A book that is shut is but a block.

Thomas Fuller

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 20
huyến đi từ thị trấn quê tôi lên thủ đô kéo dài chừng năm giờ đồng
hồ. Đã quá giữa trưa một chút khi cỗ xe trạm bốn ngựa chở theo tôi là một
hành khách gia nhập vào ngựa xe tấp nập ồn ã gần Cross Keys trên phố
Wood ở Cheapside, London.
Người Anh chúng ta vào thời kỳ đó đặc biệt cho rằng nghi ngờ chuyện
chúng ta có trong tay những thứ tốt nhất và là người tốt nhất về mọi chuyện
là phản quốc: nếu không phải vì thế, trong khi phát khiếp trước sự mênh
mông đồ sộ của London, tôi nghĩ rất có thể tôi đã có vài nghi ngờ thoáng qua
về chuyện liệu nơi này có đúng là hơi xấu xí, lộn xộn, chật chội và bẩn thỉu
hay không.
Ông Jaggers đã chu đáo cung cấp cho tôi địa chỉ của ông; nơi đó là
Little Britain, và ông luật sư đã ghi đằng sau cái tên này trên danh thiếp của
ông, “ngay chỗ rẽ ra khỏi Smithfield và gần trạm xe”. Dẫu vậy, một người
đánh xe ngựa thuê, với số nếp gấp trên cái áo khoác nhẫy bẩn cũng nhiều
tương đương với tuổi tác của ông ta, đã khuân đồ của tôi lên xe rồi mời tôi
lên bằng một bậc thang gập kêu leng keng, cứ như thể ông ta chuẩn bị chở tôi
đi năm mươi dặm vậy. Ông ta cũng phải mất khá thời gian để trèo lên chỗ
đánh xe của mình, nơi tôi nhớ được trang hoàng bằng một tấm vải lót màu
xanh đậu đã bạc phếch vì sương gió, bị nhậy cắn nát tươm thành một mớ giẻ
rách. Đó là một cỗ xe kỳ diệu, với sáu hình vương miện lớn trang trí bên
ngoài, và những thứ tả tơi nằm phía sau để không biết bao nhiêu người hầu
bám vào, rồi cả một hàng chắn răng bừa bên dưới để ngăn không cho những
kẻ nghiệp dư bị cám dỗ nhảy lên thử làm người hầu.
Tôi hầu như chưa kịp có thời gian tận hưởng cỗ xe và nghĩ xem nó có
những nét tương đồng nào với một bãi chất cỏ khô, đồng thời cũng lại rất
giống một nơi bán quần áo cũ ra sao, hay kịp băn khoăn vì sao mấy cái bao
chụp mũi ngựa lại được để trong xe thì đã thấy ông đánh xe chực leo xuống,
như thể chúng tôi sắp dừng lại. Và đúng là chúng tôi dừng lại ngay sau đó
thật, ở một con phố tối tăm ảm đạm, trước mặt một văn phòng có cánh cửa để
mở, trên cánh cửa có sơn mấy chữ ÔNG JAGGERS.
“Hết bao nhiêu?” tôi hỏi ông đánh xe.
Ông này trả lời, “Một shilling - trừ phi cậu muốn trả nhiều hơn.”
Tất nhiên tôi đáp là tôi không hề muốn thế.
“Vậy thì phải là một shilling,” ông đánh xe cảnh giác. “Tôi không
muốn gặp rắc rối. Tôi biết ông ta!” Ông ta sa sầm mặt nheo một mắt về phía
tên ông Jaggers rồi lắc đầu.
Khi ông đánh xe đã có được đồng shilling, và sau thời gian cần thiết
cũng leo lên được chỗ ngồi của mình, rồi đánh xe đi (chuyện này có vẻ làm
ông ta nhẹ nhõm hẳn), tôi xách va li đi vào văn phòng trước mặt và hỏi, Ông
Jaggers có nhà không?
“Ông ấy không có nhà,” người trợ lý đáp. “Ông ấy hiện đang ở tòa. Có
phải tôi đang được hầu chuyện cậu Pip không?”
