Số lần đọc/download: 6072 / 256
Cập nhật: 2018-09-21 16:57:29 +0700
Chương 19: Viện 97 Sư Đoàn 9
S
au gần cả ngày nằm bẹp gí trên thùng xe quăng quật, mở mắt ra đã thấy những tàu lá thốt nốt trôi qua trên bầu trời. Có cả những cành cây me tây nữa. Thoảng đâu đó thấy mùi mắm, mùi đường thốt nốt đang cô, lẫn mùi khói hun ống ong ong. Tôi đoán sắp về đến Kampong Ch'nang. Cái thị xã gần một năm trời mới trở lại gặp nó. Muốn đứng dậy ngó quanh, nhưng không đứng lên được, cứ đành nằm im thế. Rồi xe cũng đỗ lại. Nhà chỉ huy của viện 97 ở trên một cái nền chùa cũ khá cao. Từ chỗ đỗ xe lên đến đó với tôi lúc đó là cả một vấn đề, vừa đi vừa thở.
Người ta đưa tôi xuống một cái gian nhà rộng lợp tôn kẽm như cái nhà lính ở Trảng Lớn, Tây Ninh. Cái nhà cũng thưng bằng các tấm ghi, gỗ ván tạm bợ do lính ta làm. Hai hàng phản bằng các tấm ván ép dày hai bên cho thương bệnh binh sư đoàn nằm, có chừa lối đi ở giữa. Anh em thương bệnh binh thời gian này không thấy nhiều, chỉ khoảng hơn hai chục đứa. Tôi kiếm một chỗ trống trên cái phản dài công cộng đó, chuẩn bị chỗ nằm cho mình. Lúc giở ba lô ra thấy có một tấm dù lạ màu rêu, tuy cũ và tươm hết các viền mép, nhưng còn khá tốt. Không biết ở K.23 ai đó đã nhét vào cho. Buông xong mùng là lại trùm tấm dù nằm luôn.
Chiều hôm đó bỏ cơm. Đến tối tỉnh giấc, trong chập choạng ánh sáng cái đèn dầu ma zút bấc to tự tạo của viện, thấy hai hộp sữa ông Thọ để ở đầu giường. Lúc dậy đi ra ngoài, tôi lần mò kiếm được cái đinh đóng lỏng trên vách ván. Thế là tôi để ngược hộp sữa lên cái đinh, giọng một vài cái được hai cái lỗ. Sau đó cứ thế nằm mút. Sữa ngon quá! Tình hình như thế là ổn, có vẻ không đến nỗi nào. Có điều đến đêm thì nó khát nước kinh khủng, không biết nước ở đâu. Lại trở dậy lần mò đi ra ngoài, vừa đi vừa đằng hắng sợ quân gác đêm nó bắn nhầm. Nỗi sợ thừa, vì ở viện 97 không thấy đứa nào gác. Đêm yên tĩnh. Có một vài đốm đèn dầu phía xa xa. Mình đang ở hậu phương, cảm giác thật dễ chịu. Cuối cùng, lệnh khệnh chậm rãi như một bóng ma, tôi tìm ra được cái giếng nước. Thả gàu kéo một lưng nước lên, rồi cứ ngồi đó mà tu nước lạnh, thật sảng khoái...
Sư đoàn bộ sư đoàn 9 thời gian này đóng ở sân bay Kampong Ch’nang. Viện 97 nằm sát ngay thị xã, trong một cái phum cũ phía đông sư bộ. Tuổi còn trẻ nên tôi phục hồi sức khoẻ nhanh chóng. Bây giờ đã tự lên lĩnh thuốc trên nhà điều trị được. Dứt đợt sốt, đến kỳ ăn trả bữa. Lúc nào tôi cũng thấy đói. Đói kinh khủng! Tôi với thằng Trung - dân Sơn Tây, lính trung đoàn 3 - cứ lân la xuống bếp nhặt rau mổ cá giúp bọn anh nuôi để được chúng nó chia thêm cơm hoặc cháy. Thị xã Kampong Ch’nang nằm ngay bờ Tonle Sap nên cá là thực phẩm chủ yếu. Anh nuôi bệnh viện kho cá trong một cái nồi nhôm Liên xô to cao thành. Đun cả đêm, đến sáng thì xương cá đã mục mềm hết cả, chén được cả đầu. Họ kho cá không dùng nước hàng mà tống ngũ vị hay cà ri vào nên cá kho bao giờ cũng có màu vàng vàng và ăn hơi hắc. Nhưng hề gì! Bữa cơm có cá tươi là cả một bữa tiệc thiên đường rồi. Chúng tôi thấy toàn cá trôi, cá linh và các cá tạp khác, to cỡ cườm tay hoặc chuôi dao. Ở biển Hồ cá linh to hơn mạn dưới hạ lưu nhiều.
Chiều thì leo mấy cây lê ki ma quanh chỗ ở, hái những quả vàng gần chín. Khoét những lỗ nhỏ gần cuống quả xong, nhét vào mấy hạt muối rồi vùi vào đám lá khô ngay gốc, quả sẽ rất mau chín. Sau những bữa cơm, chúng tôi tráng miệng bằng thứ quả đó. Tuy mồm miệng lúc chén xong dính bột quả có hơi giống vừa ăn…lòng đỏ trứng gà thật. Nhưng hề gì! Rất ngọt và ngậy bùi. Với lại việc lấp đầy cái dạ dày hình như lúc nào cũng rỗng mới là việc quan trọng nhất...
Đôi khi chúng tôi đi nhờ xe bò của dân ra thị xã chơi. Cuộc sống hậu phương bình thường đã dần dần trở lại. Tiền Riel của chính phủ mới đã được phát hành nhưng tiền Việt cũng rất thông dụng. Rõ ràng lính Việt cũng là một bộ phận của xã hội mới. Kampong Ch’nang nhỏ nhắn và yên tĩnh, khiêm nhường nép mình dưới những hàng phượng tây xanh mát. Kiến trúc nhiệt đới của các công thự theo phong cách Pháp còn chưa bị lai căng. Buổi sáng sớm trên những đường phố, hàng đoàn xe bò đủng đỉnh lăn bánh về phía chợ bờ sông. Những cặp bò vừa đi vừa bĩnh phùm phụp ra đường, vừa khinh khỉnh nhìn những chiếc xe Renaul, Citroen nước sơn còn khá tươm, nhưng bị tháo hết cả đệm lẫn bánh, nằm gí trong các bãi cỏ xác bên đường. Lũ bò bằng lòng với sự độc quyền vận tải của mình, thỉnh thoảng lại rống lên rất hãnh tiến. Đúng là ngu như bò!
Hàng chùm ống nước thốt nốt ngọt, nước thốt nốt chua treo lủng lẳng trên cột đèn, trên những hàng rào sắt, hàng rào bê tông. Bằng cách nào đó, hàng tiêu dùng Thailand theo chân những thương lái gốc Hoa đã bắt đầu xuất hiện. Thuốc lá Samit, thuốc lá 111, Gold City 85... kem đánh răng Hynos, vải vóc...Những loại hàng hoá quyến rũ, thơm phức, đến miền Bắc XHCN có nằm mơ cũng không thấy. Nhưng đắt hàng nhất phải kể đến đủ loại dép tông. Tông hai quai đế dày nhiều lớp màu như cái bánh "chín tầng mây", tông màu gan gà mỏng xỏ ngón…Các cô gái mới từ phum ngoại vi ra thử dép, ngón chân cái toè ra đen sì, ngượng ngập kẹp vào cái cuống quai lắc lắc. Thật khó hình dung khi mới cách đây 9 tháng, tiểu đoàn tôi đổ bộ từ bến cá, qua những căn nhà hoang trên phố này, tấn công giải vây ga Rô mia. Bây giờ đã là một cuộc sống hoàn toàn khác, mặc dù thị xã nằm cách khu chiến của trung đoàn tôi chưa đầy 100km.
Bay trên tất cả khung cảnh ấy là hơi thở của mùa khô, cái mùa tinh tươm sạch sẽ và trù phú. Lúa đã gặt và cá đang hong trên các giàn sấy. Nắng đang dâng trắng loá trên những con đường đất khô ráo, nhưng chỉ dừng lại dăm phút trong bóng râm của rặng cây me tây đã thấy mát rượi. Không khí nhẹ và bổng, lẫn trong đó đủ thứ mùi vị âm thanh của đời thường. Mùi thốt nốt chua, thốt nốt ngọt, mùi mắm bò hóc, mùi cá tươi lẫn mùi thuốc lá thơm... Ấn tượng nhất là mùi xà bông Camay, xà bông Lux khi cái xe bò chở đám con gái, quấn sà rông chặt căng mông đi qua. Có cảm giác các ả chỉ xát xà bông lên người và nhúng qua nước rồi phi ra thẳng chợ nên cái mùi nó mới đậm đặc, gây nồng như thế.
