt nếu nhìn nhận từ độ dài) và kết hôn
trong khi vị phụ thân sáng suốt không hề biết. Vị phụ thân sáng suốt, chẳng
còn gì để ban phát hay giữ lại ngoài lời chúc phúc, đã hào phóng dành món
hồi môn này cho đôi bạn trẻ sau một cuộc tranh đấu ngắn ngủi và báo để ông
Pocket biết vợ ông là “kho báu cho một ông hoàng”. Ông Pocket đã đầu tư
vào kho báu của ông hoàng theo đủ mọi cách trên đời kể từ dạo đó, và có vẻ
như nó chỉ mang lại cho ông lợi tức vô cùng khiêm tốn. Dẫu vậy, bà Pocket
nhìn chung là đối tượng của một sự thương hại kỳ lạ đầy tôn trọng, vì bà đã
không cưới được một người có tước vị; trong khi ông Pocket là đối tượng của
một sự trách móc kỳ lạ đầy tha thứ, vì ông chưa bao giờ có tước vị nào.
Ông Pocket đưa tôi vào trong nhà, chỉ cho tôi thấy căn phòng của
mình: một căn phòng rất vui mắt, được bài trí để tôi có thể thoải mái sử dụng
nó như phòng tiếp khách riêng. Sau đó, ông gõ cửa hai căn phòng tương tự
khác, giới thiệu với tôi chủ nhân của chúng, có tên gọi lần lượt là Drummle
và Startop. Drummle, một thanh niên có bộ mặt già đanh nặng như chì, đang
huýt sáo. Startop, trẻ hơn cả về tuổi tác lẫn vẻ ngoài, đang đọc sách và ôm
đầu, như thể sợ rằng anh ta đang có nguy cơ làm nó nổ tung vì nhồi nhét vào
trong đó quá nhiều hiểu biết.
Cả hai ông bà Pocket đều có dáng vẻ rất dễ thấy của người đang sống
nhờ vào người khác, đến nỗi tôi tự hỏi ai là chủ sở hữu thực sự của ngôi nhà
và cho phép hai ông bà sống tại đó, cho tới khi phát hiện ra quyền lực bí hiểm
đó chính là các gia nhân. Có lẽ đó là một cách sống êm thấm xét về mặt né
tránh rắc rối; song xét theo bề ngoài nó có vẻ khá tốn kém, vì các gia nhân
cảm thấy ăn ngon uống tốt và cả việc tự cho phép mình tụ tập thường xuyên
dưới gác, là một bổn phận họ nợ chính mình. Họ cho phép ông bà Pocket có
một bàn ăn hào phóng, dẫu vậy tôi luôn thấy chỗ đáng để ngồi ăn uống nhất
trong nhà vẫn là khu bếp - hẳn là những người được nuôi cơm dài hạn ở đây
luôn có khả năng tự biện hộ, vì khi tôi lưu lại đây chưa được một tuần thì đã
có một quý bà hàng xóm không trực tiếp quen biết gia đình Pocket viết thư
tới để nói bà đã thấy Millers tát tai đứa bé. Chuyện này làm bà Pocket cực kỳ
phiền muộn, bật khóc khi nhận được lá thư nhưng lại bảo nó thật là chuyện lạ
đời khi những người hàng xóm không thể chuyên tâm vào chuyện riêng của
nhà họ.