Tôi xác nhận đúng là ông ta đang hầu chuyện cậu Pip.
“Ông Jaggers có dặn lại mời cậu đợi trong phòng ông ấy. Ông ấy
không thể nói chắc sẽ vắng mặt bao lâu, vì hiện đang phải theo một vụ kiện.
Nhưng vì thời gian của ông ấy rất quý báu, ông luật sư sẽ không vắng mặt lâu
hơn mức cần thiết.”
Nói xong, người trợ lý mở một cánh cửa, đưa tôi vào một gian phòng ở
đằng sau. Tại đây, chúng tôi gặp một quý ông chỉ còn một bên mắt, mặc áo
vest nhung và quần chẽn ngắn tới đầu gối, ông này dùng tay áo chùi mũi khi
bị làm gián đoạn trong lúc chăm chú đọc báo.
“Ra đợi bên ngoài đi, Mike,” người trợ lý nói.
Tôi mới nói tôi hy vọng mình không quấy rầy thì người trợ lý đã đẩy
quý ông kia ra ngoài theo cách ít khách khí nhất tôi từng thấy, rồi ném cái mũ
lông của người đàn ông này theo sau ông ta, sau đó để tôi lại một mình.
Căn phòng của ông Jaggers chỉ được chiếu sáng nhờ ô cửa sổ trần, và
là một nơi không thể ảm đạm hơn được nữa; ô cửa sổ trần này dốc đứng rất
quái gở như cái đầu móp, qua nó những ngôi nhà xung quanh bị bóp méo đi
nom như thể chúng đang cố vặn mình lại để cúi xuống ngó nghiêng tôi qua ô
cửa. Trong phòng cũng chẳng có mấy giấy tờ so với những gì tôi đã hình
dung sẽ thấy; và trong đó còn có vài món đồ lạ lùng mà tôi không hề hình
dung sẽ thấy - chẳng hạn như một khẩu súng ngắn cũ gỉ sét, một cây kiếm cài
trong bao, vài chiếc hộp và gói đồ dáng vẻ rất lạ, và hai cái tượng đúc khuôn
gớm ghiếc đặt trên giá, mang hình những khuôn mặt sưng phồng kỳ quặc với
mũi nhăn nhúm. Cái ghế dựa lưng cao của chính ông Jaggers bọc vải lông
ngựa đen kịt một màu chết chóc, xung quanh là những hàng đinh tán bằng
đồng thau, trông chả khác gì một cỗ quan tài; và tôi mường tượng ra mình có
thể thấy ông ta ngồi tựa người ra sau trên cái ghế này như thế nào, và chỉ
ngón tay trỏ về phía khách hàng. Căn phòng rất chật, và các vị khách hàng
dường như có thói quen xấu là đứng dựa người vào tường; vì bờ tường, nhất
là bức tường đối diện với cái ghế của ông Jaggers, trơn nhẫy vì những vết tựa
vai. Tôi cũng nhớ là quý ông một mắt cũng đang tựa người vào tường khi tôi
vô tình trở thành nguyên cớ khiến ông ta bị tống khứ ra ngoài.
Tôi ngồi xuống cái ghế dành cho khách kê đối diện với ghế của ông
Jaggers, và bị mê hoặc bởi bầu không khí ảm đạm của nơi này. Tôi thầm nhớ
lại ông trợ lý cũng có vẻ biết điều gì đó có thể gây bất lợi cho người khác
giống hệt như ông chủ. Tôi tự hỏi còn có bao nhiêu người trợ lý khác ở trên
gác, và liệu tất cả bọn họ có đều tỏ vẻ có quyền lực gây bất lợi cho đồng loại
của họ theo cách tương tự hay không. Tôi tự hỏi về nguồn gốc của đủ thứ đồ
bỏ đi kỳ quặc chất đống trong phòng, cũng như chuyện chúng đã tới nơi này
như thế nào. Tôi tự hỏi liệu hai khuôn mặt sưng phồng kia có phải là thành
viên gia đình ông Jaggers hay không, và nếu ông luật sư không may đến mức
có hai vị thân thích bộ dạng khó ưa đến thế, tại sao ông ta lại để họ lên nơi
cao tít đầy bụi đó cho bồ hóng và lũ ruồi đậu vào, thay vì dành cho họ một
chỗ ở nhà. Tất nhiên tôi không có chút kinh nghiệm nào về một ngày mùa hè
ở London, và tinh thần tôi khi ấy hẳn đã bị thứ không khí nóng bức ngột ngạt
cũng như bụi và mạt phủ dày trên mọi thứ trong phòng làm cho tức thở.
