Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 18
Đ
ã sang năm thứ tư tôi học nghề với Joe, và lúc đó là tối thứ Bảy. Có
một nhóm người tụ tập lại quanh lò sưởi trong quán Ba Thủy Thủ Vui Vẻ,
chăm chú lắng nghe ông Wopsle đọc to tờ báo lên thành tiếng. Tôi là một
người trong nhóm này.
Đã xảy ra một vụ giết người được nhiều người biết, và ông Wopsle bị
nhuốm máu tới tận lông mày. Ông này hả hê đọc qua tất cả tính từ đáng ghê
tởm trong phần mô tả, nhập vai vào từng nhân chứng trong cuộc thẩm tra.
Ông quản khẽ rên lên, “Tôi tiêu rồi,” khi vào vai nạn nhân rồi man rợ gầm
lên, “Tao sẽ trả thù,” lúc sang vai tên sát nhân. Ông đưa ra lời chứng pháp y,
bắt chước không sai một li ông bác sĩ hành nghề ở vùng chúng tôi; rồi ông rít
tẩu thuốc và lắc đầu, khi vào vai ông già gác trạm đã nghe thấy cuộc ẩu đả,
với bộ dạng thể hiện sự kém tỉnh táo như thể muốn tỏ ý nghi ngờ tình trạng
thần trí của nhân chứng nọ. Người nhân viên điều tra án mạng, qua tay ông
Wopsle, trở thành Timon thành Athens; ông thầy tế trở thành Coriolanus.
Ông quản có vẻ rất hào hứng, tất cả chúng tôi cũng vậy, và đều cảm thấy cực
kỳ vui vẻ thoải mái. Thế rồi trong tâm trạng thân tình hứng khởi này, chúng
tôi cùng đi tới lời buộc tội Giết người có chủ ý.
Chỉ đến lúc ấy, trước đó thì không, tôi bắt đầu nhận ra sự có mặt của
một người đàn ông xa lạ đang chồm người trên lưng chiếc ghế đối diện với
tôi, chăm chú dõi theo. Trên khuôn mặt ông ta hiện rõ vẻ coi thường, và ông
ta tỉ mẩn cắn rìa ngón trỏ to tướng trong khi nhìn nhóm người kia. “Được
lắm!” người lạ mặt nói với ông Wopsle sau khi màn đọc báo đã xong, “ông
đã phân xử tất cả để bản thân cảm thấy hài lòng, tôi chắc là vậy phải không?”
Tất cả mọi người cùng giật mình ngước lên nhìn, như thể đó chính là
kẻ sát nhân. Người lạ mặt lạnh lùng nhìn chúng tôi đầy châm biếm.
“Có tội, tất nhiên rồi phải không?” ông ta nói. “Thử nói ra xem nào.
Nào!”
“Thưa ông” ông Wopsle đáp lại, “dù không có hân hạnh được quen
biết ông, tôi xin nói là có tội.” Đến đây, tất cả chúng tôi đều lấy can đảm
đồng thanh lầm rầm xác nhận.
“Tôi biết là thế,” người lạ mặt nói, “tôi biết thể nào ông cũng nói vậy.
Tôi đã nói với ông thế mà. Nhưng giờ tôi sẽ hỏi ông một câu. Ông biết, hay
ông không biết, là luật pháp nước Anh giả định mọi người đều vô tội cho tới
khi anh ta bị chứng minh - chứng minh - là có tội?”
“Thưa ông,” ông Wopsle mở miệng đáp lại, “vì là người Anh, tôi…”
“Nào!” người lạ mặt nói, vừa nói vừa cắn ngón trỏ. “Đừng né tránh câu
hỏi. Hoặc là ông biết điều đó, hoặc không biết. Là có hay không nào?”
Ông ta đứng nghiêng đầu sang một bên, người ngả sang bên còn lại, bộ
dạng như thể đang hoạnh họe hỏi cung, và ông ta vung ngón trỏ về phía ông
Wopsle - như thể để vạch riêng ông này ra - rồi lại cắn ngón tay.
“Nào!” ông ta nói. “Ông biết điều đó, hay không biết nào?”
“Đương nhiên là tôi biết,” ông Wopsle đáp.
“Đương nhiên ông biết. Vậy thì tại sao ông không nói thế ngay từ đầu?
Nào, tôi sẽ hỏi ông một câu nữa,” người lạ tiếp tục tấn công ông Wopsle như
thể có quyền làm thế. “Ông có biết là trong số những nhân chứng này chưa ai
được thẩm vấn không?”
Ông Wopsle mới nói, “Tôi chỉ có thể nói…” thì người lạ mặt cắt
ngang.
“Cái gì? Ông không trả lời câu hỏi sao, có hay không? Nào, tôi sẽ hỏi
lại ông lần nữa.” Ngón trỏ lại chĩa thẳng vào ông quản. “Chú ý vào tôi này.
Ông có biết, hay không biết, là chưa có ai trong số những nhân chứng này
được thẩm vấn? Nào, tôi chỉ muốn một lời từ ông thôi. Có hay không?”
Ông Wopsle do dự, và tất cả chúng tôi bắt đầu có cảm giác khá khó
chịu về ông ta.
“Nào!” người lạ mặt nói, “tôi sẽ giúp ông. Ông không đáng được giúp,
nhưng tôi sẽ giúp ông. Hãy nhìn vào tờ báo trong tay ông. Có gì nào?”
