Nguyên tác: The Silence of the Lambs
Số lần đọc/download: 47398 / 4762
Cập nhật: 2015-08-11 23:30:32 +0700
Chương 19
Cũng ngay trong lúc đó, tại một điểm ở phía nam của hồ Michigan, một phản lực nhỏ dành cho doanh nhân hai mươi bốn chỗ ngồi bắt đầu hạ cánh xuống Calumet City, Illinois.
Mười hai thành viên của Biệt Đội chống khủng bố cảm thấy ruột gan lộn tùng phèo và có đây đó từ đầu này đến đầu kia lối đi vài cái ngáp ung dung có chủ ý.
Joe Randall, vị đội trưởng, ngồi ở phía trước buồng lái; tháo mũ liên lạc ra khỏi đầu và liếc qua tập ghi chú của mình trước khi lên tiếng. Ông tin rằng, mà cũng chính đáng thôi, toán của ông được huấn luyện chu đáo nhất thế giới. Nhiều thành viên trong toán của ông chưa được thử lửa, nhưng nói về mô phỏng và trắc nghiệm; đây đúng là những tay cự phách.
Randall bỏ rất nhiều thời gian đứng trên các lối đi của máy bay, nên không gặp khó khăn nào để giữ thăng bằng trong sự rung chuyển của lúc hạ cánh.
- Này các bạn, DEA, Đội Phòng Chống Ma Túy đã cung cấp cho chúng ta nhiều chiếc xe được ngụy trang. Một xe tải bán hoa và một của thợ ống nước. Vernon và Eddie, các anh hãy thay thường phục. Nếu chúng ta buộc phải dùng đến lựu đạn tê liệt, xin các bạn đừng quên mang mặt nạ vào.
Vernon thì thầm vào tai của Eddie:
- Nhớ bảo vệ cái má phình của mày nhé!.
- Tại sao? Ông ta có nói đến mông à? Tao cứ tưởng đã nghe là mặt mà! - Eddie đáp lại.
Vernon và Eddie, những người phải thực hiện việc tiếp cận đầu tiên, có mặc thêm một áo chống đạn thật mỏng dưới lớp quần áo dân sự. Những người còn lại có thể dùng một loại khác bền hơn, có thể chống được đạn.
- Bobbie, nhớ cung cấp cho mỗi tài xế một máy liên lạc, để chúng ta không gặp phải tình huống đang nói chuyện với bên DEA - Randall nói tiếp.
Cơ quan Phòng Chống Ma Túy thường dùng tần số siêu cao, còn FBI chỉ dùng tần số rất cao, việc này đã gây bao rắc rối trong quá khứ.
Họ được trang bị để đối mặt gần như với mọi tình huống, đêm cũng như ngày; với các bức tường họ dùng một hệ thống kéo lui đựợc; nếu muốn nghe, họ có những micro cực nhạy; nếu muốn nhìn họ dùng hệ thống hồng ngoại. Các loại vũ khí có tầm hoạt động trong đêm tối rất giống với những dụng cụ của một dàn nhạc, trong những chiếc hộp có hông phình lên. Người ta có thể nhận thấy chiến dịch này được chuẩn bị rất chính xác như một cuộc phẫu thuật.
Các thành viên thay bộ đồng phục bằng vải trong khi chiếc phi cơ tiếp tục hạ cánh.
Randall nhận tin tức từ Calumet City từ chiếc mũ liên lạc. Ông dùng tay che micro lại để nói:
- Này các bạn, chỉ còn có hai địa chỉ mà thôi. Chúng ta sẽ chọn cái tốt nhất, còn Đội SWAT của Chicago lấy cái kia.
Họ sẽ đáp xuống phi trường Lansing, ở phía đông nam Chicago, gần Calumet City hơn. Chiếc phi cơ liền nhận được phép hạ cánh. Viên phi công thắng hết sức mình để cho chiếc phi cơ ngừng lại ngay chỗ hai chiếc xe hơi đang đậu ở đầu đường băng, rất xa ga sân bay.
Cạnh chiếc xe tải, sự tiếp đón được giảm thiểu tối đa. Vị chỉ huy của DEA trao cho Randall một cái gì đó giống như việc giao hoa tận nhà. Đó là một cây búa sáu ký lô với cán được trang trí bằng như một bó hoa, còn phần trên thì bao bằng một lá nhôm màu.
2
Vào cuối chiều hôm nay Gumb sẽ ra tay.
Đôi mắt vẫn tràn trề nước mắt, hắn cho hát đi hát lại cuộn băng video. Trên màn ảnh nhỏ, mẹ hắn đang leo lên rãnh trượt và cho rớt xuống hồ bơi. Nước mắt làm nhòa tầm nhìn của Jame Gumb, cho đến mức hắn có cảm tưởng chính mình cũng đang ở trong nước.
Trên bụng của hắn, một bình bonillotte nóng đang kêu ục ục, giống như bụng của con chó con khi nó nằm trên mình hắn.
Thật không thể chịu được nữa... cái mà hắn có dưới tầng hầm đang bắt Quý Báu làm con tin, đe dọa đến tính mạng của nó. Hắn biết Quý Báu đang đau khổ lắm. Hắn không chắc có thể giết chết cái đó trước khi nó làm cho Quý Báu bị thương nặng, nhưng vẫn phải cứ thử, không được chậm trễ nữa.