Nhưng tôi đã ngồi băn khoăn chờ đợi trong căn phòng đóng kín của ông
Jaggers cho tới khi thực sự không thể chịu đựng nổi hai bộ mặt trên cái giá
phía trên ghế ngồi của ông luật sư nên đứng dậy ra ngoài.
Khi tôi nói với người trợ lý rằng tôi sẽ đi ra ngoài hít thở không khí
trong khi chờ đợi, ông ta khuyên tôi nên đi rẽ vào góc đường, như thế tôi sẽ
tới được chợ Smithfield. Vậy là tôi tới Smithfield; và cái nơi đáng ghê tởm
này, chỗ nào cũng nhoe nhoét đầy chất thải, mỡ, máu và bọt, dường như cứ
dính nhằng nhằng lấy tôi. Vậy là tôi vội vàng chạy trốn khỏi chỗ đó càng
nhanh càng tốt bằng cách rẽ vào một con phố, nơi tôi trông thấy mái vòm đen
khổng lồ của nhà thờ thánh Paul nhô lên đằng sau một tòa nhà ảm đạm xây
bằng đá mà một người đứng bên ngoài nói là Nhà tù Newgate. Men theo bờ
tường nhà tù, tôi tìm thấy con đường được phủ rơm để át bớt tiếng ồn của xe
cộ qua lại; từ điều này, cũng như từ số lượng người đứng quanh đó, sặc mùi
rượu mạnh và bia, tôi đoán đang có các phiên tòa diễn ra.
Trong khi tôi đứng lại đây nhìn quanh mình, một nhân viên thực thi
công lý ăn mặc bẩn thỉu kinh khủng và đã ngà ngà say hỏi tôi liệu tôi có
muốn vào trong nghe một phiên tòa hay không, đồng thời cho hay ông ta có
thể giúp tôi một chỗ ngồi hàng đầu với giá nửa crown*, tại đó tôi có thể nhìn
được rõ ràng ngài thẩm phán trong chiếc áo thụng và bộ tóc giả - ám chỉ tới
nhân vật đáng sợ có bộ dạng như tượng sáp, rồi lập tức đề nghị giảm giá việc
ngắm nghía ông ta xuống còn mười tám penny. Khi tôi từ chối lời chào mời
lấy cớ đang mắc hẹn, ông ta bèn tử tế đến mức dẫn tôi vào một khoảng sân,
chỉ cho tôi thấy nơi dựng các giá treo cổ, cũng là nơi tội phạm bị đánh roi
công khai trước công chúng, sau đó ông ta chỉ cho tôi Cánh cửa Con Nợ, tội
nhân được dẫn ra từ đó để đi tới giá treo cổ; đồng thời làm gia tăng sự thú vị
cho cánh cửa khủng khiếp ấy bằng cách nhỏ to để tôi hiểu rằng vào ngày kia
lúc tám giờ sáng “có bốn gã” sẽ bước ra từ cánh cửa nọ để bị hành hình cùng
một lúc. Chuyện này quả là rợn gáy, và làm tôi có một cảm nghĩ phát buồn
nôn về London; cảm giác này càng tăng thêm khi những món ngài thẩm phán
mặc trên người (từ cái mũ trên đầu xuống tận đôi giày dưới chân, rồi ngược
lên cho tới cái khăn tay nhét ở túi áo thụng) đều bị mốc lốm đốm và rõ ràng
vốn không thuộc về ông này, và tôi cho rằng ông ta đã mua rẻ được chỗ quần
áo ấy từ tay đao phủ. Trong hoàn cảnh như thế, tôi thấy mình thật may khi
thoát được khỏi ông ta mà chỉ mất có một shilling.