“Có gì cơ?” ông Wopsle hỏi lại, đưa mắt ngơ ngác nhìn tờ báo.
“Có phải,” người lạ mặt nói tiếp đầy vẻ mỉa mai ngờ vực, “đó là tờ báo
ông vừa đọc không?”
“Không nghi ngờ gì nữa.”
“Không nghi ngờ gì nữa. Nào, quay sang tờ báo, và hãy cho tôi biết
liệu trong đó có viết rành rọt là người tù đã nói rõ ràng là các luật sư của anh
ta đã khuyên anh ta bảo lưu hoàn toàn quyền được bào chữa không?”
“Tôi vừa mới đọc điều đó,” ông Wopsle biện hộ.
“Đừng bận tâm chuyện ông vừa mới đọc cái gì, thưa ông; tôi không hỏi
ông vừa đọc cái gì. Ông có thể vừa đọc ngược Kinh Cầu nguyện nếu ông
muốn - và có thể hôm nay ông đã làm vậy. Trở lại với tờ báo nào. Không,
không, không, ông bạn; không phải trở lại đầu cột báo; ông biết rõ hơn thế
mà; xuống cuối cột, xuống cuối cột.” (Tất cả chúng tôi bắt đầu nghĩ ông
Wopsle đầy vẻ lẩn tránh.) “Thế nào? Ông tìm ra chưa?”
“Đây rồi,” ông Wopsle nói.
“Nào, hãy đưa mắt đọc theo đoạn đó, và nói cho tôi biết xem liệu trong
đó có viết rành rọt là người tù đã nói rõ ràng các luật sư của anh ta khuyên
anh ta bảo lưu hoàn toàn quyền được bào chữa không? Nào! Ông có thể luận
ra vậy được không?”
Ông Wopsle trả lời, “Không đúng nguyên câu đó.”
“Không đúng nguyên câu đó!” người đàn ông kia chua chát nhắc lại.
“Thực chất thì có đúng vậy không?”
“Có,” ông Wopsle nói.
“Có,” người lạ mặt lặp lại, nhìn quanh những người còn lại trong khi
tay phải chĩa về phía nhân chứng, Wopsle. “Và giờ tôi xin hỏi quý vị nghĩ sao
về lương tâm của người đàn ông kia, với bài báo giấy trắng mực đen ngay
dưới mắt ông ta, lại có thể ngả đầu lên gối ngủ ngon sau khi tuyên bố một
đồng loại của mình có tội, mà chưa nghe biện bạch?”
Chúng tôi bắt đầu ngờ ông Wopsle không phải là con người như chúng
tôi vẫn nghĩ, và ông ta đang bắt đầu bị vạch trần.
“Và cũng chính con người này, xin quý vị nhớ cho,” người đàn ông lạ
mặt nói tiếp, nặng nề chỉ tay vào ông Wopsle, “cũng chính con người này rất
có thể được mời làm quan tòa xét xử vụ án này, và sau khi tự mình gây ra
một tai họa ghê gớm như vậy, lại có thể trở về vòng tay gia đình ngả đầu
xuống gối, sau khi cố ý thề ông ta sẽ nghiêm chỉnh và trung thực xử vụ tranh
tụng giữa công lý của đức Vua quyền lực tối cao của chúng ta và bị cáo trước
vành móng ngựa, và hứa hẹn đưa ra một phán quyết xác đáng dựa trên bằng
chứng, vậy xin Chúa hãy giúp ông ta!”
Tất cả chúng tôi đều hoàn toàn bị thuyết phục là ông Wopsle khốn khổ
đã đi quá xa, và tốt hơn nên kết thúc sự nghiệp bất cẩn của mình lại khi vẫn
còn kịp.
Người đàn ông lạ mặt, với vẻ uy quyền không cho phép bàn cãi và bộ
dạng như thể biết gì đó bí mật về từng người một trong chúng tôi mà nếu ông
ta lựa chọn tiết lộ thì có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến mỗi người, rời khỏi
cái lưng ghế ông ta đang tựa vào, rồi bước đi tới khoảng trống giữa hai hàng
ghế, đến trước lò sưởi rồi đứng lại đó, tay trái đút túi áo trong khi cắn ngón
trỏ bàn tay phải.
“Từ những thông tin tôi nhận được,” ông ta nói, đưa mắt nhìn quanh về
phía chúng tôi trong khi tất cả chúng tôi ngồi cun cút trước mặt ông ta, “tôi
có lý do để tin trong số các vị có một thợ rèn có tên là Joseph - hay Joe -
Gargery. Ai là người này?”
“Là tôi đây,” Joe nói.
Người lạ mặt vẫy tay ra hiệu mời anh lại gần, và Joe làm theo.
“Ông có một cậu bé học nghề,” người lạ mặt nói tiếp, “vẫn được gọi là
Pip phải không? Cậu bé có đây không?”
“Cháu đây ạ!” tôi lên tiếng.
Người lạ mặt không nhận ra tôi, nhưng tôi nhận ra ông ta chính là quý
ông tôi đã gặp trên cầu thang vào lần thứ hai tôi đến gặp cô Havisham. Tôi đã
nhận ra ông ta ngay khi tôi thấy ông ta ngồi đó nhìn lại, và lúc này, khi tôi
đứng đối mặt với ông ta, còn ông đặt tay lên vai tôi, tôi kiểm kỹ lại lần nữa
cái đầu to tướng của ông này, với làn da sẫm, đôi mắt sâu hoắm, hai hàng
lông mày chổi sể đen nhánh, sợi dây đeo đồng hồ quả quýt to, những chấm
đen đậm nơi bộ râu và ria mép, và cả mùi xà phòng thơm trên bàn tay ngoại
khổ của ông ta.