Tiếng ling king, lốc cốc của lục lạc, của mõ bò đôi; tiếng gió chướng lào thào trên vòm cao lá; tiếng đàn bà con gái lanh chanh giọng thanh vút. Ở đây chúng nó mới tự tin vui đùa thế, chứ ở trong rừng rú, chúng tôi chỉ gặp toàn bọn con gái đen đúa, rách rưới, câm hoặc nhát gừng trả lời. Nhưng nhớ nhất là giọng ca Thanh Tuyền phát ra từ cái đài catset nhỏ của thằng buôn vàng. " Ngập ngừng sương rơi non xa. Chiều thu giăng lưới cô đơn. Nghe tiếng mưa sầu chứa chan. Người đi về đâu ngàn lối. Nhớ ai chiều thu....". Một mùa thu xa vắng và cổ quái của riêng đất Bắc. Nó làm tôi thở dài và ngước nhìn lên bầu trời.
Tôi kéo thằng Trung lại gian hàng mơ ước của tôi. Một tủ kính sáng trưng bày đủ các loại đồng hồ đeo tay các nhãn Rado, Citizen, Orient hoặc Seiko…Giá mỗi chiếc là 3 chỉ vàng. Giá hồi đó tôi không nộp lại vàng cho cán bộ chính sách trong trận bắt hụt Tàmok thì bây giờ có phải đã đổi được cái đồng hồ nữ xinh xắn kia, làm quà cho con em gái. Khi trở về còn có cơ hội nói phét rằng tao đã tránh được nhát lê của địch trong một trận giáp lá cà. Khử nó xong thu được cái đồng hồ chiến lợi phẩm này. Em gái tôi mới nó đỗ đại học Tài chính, nhưng không dám nhập học vì phải cắt hộ khẩu Hà Nội
Than ôi! Vét sạch tiền Việt trong túi, hai thằng chỉ đủ mỗi đứa một ly đá bào trộn đường thốt nốt và hạt é pha màu xanh đỏ.
Một chiếc xe vận tải cỡ nhỏ màu trắng in hình biểu tượng của Tổ chức Lương thực Thế giới (FAO) đậu ở gần chợ. Trên thùng xe chở gạo và các cô gái rất xinh đang cười đùa như nắc nẻ. Có lẽ họ là người nước ngoài đến đây làm công tác tình nguyện cứu trợ. Trông thấy hai thằng tôi họ im bặt, cứ như nhìn thấy quái vật. Họ hiểu bọn tôi như một lũ xâm lược hoặc người rừng chăng? Tôi nhìn lại mình qua tấm kính hàng xe nước đá. Một mớ tóc lưa thưa do rụng gần hết vì sốt, úp lên một gương mặt dãi dầu xanh tái. Bộ quần áo màu xanh sỹ lâm tự khâu lấy thật vụng về và đã toả mùi mồ hôi chua chua do lười giặt. Tôi nhìn vào đôi mắt tôi trong tấm kính ấy! Thấy gì đâu hả anh lính tình nguyện? Một nỗi hờn giận điên cuồng vô cớ bùng lên. Tôi bật đứng dậy, thẳng tay đập tan cái ly xuống vỉa hè. Tất cả xung quanh đều im phăng phắc. Tôi ném tất tiền vào cái khay rồi kéo thằng Trung về.
Vì cái đài đó nên chúng tôi nghiện đi ra chợ chơi dù không tiền trong túi. Hồi ở nhà mới nghe Trịnh Công Sơn, băng Sơn ca 7 từ cái dàn AKAI băng cối, đôi loa thùng có mặt êcran gỗ hình quả trám nhà thằng Bình đại liên là thấy mê, nhưng chưa thích giọng Thanh Tuyền. Bây giờ nghe riết, thấy nó cũng hay và hợp với đời lính. Từ cái đài đó mà tôi có thể thuộc hết các bài trong băng Thanh Tuyền 1: Nỗi buồn hoa phượng, Kiếp nghèo, Không bao giờ quên anh, Tình thư của lính, Tôi muốn quên đi... Dân ở thị xã cũng keo cú hơn dân thị trấn Pờ Lây. Xin thử nước thốt nốt chua là họ không có cho. Và khi ở thị trấn thì cái sỹ diện con người tôi nó cũng lớn hơn một tí, hỏi một lần không được thì thôi chứ không dám níu gánh uống đại. Mẹ bây giờ Pốt nó ập oành vài phát như hồi tháng 3 thì quăng cả bò mà chạy chứ đừng có nói tiếc mấy cái ống thốt nốt.
Xoài đang tuôn hoa, những chùm hoa màu ngà trắng. Cái Tết đang dần đến, khiến nao lòng nỗi nhớ nhà. Hôm trước có một anh trong đội điều trị hỏi mày ở tiểu đoàn 4 trung đoàn 2 à? Chúng mày thu được lắm vàng lắm à? Còn vàng không đưa chúng tao hai chỉ. Tao làm cho cái giấy chuyển về 175 Sài gòn mà chuồn về thăm nhà. Đã nhiều thằng ở đây đi về nhà bằng cách đó. Thiệt tình, nếu còn vàng thì mình đã đổi đồng hồ, việc đếch gì phải chung để lấy cái giấy chuyển viện dớ dẩn! Đêm nằm trên phản, thì thầm bàn với thằng Trung chuyện trốn về nhà. Nó ngần ngừ, nhưng rồi cũng nhất trí. Chỉ cần về được Sài Gòn thì có thể vào nhà bác nó vay tiền nhảy tàu ra Bắc. Khi đã có ý định thì những ngày nằm điều trị trở nên dài lê thê bởi cái Tết đang thúc đằng sau lưng.
Rồi cái ngày ra viện cũng đến. Hai thằng lấy giấy ra viện, giấy cung cấp tài chính, một ít phụ cấp tiền Riel. Chúng tôi ra sân vận động thị xã Kampong Ch’nang buổi sáng ngồi chờ xe. Chiều hôm Chủ nhật trước, chúng tôi có ra sân này xem trận đấu giữa đội Sư 9 và đội thanh niên KP Ch'năng. Kết quả là Sư đoàn 9 thắng 2-0. Nhưng thấy áo đấu lính mình sản xuất nội địa trông chán lắm. Còn tụi TN bạn chúng nó toàn mặc đồ thể thao xịn nhập từ Thái lan, trông rất choáng. Bây giờ thì sân vận động trống không, cột gôn thành chỗ buộc bò. Nhưng chẳng còn lòng dạ mà ngắm bò, ngắm gái nữa. Tôi đang bồn chồn sốt ruột chờ nghe tiếng xe. Một xúc cảm hồi hương rộn ràng thoảng qua trong trí não làm tim đập nhanh hơn, như khi chờ tiếng pháo đề pa trong trận đánh đầu tiên. Nào! Bây giờ thì mình chờ đi về nhà.
Không một chút lưỡng lự, tôi giơ tay vẫy. Đoàn xe ba chiếc dừng lại ngay. Anh lái xe đứng tuổi chạy xe đầu thò cổ ra hỏi giọng Quảng Ngãi khó nghe: “Các em đi đâu?”. “Về Việt Nam!”. “Lính sư mấy?”. “Sư 9!”.” Ra viện à? Chẳng ai bảo ai, tôi với thằng Trung cùng thè lưỡi ra. Tôi chỉ tay xuống vết sẹo dưới chân. Anh lái xe bật mở ca bin lấy khẩu AK đầy nhóc 2 băng đạn, vứt cho bọn tôi rồi chỉ tay lên thùng. Chúng tôi leo lên ngay không khách khí. Các bố này thấy có lính đi nhờ xe thì rất khoái, yên tâm hơn hẳn trong trường hợp bị phục kích. Mấy chiếc xe chạy lòng vòng rồi đỗ lại một quán ăn ba Tàu gần chợ. Anh tài xế nhe răng cười: “Ăn đã chú em!” rồi lôi bọn tôi vào quán. Mấy thằng thương binh chưa ra viện đi chợ thị xã chơi thấy thế xúm vào nhao nhao hỏi: “Phé à?”. Tôi gật đầu xác nhận. Thế là thằng Nghĩa Hải Hưng D5 trung đoàn 2, thằng Đực và mấy thằng lính Bến Tre bên trung đoàn 1 lộn túi còn bao nhiêu tiền lẻ gom vét lại đưa cả cho tôi. Sau này tôi có gặp lại thằng Nghĩa khi nó được kéo lên đội văn nghệ trung đoàn.