Từ những gì tôi tìm hiểu được, và chủ yếu là từ Herbert, ông Pocket đã
từng theo học tại Harrow và Cambridge và tỏ ra nổi bật tại đó; thế nhưng khi
sở hữu niềm hạnh phúc được kết hôn với bà Pocket từ khi còn rất trẻ, ông đã
làm phương hại nghiêm trọng triển vọng của mình và đi theo tiếng gọi của
nghiệp Máy mài*. Sau khi đã mài qua vài lưỡi dao cùn - về chuyện này điều
đáng nói là các ông bố của họ khi có thanh thế luôn hứa hẹn giúp đỡ cất nhắc
ông, để rồi đều quên khuấy việc thực hiện khi các lưỡi dao đã rời khỏi đá mài
- ông trở nên chán ngấy công việc thảm hại đó và tới London. Tại đây, sau
khi dần vỡ mộng với những hy vọng lớn lao hơn, ông đã “đọc” với nhiều
người chưa bao giờ có được cơ hội trong đời hay đã bỏ lỡ chúng, và từng tân
trang làm mới nhiều người khác cho những dịp đặc biệt, và chuyển các hiểu
biết của mình vào việc biên soạn hiệu đính văn chương, và nhờ phương tiện
đó, thêm vào chút nguồn thu nhập riêng ít ỏi, vẫn duy trì ngôi nhà tôi thấy.
Nguyên văn tiếng Anh là Grinder, còn có nghĩa là người kèm cặp học hành cho con cái các nhà khá
giả thời đó.
Ông bà Pocket có một người hàng xóm luôn bợ đỡ, một bà góa có tính
nết rất dễ cảm thông với người khác tới mức đồng tình với tất cả mọi người,
chúc phúc cho tất cả mọi người, mỉm cười và bật khóc vì tất cả mọi người,
tùy thuộc vào hoàn cảnh. Đó là bà Coiler, và tôi có vinh hạnh được đưa bà
xuống ăn tối ngay hôm tới nơi. Bà giải thích để tôi hiểu trong lúc đi xuống
cầu thang rằng với bà Pocket đáng mến, quả là một nỗi phiền muộn lớn lao
khi ông Pocket đáng mến rơi vào tình cảnh cần phải chào đón các quý ông
khác tới để cùng đọc sách với mình. Chuyện này không áp dụng với tôi, bà
cho tôi hay với thái độ đầy trìu mến và tin tưởng (vào lúc ấy, tôi đã làm quen
được với bà có lẽ không quá năm phút); giá như tất cả những người kia đều
như tôi, mọi chuyện chắc sẽ khác hẳn.
“Nhưng bà Pocket đáng mến,” bà Coiler nói, “sau nỗi thất vọng ban
đầu (cho dù không thể trách ông Pocket đáng mến về chuyện đó), đòi hỏi rất
nhiều sang trọng và lịch sự…”
“Vâng, thưa bà,” tôi nói để ngăn bà lại, vì sợ rằng bà sắp bật khóc.
“Và bà ấy có phong thái thật quý phái nhường nào…”
“Vâng, thưa bà,” tôi lại nói, cũng vì cùng mục đích như trước.
“… nên thật nặng nề biết bao,” bà Coiler nói, “khi ông Pocket đáng
mến phải sao nhãng cả về thời gian lẫn sự quan tâm dành cho bà Pocket đáng
mến.”
Tôi không đừng được nghĩ rằng có lẽ sẽ còn nặng nề hơn nhiều nếu
thời gian và sự quan tâm của ông hàng thịt không bị sao nhãng khỏi bà
Pocket đáng mến; song tôi không nói gì, và quả thực chỉ nguyên việc phải
liên tục cẩn thận trông chừng thái độ chợt nắng chợt mưa của người đồng
hành cũng làm tôi có quá đủ để bận tâm rồi.
Tôi được biết, thông qua những gì diễn ra giữa bà Pocket và Drummle
trong khi tôi đang để tâm chú ý tới dao, nĩa, thìa, ly cốc và các công cụ tự hủy
diệt khác trong tay mình, là Drummle, vốn có tên thánh là Bentley, kỳ thực là
người thừa kế tiếp theo chỉ xếp sau một người nữa cho một tước nam. Và
thêm nữa, có vẻ như cuốn sách tôi đã thấy bà Pocket đọc ngoài vườn toàn
viết về các tước hiệu, và bà biết ngày tháng chính xác đáng ra ông nội bà đã
có mặt trong cuốn sách này, nếu ông cụ từng làm được điều đó. Drummle
không nói nhiều, nhưng trong những lời ít ỏi của mình (tôi thấy anh ta là một
anh chàng cau có ủ rũ) anh ta nói năng hệt như một người thừa kế được chọn,
và thừa nhận bà Pocket như một người phụ nữ và một người chị em gái.