Hắn cởi hết quần áo ra và mặc áo choàng vào, vì hắn luôn trần truồng trong lúc làm công việc lột da, nên mình mẩy dính đầy máu như một đứa con nít mới chào đời.
Trong cái tủ đựng thuốc to lớn, hắn lấy ra chai thuốc dùng để chữa trị cho Quý Báu, trong cái ngày nó bị một con mèo cào. Hắn lấy thêm mấy miếng băng dính và cái vòng khớp mõm bằng nhựa mà vị bác sĩ thú y cho để ngăn nó cắn vào vết thương. Ở dưới tầng hầm có những miếng đè lưỡi mà hắn có thể dùng để cố định cái chân bị gãy và một bình xịt thuốc giảm đau để phòng trường hợp cái vật ngu xuẩn kia làm cho nó đau trước khi chết.
Một viên đạn bắn ngay đầu thì chỉ làm hư bộ tóc mà thôi. Quý Báu đáng hưởng được việc đó. Mái tóc là vật hiến sinh để cứu sống nó.
Hắn âm thầm bước xuống nhà bếp, nơi hắn sẽ bỏ đôi dép trước khi đi xuống cầu thang, dọc theo sát bức tường để không gây tiếng động.
Hắn sẽ không bật đèn. Một khi xuống đến dưới, hắn sẽ vào trong xưởng, mò mẫm đi trong bóng tối quen thuộc, cảm nhận được sự khác biệt của nền đất dưới đôi chân của hắn.
Tay áo hắn đụng phải cái lồng và nghe tiếng rít giận dữ của một con bướm đêm. Cái kệ đây rồi. Hắn lấy cây đèn hồng ngoại và đeo cặp kính hồng ngoại vào. Thế giới trước mắt hắn đã đổi qua màu lục. Hắn đứng im một lúc trong tiếng rì rào yên lòng của các bồn chứa, trong tiếng rít của các ống sưởi. Chủ nhân của tối tăm, chúa tể của bóng đêm.
Các con bướm được thả tự do, để lại nhiều vệt phấn quang trước mắt hắn; các cánh mượt như nhung, khi vỗ trong đêm tối, chạm nhẹ vào mặt của hắn như một hơi thở nhẹ.
Hắn kiểm tra khẩu Python lại, nạp đạn cỡ 38 vào. Các viên đạn bay thẳng vào trong đầu sẽ giết chết cô ta ngay tức khắc. Nếu cái vật đó vẫn còn đứng, hắn sẽ nhắm ngay vào đỉnh đầu, viên đạn, không giống như một viên Magnum, có ít cơ may xé toạc hàm dưới và như thế làm hư da ở vùng ngực.
Không một tiếng động, hai đầu gối quỳ xuống, các móng tay và chân bám vào các lati cũ, hắn tiến lại gần cái giếng; Bước âm thầm trên nền đất, nhưng không quá chậm vì hắn không muốn để cho mùi của hắn có thời giờ bay xuống đến con chó nhỏ trong đáy giếng.
Miệng giếng tỏa ánh sáng màu lục. Hắn phân biệt rõ các viên đá và ngay cả vân của nắp gỗ. Hắn đưa cây đèn lên và cúi xuống. Họ đây rồi. Cái vật đó đang nằm nghiêng một bên như một con tép khổng lồ. Có thể đang ngủ gà ngủ gật. Quý Báu thì cuốn người tròn sát vào nó, chắc cũng đang ngủ. Trời ơi, cầu xin cho nó không chết.
Cái đầu để trần. Bắn vào cổ... hấp dẫn quá... cứu lấy bộ tóc. Không, nguy hiểm quá.
Gumb khum người xuống nữa để nhìn cho thật rõ đáy giếng. Cái nòng tuyệt đẹp của khẩu Python cho phép hắn ngắm thật chính xác. Chỉ cần giữ cái vật đó trong tia đèn hồng ngoại. Hắn nhắm vào thái dương, nơi mà tóc đã dính lại vì mồ hôi.
Hắn không bao giờ biết được con chó được báo động vì một tiếng động hay một mùi nào đó, nhưng Quý Báu nhảy chồm lên sủa inh ỏi, Catherine Baker Martin liền ôm nó lại và chụp lấy tấm thảm phủ lên mình họ. Chỉ còn là những khối u đang cựa quậy dưới tấm thảm, làm cho hắn không thể nào phân biệt đâu là con chó đâu là vật kia. Hắn không tài nào xác định Catherine là khối u nào nữa.
Nhưng hắn thấy Quý Báu nhảy lên. Hắn thấy cái cẳng nó không bị sao hết và hiểu được một điều: Catherine Baker Martin không thể nào làm hại con chó con. Một sự nhẹ nhõm tuyệt vời! Bởi vì cô ta dám chia sẻ các cảm xúc của hắn nên phải bắn vào đôi chân của cô ta thôi, sau đó kết liễu bằng một viên đạn vào đầu. Không cần phải cẩn trọng nữa.
Hắn bật đèn lên, tất cả đèn dưới tầng hầm và lấy thêm cái đèn chiếu phòng hờ. Bây giờ hắn hoàn toàn tự chủ và lý luận hết sức sáng suốt... khi băng ngang qua xưởng, hắn sẽ cho nước chảy chút ít trong bồn rửa để cho máu không vì lý do gì có thể làm nghẽn hệ thống ống được.
Ngay lúc hắn bước đến các bậc và mang theo đèn chiếu, sẵn sàng hành động, có tiếng nhấn chuông ở cửa.