Anh Tư tài xế thấy mấy thằng lính cho nhau ít tiền, mới kéo tuốt cả bọn vào trong quán chiêu đãi mỗi thằng một đĩa cơm chiên. Lại thêm hai lít rượu nữa. Cơm rượu xong xuôi lúc anh Tư đứng dậy thanh toán thì bị thằng Đực kéo tay lại. Nó móc ở bụng ra quả da láng loại tức thì đặt cái cốp lên mặt bàn rồi bảo cha chủ quán ba Tàu: “Các anh đây bỏ xương bỏ máu mà chưa có dịp tính tiền. Bây giờ các anh ấy vội về. Tui cứ đặt tạm trái da láng này ở đây làm tin! Thanh toán sau!”.
Thằng này uống vào bầy hầy quá! Thấy cha chủ quán mặt xanh như *** ếch, nó càng sấn lại làm già. Tay nó rút chốt cái phựt rồi quăng vòng chốt sang bên kia đường. Tay kia bóp cái mỏ vịt cứ dúi vào bụng chủ quán. “Này! Cầm lấy!”. Cha này lạy như tế sao. Lúc đó nó mới cười hề hề rồi thò tay vào túi, móc ra một cái chốt khác y sì phóoc, cắm vào chốt lại mỏ vịt. Kiểu đùa quá trớn kinh chết mẹ! Đến lúc này, khi anh Tư đưa tiền cha chủ quán cũng dứt khoát không nhận nữa, với lý do ủng hộ bộ đội Việt Nam. Thằng này lại trừng mắt lên doạ, cha ấy lại vội vàng cầm lấy tiền. Nó bảo đây là tiền anh ấy trả trước cho lần tới khi tụi tôi ra, khỏi đòi tiền nữa nghe chưa!
Và bây gìờ thì lên đường. Đã gần một năm trôi qua, trở lại con đường này với biết bao điều thay đổi. Con đường vẫn thế, đầy những ổ gà nên xe chạy chậm. Hành trình trở về khiến chúng tôi hưng phấn. Hai thằng cứ đứng bám thành xe háo hức ngó quanh. Dãy U Răng xa xanh trôi chậm chậm bên tay phải, nơi trung đoàn tôi đang hành quân.
Đến Ô Đông, chiếc xe ngoặt vào một con đường nhỏ rồi dừng lại trước một cái quán. Phụ xe nhảy lên, nhờ chúng tôi giúp một tay lăn xuống phuy dầu. Thùng dầu rớt êm cái ịch trên cái lốp cũ đặt nằm, nhanh chóng mất hút trong gầm sàn quán. Đây là mánh của mấy ông tài xế. Chắc đây là mối ruột của anh Tư nên mọi sự không cần nhiều lời. Chỉ một loáng, đoàn xe lại lên đường. Đến Ph’nom Pênh thì trời đã tối. Thủ đô lác đác có những đường phố có điện. Những hàng ăn bơm đèn măng sông sáng trưng. Anh Tư lại kéo cả đoàn đi ăn. Chúng tôi chén xong, mắc màn ngay trên thùng xe đi ngủ ngay. Cũng có thể trải tấm nilon ngủ dưới hàng hiên vỉa hè cho khỏi sương, nhưng chỉ sợ mai xe chạy sớm, bỏ rơi mình nên tốt nhất cứ thùng xe mà nằm. Đã bao đêm ngủ bờ ngủ bụi, ngủ trên đồng rạ, ngủ dưới trời sao hoặc vần vụ mây mưa...Giờ đây, những tấm ván thùng vẫn còn ấm hơi nắng ban ngày là một cái giường tuyệt hảo.
Đoàn xe vượt cầu Sài Gòn lúc mờ sáng. Chú lính kiểm soát quân sự ngái ngủ chống cằm trong trạm nhìn theo chúng tôi. Thế là thoát một trạm! Đây rồi khu vườn hồng xiêm, nơi tiểu đoàn 4 chốt gần Tết năm ngoái. Những ngôi nhà sàn cắm chân trên những đìa nước sâu hoắm không bao giờ cạn nước kể cả mùa khô. Phà Neak Luong dào dạt sóng, Kampong T’ra Bêch xanh mát và trù phú. Kia là cái nhà sàn buổi trưa chờ xe sư đoàn năm ngoái, tôi đã leo lên đánh một giấc…S’vây riêng, cầu Prasaut, ngã ba Chi phu…
Càng gần về đến Việt Nam, chúng tôi càng sốt ruột. Mà xe thì cứ chạy chậm như rùa bò. Cuối cùng thì trạm kiểm soát biên giới cũng hiện ra. Lúc đó đã quá trưa một chút. Hồi hộp quá! Nếu quân cảnh có kiểm tra thì tôi sẽ trình giấy ra viện, giấy cung cấp tài chính. Thời hạn còn những hơn một tháng nữa cơ mà! Cứ bình tĩnh nào! Trong cái chòi gác chỉ có đúng một người. Chắc tụi nó đi ăn cơm trưa. Anh Tư xuống trình giấy tờ gì đó. Người lính gác biên nhìn giấy, nhìn lên hai thằng lính khoác súng đứng trên thùng xe rồi khoát tay cho đi.
Cảm ơn khẩu súng, không phải chống địch nhưng lừa được ta. Cái Ba ri e bằng tre nâng bổng lên. Qua nào! Thằng Trung liếc ngang, tôi đá vào chân nó bảo nhìn thẳng. Trạm kiểm soát biên giới đã lùi lại sau.... Ôi trời…! Thoát rồi! Còn mỗi trạm Suối Sâu nữa thôi! Nghe bọn nó kể là cái trạm kiểm soát liên hợp Suối Sâu gắt gao ghê lắm. Nhưng trong một ngày có quý nhân phù trợ, chúng tôi vượt trạm này nhẹ nhàng, thậm chí xe không phải đỗ lại mà đi thẳng luôn.
Bốn giờ rưỡi chiều hôm đó, chúng tôi chia tay anh Tư ở ngã tư Bảy Hiền. Đã hàng chục năm trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in gương mặt và giọng nói của anh. Có những con người chỉ gặp một lần thoáng qua, thậm chí còn chưa hề nói chuyện nhưng đôi khi ta vẫn nhớ mãi cái khoảnh khắc ấy, đôi mắt ấy. Huống chi là đã là ân nhân, đã đi chung với nhau một quãng đường dằng dặc. Chẳng biết bao giờ mới gặp lại nhau!
Chúng tôi nhảy xe lam về nhà bác thằng Trung ở cư xá Lữ Gia quận 11. Hai thằng lính ở rừng về, chìm nghỉm trong cái tấp nập nao nức chuẩn bị đón Tết Nguyên đán của một thành phố sầm uất nhất nhì Đông nam Á. Hai bác đón chúng tôi với sự điềm tĩnh và phải phép của dân miền Bắc đặc trưng. Muốn hình dung chuẩn về phong cách dân Bắc thời cũ thì tốt nhất nên tiếp xúc, tìm hiểu dân Bắc di cư. Cái chất cẩn thận, ý tứ đến khách khí trong giao tiếp vẫn còn nguyên đai nguyên kiện, chưa bị lối cư xử bình dân suồng sã, kiểu công nông binh của xã hội mới sau giải phóng năm 54 nó lai tạp. Nhà có hai cô con gái trạc tuổi, nhưng tôi vẫn gọi bằng chị theo thằng Trung. Các chị ấy vừa đi họp Đoàn phường về. Ríu ra ríu rít hỏi chuyện bọn tôi suốt. Tiếng Bắc pha tiếng Nam nghe hay đáo để.