Không ai khác ngoài hai người họ và bà Coiler, bà hàng xóm luôn bợ đỡ, để
tâm tới cuộc đàm thoại này, và tôi cảm thấy có vẻ nó làm Herbert đau khổ;
nhưng nó hứa hẹn sẽ kéo dài khá lâu, cho tới khi người hầu bàn tới thông báo
một tin không vui với cả nhà. Cụ thể là đầu bếp đã để thất lạc mất bít tết. Tôi
kinh ngạc tột độ khi lúc này lần đầu tiên được chứng kiến ông Pocket giúp
bản thân bình tâm lại bằng một màn trình diễn tôi thấy rất kỳ lạ song lại
chẳng tạo ra được chút ấn tượng nào với bất cứ ai khác, và bản thân tôi chẳng
mấy chốc rồi cũng quen thuộc với nó như những người còn lại. Ông đặt dao
ăn và nĩa xuống - vì đang cắt thịt dở dang vào khoảnh khắc đó - chụp cả hai
bàn tay vào mái tóc rối bù, và có vẻ đang nỗ lực tột độ để nhấc bổng mình lên
theo cách đó. Khi đã xong xuôi, và chẳng hề nhấc được mình lên chút nào,
ông lặng lẽ tiếp tục thao tác đang bỏ dở dang.
Bà Coiler sau đó chuyển chủ đề nói chuyện và bắt đầu tán tụng tôi.
Trong vài khoảnh khắc tôi đã thấy thích thú, nhưng rồi bà ta tán tụng tôi một
cách thô thiển đến mức cảm giác khoan khoái nhanh chóng tan biến. Bà hàng
xóm này trườn như một con rắn tới gần tôi trong khi giả tảng cực kỳ quan
tâm tới những người bạn và nơi chốn tôi đã để lại sau lưng, tất cả được nói ra
bằng một cái lưỡi rắn chẻ đôi trơn tru giảo hoạt; và khi bà ta thỉnh thoảng lại
chuyển sang chú ý đến Startop (người nói rất ít với bà ta) hay Drummle
(người còn nói ít hơn), tôi thấy ghen tị với hai người họ vì được ngồi ở bên
kia bàn.
Sau bữa tối, lũ trẻ được mang ra giới thiệu, và bà Coiler có những lời
bình luận đầy ngưỡng mộ về đôi mắt, cái mũi và đôi chân - một cách thật
khôn ngoan để mở mang đầu óc cho chúng. Có tất cả bốn cô con gái và hai
cậu con trai bên cạnh đứa bé có thể là nam hoặc nữ, và cả người anh chị em
kế tiếp theo của nó lúc này vẫn còn chưa ra đời. Lũ trẻ được Flopson và
Millers dẫn vào, với điệu bộ như thể họ là hai hạ sĩ quan được cử đi tuyển mộ
trẻ con ở đâu đó và đây là những đứa trẻ chiêu nạp được, trong khi bà Pocket
quan sát những mầm non đáng lẽ phải trở thành những con người quý phái trẻ
tuổi như thể đang nghĩ bà đã từng có hân hạnh đánh giá qua chúng trước đây
song không thực sự biết nên làm gì với chúng.
“Nào! Đưa cho tôi cái nĩa của bà, thưa bà, và bế lấy đứa bé,” Flopson
nói. “Đừng có bế nó như thế, nếu không bà sẽ làm đầu nó chui vào gầm bàn
đấy.”
Được khuyên bảo, bà Pocket đón lấy đứa bé theo cách ngược lại, và
đầu em bé đương nhiên nhô lên phía trên bàn; điều này được thông báo cho
tất cả những người có mặt bằng một tiếng va đập thật lớn.
