Nguyên tác: Memory Man
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-19 10:54:17 +0700
Chương 21
D
ecker đã tắm rửa, thay quần áo, chải tóc một cách cẩn thận và khoác lên mình một diện mạo chuyên nghiệp nhất. Anh tin rằng những người ngồi đối diện mình hoàn toàn xứng đáng với điều đó.
Cả cha và mẹ của Debbie Watson đều nhìn anh chằm chằm. Cha cô bé là một người đàn ông nhỏ nhắn, rụt rè ở độ tuổi trung niên với chút ria mép phía trên cặp môi mỏng. Cánh tay phải anh ta trông còi cọc, bàn tay dị tật buông thõng xuống khỏi khuỷu tay.
Trông anh ta nặng trĩu vì đang phải trải qua những ngày giông bão.
Mẹ của Debbie thì hút thuốc liên tục. Chiếc gạt tàn trước mặt bà đầy ắp tàn thuốc. Khả năng cướp lấy oxy trong máu của nicotine đã sớm mài mòn đường viền quanh miệng, hằn lên những nét không mấy đẹp đẽ trên khuôn mặt mà có lẽ ngay từ khi còn trẻ cũng không có nhan sắc cho lắm. Cánh tay bà gân guốc, đen sạm và lốm đốm, có lẽ là do nằm ngoài trời trong suốt mùa hè trên chiếc võng buộc giữa hai cái cây ở khoảng sân nhỏ bên cạnh mà Decker nhìn thấy. Người mẹ trông không có vẻ là đang gặp giông tố chi cả. Trông bà ta như người mất hồn vậy. Mùi rượu xộc lên qua bề rộng của cái bàn cà phê trầy xước được đặt giữa họ.
Bên phải Decker, Lancaster ngồi trên ghế divan như một con mèo trên mỏm đá. Các nét trên mặt chị căng lại, nghiêm túc, thu người về phía trước và chị đã như vậy từ lúc Decker cho chị xem bức vẽ người đàn ông mặc đồ rằn ri trong cuốn sổ tay của Debbie. Thi thoảng chị liếc nhìn điếu thuốc của Beth một cách thèm muốn, như thể đang đợi chờ một lời mời gọi thôi thúc chị tự lấy thuốc ra hút.
Họ chưa cho FBI hay bất cứ ai xem bức vẽ ấy. Bây giờ họ quyết định giữ nó bên mình. Decker đã nói, Lancaster cũng đã đồng tình, rằng trước khi bất cứ thông tin gì được công bố cho công chúng, họ cần phải nói với cha mẹ nạn nhân trước. Nếu bản thảo không liên quan đến vụ giết người thì họ không muốn gia đình Debbie phải chịu thiệt thòi không đáng có. Trong một thế giới mà tin tức luôn được cập nhật 24h, gia đình Watson sẽ bị “mổ xẻ” đến mức mà cho dù có bất cứ bằng chứng mang tính bào chữa nào được tiết lộ sau đó, sự thật cũng sẽ không bao giờ có thể lấn át được cơn sóng thần thông tin điện tử trước đó.
Decker mở đầu những câu hỏi của mình bằng rất nhiều lời tuyên bố miễn trừ trách nhiệm. Trước khi cho họ xem hình vẽ, anh đợi cho đến khi gia đình Watson chuẩn bị hoàn toàn. Khi ánh mắt của cả hai người họ dính vào bức hình, họ lùi lại và sau đó cứng đờ như thể bị điện giật.
Decker nhìn thấy cả hai người họ đều có sắc mặt màu trắng kem. Đối với anh, cái chết có màu xanh lam, còn màu trắng thì tượng trưng cho nỗi tuyệt vọng. Khi anh nhìn vào bản thân mình trong gương tròn một năm sau vụ thảm sát của gia đình mình, anh đã mường tượng rằng mình chính là người da trắng trắng nhất trên thế giới này.