Lâu không nghe tiếng con gái Việt nên tôi mặc kệ thằng Trung thao thao bất tuyệt. Còn tôi thì im lặng nghe các chị ấy nói. Sau khi biết lý do chúng tôi về Sài Gòn và dự định ra Bắc, các chị lôi bài Tây ra bói rất nhí nhố, trông cũng hay hay. Quẻ bài phán chuyến đi lành ít dữ nhiều. Tốt nhất là chờ đợi đã! Cũng nhanh chóng như khi theo tôi về nước, thằng Trung đồng ý ở lại chơi Sài Gòn vài bữa để đi sau. Nó bỏ tôi đi một mình nên tôi hơi tức. Hai bà thầy này cho vác đạn lên núi 701 như bọn tù binh nữ thì biết tay nhau ngay, ngồi đấy mà phán bậy!
Vừa mới về được vài tiếng đồng hồ đã dở chứng. Quyết định của nó càng củng cố quyết tâm của tôi. Và tôi sẽ lên đường, càng sớm càng tốt. Buổi tối hôm đó ăn cơm xong, tôi lảng ra phố một mình để cho gia đình nó nói chuyện riêng với nhau. Ngồi uống một ly rau má năm hào, tôi vừa nhẩm tính số tiền còn lại trong túi. Có tám mươi đồng tất cả. Nếu chia đôi tôi sẽ chỉ còn bốn mươi đồng. Chắc không đủ tiền mua vé tàu Thống nhất. Lại còn tiền ăn uống trên tàu ba ngày ba đêm hành trình nữa (hồi đó tàu hỏa Nam Bắc chạy mất 72 tiếng). Tôi sẽ đi lậu vé…Chỉ có thể khởi hành càng sớm càng tốt. Tình thế không cho phép trì hoãn thêm nữa. Tết đã đến sát sau lưng rồi!
Nghĩ là làm! Thằng Trung để hết tiền cho tôi rồi hẹn đi sau. Tôi ra chợ mua một đôi áo thun dân sự màu xám mất hai chục đồng. Mặc luôn để tránh kiểm soát quân sự. Còn lại sáu chục đồng. Nói qua để các bạn dễ hình dung là sáu chục đồng hồi đó tương đương với 120 cái bánh mỳ không người lái hoặc 45 bát phở. Tối hôm sau, tôi bắt xe lam ra ga Bình Triệu rồi nhảy lên tàu. Chọn một chỗ trống gần toilet, tôi đặt cái ba lô lép lên giá rồi quan sát xung quanh. Dưới gầm ghế, những sọt trái cây, những kiện hàng vải lấp đầy không có chỗ đặt chân.
Bên cạnh tôi, chủ nhân của những kiện hàng xuyên Việt là mấy chị tuổi đã sồn sồn chuyện trò như pháo rang. Tàu rùng mình chuyển bánh rồi tăng dần tốc độ. Đường ke, nhà chờ, phố xá lùi lại loang loáng. Đúng là “đưa nhau lên tàu về quê em thấy vui hơn” thật! Chỉ còn bảy mươi hai tiếng đồng hồ nữa là tôi sẽ gặp lại Hà Nội, gặp lại những người thân yêu của tôi. Rình rình…! Kịch kịch…! Tiếng bánh sắt reo lên ù ù giữa hai làn ray, điểm nhịp đều đều những khi vượt qua những đoạn nối. Lập lách, tà vẹt, bù loong đinh ốc… tất thảy cùng tấu lên khúc hát hồi hương.
Có gì để nhớ về chuyến tàu này? Mấy lần chui vào cái toilet hôi khủng khiếp để trốn nhân viên soát vé? Những suất ăn ngon lành do các chị, các dì buôn chuyến bao thằng em bộ đội khi nghe tôi kể hết sự tình? Phố biển Nha Trang im vắng ngủ quên trong ánh đèn vàng vọt? Trăng hạ tuần quạnh quẽ trên đỉnh Tháp Chàm đang trôi theo người khách độc hành lặng lẽ? Hay ga Sông lòng Sông, ga Mường Mán mưa đêm…?
Tàu vượt đèo Hải Vân một buổi sớm sương mù. Có cái gì đó thật thân quen, như khẽ chạm vào da thịt khiến tôi rùng mình nhìn quanh. Thật dịu dàng lan tỏa, như là đã đến từ trong cảm thức sâu thẳm, rồi tràn ngập xâm chiếm không gian và xúc cảm… Đã nhận ra rồi! Xin chào người! Không khí quê hương Bắc Việt của tôi! Gió mùa Đông bắc của tôi! Cơn gió làm nao lòng nhớ trong những trưa mùa khô khét nắng, những đêm lạnh tiếp cận luồn sâu rừng thẳm... Nâng cửa sổ lên, hít một hơi thật đầy lồng ngực bầu không khí lạnh ban mai còn đẫm hương đêm…Gió lùa vào trong cổ, gió lùa vào trong tóc, rồi vào trong mắt cay, khiến phải đưa tay lên dụi… Điên thật! Chẳng nhớ gì lại đi nhớ gió! Chẳng hiểu còn ai trên đời, có bao giờ bỗng nhớ một cơn gió vô hình hay không?
Suốt từ ga Nam Định về đến ga Hàng Cỏ, tôi cứ nghển cổ ngó ra ngoài. Đồng đã cấy xong gần hết. Sương chiều mùa đông mỏng và nhẹ, dịu dàng quấn chân những rặng tre lá vàng áy. Đây ga Bình Lục, nơi chúng tôi tắt đồng đêm, từ Thanh Bình ra, nhảy lên toa chở đá trốn về nhà ba ngày sau khi được phát quân trang. Mặc trên người bộ quần áo lính hồi đó về để lấy le với mấy đứa bạn gái cùng lớp. Bộ quân phục (dù mới tinh) giống như một khẳng định rằng anh đã có một cuộc đời phong trần lắm. Mới 18 tuổi đầu đã biết gì đâu? Ở nhà có khi mẹ vẫn phải giặt quần đùi hộ. Thế mà ra đường vào quán ngênh ngáo bất cần! Rút điếu thuốc đang cắm ở miệng ra, vảy tàn thật điệu nghệ, viết vào không gian hai chữ: “…Biển … Nhớ …” rồi quay sang hỏi cô bạn gái đang mắt tròn mắt dẹt bên cạnh rằng đấy là chữ gì? Còn mồm miệng cố giữ vì suýt chết sặc khói thuốc…
Đây ga Phủ Lý, nơi buổi chiều ngày 18/11/1978, chúng tôi lên tàu vào Nam đi chiến đấu giữa hai hàng vệ binh lê tuốt trần. Bố Trung (lạy trời người vẫn mạnh khoẻ!) - bố của Tuấn Anh (c1-d4-e2) vốn làm tại phòng điều độ ga Hà Nội biết có đoàn tàu quân sự đón quân ở ga này, nên theo tàu vào tận nơi để kịp giúi cho mỗi thằng thêm ít tiền lộ phí. Và cũng để lần cuối cùng trông thấy những đứa con có thể không bao giờ gặp lại nữa… Những ga xép, những cột tín hiệu đường sắt, con đường nhựa loáng vụt trôi qua. Giăng giăng mờ đục một trời mưa bụi. Lửa đèn, bếp đỏ nhoè nét trên khung cửa tàu trong buổi chiều ướt, trôi trong màn mưa mênh mông…
9 giờ 30 tối, con tàu mệt mỏi lừ đừ trườn vào ga Hàng Cỏ rồi dừng lại. Tôi xuống tàu, lẩn đi ngược lại phía hẻm phố Sinh Từ tránh cửa soát vé. Con hẻm này rất nguy hiểm vì nó cực hẹp, nơi bất cứ lúc nào cũng có thể có tàu chạy qua. Lúc đó kể như rồi đời! Chỉ có dân buôn lậu thông thuộc giờ tàu mới biết được đường này. Thoát ra khỏi con hẻm tăm tối đó, tôi đặt chân lên vỉa hè Hà Nội, ngửa mặt nhìn ngọn đèn đường vàng vọt, ngơ ngẩn cười. Hẳn là nụ cười của tôi lúc đó ngô nghê giống hệt nụ cười của thằng Nhạ đại liên, khi nó sờ sờ tay vào cái lỗ thủng trên vành mũ bị đạn xuyên qua. Mọi sự cứ như mơ! Cách đây đúng một tuần, tôi đang còn lê dép trên vỉa hè Kampong Ch’nang.