Tiếng chuông rít lên và hắn phải đứng lại để suy nghĩ, tìm hiểu xem chuyện gì thế. Hắn đã không nghe nó từ nhiều năm rồi, hắn cũng không biết là nó vẫn còn hoạt động. Cái nắp chuông bằng kim loại đen đầy bụi, được gắn trong lồng cầu thang để cho nó được nghe thấy trong cả ngôi nhà, đang reo lên. Trong khi hắn đang nhìn nó, người ta lại nhấn chuông nữa, lần này thật lâu như không muốn ngừng. Hắn biết có một ai đó đang đứng ngoài cửa và nhấn vào cái nút có ghi chữ VĂN PHÒNG.
Họ sẽ bỏ đi thôi.
Gumb bật sáng cái đèn chiếu.
Họ không bỏ đi.
Có tiếng nói vang lên từ trong giếng mà hắn không thèm nghe. Tiếng chuông vẫn cứ reo.
Tốt hơn hết hắn nên lên đó xem coi có chuyện gì. Khẩu súng Python quá dài cho cái túi của áo choàng nên hắn để trên cái bàn làm việc.
Hắn đi nửa đường thì tiếng chuông im bặt. Hắn đứng lại chờ, không cử động. Im lặng. Hắn quyết định cứ đi xem. Ngay khi hắn vừa bước vào nhà bếp, một tiếng dộng mạnh vào cánh cửa sau, làm cho hắn giật mình. Tại gian bếp phụ có một khẩu súng săn mà hắn biết là đã nạp đạn.
Cánh cửa căn hầm được đóng chặt nên không ai có thể nghe được tiếng la muốn điếc tai ở bên dưới.
Người ta lại gõ cửa. Hắn hé mở cánh cửa, được giữ bằng dây xích an toàn.
- Tôi có nhấn chuông ở phía trước nhưng không thấy ai trả lời, - Clarice Starling nói. - Tôi đang tìm gia đình của bà Lippman, ông có thể giúp tôi không?
- Họ không còn ở đây nữa - Gumb trả lời và đóng cửa lại - Hắn vừa xoay lưng bỏ đi thì có tiếng gõ cửa nữa, lần này mạnh hơn.
Hắn lại hé cửa.
Người thiếu nữ trình cho hắn một tấm thẻ qua khe hở. Hắn đọc được Cơ Quan Điều Tra Liên Bang.
- Xin ông thứ lỗi, chúng tôi đang tìm cách liên lạc với gia đình Lippman. Tôi biết trước đây bà ta đã ở tại ngôi nhà này. Tôi xin ông hãy giúp chúng tôi.
- Bà Lippman đã chết từ lâu rồi. Theo tôi được biết, bà ta không hề có thân nhân gì hết.
- Vậy thì một chưởng khế hoặc một kế toán? Một người nào đó có tiếp cận với các sổ sách của bà ta? Thế ông có biết bà Lippman không?
- Biết sơ thôi, nhưng cô thật sự muốn gì ở bà ta?
- Tôi điều tra về cái chết của Fredrica Bimmel. Nhưng xin ông cho biết ông là ai?
- Jack Gordon.
- Ông có quen biết Fredrica Bimmel khi cô này còn làm việc cho bà Lippman không?
- Không, có phải một cô gái hơi to không? Có thể tôi có gặp cô ta nhưng không chắc lắm. Tôi không muốn tỏ ra vô lễ... nhưng tôi đang ngủ... Bà Lippman có một viên chưởng khế, tôi có tấm danh thiếp của ông ta ở đâu đây, để tôi xem coi có tìm được không. Cô có muốn vào không? Trời lạnh quá và con mèo tôi sẽ đến chường mặt trong giây lát. Nó sẽ chuồn mất trước khi tôi kịp bắt được nó.
Hắn bước về cái bàn ở cuối bếp, kéo một bức rèm qua và lục trong vài ngăn tủ. Clarice bước vào trong phòng và lấy cuốn sổ tay ra.
- Câu chuyện khủng khiếp đó. Tôi vẫn run mỗi khi nghĩ đến nó. Tôi hy vọng là người ta sẽ mau chóng bắt được tên hung thủ đó chứ.
- Chúng tôi đang nỗ lực đây. Thế ông đã mua lại ngôi nhà này sau khi bà Lippman chết phải không?
- Đúng vậy. - Gumb xoay lưng lại với Clarice và thò tay vào trong một ngăn tủ và quơ lung tung trong đó.
- Vậy ở đây còn giấy tờ gì không? Sổ sách gì đó?
- Không, không còn gì cả. Thế FBI có đầu mối nào chưa? Người ta nói đám cảnh sát ở đây không biết gì cả. Thế các người có một mô tả nào không, các dấu tay chẳng hạn?
Con nhân sư đầu lâu từ từ bò ra khỏi chiếc áo ngủ của hắn. Nó dừng lại ngay giữa lưng, gần vị trí của trái tim, sẵn sàng cất cánh bay đi.
Clarice bỏ cuốn sổ tay vào trong túi xách.
Gumb, cám ơn Trời, áo vét mình không có cài nút. Một lý do nào đó để đi ra ngoài, tìm một điện thoại. Không được, hắn biết mình là dân FBI, nếu mình bỏ đi ngay lúc này, hắn sẽ giết chết cô ta ngay. Phải tóm cổ hắn mới được. Điện thoại của hắn. Mình không thấy đâu cả, phải hỏi hắn thôi. Phải thiết lập sự liên kết và tóm cổ hắn thôi. Phải làm cho hắn té, ấn mặt hắn xuống đất trong khi chờ đợi cảnh sát. Đúng vậy, cứ làm đi. Hắn xoay lại kìa.