“Tôi muốn nói chuyện riêng với hai người,” ông nói sau khi đã thư thả
ngắm nghía tôi một hồi. “Sẽ mất ít thời gian. Có lẽ tốt hơn chúng ta nên về
nhà hai người. Tôi không muốn để lộ những điều cần trao đổi ở đây; hai
người sẽ chia sẻ chuyện này nhiều hay ít tùy thích với các bạn mình sau; tôi
không có gì can dự tới chuyện đó cả.”
Trong sự im lặng ngỡ ngàng, ba chúng tôi rời quán Ba Thủy Thủ Vui
Vẻ và lặng lẽ quay về nhà. Trên đường, người đàn ông lạ mặt thỉnh thoảng lại
nhìn tôi, và thỉnh thoảng lại cắn cạnh ngón tay. Khi chúng tôi về gần đến nhà,
Joe mơ hồ thừa nhận đây là một dịp rất quan trọng và ấn tượng nên rảo bước
lên trước để mở cửa trước ra. Cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra trong
phòng tiếp khách được một ngọn nến thắp sáng lờ mờ.
Nó bắt đầu bằng việc quý ông lạ mặt ngồi xuống bên bàn, kéo nến lại
gần và xem qua vài ghi chú trong cuốn sổ tay lấy từ túi áo ra. Tiếp theo, ông
này cất sổ vào túi, đẩy cây nến sang bên một chút sau khi đã đưa mắt đảo
quanh vào bóng tối về phía Joe và tôi để xác định chắc chắn xem ai là ai.
“Tôi là Jaggers,” ông nói, “và tôi là một luật sư trên London. Tôi cũng
có chút danh tiếng. Tôi có một công chuyện khác thường cần trao đổi với hai
người, và tôi muốn nói ngay từ đầu chuyện này không xuất phát từ tôi. Nếu
tôi được đề nghị đưa ra lời khuyên, hẳn tôi đã không ở đây. Nhưng đã không
ai đề nghị, nên hai người thấy tôi đang ở đây. Tôi sẽ làm những gì phải làm
trong tư cách đại diện bí mật cho một người khác. Không hơn, không kém.”
Nhận thấy không thể nhìn thấy rõ chúng tôi từ chỗ đang ngồi, ông ta
đứng dậy, vắt một chân qua lưng ghế và tựa người lên bên chân này; rồi cứ
như thế đứng một chân trên ghế, một chân dưới sàn.
“Nào, Joseph Gargery, tôi là người mang tới lời đề nghị nhằm giải
thoát ông khỏi anh chàng học việc trẻ tuổi này. Ông sẽ không phản đối việc
hủy giao kèo khi cậu ta thỉnh cầu và vì lợi ích của cậu ta chứ? Ông sẽ không
muốn nhận được gì để làm thế chứ?”
“Chúa xá tội, tôi sẽ không muốn được nhận gì cho việc không cản
đường Pip cả,” Joe nói, nhìn ông khách chằm chằm.
“Quả là mộ đạo, nhưng chưa vào đúng việc,” ông Jaggers đáp lại. “Câu
hỏi là, Ông có muốn gì không? Ông muốn gì hay là không?”
“Câu trả lời,” Joe nghiêm trang đáp, “là không.”
Tôi nghĩ ông Jaggers đã liếc nhìn Joe như thể coi anh là một tên ngốc
vì tính vô vụ lợi này. Nhưng lúc ấy tôi đang bị giằng co giữa tò mò và kinh
ngạc đến nín thở nên khó có thể chắc chắn.
“Được lắm,” ông Jaggers nói. “Hãy nhớ lấy lời thừa nhận ông vừa đưa
ra, và đừng có cố lập tức quay ngoắt khỏi nó đấy.”
“Ai thèm cố làm thế chứ?” Joe vặc lại.
“Tôi chẳng nói là ai cả. Ông nuôi chó chứ?”
“Có, tôi có nuôi một con.”
“Vậy thì hãy nhớ cho rõ, Khoác Lác là một con chó tốt, nhưng Im Lặng
thì còn tốt hơn. Hãy nhớ lấy, được chứ?” ông Jaggers nhắc lại, nhắm mắt và
gật đầu hướng về phía Joe, như thể đang tha thứ cho anh điều gì đó. “Còn bây
giờ, tôi sẽ quay sang chàng trai trẻ đây. Và lời nhắn tôi phải chuyển lại là cậu
ta có triển vọng được hưởng gia tài lớn.”
Joe và tôi há hốc miệng, đưa mắt nhìn nhau.
“Tôi được chỉ thị thông báo với cậu ta,” ông Jaggers nói, đồng thời chỉ
tay về phía tôi, “rằng cậu ta sẽ có một gia tài kếch xù. Thêm nữa, người chủ
sở hữu hiện tại của gia tài đó mong muốn cậu ta lập tức ra khỏi cuộc sống
hiện tại và khỏi nơi này, và được nuôi dạy để trưởng thành như một quý ông -
nói tóm lại, như một thanh niên sẽ được hưởng gia tài lớn.”