“Chị có thể nghĩ được lí do tại sao Debbie lại vẽ những bức hình này không?” Decker khẽ hỏi. Đầu tiên anh chỉ vào người mặc bộ đồ rằn ri và sau đó là hình trái tim. “Có phải con bé ấy đang gặp gỡ ai đó?” Anh nói thêm. Hình trái tim dường như chỉ ra rằng đây chính là một khả năng. Ngay cả trong thế kỉ 21, một trái tim được vẽ bởi một cô gái trẻ bên cạnh tấm hình một người đàn ông có lẽ vẫn luôn mang cùng một ý nghĩa qua từng ấy thời gian.
George Watson lắc đầu, bộ ria mép của ông cũng run lên theo toàn bộ phần cơ thể còn lại. Cánh tay còi cọc của anh ta vung lên bên cạnh thân mình. Decker tự hỏi liệu người đàn ông này đã phải chịu đựng bao nhiêu nỗi bất công trong suốt cuộc đời với phần thân phụ bất thường như vậy. Chính sự bất thường đó có lẽ đã định hình nên mọi thứ về anh, không phải vì mọi chuyện như vậy là lẽ thường mà là bởi vì đôi khi thiên hạ có thể quá tàn nhẫn.
Beth Watson không hề lắc đầu. Bà khẽ gật đầu và khiến cả Decker lẫn Lancaster phải ngay lập tức tập trung vào bà.
“Cậu ta là ai vậy?” Lancaster hỏi.
“Chưa từng biết đến,” Beth ngập ngừng nói. “Con bé chưa bao giờ dẫn người nào mà chúng tôi không biết về nhà.”
“Chúng tôi quan tâm đến bất kỳ người nào mà có thể cô bé đã dẫn về nhà,” Decker nói.
“Không, nó toàn dắt về mấy nhóc con. Anh nói là người này to lớn. Trên giấy tờ ghi hắn cao một mét tám bảy, tầm chín mươi cân hoặc hơn. Debbie chưa từng dẫn ai về nhà mà to hơn bố con bé cả.”
George hắng giọng và buồn bã nói, “Và tôi thậm chí còn chưa cao đến một mét bảy sáu nữa. Tôi cao vọt lên vào năm lớp mười và chưa từng cao thêm nữa.” Sau đó anh ta rơi vào im lặng, trông lúng túng và có chút thất thần khi nói chút chuyện cỏn con về bản thân khi đang trong thảm cảnh như vậy. “Và tất cả những người đó đều là mấy đứa con trai ở trường,” Beth nói. “Thực ra một trong số đó cũng đã chết. Giống như Debbie tội nghiệp của tôi vậy.”
“Là ai vậy?” Lancaster hỏi, cây bút của chị cắm dựng xuống tập giấy.
“Jimmy Schikel. Một đứa trẻ ngoan, chơi trong đội bóng đá. Rất nổi tiếng. Chúng quen nhau nhiều năm rồi. Debbie và Jimmy học tiểu học cùng nhau. Thằng bé đưa Debbie tới buổi dạ hội năm lớp 11, nhưng chúng chỉ là bạn bè thôi.” Chị ta cúi đầu xuống và nói, “Cô không thể tưởng tưởng nổi việc mất con sẽ như thế nào đâu.” Chị với lấy một tờ khăn giấy trên bàn cà phê và chấm nước mắt trong khi người chồng lúng túng xoa vai chị ta.
Từ những lời nói của người phụ nữ, Lancaster liếc nhìn Decker, nhưng anh không nhìn lại chị. Anh vẫn giữ ánh mắt của mình theo Beth. Anh biết chính xác cảm giác mất đi đứa con là thế nào. Nhưng điều đó hoàn toàn không có ý nghĩa gì cả trong tình huống này. Mặc dù dường như đều cùng chịu chung một nỗi mất mát, nhưng giữa những người cùng chịu nỗi đau mất con thì lại chẳng thể thông cảm cho nhau được, bởi thực chất mỗi nhà mỗi cảnh, mỗi bậc cha mẹ lại đau đớn theo những cách riêng của mình.