- Đây số điện thoại của ông ta đây. - Hắn chìa tấm danh thiếp ra.
Có lấy không?
- Hay lắm, cám ơn ông, ông Gordon. Ông vui lòng cho tôi gọi điện thoại được không?
Ngay lúc hắn để tấm danh thiếp xuống bàn, con bướm bay đi. Nó bay ngang qua đầu của hắn và đậu trên cái kệ cạnh bồn rửa.
Hắn nhìn thấy con bướm. Khi hắn thấy Clarice không nhìn con bướm mà mắt cô ta nhìn hắn chăm chăm, hắn hiểu ngay. Ánh mắt của họ cắt ngang nhau.
Gumb nghiêng đầu qua một bên và mỉm cười.
- Tôi có một máy điện thoại không dây trong nhà bếp. Để tôi đi lấy cho cô.
Không được! Hãy ra tay ngay đi. Trong nháy mắt, cô đã rút súng ra bằng một cử chỉ nhanh như chớp mà cô đã tập dượt không biết đến mấy ngàn lần và chỉa ngay ngực hắn.
- Không được cử động.
Hắn trề môi.
- Bây giờ hãy đưa tay lên, và từ từ thôi.
Phải đưa hắn ra ngoài đi và dùng cái bàn để ngăn giữa hai người. Một khi ra đến đường lộ, bắt hắn nằm dài xuống đất và hãy kêu cầu cứu.
- Gumb... Ông đã bị bắt. Ông hãy bước từ từ ra cửa đi.
Thay vì tuân theo, hắn bước ra khỏi căn phòng. Nếu hắn giả bộ thọc tay vào trong túi hay lấy một cái gì đó ở sau lưng hắn, nếu Clarice thấy một khẩu súng chẳng hạn, cô đã có thể bắn rồi. Nhưng hắn chỉ bình thản bước ra khỏi căn phòng mà thôi.
Cô nghe hắn chạy xuống cầu thang, cô vòng qua cái bàn để phóng theo sau. Ngay trên đầu cầu thang, không thấy ai hết, cầu thang được bật đèn sáng trưng. Một cái bẫy đây. Trong cầu thang, cô sẽ là một cái bia lý tưởng.
Từ trong giếng vang lên một tiếng la yếu như thể một tờ giấy bị xé đôi.
Cô không thích cầu thang, thật sự không thích chút nào hết, Clarice Starling mày hãy khẩn trương đi, hoặc là mày đi hoặc là không, đơn giản thế thôi.
Catherine Martin hét nữa, hắn đang giết cô ta đó và Clarice bước xuống, một tay trên thành cầu thang, khẩu súng chỉa thẳng về phía dưới: khẩu súng dịch chuyển theo đầu cô trong khi cô cố nhìn về hướng hai cánh cửa đối mặt nhau ngay dưới dó.
Đèn sáng rực ở phía dưới này, cô không thể nào đi vào một cánh cửa mà xoay lưng lại với cái kia. Mày cứ đi đi, mau lên, về bên trái, nơi có tiếng la. Tại tầng hầm, tránh xa ngay khung cửa, hai mắt cô mở to hơn bao giờ hết. Chỗ núp duy nhất là thành giếng: cô đi men theo bức tường, hai tay đưa thẳng ra phía trước cầm chắc khẩu súng, một ngón ghì cò, cô đi vòng qua thành giếng, không có ai hết.
Một tiếng la vang lên từ miệng giếng, và cả... một tiếng chó sủa. Cô bước lại gần, mắt không rời cánh cửa, cô liền liếc nhanh xuống cái lỗ. Cô nhìn thấy cô gái, ngước mắt lên trở lại, rồi nhìn xuống một lần nữa và nói những gì cô học được để làm yên lòng một con tin.
- FBI đây, cô được cứu rồi.
- Cứu à! MẸ KIẾP! Hắn có súng trường đấy. Hãy đưa tôi ra khỏi đây. HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY.
- Catherine ơi, mọi việc đều ổn rồi. Cô im đi. Cô có biết hắn đang ở đâu không?
- HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY. TÔI KHÔNG CẦN BIẾT HẮN ĐANG Ở ĐÂU. HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY.
- Tôi sẽ đưa cô ra khỏi đó. Cô im đi. Hãy giúp tôi. Cô im đi để tôi có thể nghe được. Cô cũng nên làm cho con chó im đi.
Cô ngồi xổm đằng sau thành giếng, nhìn về cánh cửa, tim đập như trống canh. Không thể bỏ một mình Catherine Martin ở lại một mình để đi tìm tiếp cứu trong khi cô không biết tên Gumb đang ở đâu. Cô bước trở lại cánh cửa, núp phía sau khung. Cô thấy chân cầu thang và xa hơn một chút một phần của cái xưởng.
Hoặc cô phải tìm tên Gumb, hoặc cô phải chắc là hắn đã trốn rồi, hoặc cô đưa Catherine Martin ra khỏi đó, cô không còn sự lựa chọn nào khác.
Cô xoay đầu lại, nhìn quanh nơi này.
- Catherine, Catherine, ở đây có cái thang nào không?
- Tôi không biết nữa. Tôi thức dậy thì đã thấy ở dưới này rồi. Hắn thả cái xô xuống đây bằng sợi dây.