Một đồng tiền xu thời xưa ở Anh, có giá trị bằng 30 penny (1/8 bảng).
Tôi quay trở lại văn phòng luật sư để hỏi xem ông Jaggers đã về chưa,
và được biết ông vẫn chưa về, vậy là tôi lại lang thang ra ngoài. Lần này, tôi
đi một vòng quanh khu Little Britain và rẽ vào Bartholomew Close; và đến
lúc này tôi bắt đầu nhận ra còn có những người khác cũng đang đợi ông
Jaggers như tôi. Có hai người bộ dạng bí hiểm đang vơ vẩn ở Bartholomew
Close, trầm ngâm ướm bàn chân vào các khe nứt trên vỉa hè trong lúc trò
chuyện với nhau, một người nói với người kia khi họ đi ngang qua tôi lần đầu
tiên rằng “Jaggers sẽ làm điều đó nếu đó là điều cần làm.” Có một nhóm gồm
ba người đàn ông và hai phụ nữ đứng trong một góc, và một người phụ nữ
đang sụt sùi úp mặt vào cái khăn san bẩn thỉu của mình mà khóc, người phụ
nữ còn lại an ủi bà ta bằng cách vừa kéo khăn che vai cho người phụ nữ này
vừa nói, “Jaggers đang bào chữa cho ông ấy, Amelia, cô còn muốn gì hơn
nữa?” Có một người Do Thái nhỏ thó mắt đỏ ngầu tìm tới Close trong lúc tôi
đang tha thẩn ở đây cùng một người Do Thái thứ hai cũng nhỏ thó được ông
ta sai chạy việc; và trong khi người đưa thư rời khỏi, tôi thấy người Do Thái
này, đang ở tâm trạng kích động cao độ, nhảy loăng quăng đầy bồn chồn dưới
một cây cột đèn và không ngừng lặp lại mấy từ như đang phát cuồng, “Ôi
Jaggerth, Jaggerth, Jaggerth! Tất cả những kẻ hác chỉ là đồ vô tích xự, hãy
cho tôi Jaggerth!” Những bằng chứng về mức độ được ưa chuộng của người
giám hộ tôi đem đến cho tôi ấn tượng sâu sắc, khiến tôi ngưỡng mộ kính nể
ông ta hơn bao giờ hết.
Sau một hồi, trong khi nhìn qua cánh cổng sắt của Bartholomew Close
về phía Little Britain, tôi thấy ông Jaggers băng qua đường đi về phía mình.
Tất cả những người khác đang đợi ông luật sư cũng đồng thời nhìn thấy ông
này, và cùng hối hả đổ xô về phía ông. Ông Jaggers đặt một bàn tay lên vai
tôi và kéo tôi lại cạnh ông mà không nói với tôi lời nào trong khi lên tiếng với
những người đang đi theo mình.
Trước hết, ông luật sư hướng về phía hai người đàn ông bộ dạng bí
mật.
“Bây giờ tôi không có gì để nói với các vị,” ông Jaggers nói, chỉ ngón
tay về phía họ. “Tôi không muốn biết nhiều hơn những gì tôi đã biết. Còn về
phần kết quả, sẽ là năm ăn năm thua. Tôi đã nói với các vị ngay từ đầu đây là
chuyện năm ăn năm thua. Các vị đã thanh toán cho Wemmick chưa?”
“Chúng tôi đã trả tiền sáng nay, thưa ngài,” một trong hai người đàn
ông lên tiếng đầy vẻ phục tùng, trong khi người kia chăm chú quan sát vẻ mặt
ông Jaggers.
“Tôi không hỏi các vị đã thanh toán khi nào, ở đâu hay đã làm chưa.
Wemmick nhận được tiền chưa?”
“Rồi, thưa ngài,” cả hai người đồng thanh đáp.
“Tốt lắm; vậy các vị có thể đi. Bây giờ tôi không muốn nghe gì hết!”