“Ôi trời ơi, trời ơi! Đưa nó cho tôi nào,” Flopson nói, “còn cô Jane, lại
đây múa cho em bé xem, nào!”
Một trong số các cô bé, một đứa trẻ còn nhỏ xíu đã phải gánh lấy quá
sớm ít nhiều trách nhiệm trông coi những đứa bé khác, bước ra khỏi chỗ, đi
ngang qua cạnh tôi và nhảy múa đi tới đi lui trước mặt đứa bé cho tới khi em
bé thôi khóc và bật cười. Thế rồi cả đám trẻ cười ồ, và ông Pocket (người
trong lúc đó đã hai lần cố nhấc bổng mình lên bằng cách tóm tóc) cũng bật
cười, vậy là tất cả chúng tôi cùng cười và cảm thấy vui vẻ.
Flopson, bằng cách gập các khớp xương của đứa bé lại mà bế như với
một con búp bê Hà Lan, đặt nó an toàn vào lòng bà Pocket, đưa cho nó một
cái kẹp vỏ hạt để chơi; cùng lúc, cô ta khuyên bà Pocket để ý rằng tay cầm
của món dụng cụ này có vẻ không ăn khớp với mắt kẹp của nó, và nghiêm
khắc ra lệnh cho cô bé Jane giám sát bà này. Tiếp theo, hai cô bảo mẫu rời
khỏi phòng, và có một cuộc cãi vã nảy lửa trên cầu thang với một anh chàng
hầu bàn phóng đãng vừa phục vụ bữa tối, và rõ ràng đã để mất nửa số cúc áo
trên bàn đánh bạc.
Tôi cảm thấy rất bất an khi bà Pocket rơi vào một cuộc thảo luận với
Drummle về hai tước vị Nam tước, trong khi bà ăn một quả cam cắt lát ngâm
đường và rượu vang và hoàn toàn quên khuấy đứa con nhỏ trong lòng, lúc
này đang làm những trò đáng kinh ngạc nhất có thể hình dung ra với cái kẹp
vỏ hạt. Sau một hồi lâu, cô bé Jane, nhận thấy bộ óc non nớt của đứa nhỏ
đang gặp nguy hiểm, liền nhẹ nhàng rời khỏi chỗ và thật khéo léo dỗ ngọt để
lấy món vũ khí nguy hiểm này đi. Cũng cùng lúc ấy bà Pocket ăn nốt món
cam và nói với Jane, không hề tán thành việc cô bé làm:
“Con hư quá, sao con lại dám thế chứ? Đi ngồi xuống ngay nào!”
“Mẹ ơi,” cô bé ngọng nghịu nói, “em bé cú thể tọc vàu mắp đấy.”
“Sao con lại dám nói với mẹ như thế hả?” bà Pocket vặn lại. “Đi về ghế
của con và ngồi xuống ngay!”
Sự bực bội của bà Pocket thật mạnh mẽ, đến mức tôi cũng cảm thấy
mình bối rối, như thể chính tôi đã làm gì đó để thổi bùng nó lên.
“Belinda,” ông Pocket lên tiếng phản đối từ đầu bàn đằng kia, “làm sao
em có thể vô lý vậy chứ? Jane chỉ muốn bảo vệ em bé thôi mà.”
“Em sẽ không cho phép ai quấy rầy,” bà Pocket nói. “Matthew, em
thấy ngạc nhiên khi anh lại chấp nhận để em phải chịu sự quấy rầy đầy xúc
phạm như thế đấy.”
“Lạy Chúa lòng lành!” ông Pocket kêu lên, bắt đầu một cơn tuyệt vọng
đầy phiền muộn. “Chẳng nhẽ những đứa trẻ sơ sinh phải xuống mồ vì chơi
kẹp vỏ hạt mà không ai được cứu giúp chúng sao?”
“Em sẽ không chấp nhận bị Jane quấy rầy,” bà Pocket nói, liếc mắt một
cách đường bệ về phía kẻ gây sự ngây thơ bé nhỏ.