Có một cái tời nhỏ được gắn trên một cây đà, nhưng trên đó không có dây.
- Catherine, tôi phải tìm một cái gì để đưa cô ra khỏi đó. Cô bước đi được không?
- Được, nhưng đừng bỏ tôi một mình.
- Tôi phải ra khỏi căn phòng này, chỉ một phút thôi.
- Đồ khốn, cô không được bỏ tôi một mình dưới cái lỗ này, nếu không mẹ tôi sẽ làm thịt cô đó và...
- Im đi Catherine. Tôi cần sự im lặng. Cô phải im vì lợi ích của cô đấy, hiểu không? - Một lát sau Clarice nói lớn hơn - Mấy người khác sẽ đến đây trong chốc lát thôi, vì thế cô phải im đi. Người ta sẽ đưa cô ra khỏi đó.
Phải có một sợi dây, nhưng ở đâu mới được? Phải đi tìm thôi.
Bằng một cái phóng người, cô đến được khung cửa của cái xưởng, các cánh cửa là điều tệ hại nhất, và không ngừng di chuyển dọc theo vách tường cho đến khi cô nhìn thấy toàn bộ căn phòng; nhiều thứ quen thuộc lắc lư trong các bể chứa nhưng cô không có thời giờ để tỏ ra ngạc nhiên. Cô hối hả băng ngang cái xưởng, đi lướt qua các bể chứa, bồn rửa và cái lồng: vài con bướm bay trong đó. Cô phớt lờ chúng.
Xa hơn có một hành lang tràn đầy ánh sáng. Cái tủ lạnh đột nhiên khởi động ở sau lưng cô, cô xoay người lại, hơi khum người, mắt quan sát khắp nơi, khẩu súng vẫn lăm lăm trên tay. Hành lang. Người ta chưa dạy cô cách liếc nhìn vào trong một hành lang. Đầu và súng cùng một lúc, nhưng thấp xuống một chút. Hành lang trống không. Ở đầu kia, một căn phòng sáng trưng. Phải chạy thật mau để vượt qua cái hành lang này, ngang qua một cánh cửa đóng để tới cánh cửa mở sáng trưng của căn phòng. Tường sơn trắng, sàn bằng gỗ sồi màu vàng. Nhất là không được đứng ngay khung cửa. Phải kiểm tra cho chính xác, đúng là các hình nhân, rằng mỗi hình nhân chỉ là một hình nhân thôi. Rằng mọi cử động trong tấm gương là của chính mày đấy.
Cánh cửa tủ lớn đang mở và trong đó không có gì cả. Ở đầu kia, một cánh cửa nhìn ra một khung tối đen, vẫn còn ở dưới tầng hầm. Không có dây, không có thang ở bất cứ đâu. Bên kia chỉ là bóng tối dày đặc. Cô đóng cánh cửa đó lại, lấy một cái ghế chẹn ngay tay nắm và đẩy một bàn máy may sát vào. Cô đã lên tìm kiếm một cái điện thoại nếu cô có thể biết chắc là hắn không còn hiện diện ở trong phần của tầng hầm này.
Đi trở ra hành lang, cô đứng lại ngay trước cánh cửa bị đóng chặt. Phải đứng đối diện với các bản lề. Phải mở nó ra chỉ bằng một cái đạp thôi. Cánh cửa đập vào trong tường, không có ai ở phía sau. Một buồng tắm cũ. Tại đó một sợi dây, mấy cái móc và một cua roa. Phải kéo Catherine lên hay đi tìm một điện thoại, ở dưới đáy giếng cô ta không sợ bị lạc đạn. Nhưng nếu Clarice chết thì Catherine cũng sẽ chết theo. Chỉ còn cách là đem Catherine theo để tìm điện thoại thôi.
Clarice không muốn ở trong cái buồng tắm này. Hắn có thể xuất hiện bất ngờ và tạt ướt hết người cô. Cô bước ra nhìn hai bên hành lang và trở vào để lấy sợi dây. Có một bồn tắm lớn, chứa gần đầy một thứ thạch cao đỏ và khô cứng. Một bàn tay và cổ tay ló ra ngoài, bàn tay đã khô queo và đen, các móng được sơn đỏ. Ở cổ tay là một cái đồng hồ dễ thương. Clarice nhìn thấy tất cả mọi thứ chỉ với cái liếc mắt, sợi dây, bồn tắm, bàn tay, cái đồng hồ.
Sự cử động khó nhận biết của con côn trùng trên kim gió là hình ảnh cuối cùng mà cô thấy được trước khi đèn bị tắt hết.
Tim đập mạnh đến mức làm cho cô đau cả vùng ngực và hai cánh tay. Bóng tối, choáng váng, cần phải sờ vào một cái gì đó, bờ của bồn tắm. Cái buồng tắm. Phải ra khỏi đây không chậm trễ. Nếu hắn tìm được cánh cửa, hắn có thể tưới căn phòng này mà không có chỗ nào để núp cả. Trời ơi, phải ra khỏi đây. Cúi người xuống và đi ra bậc nghỉ. Không có một ánh sáng nào hết. Không hề có ánh sáng. Chắc hắn đã gỡ cầu chì ra rồi; thế công tơ đặt ở đâu? Nó nằm ở đâu mới được? Gần cầu thang. Lúc nào cũng được đặt gần cầu thang. Như thế thì hắn sẽ đến từ đó và hắn ở giữa Catherine và mình.