Phố mùa đông buổi tối vắng vẻ. Dưới một gốc cây bàng, bà hàng ngô nướng đang nhanh tay quạt. Mấy người khách bu quanh hơ tay trên ngọn than hồng. Mùi thơm thật quen lan toả trong không gian tịch lặng. Lạnh quá, tôi kéo dựng cổ áo lên, khoác ba lô đi men theo cầu đá Phùng Hưng. Trèo đèo lội suối đã quen, bước chân anh lính trên vỉa hè quê hương sao ngập ngừng như phố lạ. Phố vẫn phố, cây vẫn cây mà sao như nhỏ bé hơn. Cảm giác này có thể do bởi nhìn không gian rộng đã quen. Cửa nhà mình đây rồi! Ánh đèn ấm áp hắt mấy vệt qua khe. Đặt cái ba lô lép xuống bậc, ngồi phịch xuống rút một điếu thuốc ra hút, hồi hộp lặng nghe tiếng con Diệp trong nhà đang léo nhéo nói gì với mẹ. Hết nửa điếu thuốc, tôi đứng dậy, sờ sờ cái nút đến chừng nửa phút trước khi bấm chuông.
Vỡ oà, có cả nước mắt...
Ông già tôi hồi đó "bôn sệt", phi xe com măng ca từ Phúc Yên về. Hai cha con bắt tay nhau như người lớn. Tôi nói rõ tình cảnh ra viện trốn về thăm nhà. Người bảo cứ yên tâm nghỉ ngơi một thời gian rồi vào đơn vị. Về được mấy hôm, mấy cô bạn trong nhóm chơi thân của chúng tôi đến nhà chơi. Líu ríu chừng gần tiếng thì cả bọn tự nhiên rút cả, để lại hai đứa. Tối đó trời lạnh lắm! Nàng hôm ấy sáng bừng trong chiếc áo len trắng, lộng lẫy như Bạch Tuyết. Tôi không có áo rét, vì cái áo len xám cũ của tôi mẹ đã tháo ra đan lại cho con Hà. Tôi chui vào buồng, lấy cái áo len cổ lọ của con Diệp mặc vào, trùm ra ngoài cái áo blu dông bạt cũ vẫn mặc hồi đi học. Cái áo vẫn còn loang lổ các vết cháy màu do tôi nghịch a xit.
Hai đứa đi bộ qua đường Lê Văn Linh, rẽ sang đường Lý Nam Đế. Con đường loang lổ bóng lá sấu dưới ánh đèn đường. Trời lạnh, nhưng tôi run không phải do thời tiết, mà do cái gì đó làm hàm như cứng lại. Chúng tôi nói toàn những chuyện đâu đâu, không nhớ nổi là những chuyện gì. Đến cầm tay cũng không dám, giữa phố dường như không người. Run như trước khi nổ súng trận đầu. Giá lúc đó gặp cả đại đội lính Pôn Pốt có khi còn đỡ run hơn. Và tình trạng đó kéo dài tới khi tiễn em về đầu phố.
Đêm hôm đó, về đến nhà là tôi đứng trước gương soi ngay xem mình có đẹp trai không, có ổn không. So với cái tấm kính hàng nước đá bên KP Ch'nang thì cái gương này vẫn không nói lên điều gì tử tế hơn. Mà em thì xinh quá! Cả đêm hôm đó trằn trọc, và dường như thức trắng.
Về nhà mới biết tụi bạn học cùng đi lính mặt trận Tây nam có mấy đứa đang ở Hà Nội - Hiệp B.41, bị thương trận cầu cháy đã chạy được về. Tuấn Anh trốn hồi ở chốt bờ đê biên giới Long An đã đi lính đơn vị thu dung, đóng quân ở Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình. Vinh (VM) rút quân theo sư 10, Quân đoàn 3, đóng quân trên Chợ Mới, Bắc Kạn - nhưng vẫn thấy gần Tết đã có mặt ở nhà. Chỉ có Bình cáo, Thọ là vẫn biền biệt bên K. Chúng nó dẫn tôi đến chào từng nhà, kể chuyện gặp nhau ở đâu, tình hình ra sao.
Có những câu chuyện có khi phải kể lại đến cả chục lần, hôm sau vẫn bị gọi đến hỏi lại: “Mày thấy nó như thế nào? Gặp ở đâu?”. Có bà già còn hỏi: “Thế chúng mày ăn bằng thìa hay bằng đũa?”,” Có xà phòng giặt không?” Thậm chí: “Đi đồng khi đang đánh nhau thì chúng mày làm thế nào, có giấy báo vệ sinh không?”.... Tôi phải trả lời cả tỷ câu hỏi như thế. Lần nào cũng như lần nào, các bà mẹ cũng đưa tay chấm mắt. Khổ quá! Mới rời tí mẹ, ở nhà còn tranh ăn với em mà bây giờ đang giữa trời đạn lửa, xa lắc xa lơ tận u tì quốc thế kia...!
Người ta nói chiến trận rèn luyện con người, làm cho con người lớn lên, trưởng thành. Điều đó đúng trong chiến trường, trong rừng sâu núi thẳm. Song về lại cuộc sống thị thành, về lại thủ đô, tôi vẫn là tôi của hơn một năm về trước. Khi bị tách ra khỏi cuộc sống đời thường một thời gian, lúc nhập lại, đương nhiên anh lại phải bắt đầu từ lúc anh ra đi. Thủ đô trái tim của cả nước không phải là rừng U Răng hay Pursat, không cần anh biết xử AK giật đều điểm xạ, biết tìm lối lạc rừng, biết bới cát tìm nguồn nước, chăn chó khôn hay nhung nhớ vơ vẩn xa xôi. Giống như khi ta lôi một con khỉ đến một dạ hội vậy, kể cả khi khoác cho nó một bộ trang phục hợp thời. Hết háo hức những buổi đầu gặp gỡ, tôi dần đâm ngại những cuộc giao tiếp chung.
Các cô gái của nhóm chúng tôi thì khác. Đang mơn mởn sinh viên tuổi 20. Một chút son Thái, một thoáng phấn dịu là trông tất cả cứ như hoa khôi. Chiều chiều tốp đó thong thả đạp xe Mifa, Favorit bà già mua cho con gái cưng, từ trường trung cấp Y ngoài bãi Phúc Xá, lướt thướt về Đồng Xuân. Muốn đón đường, rủ em đi làm ly nước thì không có tiền. Và cũng không thể chối được nỗi sợ vì cái bộ dạng rừng rú của mình. Quần áo thời học sinh đâu có mặc được nữa. Ông bà già mỗi năm nhà nước phát cho 5m vải mỗi người thì đã bán hết cho các "con phe", lấy bù tiền chợ.
Chú Long, anh Phát cho tôi mấy bộ đồ cũ vừa khổ người cứ thế diễn suốt. Thằng Vinh còn kể hồi đó tao vẫn tại ngũ, bị ghẻ với hắc lào đầy mông mà các em cứ rủ đi bơi, ngại chết lên được. Mà tôi có phải được ở nhà ngay đâu mà có thể bắt đầu một lối sống mới. Tôi đã trốn đơn vị, và tôi phải trở về đơn vị, trở về rừng. Thời đó nếu không phải nhà nào "gồng" mạnh, hoặc lỳ phớt chịu đủ thứ điều tiếng thì không thể có con đường nào khác.
Một dự cảm chia tay đã manh nha và lớn dần trong ý nghĩ. Tôi sang nhà em ít dần. Mà mỗi lần sang chỉ có thể nói chuyện một cách thoải mái với bà chị cả của nàng. Về sau chị nàng lấy chồng, mở quán cà phê khá ngon ngay cạnh quán phở gà đầu phố Đỗ Hành nổi tiếng. Chắc chị có tấm lòng bao dung với các tính cách "hâm hấp", nên đã lấy một anh suốt ngày đội đầu trâu, đầu bò tự làm, tự trang trí, theo sát đội tuyển bóng đá Việt Nam đi khắp Đông nam Á. Anh này thì báo chí thể thao cực đoan và nhiều người yêu bóng đá quốc nội rành tên.
Tạm xếp lại các ký ức buồn, một cái Tết hậu phương đang dần dần đến...
Hà Nội những năm đó nghèo. Phố đêm tối tăm vì đèn đường toàn loại đèn sợi nung, treo lủng lẳng trên cột điện, hoặc toòng teng trên các dây điện đường. Chỉ có đường Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh mới sáng đèn cao áp. Những đêm mưa mùa đông ẩm ướt, chuyến xe điện muộn vắng tanh, chạy rề rề. Cần nóc xe kéo qua những chỗ dây nối, bật đánh tia lửa xoèn xoẹt, hắt ánh xanh lét lên những ô cửa cũ kỹ. Khu Hoàn Kiếm với những phố "Hàng"; khu Ba Đình, một phần khu Hai Bà với các biệt thự và phố "tây", mới được xem là phố. Còn lại là năm cửa ô với những mái ngói lầm bụi mốc, những cành bàng trụi lá khắc khổ, trắng xác sau trận gió mùa.