“Em hy vọng em biết địa vị ông nội tội nghiệp của em. Jane, thật là!”
Ông Pocket lại đưa tay lên túm tóc, và lần này thực sự nhấc mình lên
khỏi ghế được vài phân thật. “Thử nghe mà xem!” ông tuyệt vọng thốt lên
trước những lời của vợ. “Những đứa trẻ phải chết vì kẹp vỏ hạt chỉ vì địa vị
ông nội tội nghiệp của ai đó kia đấy!” Rồi ông lại buông mình ngồi xuống và
trở nên im lặng.
Tất cả chúng tôi lúng túng cúi gằm xuống nhìn khăn trải bàn trong khi
chuyện này diễn ra. Tiếp theo là một khoảng im lặng, trong khi đứa trẻ ngây
thơ không thể ngăn cản tiếp tục cựa quậy và bi bô về phía cô bé Jane, dường
như là thành viên duy nhất trong gia đình (không kể tới các gia nhân) mà nó
có vẻ ít nhiều quen biết.
“Anh Drummle,” bà Pocket nói, “anh làm ơn rung chuông gọi Flopson
được chứ? Jane, cô bé không biết vâng lời, đi nằm ngủ đi. Nào, bé con yêu
quý, đi với mẹ nào!”
Đứa bé là một linh hồn có danh dự, và phản đối bằng tất cả sức lực của
nó. Nó cong ngược người dậy trên tay bà Pocket, chĩa đôi giày len đan và đôi
mắt cá chân ra trước mắt những người có mặt thay vì khuôn mặt non nớt của
mình, và bị bế ra ngoài trong trạng thái phản kháng dữ dội. Và đứa bé cuối
cùng cũng đạt được mục đích, vì vài phút sau khi nhìn qua cửa sổ tôi thấy nó
được cô bé Jane nựng nịu.
Tình cờ lúc này cả năm đứa bé còn lại đều bị bỏ lại bên bàn ăn vì
Flopson bận chuyện riêng, còn chúng lại chẳng phải mối bận tâm của ai khác.
Chính vì thế tôi bắt đầu ý thức được mối quan hệ giữa bọn trẻ và ông Pocket,
thường diễn ra theo cách điển hình như sau: Ông Pocket, với vẻ bối rối trên
khuôn mặt hiện rõ hơn nữa và mái tóc rối bù, nhìn mấy đứa con trong vài
phút như thế không hiểu nổi bằng cách nào chúng lại có mặt ăn ở tại nơi này,
và tại sao chúng lại không được Tự nhiên ban cho ai khác. Sau đó, bằng
giọng xa lạ của một nhà truyền giáo, ông hỏi bọn trẻ vài câu - chẳng hạn như
tại sao cậu bé Joe lại có cái lỗ thủng đó trên áo, cậu này liền đáp, Thưa bố,
Flopson sẽ khâu lại khi chị ấy có thời gian - hay làm thế nào cô bé Fanny lại
bị chín mé, để rồi nhận được câu trả lời, Thưa bố, Millers sẽ chích nó ra khi
nào chị ấy nhớ. Sau đó, ông bố trở nên đầy trìu mến, cho mỗi đứa một đồng
shilling rồi bảo chúng ra ngoài chơi; tiếp theo, trong khi các con mình ra
ngoài, ông Pocket rũ bỏ chủ đề vô vọng này bằng một nỗ lực mạnh mẽ nữa
túm tóc nhằm nhấc bổng mình lên.