Giấc mơ của tôi tan biến; những tưởng tượng rồ dại nhất của tôi hoàn
toàn bị thực tế tỉnh táo che mờ; cô Havisham sẽ tạo dựng vận hội cho tôi một
cách thật lớn lao.
“Bây giờ, cậu Pip,” ông luật sư nói tiếp, “tôi sẽ truyền đạt phần còn lại
của những gì tôi phải nói cho cậu. Trước hết, cậu cần hiểu yêu cầu của người
chỉ thị cho tôi là cậu sẽ luôn mang cái tên Pip. Tôi dám nói cậu sẽ không
phản đối những triển vọng hưởng gia tài của mình chịu ràng buộc với điều
kiện dễ dàng ấy. Nhưng nếu cậu có bất cứ phản đối nào, lúc này chính là thời
điểm để nói ra.”
Tim tôi bắt đầu đập nhanh chóng mặt, và hai tai tôi ù lên đến mức tôi
gần như không thể trả lời thành tiếng là tôi không có gì phản đối.
“Tôi nghĩ chắc là không! Thứ hai, bây giờ cậu cần hiểu, cậu Pip, là tên
người đã hào phóng ban ơn cho cậu sẽ là một bí mật hoàn toàn cho tới khi
người đó lựa chọn tiết lộ danh tính. Tôi được ủy quyền để thông báo luôn
người đó dự định sẽ tự mình nói trực tiếp bí mật này với cậu. Khi nào và ở
đâu dự định đó được thực hiện, tôi không thể nói; và không ai khác có thể.
Có thể sau nhiều năm nữa. Còn bây giờ, cậu cần hiểu rõ cậu bị cấm ngặt dò
hỏi gì về chuyện này, hay có bất kỳ ám chỉ bóng gió nào, dù xa xôi đến mấy
đi nữa, cho bất cứ ai, dù có là ai đi nữa, về những gì cậu trao đổi với tôi. Nếu
cậu cảm thấy nghi ngờ, hãy giữ nghi ngờ ấy cho riêng mình. Kể cả về những
lý do của việc nghiêm cấm này; chúng có thể là những lý do nghiêm túc
mạnh mẽ nhất, hoặc chỉ là sở thích cá nhân. Đây không phải là việc để cậu tò
mò. Các điều kiện đã được đưa ra. Việc cậu chấp nhận chúng và tuân thủ
chúng như một cam kết là điều kiện duy nhất còn lại tôi được ủy quyền
truyền đạt từ người tôi đã nhận chỉ thị, và tôi không chịu thêm bất cứ trách
nhiệm nào khác về người này. Người này chính là người để gia tài cho cậu,
và bí mật này chỉ người đó và tôi nắm giữ. Tôi nhắc lại, không phải là một
điều kiện khó khăn đè nặng lên một vận hội thăng tiến như thế; nhưng nếu
cậu có bất cứ phản đối nào, bây giờ chính là lúc để nói ra. Hãy nói đi.”
Thêm lần nữa, tôi chật vật lắp bắp là tôi không có gì phản đối.
“Tôi cũng nghĩ là không! Bây giờ, cậu Pip, tôi đã hoàn thành các điều
khoản quy định.” Cho dù gọi tôi là cậu Pip và bắt đầu tỏ ra thân thiện với tôi
hơn, ông luật sư vẫn không thể rũ bỏ được hết vẻ nghi ngờ hoạnh họe; và
ngay cả lúc này ông ta vẫn thỉnh thoảng nhắm mắt lại chĩa ngón tay về phía
tôi trong lúc nói như thể để nhắc nhở ông ta biết rõ mọi chuyện có thể làm tôi
mất hết thể diện, chỉ có điều ông ta có chọn nói ra hay không thôi. “Tiếp
theo, chúng ta sẽ chuyển sang những chi tiết thu xếp cụ thể. Cậu phải biết,
mặc dù tôi đã nhắc tới ‘gia tài’ hơn một lần, cậu không chỉ được hưởng gia
tài thôi đâu. Trong tay tôi đang giữ một món tiền đủ dư dả để cậu được giáo
dục và sống tử tế. Cậu sẽ vui lòng coi tôi là người giám hộ của cậu. À!” đúng
lúc tôi định cảm ơn ông ta, “tôi xin nói luôn với cậu, tôi được trả công cho
những gì tôi làm, nếu không tôi đã không làm. Cậu cần được giáo dục tốt hơn
cho tương xứng với địa vị đã thay đổi của cậu, và tôi tin cậu hiểu được tầm
quan trọng và sự cần thiết của việc lập tức bắt tay vào tận dụng những lợi thế
này.”
Tôi nói tôi vẫn luôn mong chờ điều đó.
“Đừng bận tâm tới những gì cậu vẫn luôn mong chờ, cậu Pip,” ông luật
sư vặn vẹo, “hãy đi đúng vào vấn đề. Nếu cậu mong chờ nó lúc này, thế là
đủ. Liệu như vậy có nghĩa là tôi được trả lời cậu đã sẵn sàng chịu sự kèm cặp
của một gia sư thích hợp không? Có phải vậy không?”
Tôi lí nhí rằng phải, đúng là thế.
“Tốt. Bây giờ cần hỏi các thiên hướng của cậu. Hãy nhớ, tôi không
nghĩ thế là khôn ngoan, nhưng đó là trách nhiệm của tôi. Cậu đã bao giờ nghe
nói tới một gia sư cậu sẽ ưa thích hơn những người khác không?”