Catherine Martin bắt đầu rên rỉ lại.
Chờ ở đây à? Cho đến bao giờ? Có thể hắn đã đi mất rồi? Hắn biết là sẽ không có sự tiếp cứu nào cả. Đúng, hắn biết điều đó. Nhưng rồi đây, người ta sẽ nhận thấy sự mất tích của mình. Đêm nay, các cầu thang đều ở hướng kia, hướng của những tiếng la. Đi thôi.
Cô bước đi, không gây tiếng động, vai chỉ phớt nhẹ vách tường, quá nhẹ để gây tiếng động, một bàn tay đưa ra trước còn khẩu súng thì ở ngang tầm thắt lưng, cô tiến bước trong cái hành lang tối đen. Ngừng lại coi, nghe đi. Lại là cái xưởng. Cô cảm thấy không gian cứ lớn dần. Một căn phòng thật rộng. Ngồi xổm xuống, hai tay đưa thẳng ra trước, nắm chặt khẩu súng. Mày biết khẩu súng hướng về đâu rồi, không cao đến ngang tầm của mắt, xuống một chút nữa. Ngừng lại đi, lắng tai nghe xem. Đầu, thân hình và các tay xoay quanh cùng một lúc như cái tháp. Ngừng lại, nghe xem.
Trong bóng tối dày đặc, tiếng rít của các ống nước sưởi ấm, nước nhỏ từng giọt một.
Một mùi dê đực nồng nặc bay vào mũi cô.
Catherine vẫn cứ rên rỉ.
Gumb với cặp mắt kính hồng ngoại, đang đứng sát vào tường. Không có cơ may nào để cô vập phải hắn, một cái bàn lớn nằm giữa hai người. Hắn rọi khắp người Clarice với cây đèn pin hồng ngoại. Người quá nhỏ để có thể dùng được bất cứ thứ gì. Lúc trong nhà bếp, hắn nhớ lại bộ tóc của cô, một mớ tóc tuyệt đẹp và điều này chỉ mất có một phút mà thôi. Hắn có thể lấy nó ngay nếu hắn muốn. Để nó lên ngay trên cái đầu của hắn. Hắn sẽ cúi người xuống cái giếng và nói “Cúc cu, tôi đây mà!”
Thật buồn cười khi thấy cô ta di chuyển mà cố không gây tiếng động. Cái hông phớt vào bồn rửa, cô bước tới thật chậm, hướng về những tiếng la, khẩu súng chỉa thẳng ra trước. Thật vui khi đuổi bắt cô ta trong một thời gian dài... Hắn chưa bao giờ làm việc này với một vật có vũ khí. Hắn sẽ vô cùng thích thú, nhưng tiếc thay, bây giờ không phải lúc. Tiếc thật!
Một phát ngay mặt. Rất dễ khi chỉ cách chưa đầy ba thước. Ngay tức thì.
Hắn lên cò khẩu Python, cạch-cạch và cái hình bóng đó mờ dần để trở nên mỗi lúc một lớn hơn và xanh lè trước mắt hắn. Khẩu súng rớt khỏi tay của hắn, lưng hắn đập mạnh xuống đất, và thật mạnh bạo, cây đèn pin văng đi và hắn nhìn thấy cái trần. Clarice nằm dài dưới đất, gần như không thấy được gì cả, điếc tai vì hai phát súng, lỗ tai vẫn còn lùng bùng, làm việc thật khẩn trương trong bóng tối trong khi hắn chưa thể nghe được cô. Cô bật văng hai viên đạn ra, đưa ngón tay sờ xem coi chúng văng ra hết chưa và đưa tay xuống thắt lưng để lấy kẹp đạn dự phòng, thay nó mà không cần đụng vào đó, xoay khẩu súng lại và đóng cơ bẩm lại. Cô vừa bắn bốn phát. Hai lần hai phát. Hắn chỉ bắn được có một lần thôi. Cô đã mò thấy các vỏ đạn mà cô đã bắn. Để chúng ở đâu bây giờ? Trong cái túi nhỏ đựng đạn dự phòng. Cô đứng im. Phải di chuyển trước khi hắn có thể nghe được.
Tiếng lên cò một khẩu súng không hề giống với bất cứ loại tiếng nào khác hết. Cô đã bắn ngay khi nghe âm thanh đó, không cần nhìn thấy gì khác hơn là các tia chớp phát ra từ các nòng súng. Cô hy vọng bây giờ hắn sẽ bắn trật hướng vì tia chớp sẽ giúp cho cô có thể nhắm được. Giờ cô bắt đầu nghe được rồi dù các lỗ tai vẫn bị ù.
Nhưng tiếng gì đó? Giống tiếng rít quá vậy? Có phải một ấm nước đang sôi không, nhưng không liên tục. Mà cái gì thế nhỉ? Giống như hơi thở quá. Có phải là mình không? Đúng là hơi thở rồi. Đây là tiếng của một vết thương ở ngực. Mình đã bắn trúng ngay ngực hắn rồi. Hắn đã học cách bít vết thương ngực lại, để một cái gì lên đó để không cho không khí lọt qua được, một tấm vải dầu hoặc một túi nylon, rồi buộc thật chặt. Tiếp đến thở lại cho đầy buồng phổi. Như thế đấy, cô đã bắn trúng ngực hắn. Bây giờ làm cái gì đây? Chờ đợi sao?
Phải để cho hắn mất máu và ngất đi mới được.