Chợ Mơ người ta gọi là "Ca li phoóc ni mơ". Phố Lò Đúc thông đến ô Đông Mác gọi là bang "cò ỉa". Ra khỏi Ngã Tư "khổ" (ngã tư Sở) vài trăm mét đã thấy đồng ruộng huyện Thanh Trì trải xanh bên tay phải. Xuống đến khu "Cao_Xà_Lá", đến Hà Đông là kịch đường tàu điện. Đầu ô Yên Phụ, các bà bán rau, bán hoa toàn đi đất. Ngón chân cái toè ra trên vỉa hè, có khi còn dính cả phân xanh. Đến các nơi đó là bắt đầu một thổ ngữ khác, một âm sắc khác, là lẫn lộn giữa "lờ" và "nờ" mất rồi. Trong đơn vị, chúng nó bôi bác lính Hà Nội là "Em ở Hà Lội, một mét vuông có 5 thằng ăn cắp!" Búa bậy hết sức! Hà Nội không nói ngọng như thế bao giờ, mà nói như trên đài phát thanh chúng ta thường nghe.
Người Hà Nội thời đó không khác nhau là mấy. Sớm sớm, một phố dài xe đạp, chảy trôi chầm chậm về các hướng. Cái xe đạp là cả một gia tài, ngự trên cái gia tài đó là các ông bà chủ với y phục mùa đông xanh sẫm, xam xám gần như nhau. Khác nhau chắc chỉ mỗi trong phần ghi ở sơ yếu lý lịch. Đứa nào lý lịch có bố mẹ đều là "cán bộ, công nhân viên nhà nước" thì tự hào vênh mặt, không có gì phải bàn. Còn đứa nào thấy ghi nghề nghiệp mẹ: "nội trợ" thì chắc hẳn đó là dân "phe phẩy". Khi viết khai đến đó phải lấy tay che lại cho khỏi ai nhìn thấy, xấu hổ chết. Bây giờ tôi vẫn còn nhớ câu chuyện châm biếm trên báo Hà Nội Mới. Chuyện có cô bé thắc mắc hỏi mẹ rằng mẹ ơi phe phẩy là gì hở mẹ? Bà mẹ chạm nọc mới điên lên chửi:"là...là....là con mẹ mày!".
Quả thật không có các bà mẹ phe phẩy, bám mặt trên vỉa hè dành cho "nhân dân anh hùng" thì mấy đứa con mơ làm cán bộ kia chỉ có mà húp cháo. Một cái nón quai lụa không bao giờ đội, chỉ kẹp nách. Trong đó đựng một mớ tem phiếu hay tiền lẻ nhàu nhĩ... Cứ thế, họ tung hoành trên phố đông. Người ta "phe" đủ mọi thứ: phe vé xem phim, phe tem phiếu, phe thuốc lá cuốn, dăm cuộn len Tiệp, mấy đôi moay-ơ xe đạp Đức. Các phe nam thì kẹp nách mấy đôi gác-đờ-bu, gác-đờ-xen. Chốc chốc họ lấy phấn đánh nhôm ra chuốt cho bóng loáng. Thỉnh thoảng họ lại xô nhau chạy rầm rập. Đằng sau lưng là tiếng còi rít róng của anh công an, của bảo vệ hay cán bộ thị trường. Mẹ cái Nguyệt Hàng Lược có lần chạy không kịp, tọt luôn vào nhà tôi. Bà ngoại tôi đẩy cô ấy xuống bếp để trốn. Chứng kiến, tôi thấy một sự đắc thắng vì cảm thấy sự "hơn hẳn" của "thành phần gia đình" mình. Đáng thương thay cho cái đầu óc con trẻ!
Bây giờ thì "tiểu thương" hay "phe phẩy" đã bắt đầu giàu lên theo hàng hoá gửi về từ các nước XHCN phe ta, từ miền Nam mới giải phóng gửi ra. Đời sống công nhân viên chức nhà nước "ba cọc ba đồng" tụt hậu thấy rõ, bởi thời đó không có tham nhũng mà mới chỉ có từ "móc ngoặc". Hai mặt hàng XHCN và Tư bản chủ nghĩa có dịp so găng. Đài quay đĩa Ri-gon-đa, Re-cóoc của Liên xô cũng ai oán giọng Thanh Tuyền, Chế Linh tình bơ vơ như đài National "quan tài bay" của Nhật bản. Ti vi đen trắng Denon, Sanyo "hai cửa lùa" khoe nét cùng ti vi Satune, Beryl 102. Tủ lạnh Hitachi "đầu gấu" và tủ lạnh Saratop 3 sao...
Buồn cười sau đó mấy năm, ông già tôi có mua cái TV Beryl _102 thanh lý của bệnh viện. Cứ xem được khoảng 1 tiếng là nó trôi hình. Tôi phải lấy cái bút thử điện, gỡ nắp sau ra để xoay chỉnh lại cái điện trở mành cho nó hết trôi. Bút thử điện là vật bất ly thân, như súng ngắn của Đây a nốp trong phim "Trên từng cây số" mà đài đang chiếu. Mỗi lần nó trôi hình, tôi tỏ ra một bộ mặt khá nghiêm trọng như kỹ sư điện tử, chọc chọc xoay xoay cho đến khi các em và bọn trẻ xem nhờ ồ lên "được rồi". Có những lần bị nguồn cao áp nó đánh cho tung tay mà vẫn phải nghiến răng thể hiện...
Tết Nhâm Thân 1980. Sở Điện treo những dây bóng đèn nung nhúng sơn xanh, đỏ, vàng... lên hàng cây ven hồ Gươm, lên tháp Rùa, giăng ngang các con phố lớn... đêm đến bật sáng nhấp nháy. Sở Thương nghiệp thông báo những ô bìa, cuống phiếu dự trữ sẽ bán tiêu chuẩn Tết. Xe vận tải chở các bó lá dong cuộn chặt từ mạn ngược đổ về các chợ. Chợ không đủ nên người ta dựng tạm các gian nhà cót ở chợ hoa Hàng Lược, Hàng Da, đê La Thành...để chứa và bán lá dong. Lá dong cũng bán bằng phiếu. Nhà nào không đủ thì mua thêm lá dong "ngoài".
Quãng 25 tết trở đi, các máy nước công cộng nối dài các bà, các chị em ra đó xếp hàng, rửa lá dong để về gói bánh. Mỗi hộ được tiêu chuẩn mua 1 túi hàng tết. Trong túi có một đôi miếng bóng bì lợn, gói trà Hồng Đào, gói thuốc lá Thủ Đô bao bạc, phong pháo Trúc Bạch 150 quả kèm 10 quả pháo đùng, một gói mỳ chính cánh, một gói hạt tiêu nhỏ, hai hộp mứt tết, một đôi gói kẹo cứng... Miếng bóng bì cứng, luôn chọc thủng những túi nilon mỏng, hay làm các gói trà, gói mứt ỉu xìu trong thời tiết nồm ẩm. Rượu mùi chanh, rượu cam, rượu cà phê...bán ngoài. Các cô chưa chồng khéo tay thì gọt khoai tây, ca rốt cát lát hoa ngâm vôi làm thêm các loại mứt dễ chế biến. Khó và kỳ công nữa thì đi chợ mua táo, chọn cà chua...làm mứt cao cấp.
Cái Tết "ăn" vẫn thế, không khác các năm còn được ở nhà. Chỉ Tết "chơi" với âm nhạc là khác. Thanh niên phố đi "Tây dân chủ" về diện "củ sếch" Ba lan, đi đôì "sì mông' đế cao, quần ống loe lệt sệt là thời thượng nhất. Mốt "quân khu" với áo mũ dạ tá, cối ổi tàu, khuỳnh khuỳnh chân đạp xe Phượng Hoàng lép vế hơn một chút. Bây giờ các băng nhạc "vàng" Thanh Tuyền, Chế Linh, Khánh Ly, Duy Khánh, Phương Dung nhạn trắng Gò Công...thậm chí cả Hùng Cường_Mai Lệ Huyền, được các dàn Akai M10, Sony 730, Teac...mở oang oang ra phố mà cũng không thấy ông tổ trưởng hay hộ tịch viên đến nhắc. Băng "Hồn hoang " với các ca khúc hay được chuyển thể cho dàn nhạc nhẹ: Besame Mucho, Tabu, Guitar Robana, The last waltz, La Paloma.... Nhớ nhất bài L'amour c'est pour rien, được chơi bằng guitar Hawaii nghe luyến láy lướt thướt rất lạ tai. Băng "Nhạc trẻ 2" của Phạm Duy với các bài Tuổi hồng, Ông Trăng xuống chơi, Mùa thu chết, Em hiền như masoeu...nghe cũng rất thích...