Tôi chưa bao giờ có người thầy nào ngoài Biddy và bà cô ông Wopsle,
vậy nên tôi trả lời là không.
“Có một gia sư tôi có quen biết, tôi nghĩ người này có thể thích hợp với
mục đích của chúng ta,” ông Jaggers nói. “Hãy lưu ý, tôi không hề khuyên
chọn ông ta; vì tôi không bao giờ khuyên nên chọn bất cứ ai. Quý ông tôi
đang nói tới là một ông tên là Matthew Pocket.”
A! Tôi nhận ra ngay cái tên này. Người họ hàng của cô Havisham.
Chính cái ông Matthew mà ông bà Camilla đã nhắc tới. Chính cái ông
Matthew sẽ ngồi ở phía đầu cô Havisham khi bà nằm chết trong bộ váy cưới
trên cái bàn cô dâu.
“Cậu biết tên ông ấy?” ông Jaggers hỏi, nhìn tôi sắc như dao, rồi nhắm
mắt lại chờ đợi câu trả lời của tôi.
Câu trả lời của tôi là tôi đã nghe nói tới cái tên này.
“Ồ!” ông ta thốt lên. “Cậu đã nghe nói tới cái tên này. Nhưng câu hỏi ở
đây là, cậu nói sao về chuyện đó?”
Tôi nói, hay cố gắng nói, tôi rất biết ơn ông vì đã giới thiệu… “Không,
anh bạn trẻ!” ông luật sư ngắt lời tôi, vừa nói vừa chậm chạp lắc cái đầu to
tướng. “Bình tĩnh lại đi nào!”
Chẳng hề bình tĩnh lại, tôi bắt đầu lặp lại rằng tôi rất biết ơn ông vì đã
giới thiệu…
“Không, anh bạn trẻ,” ông ta ngắt lời tôi, vừa lắc đầu vừa đồng thời cau
mày và mỉm cười. “Không, không, không; nói hay lắm, nhưng không được
đâu; cậu còn quá trẻ để lấy lòng tôi như thế. Giới thiệu không phải là từ đúng,
cậu Pip. Thử một từ khác đi.”
Chỉnh lại mình, tôi nói tôi rất biết ơn ông ta vì đã đề cập tới ông
Matthew Pocket…
“Nghe giống hơn rồi đấy!” ông Jaggers kêu lên.
… Và (tôi nói thêm), tôi sẽ rất vui mừng thử chọn quý ông kia.
“Tốt. Cậu nên thử qua năng lực gia sư của quý ông này tại nhà ông ấy.
Mọi thứ sẽ được thu xếp cho cậu, và trước hết cậu có thể gặp con trai ông ấy,
hiện đang sống trên London. Cậu định khi nào sẽ tới London?”
Tôi nói (và liếc mắt nhìn Joe, người đang đứng bất động quan sát) là
tôi cho rằng có thể tới đó ngay.
“Trước hết,” ông Jaggers nói, “cậu cần có một ít quần áo mới để mặc
đến đó, và không nên là đồ mặc làm việc. Hãy coi như hẹn ngày này tuần sau.
Cậu sẽ cần một ít tiền. Tôi để lại cho cậu hai mươi guinea nhé?”
Ông luật sư lấy ra một túi tiền nặng với thái độ không thể bình thản
hơn, rồi đếm ra số tiền trên bàn, sau đó đẩy tiền về phía tôi. Đây là lần đầu
tiên ông ta nhấc chân khỏi ghế. Ông ta ngồi xuống ghế, xoạc hai chân sang
hai bên sau khi đã đẩy tiền cho tôi, và cứ thế vừa ngồi cầm túi đựng tiền đu
đưa vừa nhìn Joe.
“Thế nào, Joe Gargery? Trông ông có vẻ ngỡ ngàng thì phải?”
“Đúng thế!” Joe nói, đầy quả quyết.
“Chúng ta đã hiểu với nhau là ông không muốn gì cho bản thân, nhớ
chứ?”
“Lúc nãy chúng ta đã hiểu với nhau như thế,” Joe nói. “Và bây giờ vẫn
thế. Và mãi mãi vẫn sẽ là thế.”
“Nhưng sẽ thế nào,” ông Jaggers nói, tiếp tục đu đưa túi tiền, “sẽ thế
nào nếu tôi được chỉ thị dành cho ông một món quà như đền bù?”
“Đền bù cho cái gì kia chứ?” Joe hỏi.
“Cho việc mất đi sự phục vụ của cậu ta.”
Joe đặt bàn tay lên vai tôi dịu dàng như một phụ nữ. Kể từ hồi ấy, tôi
vẫn hay nghĩ về anh như một cái búa máy hơi nước có thể đập nát một con
người hay vỗ nhẹ lên một vỏ trứng, một sự pha trộn giữa sức mạnh và sự hiền
hòa. “Pip luôn được ưng thuận bằng cả trái tim,” Joe nói, “để tự do rời khỏi
chỗ làm tìm đến danh vọng và vận hội, và không lời nào ngăn cản cậu ấy.