Gò má cô rát quá, Clarice không dám sờ tay vào. Nếu cô đã bị thương, cô không được mó tay vào đó.
Tiếng rên rỉ lại phát ra từ trong giếng. Catherine khóc, và nói lảm nhảm cái gì đó. Clarice phải chờ thôi. Cô không dám lên tiếng trả lời cho cô ta. Cô không thể cử động và nói chuyện được.
Ánh sáng vô hình của Gumb chiếu sáng trần nhà. Hắn cố gắng dịch chuyển, nhưng không được và hắn cũng không thể cử động được cái đầu của mình. Một con Actias luna lớn của Mã Lai bay gần đụng trần, thấy ánh đèn hồng ngoại, liền bay vòng vòng trở xuống theo chùm tia sáng. Chỉ một mình Gumb thấy nó đập cánh.
Và còn tiếng hút vào. Clarice nghe giọng nói ghê sợ của Gumb, tiếng thở hắt trong đêm tối.
- Cô cảm thấy... thế nào… khi... biết mình... đẹp như thế?
Và thêm một âm thanh khác nữa. Tiếng òng ọc, một hơi thở hắt và tiếng rít ngưng lại.
Clarice cũng biết rõ âm thanh đó. Một hôm, cô đã nghe âm thanh này trong bệnh viện, lúc cha cô chết.
Cô lấy tay mò cạnh bàn và đứng lên. Mò mẫm, cô bước theo tiếng động của Catherine, tìm thấy các bậc thang và bước lên trong bóng tối.
Có một cây đèn cầy trong ngăn tủ trong nhà bếp. Đốt nó lên, cô tìm được công tơ điện ở gần cầu thang và vẫn giật mình khi cô bật đèn sáng trở lại. Để tắt được công tơ, hắn phải rời khỏi tầng hầm bằng một ngã khác và trở xuống ở phía sau lưng cô.
Clarice phải kiểm tra lại cho chắc là hắn đã chết rồi. Cô nhắm mắt lại cho quen với ánh sáng trước khi trở xuống cái xưởng. Cô nhìn thấy đôi chân trần lòi ra dưới cái bàn thợ. Cô không rời mắt khỏi bàn tay để gần khẩu Python trước khi đá nó văng ra xa. Hắn mở mắt trao tráo - nằm trên một vũng máu dày đặc, hắn đã chết vì một viên đạn bắn xuyên thủng ngực bên phải. Clarice nhìn qua chỗ khác. Hắn chắc thế nào cũng mặc vài thứ có trong tủ quần áo.
Cô bước lại bồn rửa, để khẩu Magnum xuống cái giá để ráo nước, rửa hai bàn tay của mình với nước lạnh, rồi lau đến cái mặt với bàn tay ướt. Không có máu. Cô phải đi vòng qua cái xác để lấy khẩu Python.
Đến ngay miệng giếng, cô nói:
- Catherine, hắn đã chết rồi. Hắn không thể nào hại cô được nữa. Tôi đi lên gọi điện thoại đây...
- Không! HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY! HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY!
- Cô nghe đây, hắn đã chết thật rồi. Súng của hắn đây này. Cô có nhớ không? Bây giờ tôi đi gọi cảnh sát và lính cứu hỏa. Tôi sợ không thể đưa cô ra khỏi đây mà không làm cho cô té xuống lại.
Đám phóng viên đến ngay sau lính cứu hỏa và trước cả cảnh sát Belvedere. Viên đại úy, quá phẫn nộ vì các đèn chiếu, đuổi hết đám phóng viên lên trên và ra khỏi căn hầm mà ông cho đặt một giàn giáo để đưa Martin lên khỏi giếng, vì ông không tin tưởng vào cái tời được gắn trên dầm nhà của Gumb. Một người lính cứu hỏa xuống dưới giếng và đeo một đai nịt cứu hộ cho Catherine. Cô trồi lên, con chó ôm trong tay và muốn giữ nó ngay khi cô được đưa vào xe cứu thương.
Tại bệnh viện, người ta không cho con chó vào. Một người lính cứu hỏa được lệnh đưa nó đến Cơ quan bảo vệ súc vật, nhưng anh ta lại thích đem nó về nhà mình.
3
Tại phi trường Washington, ngay giữa đêm khuya, có khoảng năm mươi người đang chờ đợi chuyến bay từ Colombus đến. Phần lớn họ đến đón thân nhân của mình và đều tỏ vẻ mệt mỏi và quạu quọ, vạt áo bỏ ra ngoài quần hết phân nửa.
Ardelia Mapp bỏ thời giờ ngắm cho kỹ Clarice khi cô bước xuống phi cơ. Vẻ mặt cô thật uể oải với hai quầng thâm dưới mắt. Vài điểm thuốc súng còn dính lại trên gò má. Clarice nhìn thấy cô bạn mình và chạy đến ôm chầm lấy.
- Thế nào cô bạn già, - Ardelia hỏi, - mày có hành lý không.
Clarice lắc đầu phủ nhận.
- Thôi chúng ta đi chứ, Jeff đang chờ đấy.
Và cả Jack Crawford cũng đang chờ, chiếc xe của ông đậu phía sau chiếc xe tải con. Đêm vừa qua ông đã ở nhà của gia đình Bella.
- Tôi... cô có tưởng tượng được những gì cô đã làm không? Một kỳ tích đấy cô bé. - Ông sờ vào gò má Clarice. - Cái gì thế này?