Vào buổi chiều muộn, mọi người ra sông đi chèo thuyền. Vì Drummle
và Startop mỗi người đều có một cái thuyền, tôi quyết tâm sửa soạn con
thuyền của riêng mình và đánh bại cả hai người họ. Tôi rất cừ trong phần lớn
các trò thể thao quen thuộc của các cậu bé nhà quê, song vì biết mình vẫn còn
thiếu mất sự tao nhã của phong cách dành cho sông Thames - đó là chưa nói
tới các mặt nước khác - tôi lập tức tìm kiếm sự chỉ dẫn từ người thắng cuộc
đua thuyền chở khách qua sông đang bận bịu làm việc dưới chân bậc cấp dẫn
xuống sông từ nhà chúng tôi, và chính các đồng minh mới quen đã giới thiệu
tôi với ông. Vị chuyên gia thực tế đầy uy quyền đã làm tôi bối rối rất nhiều
khi tuyên bố tôi có cánh tay của một thợ rèn. Giá người chèo thuyền biết lời
khen ngợi này đã đi gần tới chỗ làm mình mất đi cậu học trò đến mức nào, tôi
ngờ hẳn ông đã không nói ra.
Có một khay đồ ăn đợi sẵn khi chúng tôi quay về nhà buổi tối, và tôi
nghĩ hẳn tất cả chúng tôi đã rất vui vẻ, nếu không có một cảnh bất hòa gia
đình chẳng mấy dễ chịu. Ông Pocket đang có tâm trạng tốt thì một cô hầu gái
đi vào nói, “Thưa ông, tôi muốn nói chuyện với ông nếu ông vui lòng.”
“Nói chuyện với ông chủ của cô?” bà Pocket nói, vẻ phẫn nộ lại bắt
đầu bùng lên. “Làm sao cô có thể nghĩ ra chuyện như thế chứ? Đi mà nói
chuyện với Flopson. Hay với tôi - vào lúc khác.”
“Mong bà thứ lỗi, thưa bà,” cô hầu gái đáp lại, “tôi muốn nói ngay lập
tức, và với ông chủ.”
Đến đây, ông Pocket rời khỏi phòng, và chúng tôi cố hết mức để tỏ ra
vui vẻ cho tới khi ông quay lại.
“Quả là một chuyện đẹp mặt, Belinda!” ông Pocket nói khi trở lại với
vẻ mặt phiền muộn đầy tuyệt vọng. “Bà nấu bếp bây giờ đang nằm say bất
tỉnh dưới sàn bếp, trong khi một đống bơ tươi lớn được giấu trong tủ bát sẵn
sàng để đem đi bán!”
Bà Pocket lập tức tỏ ra đáng mến hơn nhiều và nói, “Đây là trò của cô
nàng Sophia đáng ghét!”
“Ý em là sao, Belinda?” ông Pocket hỏi.
“Sophia đã nói với anh,” bà Pocket nói. “Chẳng phải em đã chính mắt
nhìn, tự tai nghe thấy cô ta vào phòng vừa mới lúc nãy thôi và đòi nói chuyện
với anh sao?”
“Nhưng Belinda, cô ấy chẳng phải đã dẫn anh xuống dưới nhà,” ông
Pocket đáp lại, “và chỉ cho anh thấy bà nấu bếp và cả chỗ bơ còn gì?”
“Và anh bênh vực cô ta, Matthew,” bà Pocket nói, “vì đã làm chuyện
tồi tệ hay sao hả?”
Ông Pocket rên lên buồn nản.
“Chẳng nhẽ tôi, cháu gái của ông nội tôi, lại không là gì trong cái nhà
này sao?” bà Pocket nói. “Hơn nữa, bà nấu bếp vẫn luôn là một phụ nữ tử tế
đáng kính trọng, và từng nói một cách hết mực tự nhiên khi tới nhận việc là
bà ấy cảm thấy tôi được sinh ra để trở thành một nữ công tước.”
Ở chỗ ông Pocket đứng có một chiếc xô pha, vậy là ông này gieo mình
xuống nó theo cách của một võ sĩ giác đấu tử thương. Giữ nguyên tư thế này,
ông lên tiếng, giọng nói thật trống rỗng, “Chúc ngủ ngon, anh Pip,” khi tôi
cảm thấy hay hơn cả tôi nên cáo từ ông để lên giường đi ngủ.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)