ông Jaggers vừa nói vừa phẩy tay về phía hai người kia để xua họ ra sau
mình. “Nếu các vị nói thêm một chữ nữa với tôi, tôi sẽ bỏ vụ này.”
“Ông Jaggers, chúng tôi nghĩ…” một trong hai người đàn ông bỏ mũ ra
và bắt đầu lên tiếng.
“Đấy chính là điều tôi yêu cầu các vị đừng có làm,” ông Jaggers nói.
“Các vị nghĩ ư! Tôi nghĩ cho các vị; với các vị thế là đủ. Nếu tôi cần các vị,
tôi biết tìm các vị ở đâu; tôi không muốn các vị tới tìm tôi. Bây giờ, tôi không
muốn nghe gì nữa. Một lời cũng không.”
Hai người đàn ông nhìn nhau trong khi ông Jaggers lại phẩy tay xua họ
ra sau, rồi khúm núm lùi ra và rời đi mất dạng.
“Còn bây giờ đến các vị!” ông Jaggers nói, rồi đột nhiên dừng lại, quay
sang phía hai người phụ nữ quàng khăn san, ba người đàn ông đã ngoan
ngoãn tách riêng khỏi họ, “Ồ, Amelia có phải không?”
“Vâng, thưa ông Jaggers.”
“Và chắc bà còn nhớ,” ông Jaggers vặn lại, “nếu không nhờ có tôi bà
đã chẳng có mặt ở đây và chẳng thể có mặt ở đây chứ?”
“Ồ vâng, thưa ngài!” hai người phụ nữ đồng thanh lên tiếng. “Chúa ban
phước cho ngài, tất nhiên chúng tôi biết rõ là thế!”
“Vậy thì tại sao các vị tới đây?” ông Jaggers hỏi.
“Bill của tôi, thưa ngài!” người phụ nữ đang khóc cầu khẩn.
“Bây giờ, tôi sẽ cho bà hay!” ông Jaggers nói. “Một lần duy nhất. Nếu
bà không biết rằng Bill của bà đang nằm trong những bàn tay đáng tin cậy thì
tôi biết. Vả lại nếu bà tới đây quấy rầy về Bill của bà, tôi sẽ phạt cả Bill của
bà lẫn bà làm gương, và mặc kệ ông ta tuột khỏi các ngón tay tôi. Bà đã thanh
toán cho Wemmick chưa?”
“Ôi rồi ạ, thưa ngài! Không thiếu một xu.”
“Được lắm. Vậy thì bà đã làm tất cả những gì cần phải làm. Cứ nói
thêm một tiếng nữa - chỉ một tiếng thôi - thì Wemmick sẽ trả lại tiền cho bà.”
Lời đe dọa kinh khủng làm hai người phụ nữ lùi lại ngay lập tức. Đến
lúc này không còn ai lưu lại ngoài người Do Thái đang bồn chồn, người đã
cầm gấu áo khoác của ông Jaggers đưa lên môi vài lần.
“Tôi không biết người này!” ông Jaggers lên tiếng, vẫn với giọng điệu
khủng khiếp như trước. “Người này muốn gì đây?”
“Ôn Jaggerth thâm mếm. Ăn chai của Habraham Latharuth mà, ôn nớ
hông?”
“Ông ta là ai?” ông Jaggers nói. “Buông áo khoác tôi ra.”
Kẻ cầu khẩn, hôn lên gấu áo thêm lần nữa rồi mới buông ra, nhắc lại.
“Habraham Latharuth, bị nghi têu thụ đồ ăm tộm, một cái đĩa bạc.”
“Ông quá muộn rồi,” ông Jaggers nói. “Tôi đã nhận bào chữa cho bên
kia.”
“Cha thánh thần ơi, ôn Jaggerth!” người đàn ông đang kích động kêu
lên, mặt trắng bệch, “đừng lói ông chống lại Habraham Latharuth!”
“Đúng là như vậy đấy,” ông Jaggers nói, “và chuyện kết thúc tại đây.
Tránh đường nào.”
“Ôn Jaggerth! Nửa giây thôi! Ngay pút lày đây thiền củ tôi đang thới
trỗ ôn Wemmick, để trấp nận bớt cứ đèo kiện nào củ ôn ấy. Ôn Jaggerth!