- Thuốc súng ấy mà. Bác sĩ nói nó sẽ tự động biến mất trong hai ba ngày nữa... tốt hơn hết không nên cố chùi sạch nó.
Crawford ôm cô vào trong vòng tay của mình, chỉ một khắc thôi, rồi đẩy ra và hôn lên trán cô.
- Cô có tưởng tượng được không chứ? - ông lặp lại. - Cô hãy về trường đi, ngủ một giấc cho thật đã. Về ngủ đi, ngày mai chúng ta sẽ nói chuyện sau.
Chiếc xe tải con mới này thật tiện nghi, được thiết kế để thực hiện những cuộc canh chừng lâu dài. Clarice và Ardelia lên ngồi ở phía sau thùng xe.
Vì không có Jack Crawford trên xe, nên Jeff lái thật nhanh. Anh ta về đến Quantico trong một thời gian kỷ lục.
Clarice nhắm mắt lại. Sau ba cây số, Ardelia khều vào đầu gối cô: cô vừa khui hai chai Coca nhỏ, đưa cho Clarice một chai và lấy một chai rượu Jack Daniels nửa lít từ trong túi xách.
Họ uống một hơi dài Coca rồi đổ rượu Whisky thế vào chỗ đó. Họ dùng ngón cái để bít miệng chai lại rồi lắc thật mạnh.
- Aaaà - Clarice thốt lên sau khi uống một ngụm nước pha này.
- Mấy cô đừng làm đổ trong xe cho tôi nhờ. - Jeff nói.
- Anh không phải lo - Ardelia đáp lại. Rồi nói nhỏ cho một mình Clarice nghe. - Tao muốn mày thấy cái mặt của anh chàng Jeff này trong lúc chờ tao trước cửa hàng bán rượu. Tao bảo đảm với mày là anh ta lúng túng vô cùng.
Rượu Whisky bắt đầu tác động vào Ardelia thư giãn phần nào, cô hỏi:
- Chuyện mày đến đâu rồi Clarice?
- Tao cũng không biết nữa, Ardelia.
- Mày có phải trở lại đó không?
- Có thể một ngày nào đó trong tuần tới nhưng tao hy vọng là không. Viên công tố ở Colombus có nói chuyện với cảnh sát ở Belvedere. Tao phải khai đủ mọi thứ.
- Tao có vài tin mừng cho mày đây. Hồi tối này bà Thượng nghị sĩ Martin có gọi điện từ Bệnh viện Bethesda, mày có biết là người ta đã đưa Catherine về New York không? Về mặt thể chất, cô ta ổn rồi. Hắn đã không động gì đến cô ta hết. Còn về mặt tinh thần, họ chưa biết như thế nào: cô ta vẫn đang được theo dõi. Mày không có gì phải lo về phía trường học. Crawford và Brigham có gọi điện cho tao. Krendler vừa xin rút hồ sơ của ông ta lại. Cơ chế vận hành của những người đó thật hết ý, thật hoàn hảo thay vào chỗ trái tim, mày biết mà. Clarice à, mày đừng nghĩ rằng mày có thể ngủ yên trên chiến thắng nghe không. Chỉ đơn giản là thay vì ngày vào lúc tám giờ sáng mai mày phải thi về các thủ tục khám xét nhà, thì mày được dời nó lại vào sáng thứ ba với môn thể dục. Như thế mình có nguyên một cuối tuần để ôn lại bài.
Về gần đến Quantico, chai rượu nửa lít đã cạn, họ bỏ cái vỏ chai vào trong một thùng rác tại bãi đậu xe.
- Có cái anh chàng Pilcher, Tiến sĩ Pilcher của Viện Smithsonian có gọi điện ba lần. Anh ta bắt tao hứa là phải báo cáo lại cho mày biết.
- Anh ta không phải là tiến sĩ.
- Mày nghĩ là có một chút kết quả nào không?
- Có thể lắm, tao cũng chưa biết nữa.
- Anh ta có vẻ vui tính. Tao quyết định tính khôi hài là một đức tính cần thiết của người đàn ông, ý tao muốn nói là không kể đến tiền bạc và vốn kiên nhẫn của chính mày.
- Đúng và cả phép xã giao nữa. Mày không được quên điều này Ardelia.
- Không sai, và mấy thằng con hoang đó phải hiểu thế nào là trung thực.
Clarice đi như người chết rồi từ vòi sen lên giường ngủ.
Ardelia đọc sách trong lúc chờ cho hơi thở của người bạn mình trở nên đều hơn để tắt đèn. Clarice giật mình trong giấc ngủ và cơ mặt giật mạnh một cái, khiến cô mở mắt thức dậy.
Cái cảm tưởng về căn phòng trống trơn đánh thức Ardelia vào lúc hừng sáng. Cô bật đèn lên: Clarice không có trong giường. Hai túi quần áo dơ cũng biến mất, cô biết phải tìm Clarice ở đâu.
Trong hầm giặt ấm áp, Clarice ngủ gật, tựa người vào cái máy giặt đang rung rung, trong mùi thuốc tẩy và thuốc làm mềm quần áo. Clarice thích môn tâm lý học hơn trong khi Ardelia thì nghiêng về môn luật và chính cô này mới hiểu rằng cái máy này mới giống một trái tim khổng lồ đang đập và tiếng rì rào của nước gợi nhắc lại âm thanh mà một bào thai có thể nghe được, và đó cũng là kỷ niệm cuối cùng của hòa bình.