Nhưng nếu ông nghĩ tiền có thể bù đắp cho tôi việc mất đi cậu bé - so với nó
lò rèn có là gì chứ - và cũng là người bạn tốt nhất tôi từng có!…”
Ôi Joe yêu quý nhân hậu, người mà tôi đã sẵn sàng rời bỏ và đối xử vô
ơn đến thế, em lại nhìn thấy anh trước mắt, với cánh tay thợ rèn vạm vỡ đưa
lên trước mắt, trong khi khuôn ngực rộng của anh nức nở, tiếng nói của anh
nghẹn dần. Ôi Joe yêu quý nhân hậu thủy chung, em lại cảm thấy bàn tay run
rẩy đầy thương yêu của anh nắm lấy cánh tay em, và hôm nay em thấy cảm
xúc ấy thật thiêng liêng biết bao, như thể nó từng là tiếng sột soạt của một đôi
cánh thiên thần!
Nhưng hồi ấy tôi đã lên tiếng động viên Joe. Tôi hoa mắt trước ánh hào
quang của vận hội tương lai đến với mình, và không thể nhớ lại được những
chặng đường chúng tôi từng bước đi cùng nhau. Tôi cầu xin Joe hãy yên tâm,
vì (đúng như anh nói) chúng tôi vẫn luôn là những người bạn tốt nhất của
nhau, và (như tôi nói) chúng tôi sẽ vẫn là như thế. Joe gạt nước mắt bằng bên
cổ tay còn rảnh, như thể anh đang cố trấn tĩnh lại, nhưng không nói thêm lời
nào nữa.
Ông Jaggers đã chứng kiến tất cả như một người nhìn thấy ở Joe một
gã ngốc quê mùa, và ở tôi người trông nom anh. Khi tất cả kết thúc, ông ta
lên tiếng, nâng trên tay túi tiền ông ta thôi không giơ lên đu đưa nữa.
“Nào, Joseph Gargery, tôi báo để ông biết đây là cơ hội cuối cùng của
ông. Với tôi sẽ không có chuyện nửa vời đâu. Nếu ông muốn nhận một món
quà như tôi được yêu cầu trao cho ông, hãy nói ra, và ông sẽ có nó. Nếu
ngược lại, ý ông muốn nói…” Đến đây, trong sự kinh ngạc tột độ, ông luật sư
bị cắt ngang lời khi Joe đột nhiên quay ngoắt sang phía ông ta với tất cả bộ
dạng của một võ sĩ quyền Anh đang nổi xung.
“Điều tôi muốn nói,” Joe hét lên, “là nếu ông tới nhà tôi để trêu chọc
quấy nhiễu tôi, hãy cút đi! Điều tôi muốn nói là nếu ông đúng là đàn ông, thì
nhào vô đi! Điều tôi muốn nói là những gì tôi nói tôi đều có ý đúng như thế,
và giữ nguyên như thế, dù sống hay chết!”
Tôi kéo Joe ra xa, và anh lập tức dịu lại; thực ra anh chỉ muốn bày tỏ
với tôi, theo một cách sốt sắng, đồng thời cũng như một lời lưu ý lịch sự
mang tính phê phán dành cho bất cứ ai tình cờ nó động chạm đến, rằng sẽ
không có chuyện anh để mình bị trêu chọc quấy nhiễu ngay dưới mái nhà
mình. Ông Jaggers đã đứng bật dậy khi Joe tỏ thái độ và lùi ra gần cửa.
Không hề bày tỏ chút mong muốn trở lại vào trong, ông luật sư đứng đó đưa
ra mấy nhận xét thay lời từ biệt. Nó là thế này:
“Thế đấy, cậu Pip, tôi nghĩ cậu càng rời khỏi nơi này sớm chừng nào -
vì cậu phải trở thành một quý ông - sẽ càng tốt chừng ấy. Hãy ấn định vào
ngày này tuần sau, và từ giờ đến lúc đó cậu sẽ nhận được bản in địa chỉ của
tôi. Cậu có thể thuê xe ngựa tại trạm cho thuê xe trên London, rồi đến thẳng
chỗ tôi. Hãy hiểu là tôi không đưa ra bất cứ quan điểm nào, theo hướng này
hay hướng khác, về việc tôi được tin cậy ủy thác. Tôi được trả tiền để thực
hiện nó, và tôi làm đúng như vậy. Bây giờ, cuối cùng hãy hiểu điều đó. Hãy
hiểu điều đó!”
Ông luật sư đang chĩa ngón tay về phía cả hai chúng tôi, và tôi nghĩ
hẳn ông ta còn muốn nói tiếp nếu không nghĩ Joe nguy hiểm và đành ra về.
Có một điều chợt lóe lên trong đầu tôi, thúc giục tôi chạy theo ông ta
trong lúc ông luật sư đi về phía quán Ba Thủy Thủ Vui Vẻ, nơi ông để cỗ xe
ngựa thuê lại.
“Ông chờ cháu một chút, ông Jaggers.”
“Ái chà!” ông ta thốt lên, quay người lại, “có chuyện gì thế?”
“Cháu muốn cư xử đúng đắn, thưa ông Jaggers, và làm đúng theo chỉ
bảo của ông; vì thế cháu nghĩ tốt hơn cháu nên hỏi ông. Có yêu cầu nào
không cho phép cháu tới chào tạm biệt một ai đó cháu quen sống gần đây
trước khi cháu đi không ạ?”
“Không,” ông luật sư đáp, trông có vẻ không hiểu nổi ý tôi.
“Ý cháu không phải ở trong làng, mà trong thị trấn cơ ạ?”
“Không,” ông ta nói. “Không có cấm đoán nào cả.”