Một phần tám giây thôi! Nếu ngài vui nòng để được mua lại từ pía bơn kia -
theo bớt cứ dá cao hưn nào!… tiền không thành vấn đề… ôn Jaggerth…
ôn…!”
Người bảo trợ của tôi hất kẻ cầu xin ra với vẻ dửng dưng tột bực, để
mặc ông ta nhảy tâng tâng trên vỉa hè như thể nó đang nóng đỏ. Không để bị
làm gián đoạn thêm, chúng tôi về tới văn phòng đằng trước, tại đây chúng tôi
gặp ông trợ lý và người đàn ông mặc áo nhung đội mũ lông.
“Đây là Mike,” ông trợ lý nói, đứng xuống khỏi ghế đẩu và đầy tự tin
tiến lại gần ông Jaggers.
“A!” ông Jaggers thốt lên, quay sang người đàn ông, người đang giật
giật một lọn tóc ở giữa trán mình hệt như con bò tót trong “Ai giết chim cổ
đỏ” đang kéo dây chuông vậy, “người của ông đưa tới chiều nay. Thế nào?”
“À, luật xư Jaggers,” Mike đáp lại với giọng của một người bị nhiễm
lạnh, “xau rất nhiều khó khăn, tôi đã tìm được một người có vẻ phù hợp, thưa
ngài.”
“Anh ta sẵn sàng tuyên thệ những gì?”
“À, luật xư Jaggers,” Mike nói, lần này đưa cái mũ lông lên chùi mũi,
“nói chung là bất cứ tứ dì.”
Ông Jaggers đột nhiên trở nên giận dữ. “Nào, tôi đã cảnh cáo ông từ
trước rồi,” ông nói, chỉ ngón trỏ vào vị khách đang kinh hoàng, “nếu có lúc
nào ông dám nói năng kiểu đó ở đây, tôi sẽ phạt ông làm gương. Đồ du đãng
chết bằm kia, ông lại dám nói thế với tôi hả?”
Vị khách có vẻ sợ chết khiếp, nhưng cũng đầy hoang mang, như thể
không hiểu mình đã làm gì.
“Đồ ngớ ngẩn!” Người trợ lý lúc này hạ giọng xuống nói, đồng thời
thúc cùi chỏ vào ông ta. “Đồ dở hơi! Ông có cần nói thẳng trước mặt thế
không?”
“Nào, giờ tôi hỏi ông, đồ hậu đậu ngớ ngẩn kia,” người giám hộ của tôi
nghiêm khắc lên tiếng, “thêm một lần nữa và cũng là lần cuối cùng, người
ông mang đến đây sẵn sàng thề những gì?”
Mike nhìn chăm chăm vào người giám hộ của tôi như thể ông ta đang
cố tiếp thu một bài học từ khuôn mặt luật sư Jaggers, rồi dè dặt trả lời, “Hặc
là về bị cáo, hặc là về việc đã ở cùng anh ta và không bao giờ rời anh ta trong
suốt buổi tối được nói tới.”
“Nào, hãy cẩn thận. Người này làm gì ngoài đời?”
Mike nhìn mũ của ông ta, rồi nhìn xuống sàn, rồi lại nhìn lên trần, rồi
nhìn ông trợ lý, thậm chí nhìn cả tôi, trước khi bắt đầu e dè trả lời, “Chúng tôi
đã cho anh ta mặc như là…” đến đây người giám hộ của tôi gắt lên:
“Cái gì? Ông SẼ, đúng không?”
(“Đồ ngớ ngẩn!” ông trợ lý chêm vào, kèm theo một cú huých nữa.)
Sau một hồi ngẩn ra lúng túng, Mike chợt rạng rỡ hẳn lên và bắt đầu
lại:
“Anh ta mặc như một người bán bánh tở tế. Như thợ làm bánh ấy.”
“Anh ta có đây không?” người giám hộ của tôi hỏi.
“Tôi để anh ta,” Mike nói, “đứng đợi trên bậc cửa ở sau góc đường.”