“Nhưng hẳn phải còn có ai khác nữa chứ?” Decker gợi nhắc. “Một người nào đó chị không biết mà Debbie cũng không dẫn đến đây? Chị có nghĩ đến điều đó mà, phải không?”
Beth vò chiếc khăn giấy lại và thả nó xuống thảm. Chồng bà nhặt nó lên và đặt lại lên mặt bàn. Chị ta liếc sang anh ấy bằng một cái nhìn đầy khó chịu, và khi quan sát thấy điều đó, Decker tự hỏi rằng cuộc hôn nhân này phải tồi tệ đến mức nào. Chỉ là những vết cắt nhỏ chồng chất lại sau một khoảng thời gian dài và chất thành đống? Hay là còn hơn cả thế? Đến mức là khi không còn Debbie nữa thì giữa họ có một vết nứt không thể hàn gắn lại nữa? Nhưng cũng có thể chuyện này sẽ khiến họ quay qua bảo ban an ủi lẫn nhau. Anh cũng từng chứng kiến điều đó xảy ra rồi.
“Con bé có đăng vài thứ trên mạng về cậu ta. Nhưng con bé chưa bao giờ trực tiếp nói về cậu ta cả. Mặc dù vậy, tôi cũng nhặt nhạnh các dấu hiệu ở đây đó thôi. Cách mà một người mẹ vẫn làm.”
“Vậy là chị đã đọc những bài đăng trên mạng đó rồi?”
“Đã có một khoảng thời gian tôi có mật khẩu của con bé. Khi con bé phát hiện ra thì nó đã đổi rồi. Con bé chưa bao giờ gọi tên cậu ta. Nhưng con bé có gọi cậu ta bằng một biệt danh.”
“Là gì vậy? Lancaster hỏi.
“Jesus.”
“Làm thế nào mà chị biết được điều đó? Nó được nhắc đến trong bài đăng nào ư?”
“Không. Tôi thấy nó trên tấm bảng phấn trong phòng con bé. Con bé đã làm một vài bài thơ nhỏ về Jesus. Debbie không theo đạo. Chúng tôi không đến nhà thờ hay làm điều gì tương tự, nên không phải vậy đâu. Đó là một tên con trai. Bài thơ... có chút riêng tư. Đó chắc chắn là về một người con trai. Khi tôi hỏi con bé về nó, con bé chạy lên phòng và xóa nó đi luôn.”
Decker và Lancaster liếc nhìn nhau. Anh nói, “Nhưng chị có biết nó ám chỉ đến kinh thánh hay tham khảo từ nguồn Latinh nào không?” Khi chị ta bối rối nhìn anh, anh nói thêm, “Ý tôi là Jesus hay Hey-soos1.”
Hey-soo: cách gọi tên “Jesus” trong tiếng Mexico.
“Ôi, trời ạ, tôi chưa từng nghĩ đến điều đó nữa. Tôi chỉ... tôi chỉ nghĩ con bé kiểu tôn thờ cậu ta hay gì thôi. Nhưng tôi không nghĩ là Debbie của tôi sẽ chơi cùng mấy đứa người Mexico đâu,” chị nói thêm với một giọng điệu khó nghe. Chị ta lau mũi và hút một điếu thuốc. “Người mẹ nào cũng luôn biết, ngay cả khi con gái họ không tin là họ biết. Debbie chắc chắn nghĩ rằng chúng tôi không biết gì cả.” Chị liếc sang phía chồng mình. “Và có người thì không biết gì thật. Không biết cái gì hết.”
Người chồng bỏ tay ra khỏi vai chị ấy và thả xuống giữa hai chân, như cách một chú chó làm với cái đuôi của nó vậy. Anh ấy hẳn là đã có thể đưa ra quyết định, Decker nghĩ, nhưng rõ ràng là anh không phải người nắm vai trò quyết định trong gia đình này rồi.
Decker liếc nhìn sang Lancaster. “Những bài đăng trên mạng?”