Tôi cảm ơn ông ta và chạy trở về nhà, khi về tới nơi tôi thấy Joe đã
đóng cửa trước, rời khỏi phòng tiếp khách và đang ngồi cạnh bếp lửa, hai bàn
tay đặt lên hai bên đầu gối, trầm ngâm nhìn lò than cháy rực. Tôi cũng ngồi
xuống trước ngọn lửa và nhìn vào lò than, hai chúng tôi không ai nói gì với ai
suốt hồi lâu.
Chị tôi đang ngồi ở chỗ cái ghế tựa kê trong góc của chị, Biddy đang
bận bịu khâu vá trước ngọn lửa, Joe ngồi cạnh Biddy, còn tôi ngồi cạnh Joe,
ở trong góc đối diện với chị tôi. Càng nhìn lâu vào những hòn than cháy
hồng, tôi càng khó lòng ngước mắt lên nhìn Joe; im lặng càng kéo dài, tôi
càng cảm thấy khó lên tiếng.
Cuối cùng tôi cũng gắng gượng được, “Joe, anh đã nói cho Biddy biết
chưa?”
“Chưa, Pip,” Joe đáp, tiếp tục nhìn vào ngọn lửa, hai bàn tay nắm chặt
lấy hai bên đầu gối như thể có được tin mật báo cho hay chúng đang định
chuồn đi đâu đó, “chuyện này anh để cậu tự nói, Pip.”
“Em muốn anh nói thì hơn, Joe.”
“Pip có cơ hội trở thành quý ông,” Joe nói, “và mong Chúa ban phước
cho cậu ấy trong chuyện này!”
Biddy buông đồ khâu xuống, đưa mắt nhìn tôi. Joe nắm lấy đầu gối và
nhìn tôi. Tôi nhìn cả hai người. Sau một lúc im lặng, cả hai cùng chân thành
chúc mừng tôi; nhưng trong lời chúc của họ có phảng phất chút buồn bã làm
tôi khá phật ý.
Tôi quyết định phải gây ấn tượng với Biddy (và thông qua Biddy tới
Joe) về nghĩa vụ nghiêm túc hai người bạn của tôi bị ràng buộc, đó là không
được biết gì và nói gì về người tạo ra vận hội sắp tới của tôi. Tất cả sẽ được
tiết lộ vào đúng thời điểm, tôi nghĩ, và cho tới lúc đó sẽ không gì được nói ra,
ngoài chuyện tôi đang được hưởng gia tài lớn từ một người bảo trợ bí ẩn.
Biddy trầm ngâm gật đầu nhìn vào bếp lửa trong lúc cầm lại đồ khâu lên, và
nói cô sẽ làm đúng như vậy; còn Joe, vẫn nắm lấy hai bên đầu gối, nói,
“Được, được, anh sẽ làm đúng như vậy, Pip”; rồi hai người chúc mừng tôi lần
nữa, rồi cứ thế tiếp tục bày tỏ nhiều ngạc nhiên về chuyện tôi trở thành quý
ông đến mức tôi khó lòng thấy ưa nổi.
Sau đó, Biddy phải vô cùng khổ công để cố truyền đạt lại cho chị tôi
hiểu ít nhiều chuyện đã diễn ra. Theo như tôi thấy, những nỗ lực của cô đã
thất bại hoàn toàn. Chị tôi phá lên cười và gật đầu lia lịa rất nhiều lần, và
thậm chí còn lặp lại theo Biddy mấy từ “Pip” và “tài sản”. Nhưng tôi rất ngờ
chuyện chúng mang ý nghĩa gì đó chứ không phải chỉ là những tiếng ú ớ, và
tôi cũng không thể mường tượng ra nổi một bức tranh tối tăm hơn về trạng
thái tâm thần của chị.
Tôi chẳng bao giờ có thể tin nổi điều này nếu không thực sự trải qua,
nhưng khi Joe và Biddy đã vui vẻ thoải mái lại, tôi lại trở nên khá ủ dột. Tất
nhiên không thể có chuyện tôi không hài lòng với vận may của mình; nhưng
rất có thể tôi đã không hài lòng với bản thân mà không nhận ra.
Dù thế nào đi nữa, tôi đã ngồi chống khuỷu tay lên đầu gối, mặt tì lên
bàn tay, nhìn vào ngọn lửa trong khi hai người kia bàn về việc tôi sẽ ra đi, về
những gì họ nên làm khi không có tôi, tóm lại là mọi thứ. Và mỗi khi thấy
một trong hai người nhìn mình cứ như thể chưa bao giờ vui đến thế (và hai
người nhìn tôi khá thường xuyên - nhất là Biddy), tôi cảm thấy bị xúc phạm:
cứ như thể hai người đang tỏ ra nghi ngờ tôi. Cho dù có Chúa chứng giám, họ
chưa bao giờ thể hiện ra điều đó bằng lời nói hay cử chỉ.
Những lúc như thế tôi đứng dậy nhìn ra ngoài cửa; vì cửa ra vào nhà
bếp của chúng tôi thường mở một lúc buổi tối, và để mở vào những tối mùa
hè cho căn phòng được thoáng khí. Tôi sợ rằng đến cả những vì sao tôi ngước
lên nhìn lúc ấy cũng bị tôi coi là những ngôi sao nghèo khổ hèn kém vì chúng
lấp lánh trên những món đồ mộc mạc đã cùng tôi trải qua suốt quãng đời
trước đó.