“Đưa anh ta đi qua trước cửa sổ kia để tôi trông thấy anh ta.”
Cửa sổ được chỉ định chính là cửa sổ văn phòng. Cả ba chúng tôi cùng
đi tới đó, đằng sau lưới che, và lập tức thấy vị khách đi ngang qua với vẻ tình
cờ cùng một nhân vật cao lênh khênh mặt mũi bặm trợn mặc một bộ đồ vải
lanh trắng ngắn cộc và đội mũ giấy. Anh chàng thợ làm bánh ngờ nghệch này
chẳng có vẻ gì còn tỉnh táo, và một bên mắt thâm tím đang trong quá trình
phục hồi đến mức còn xanh tái và được hóa trang lên che đi.
“Bảo hắn dẫn gã nhân chứng của hắn cuốn xéo khỏi đây luôn đi!”
người giám hộ của tôi nói với ông trợ lý với vẻ ghê tởm tột độ, “và hỏi hắn có
ý gì khi dẫn một kẻ như thế tới đây.”
Người giám hộ của tôi sau đó đưa tôi vào phòng ông, và trong khi đứng
ăn trưa với một cái xăng uých đựng trong hộp và một chai rượu sherry cất
trong túi (ông luật sư dường như vừa ăn vừa dọa cái xăng uých), ông cho tôi
hay những gì đã thu xếp cho tôi. Tôi sẽ tới “Nhà trọ Barnard”, tới dãy phòng
của cậu Pocket trẻ tuổi, nơi một cái giường đã được kê sẵn làm chỗ nghỉ cho
tôi; tôi phải ở lại cùng cậu Pocket trẻ cho tới thứ Hai; đến thứ Hai, tôi sẽ đi
cùng cậu tới nhà bố cậu tham quan thử xem tôi có thích nơi này không. Ngoài
ra, tôi còn được cho hay khoản trợ cấp của tôi là bao nhiêu - một khoản rất
hậu hĩ - và nó lập tức được lấy ra từ một ngăn kéo bàn của ông để chuyển cho
tôi cùng danh thiếp của một số người bán hàng tôi cần liên hệ để sắm các loại
quần áo cũng như những thứ tôi có thể cần. “Cậu sẽ thấy tình hình tài chính
của cậu rất tốt, cậu Pip,” người giám hộ của tôi nói, chai rượu sherry của ông
phả mùi ra cũng nồng chả kém gì một thùng bộng đầy trong khi ông luật sư
hối hả dùng bữa, “nhưng bằng cách này tôi có thể kiểm soát được các hóa
đơn của cậu, và ngăn cậu lại nếu tôi phát hiện ra cậu mang công mắc nợ. Tất
nhiên rồi bằng cách nào đó cậu cũng phạm sai lầm, nhưng đó không phải lỗi
của tôi.”
Sau khi đã ngẫm nghĩ ít nhiều về phát biểu đầy khích lệ này, tôi hỏi
ông Jaggers liệu tôi có thể gọi một cỗ xe được không? Ông luật sư nói không
đáng phải làm thế, vì tôi đang ở rất gần chỗ phải tới; Wemmick sẽ cùng đi
với tôi đến đó, nếu tôi đồng ý.
Đến lúc đó tôi phát hiện ra Wemmick chính là người trợ lý ở căn phòng
bên cạnh. Một trợ lý khác được rung chuông gọi từ trên nhà xuống thế chỗ
ông này trong khi ông ta ra ngoài, và tôi cùng ông Wemmick ra ngoài đường,
sau khi tôi đã bắt tay chào người giám hộ của mình. Chúng tôi bắt gặp một
nhóm người mới chờ chực bên ngoài, song Wemmick chỉ lách qua giữa họ,
vừa đi vừa nói nhẹ nhàng nhưng kiên quyết, “Tôi xin nói với các vị là chỉ vô
ích thôi; ông ấy sẽ không có lời nào để nói với bất cứ ai trong các vị đâu;” và
chúng tôi chẳng mấy chốc đã thoát khỏi họ và cùng nhau đi tiếp.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)