Chị gật đầu. “Chúng ta sẽ thu thập tất cả chúng.”
“Vậy là cô bé chưa từng nói điều gì về điều này? Không gì cả ư?”
“Tôi đã hỏi. Rất nhiều lần. Nhưng con bé không cắn câu.” Bà ngừng lại. “Con bé có lỡ lời và nói răng tôi sẽ không hiểu được cậu ta đâu. Cậu ta rất... trưởng thành.”
“Nghĩa là hơn tuổi rồi. Không phải học trung học sao? Decker hỏi.
“Chính là ý tôi muốn nói đó, đúng vậy. Con bé là học sinh cuối cấp. Con bé chắc chắn là không nói đến bất kì bạn cùng lớp nào đâu. Và con bé còn chẳng bận tâm đến tụi nhóc lớp dưới. Và Debbie thực chất là rất ưa nhìn. Con bé phát triển rồi. Có rất nhiều đứa con trai để mắt đến con bé. Tôi đã cố gắng cho lời khuyên, nhưng con bé không nghe. Tôi cũng không nghe khi mẹ tôi cố nói với tôi. Tôi lúc nào cũng thích mấy đứa trai hư.”
Chồng chị ấy nhìn về phía các thám tử gần như muốn biện hộ gì đó. “Và rồi cô ấy cưới tôi.”
“Bị buộc phải cưới anh thôi, George. Khi ấy chúng tôi sắp sinh Debbie. Mẹ tôi còn suýt lên cơn đau tim nữa. Cho tới giờ thì điều tuyệt nhất đến từ cuộc hôn nhân này chính là Debbie. Và giờ tôi thậm chí còn chẳng có con bé nữa. Nghĩa là tôi chẳng còn gì hết.”
Lancaster nhìn sang phía khác, George Watson cắn chặt lấy môi mình và quyết định tập trung vào vệt nước tròn trên bàn.
Decker chăm chú vào cả hai người họ. Trong tình cảnh bi kịch như vậy, mọi quy tắt mang tính xã hội trong một cuộc hôn nhân có xu hướng biến mất. Những gì chưa từng được nói ra đến nay đã được thổ lộ một cách đơn giản và dễ dàng. Cứ như thể con đập giữ tất cả lại đã đổ vỡ. Debbie có thể đã là con đập ấy. Và giờ chính cái chết của cô bé đại diện cho sự đổ vỡ.
“Tại sao lại là bản phác của dụng cụ lại có họa tiết rằn ri?” Lancaster hỏi. Cô nhìn George. “Anh có đi săn không? Anh có đồ ngụy trang ở đây không?”
Anh ta lắc đầu nguầy nguậy. “Tôi không thể bắn động vật được. Tôi thậm chí còn không có khẩu súng nào.”
Decker nói, “Tôi đoán có lẽ thể trạng của anh khó mà có thể cầm được vũ khí.”
George nhìn xuống cánh tay dị tật của mình. “Tôi sinh ra đã vậy rồi.” Anh ta dừng lại. “Nó khiến nhiều việc trở nên khó khăn,” anh nói thêm một cách cam chịu.
“Vậy thì dụng cụ họa tiết rằn ri có thể có liên quan đến cậu Jesus này?” Decker nói.
“Có thể là vậy,” George nói một cách đầy thận trọng.
“Chắc chắn là vậy rồi,” Beth ngắt lời. “Con bé vẽ một hình trái tim ngay cạnh!” Bà liếc sang Lancaster cùng một cái nhìn thông thạo và đầy bực bội. “Đàn ông các anh không bao giờ để ý đến cái gì cả. Đến đi siêu thị mua đồ cho gia đình còn chẳng chịu làm nữa là.”
Decker nói, “Tôi đã thấy một chiếc laptop trên bệ bếp. Debbie có dùng nó không?”
“Không, con bé có một cái riêng. Ở trong phòng con bé.”
“Chúng tôi có thể xem qua phòng của con bé bâh giờ không?”