“Tối thứ Bảy,” tôi nói khi chúng tôi ngồi vào bàn ăn tối với bánh mì,
pho mát và bia. “Thêm năm ngày nữa, rồi sau đó là hôm trước ngày đó!
Chúng sẽ nhanh chóng trôi qua.”
“Phải đấy, Pip,” Joe nhận xét, giọng anh vọng ra từ trong cốc bia anh
đang uống. “Chúng sẽ nhanh chóng trôi qua.”
“Rất, rất nhanh,” Biddy nói.
“Joe, em nghĩ rồi, khi em vào thị trấn hôm thứ Hai để may quần áo
mới, em sẽ nói với thợ may là em sẽ tới mặc chúng ngay tại chỗ, hoặc em sẽ
bảo họ chuyển chúng tới nhà ông Pumblechook. Sẽ thật khó chịu khi bị tất cả
mọi người ở đây nhìn chằm chằm.”
“Ông bà Hubble có thể sẽ thích thấy cậu trong vóc dáng lịch sự mới
của cậu đấy, Pip,” Joe nói trong khi cần mẫn tấn công suất bánh mì có phết
pho mát anh giữ trên lòng bàn tay trái, và liếc mắt nhìn bữa tối vẫn chưa được
động đến của tôi như thể nghĩ lại thời chúng tôi vẫn hay so sánh lát bánh của
mỗi người với nhau. “Cả ông Wopsle cũng thế. Và cả quán Ba Thủy Thủ Vui
Vẻ rất có thể sẽ coi đó như một vinh dự.”
“Đấy chính là cái em không muốn, Joe. Họ sẽ làm om sòm lên - tầm
thường và thô kệch - đó là cái em không chịu nổi.”
“À, cái đó thì phải, Pip!” Joe nói. “Nếu bản thân cậu không chịu nổi…”
Đến đây Biddy cất lời hỏi tôi, trong khi cô ngồi cầm đĩa cho chị tôi,
“Anh đã nghĩ khi nào anh sẽ diện đồ mới để ông Gargery, chị anh và em xem
chưa? Anh sẽ cho mọi người xem chứ; phải không nào?”
“Biddy,” tôi đáp lại, có chút bực bội, “em nhanh quá thể, đến mức thật
khó mà theo kịp em.”
(“Cô bé lúc nào cũng nhanh,” Joe nhận xét.)
“Nếu em chịu khó đợi thêm một chút nữa, Biddy, chắc em đã được
nghe anh nói là anh sẽ mang tất cả quần áo của anh về đây vào một buổi tối -
chắc là buổi tối trước khi anh đi.”
Biddy không nói thêm gì nữa. Hào phóng tha thứ cho cô, chẳng mấy
chốc sau đó tôi trìu mến chúc cô và Joe ngủ ngon, rồi leo lên cầu thang về
giường mình. Khi vào trong căn phòng nhỏ của mình, tôi ngồi xuống, nhìn
quanh nó hồi lâu như nhìn căn phòng chật chội tồi tàn nơi tôi sẽ sớm rời khỏi
và vươn lên khỏi nó mãi mãi. Căn phòng này còn chứa đựng cả những hồi ức
thơ trẻ còn tươi mới, và thậm chí trong khoảnh khắc đó tôi vẫn cảm thấy sự
phân vân khó nghĩ về nó và những căn phòng đàng hoàng hơn nơi tôi sắp tới,
hệt như tôi vẫn hay so sánh giữa lò rèn và nhà cô Havisham hay giữa Biddy
và Estella.
Mặt trời đã chiếu sáng rực rỡ cả ngày trên mái căn phòng áp mái của
tôi, nên trong phòng rất ấm áp. Khi đẩy mở cửa sổ và đứng nhìn ra ngoài, tôi
trông thấy Joe chậm rãi đi ra từ khung cửa ra vào tối om bên dưới rồi đi một
hai vòng ngoài trời; rồi sau đó tôi thấy Biddy tới, mang cho anh một cái tẩu
và châm tẩu cho anh. Anh chưa bao giờ hút thuốc muộn đến vậy, và điều đó
dường như mách bảo tôi anh đang cần được an ủi vì một lý do nào đó.
Lúc này Joe đứng trên ngưỡng cửa ngay bên dưới tôi, hút tẩu thuốc và
cả Biddy cũng đứng đó, khẽ nói chuyện với anh, và tôi biết hai người nói về
mình, vì tôi nghe thấy tên mình được cả hai nhắc đến đầy trìu mến không chỉ
một lần. Tôi không cần lắng nghe thêm nữa dù có thể nghe thấy nhiều hơn;
vậy nên tôi rời cửa sổ, ngồi xuống cái ghế độc nhất kê cạnh giường và cảm
thấy thật buồn và lạ lùng biết mấy khi buổi tối đầu tiên mở ra vận hội sáng
sủa cho tôi cũng lại là buổi tối cô đơn nhất tôi từng biết đến.
Nhìn về phía khung cửa sổ để mở, tôi thấy ánh sáng từ tẩu thuốc của
Joe hắt lên chập chờn phía bên ngoài, và tưởng tượng ra đó là một lời chúc
phúc từ Joe - không bắt ép hay lượn lờ trước mặt trời, mà tràn ngập trong
không khí chúng tôi cùng chia sẻ. Tôi thổi tắt nến rồi leo lên giường; giờ đây
nó trở thành một cái giường đầy bứt rứt, và tôi không bao giờ tìm thấy trên nó
giấc ngủ êm đềm ngày trước nữa.