Cũng Tết năm đó, tôi được nghe lần đầu tiên những giai điệu tươi sáng nhưng đượm buồn của ABBA 79, để rồi vẫn mê đến bây giờ. Giao thừa qua nhà thằng Hiệp uống rượu say. Về qua hàng phố, nghe tiếng bass đập nặng trịch của bài "The winner takes it all" thấy lòng cay đắng lắm! Nàng của tôi giờ đã bắt sóng với một bọn sinh viên trường ngoại giao. Họ chính đang là người chiến thắng. Còn tôi, sau Tết nay không lâu thời gian nữa, tôi sẽ trở lại chiến trường Campuchia xa xôi để chiến thắng quân Pônpốt.
Chính là âm nhạc, âm nhạc tử tế chứ không phải là các khẩu hiệu, nó thay đổi tâm hồn con người. Dù chuyện đời buồn hay vui, nhạc cảm nhiều hay ít, tự thấy mình cũng trở nên lương thiện hơn, đủ để tha thứ, để đứng dậy đi tiếp. Có những bài hát đeo đẳng tôi suốt cuộc đời. Cứ nghe đến nó lại nhớ đến cái ngõ Cổng Đục, có con chuột cống thụt thò bên lỗ hở tường gạch trong buổi chiều cuối năm lạnh cóng, ơ hờ đi bên nhau. Làm sao tôi biết người ta đã viết nó trong một trời tuyết trắng ở xa xôi tận gần cực Bắc bán cầu?
"Happy new year, happy new year...May we all have our hopes....."
Hết Tết. Các cành đào chất ngất trên xe rác. Mọi thứ trên đời đều trở nên uể oải, chậm chạp và lười nhác, dìm nghỉm trong bầu không khí ẩm nồm, sũng sịu hơi nước. Trong dịp Tết có gặp anh Công, bạn chiến đấu của anh Phát tôi đang là thiếu uý, chính trị viên một đơn vị quân khu 9. Đơn vị này đang đóng ở Kô Kông - Campuchia. Anh Phát tôi gửi tôi cho anh ấy, bào thu xếp cho nó vào đơn vị mày. Anh Công đồng ý, hẹn tôi 12 ngày nữa có mặt tại má nuôi anh ấy ở đường Lê Hồng Phong, gần ngã bảy Sài gòn.
Đã đến thời hạn lên đường, không thể nấn ná thêm. Bố tôi được tiêu chuẩn mua một cái xe đạp Thống Nhất nữ. Xe chưa lắp, các phụ tùng và khung xe vẫn để trên nóc tủ. Một buổi nhà tôi gọi "thợ" đến, bán xong giá tất tay là 240 đồng lấy tiền lộ phí cho tôi lên đường. Thằng Hiệp dẫn tôi đến nhà anh Thước ở phố Chân Cầm. Anh Thước là anh rể nó, đang là thuyền phó con tàu biển chở khách "Thống Nhất" mới mua của Na Uy. Anh ấy tất nhiên cho tôi đi nhờ vào Sài gòn. Cùng đi chuyến đó còn anh Đức và thằng Tuấn em họ thằng Hiệp nhờ chuyến đi buôn. Nghĩ mình buồn cười, từ bé đến giờ toàn đi lậu vé, từ tàu điện lên Cung Thiếu nhi,, tàu hoả ra Bắc, giờ lại lậu vé tàu biển vào Nam. Chẳng biết bao giờ thì lậu vé máy bay? Nhưng cuối cùng máy bay về sau tôi cũng có hân hạnh đi lậu. Nhưng chuyện đó thuộc về một câu chuyện khác, không liên quan gì đến biên giới Tây nam cả.
Ba anh em ra ga Hàng Cỏ, lên tàu Hà Nội _ Hải Phòng lúc 7h tối. Tàu chợ chạy chậm, mãi nửa đêm mới xuống ga đến. Đám xe xích lô Hải Phòng dài ngoẵng, mời chào nhiệt tình, nhưng mấy anh em quyết đi bộ vì tiền ít. Chúng tôi lẳng lặng cuốc bộ dọc đường Hai Bà Trưng, Cát Dài, rẽ qua Trần Nguyên Hãn về chợ An Dương. Đường vắng tanh không một bóng người. Lát sau, từ một góc khuất có bốn cái bóng dặt dẹo bám theo đằng sau. Anh Đức, người lừng lững hộ pháp như con gấu bảo kệ mẹ nó. Bây giờ hãy đi chậm lại đến chỗ đống gạch kia, xem chúng nó thích gì? Chúng tôi đi chậm hẳn lại, thỉnh thoảng ngoái lại đằng sau canh chừng. Đến đống gạch, chúng tôi hạ ba lô, đứng quay mặt cả lại. Các bạn đồng hành ban đêm thấy vậy cũng đứng lại ngó chúng tôi một lát, sau đó rẽ sang lối khác bên kia đường.
Chúng tôi gõ cửa nhà chú tôi ở khu tập thể nhà máy xi măng Hải phòng. Ông lúc đó đang là cán bộ công đoàn nhà máy. Nói dăm câu chuyện là 3 anh em đi ngủ ngay. Sáng hôm sau dậy muộn. Thím tôi gọi dậy ăn cơm trưa luôn. Những con tôm rảo khô, kho mặn chát nhưng thật ngon. Đến chiều, mấy đứa em đạp xe đưa chúng tôi ra cảng Chùa Vẽ. Anh Thước bảo mấy người thuỷ thủ đưa chúng tôi chui vào bụng con tàu bằng lối đi riêng. Cái cầu thang mềm bằng dây chão, chung chiêng rất khó đi.
Thế nhưng mấy cha thuỷ thủ vẫn phi xe CUB qua thang đó vù vù. Để xong hành lý vào buồng riêng của thuyền phó, chúng tôi leo lên boong A xem các em tôi chúng nó đã về chưa. Anh Đức với thằng Tuấn chuyện trò phấn khởi luôn mồm. Với họ đây chỉ là chuyến du lịch kiêm đi buôn không mất tiền. Tuần sau họ lại theo tàu trở về bến cảng này, về Hà Nội. Tôi im lặng cố nhìn tìm phía dưới. Nhưng chịu không thể phân biệt được ai vào ai trong cả đám đông đang bâu đầy cầu cảng dưới kia. Chắc các em tôi chúng nó về cả rồi.
Được đi du lịch trên một con tàu trắng lộng lẫy như của Aimatop thế này quả là một niềm mơ ước của những thằng có máu phiêu lưu. Nhưng tiếc thay, nó lại đưa tôi trở lại chiến trường. Còi tàu hú lên ba lần lời chào tạm biệt. Trời gió mùa Đông Bắc bổ sung xám xịt. Mưa nhỏ hạt nhưng găm lạnh buốt. Dây neo rút xoang xoảng....
Tàu Thống Nhất nhổ neo lúc 4h30.
Có những khoảnh khắc trong cuộc sống, mặc dù đã xảy ra từ rất lâu, chúng ta không bao giờ có thể quên được. Thậm chí khi nó chẳng liên quan đến một biến cố lớn nào. Còn bây giờ đôi khi có một cuộc hẹn quan trọng, một lời hứa phải làm thì hôm trước hôm sau quên béng. Trời hôm đó sập tối nhanh. Anh Thước đưa một nắm tích kê. Chén bữa chiều xong ở nhà ăn là chúng tôi chui vào phòng thuyền phó ngồi tán gẫu. Anh Thước sập cửa, nhốt cả bọn ở trong đó rồi đi đâu đó.