Họ được Beth dẫn xuống sảnh. Trước khi quay đi, chị ta rít một hơi thuốc cuối và nói, “Cho kết quả rút ra được là gì, không đời nào con gái tôi có liên quan đến vụ này, dù cho nó có bức hình vẽ thằng khốn nạn này. Không đời nào. Nghe thấy tôi nói rồi chứ? Cả hai người?”
“Rất rõ ràng,” Decker nói. Nhưng anh nghĩ nếu Debbie thực sự có nhúng tay vào thì dù gì cũng đã phải trả cái giá quá đắt rồi. Chính quyền chẳng thể giết cô bé thêm lần nữa.
Beth thản nhiên búng điếu thuốc xuống sảnh, mẩu thuốc tóe lửa và rồi tắt ngóm trên tấm thảm đã bạc màu. Sau đó chị ta quay bước đi.
Họ mở cửa và đi vào phòng của Debbie. Decker đứng giữa không gian nhỏ xíu ấy và nhìn quanh.
Lancaster nói, “Chúng tôi sẽ cho các nhân viên kĩ thuật xem qua những nội dung trên mạng của cô bé. Ảnh trên điện thoại, cái laptop nằm đằng kia, bộ lưu trữ đám mây, bất cứ thứ gì. Instagram, Twitter, Facebook... Bất cứ nơi nào mà bọn trẻ dùng để làm sống ảo trên thiết bị điện tử. Tụi nhỏ cứ đổi mạng xã hội xoành xoạch. Nhưng các nhân viên của chúng ta sẽ biết phải tìm ở đâu.”
Decker không trả lời chị. Anh chỉ tiếp tục nhìn quanh, tập trung xem xét căn phòng, xếp gọn từng thứ vào những ngóc ngách nhỏ trong trí nhớ mình và rồi lôi lại chúng ra nếu có điều gì đó có vẻ không ổn khi so với một thứ khác.
“Tôi chỉ thấy căn phòng của một cô gái tuổi teen điển hình thôi. Nhưng anh thì thấy gì?” Lancaster cuối cùng cũng hỏi.
Anh không nhìn chị nhưng vẫn đáp, “Tôi cũng thấy giống cô vậy. Đợi tôi một phút.”
Decker đi quanh không gian nhỏ bé ấy, nhìn xuống dưới đống giấy tờ, trong tủ quần áo của cô gái trẻ, quỳ xuống xem gầm giường của cô bé, quan sát kỹ lưỡng những bức tranh tường được treo khắp nơi, có nguyên cả một phần là bìa tạp chí People. Cô bé cũng có những tấm bảng phấn đen vuông dán trên một mảng tường. Trên đó là một bản nhạc, những đoạn thơ ngắn và những thông điệp cá nhân dành cho chính cô:
Deb, Hãy thức dậy mỗi ngày và chứng tỏ bản thân nhé.
“Phòng khá kín chỗ đó,” Lancaster ngồi trên mép bàn của cô gái và nhận định.
“Chúng tôi sẽ cho bên pháp lý đến và thu thập tất cả.”
Chị nhìn sang phía Decker, rõ ràng là đang chờ anh phản ứng với lời nói này, nhưng thay vào đó, anh bước ra khỏi phòng.
“Decker!”
“Tôi sẽ quay lại,” anh nói với qua vai.
Chị nhìn anh đi và rồi lẩm bẩm, “Mình thật là, chọn ai không chọn mà lại chọn ngay ông nội to xác có thói quen tự kỷ này làm cộng sự.”
Chị rút một thanh kẹo cao su ra khỏi túi, bóc vỏ và thả vào miệng. Vài phút sau đó, chị rảo bước quanh phòng và rồi tiến đến chỗ gương ở phía sau cánh cửa tủ quần áo. Chị soi xét ngoại hình của mình và kết thúc bằng một tiếng thở dài cam chịu từ một người biết rằng những ngày tháng hình thể tuyệt nhất của mình đã là quá khứ rồi. Chị tự động với lấy điếu thuốc nhưng rồi lại quyết định thôi. Phòng của Debbie có thể là một phần của cuộc điều tra. Tàn và khói thuốc của chị chỉ có thể phá hỏng cuộc điều tra đó.
Chị quay ngoắt lại khi Decker quay trở lại phòng. “Anh vừa đi đâu vậy?” chị hỏi.
“Đặt vài câu hỏi cho phụ huynh, và tôi muốn xem xét phần còn lại của ngôi nhà nữa.”
“Và?”
Anh tiến về phía bản phổ nhạc được viết trên tấm bảng treo tường và chỉ vào nó.
“Debbie không viết cái này.”
Lancaster nhìn chằm chằm vào các nốt nhạc. “Làm sao anh biết điều đó?”
“Cô bé không chơi nhạc cụ. Tôi đã kiểm tra học bạ của cô bé trước đó rồi. Cô ấy chưa từng tham gia ban nhạc. Tôi đã hỏi mẹ cô bé. Cô ấy chưa từng chơi nhạc cụ và không có nhạc cụ nào trong nhà cả. Thứ hai, không có tờ phổ nhạc nào trong phòng này hết. Giả dụ cô không chơi nhạc cụ mà chỉ sáng tác nhạc thôi, thì cũng phải có vài bản phổ nhạc hay nhiều khả năng là vài tờ giấy với khuông nhạc trống ở trong phòng. Thứ ba, đó không phải chữ viết tay của Debbie.”
Lancaster tiến lại gần bức tường, nghiên cứu kỹ các dấu vết trên đó và so sánh chúng với những chữ viết khác trên tường.
“Nhưng làm thế nào mà anh biết chắc là vậy?” chị hỏi. “Phổ nhạc không giống như viết chữ. Ta vẽ nên các nốt, không phải viết thành chữ.”
“Bởi vì Debbie thuận tay phải. Ai đó viết cái này thì thuận tay trái. Ngay cả khi đó không phải chữ cái thì cô vẫn có thể nhìn ra sự khác biệt trong các nét uốn, nét vung và mạch chung của các vết tích.” Anh nhặt lên chút phấn và viết lên phần khác của tấm bảng bằng một vài kí hiệu âm nhạc. “Tôi thuận tay phải nên khi tôi viết là cô sẽ thấy được sự khác biệt.”
Anh chỉ vào một vài vết nhòe trên tấm bảng. “Đó là chỗ mà tay áo bên trái của người đó quệt vào bản nhạc. Đối với một người thuận tay phải, vết nhòe sẽ nằm ở phía đối diện. Giống như của tôi đây.” Anh chỉ vào chỗ tay áo của mình quệt vào một số vết phấn. “Và tên Leopold thì lại thuận tay phải.”
“Làm sao anh biết được điều đó?”
“Hắn ta đã kí vào một tờ giấy mà tôi đưa khi tôi gặp hắn - trong phòng giam.”
“Được rồi, nhưng có khi một đứa bạn là nhạc sĩ của cô bé viết.”
Nhưng Decker đã lắc đầu. “Không.”
“Tại sao không thể? Tôi thấy việc một người bạn của cô bé viết ra một giai điệu hay thứ gì đó là hoàn toàn có thể. Có thể là theo cảm hứng, để khớp với một trong số những câu mà Debbie viết.”
“Bởi vì những nốt nhạc đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Cô không thể chơi nó bằng nhạc cụ nào đâu, tôi biết mà. Từ góc độ sáng tác nhạc, nó thật vô nghĩa.”
“Sao anh biết? Anh chơi nhạc ư?”
Decker gật đầu. “Thời trung học, ghitta và trống. Tôi biết cách phổ nhạc. Chứ không chỉ biết mỗi banh bóng không thôi đâu.”
Lancaster liếc nhìn lại những biểu tượng đó. “Vậy thì đó là gì?”
“Tôi nghĩ đó là một mật mã,” Decker đáp. “Và nếu tôi đúng, có nghĩa là Jesus đã ở trong căn nhà này.”