Tàu chạy qua phao zê rô. Một cảm giác nôn nao khó chịu ngày một tăng dần. Gió mùa đông bắc cấp sáu cuối mùa, sóng lớn. Một lát sau, không chịu được nữa, tôi chạy vào toilet. Trong lục phủ ngũ tạng có gì cho ra bằng sạch. Hai thằng cha kia đi buôn tàu quen rồi, nhìn tôi cười chế nhạo. Nhưng chỉ một lát sau cũng tranh nhau cái nhà vệ sinh. Sóng lớn quá! Như được nhồi nâng bổng lên, lên mãi...Dừng một tý...Lại rơi xuống, rơi mãi.... Hụt hơi chờ đợi mà không đến đáy vực sóng. Khoảng dừng giữa chu kỳ biên độ lên xuống đó là kinh khủng nhất, là òng ọc mật xanh mật vàng. Khi không còn gì trong bụng nữa thì oẹ ra cả dịch mật đắng nghét.
Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi nó là như thế này đây! Bố khỉ! Không biết ông quái nào còn nghe lỏm được đoạn đối thoại của anh Ba với anh Lê trên bến Nhà Rồng, trước khi ông Cụ lên cái tàu La touse Tréville, để rồi mà viết nên thành sách. Chắc ông Cụ là siêu nhân, hoặc ra đi vào một ngày biển lặng nên không bị say sóng, để mà có cơ hội nhớ thương đất nước. Chứ còn chúng tôi lúc đó, bị những con sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương, nó nhồi cho sã sượi như những con chó ốm. Ba thằng nằm quay lơ trên cái nền trải dạ xanh của căn phòng. Khuya, ông thuyền phó nhậu đâu đó mới về, loạch xoạch mở cửa cười hô hố, đá chân lịch bịch vào tụi tôi rồi bỏ đó đi ngủ luôn. Một đêm lăn lóc, nôn nao đầy mộng mị.
Sáng hôm sau còn kinh khủng hơn, vì tàu đang đi vào giữa cái "dây cung" của đường cong vịnh Bắc bộ. Hành lang nhoe nhoét toàn các bãi ói. Trên vách họ có thiết kế các chậu nôn, song phần lớn hành khách toàn nôn trượt ra ngoài hoặc nôn vào tường. Bọn thuỷ thủ lao công cọ sàn liên tục. Tôi lấy cái võng và cái tấm đắp, lấy hết sức để lần mò leo lên boong B. Tôi mắc võng dưới gầm cái xuồng cứu sinh rồi leo lên đó, trùm tấm đắp nằm thẳng cẳng. Hy vọng cái "liên kết khớp" này nó giảm phần nào cái sự nhồi lắc. Không khí tươi, dù hơi lạnh nhưng cũng phần nào đỡ hơn cái mùi chua chua nồng nồng của cái hành lang nhớp nháp dưới kia. Biển sủi bọt xám ngoét, dềnh lên hạ xuống bên mạn trái con tàu.
Hai ngày ròng rã như thế. Đến Vũng Tàu thì tôi tỉnh hẳn. Biển êm, phẳng lặng đến không ngờ. Một cái ca nô lao ra cập mạn. Người hoa tiêu leo lên thay lái. Con tàu theo dọc bờ sông quanh co, đầy những đám dừa nước xa mờ.
Chúng tôi cập bến Nhà Rồng.
Tôi về tá túc nhà bác thằng Hiệp ở 115 đường Ký con chờ ngày hẹn với anh Công. Sài gòn quận 1 khác hẳn Sài gòn quận 10 tôi biết mấy tháng trước. Mấy ngày lang thang dọc đường Calmette, thuê đọc ké sách cũ của chế độ trước. Nhiều cuốn sách văn học khá nổi tiếng mà miền Bắc cũng đã dịch, nhưng trong này đặt tên khác hẳn. Sách Nam dịch hay có những ngôn ngữ địa phương nên không thấy hứng thú lắm. Những cuốn truyện sướt mướt tình yêu học trò của Quỳnh Dao, chưởng Kim Dung...Có gì lạ là tôi ngốn tất cái đó, kể cả những quảng cáo bá láp trong chuyện chưởng hoặc sách bói toán. Có những cuốn tiểu thuyết, chủ nhân ghi những lưu bút dễ thương bằng nét chữ con gái mềm mại. Chẳng biết chủ nhân những dòng lưu bút xinh xắn kia đang lạc tới phương trời nào, hay vẫn còn ở lại với cái thành phố đang ngày một nghèo đi, ngày một khốn khó này.
Đêm, chúng tôi kéo sang đầu đường Hàm Nghi, chỗ nhà ông anh thằng Tuấn ngủ nhờ. Nhà đi di tản hết, chỉ còn anh ấy chạy lông nhông đâu đó trên cái Vespa Spring màu bạc suốt ngày. Những hôm khuya, bọn tôi ngồi ngoài vỉa hè hóng gió. Thằng bé con hàng xóm, mặc quần tà lỏn đệm guitar bài Dona Dona bằng gam chủ Sol trưởng thấy lạ? Đôi lần thấy công an đổ nhớt ra quãng vòng cua trước cổng bệnh viện Sài gòn, chống tụi đua xe. Các anh hùng xa lộ đến khúc cua tròn đó rạp xe thể hiện. Gặp nhớt trơn văng xe xèn xẹt. Công an đứng trực sẵn, có bề gì tiện vào luôn bệnh viện đó, khỏi cấp cứu đâu xa.
Biết tôi là lính K mới ở chiến trường về, ông anh thằng Tuấn gọi riêng ra lào thào bảo tao sắp bán nhà. Tao sẽ bán nốt cả cái xe Vespa Spring này, tối thiểu cũng được 6 cây. Chia đôi số vàng cho tao mày, hai thằng cùng qua Campuchia. Mày biết đường dẫn tao qua biên giới Thái lan rồi anh em mình đi Mỹ. Sang được tới nơi gia đình tao bao luôn, mày khỏi lo. Tôi bảo anh ấy là đừng có điên, đi biên giới Thái là đụng bọn Pốt ngay, là nó thịt tắp lự, nó không bắt tù binh bao giờ...Anh ấy vẫn khăng khăng thuyết phục rằng đã có người vượt biên thành công theo cách đó rồi. Kể hết cho anh ấy những trận đánh khốc liệt, những hành vi man rợ của bọn lính Pốt nhưng anh ấy vẫn không đổi ý dù có hơi buồn.
Anh bảo hay mày cứ dẫn anh đến đơn vị mày thôi, còn đâu anh sẽ tự tìm đường đi. Trời hỡi trời! Cái gì mà làm anh ấy muốn ra đi bằng bất kể giá nào như thế? Tôi không dám liều mạng sống, nên đành từ chối. Lúc đó tôi chưa hề biết tàu hoả đã chạy tới Battambang, đường buôn bán đã thông đến các cửa khẩu Sisôphon, Poipet...
Trước ngày hẹn một hôm, tôi đi xe lam xuống Ngã Bảy. tìm đúng địa chỉ trên đường Lê Hồng Phong để chờ anh Công. Ngôi nhà đúc 2 lầu một trệt, do má nuôi anh Công là chủ, thực chất là một cái nhà trọ. Bà má sồn sồn tuổi, người mập và tính tình cũng rổn rảng dễ chịu. Không có khách trọ, chỉ có mỗi một mình tôi. Bà xếp cho tôi một buồng ở trên tầng 2. Căn buồng 2 giường trống tếch, không một tiện nghi gì. Thỉnh thoảng bà ấy lại xộc lên, bảo tôi cần gì thì bà ấy giúp. Tôi không cần gì, chỉ muốn ngủ cho thời gian chóng qua. Nhưng khi đặt lưng xuống giường thì đột nhiên thấy lưng ngứa điên. Cái ngứa rất lạ, gãi ngoài thì không thấy ngứa, nhưng mi mắt như bị co rút, ríu lại vì ngứa sâu trong thịt.
Cả tấm lưng trần nổi mẩn mề đay, trông như những đám mây. Tôi cạy tấm giát giường lên, giọng xuống sàn vài cái. Cả cái sàn gạch bông phút chốc lấm tấm những đốm đen nâu của những con rệp béo mọng. Tôi điên tiết miết móng ngón tay, khoái trá trả thù giết lép bép từng con. Một mùi hôi hắc đặc trưng của loài rệp toả ra. Cái mùi đặc biệt, mà cụ Nguyễn Tuân ví với mùi whisky quả là xa xỉ. Các vệt máu tươi, máu khô bụng rệp tôi miết, quệt ngang quệt dọc trên mặt nền, vuốt dài như sao chổi Halley nhìn sởn da gà. Cuối cùng, tôi bỏ giường, trải nilon xuống nền nằm ngủ mới yên.