Số lần đọc/download: 1745 / 23
Cập nhật: 2016-12-10 10:33:18 +0700
Chương 2
Đ
ến ngày thứ ba thì chúng tôi đã quen với cuộc sống trên tàu. Hôm ấy, khi lên boong chơi, chúng tôi nhận thấy chúng tôi đang đi qua một hải lộ rộng lớn, bên trái là bán đảo Mã Lai và bên phải là quần đảo Sumatra. Chúng tôi cảm thấy ngây ngất trước vẻ đẹp của vùng biển nam Thái Bình Dương.
Mặt biển, bầu trời và những hòn đảo đều óng ánh như những viên ngọc quí rực sáng. Những chùm ngọc bích và miêu nhãn thạch dường như bồng bềnh sát bên nhau. Một bầu trời, lấm tấm những cụm mây trắng, đang soi bóng trên mặt đại dương tựa như một tấm gương. Giữa bầu trời và mặt đại dương khối đất vĩ đại từ từ xoay quanh chúng tôi. Đủ mọi thứ phà biển, hải đăng và làng mạc hình thù kỳ dị nhô lên rõ mồn một, rồi lại biến dạng sau một gò đất khác. Nước biển liên tiếp liếm mạn tàu khiến chúng tôi cảm thấy như thể tim mình đang được lau rửa cho sạch sẽ. Mặt trời nóng ran, gió biển dịu mát và chúng tôi cảm thấy như đang bay bổng trong không khí thay vì đi trên tàu biển.
Chúng tôi đi ra phía boong cuối tàu và ngồi dưới tấm bạt đang bay phần phật. Đại úy móc túi áo ngực lấy lá thư ra. "Nào, chúng ta đọc thư." Ông nói. Cẩn thận và hầu như cung kính, ông bóc chiếc phong bì và lấy ra một thếp giấy khoảng ba mươi trang đầy kín nét chữ viết nắn nót.
Đại úy liếc qua một vòng. "Tôi chắc tất cả anh em đều đã có mặt ở đây rồi," ông nói. "Bây giờ chúng ta sẽ đọc thư của Mizushima. Sự thực là khi ở Mudon tôi chán nản quá chừng, vì lẽ chú ấy không trở về với chúng ta. Và sau khi tôi nhận định là chú ấy vẫn có thể hãy còn sống thì nhiều điều lạ kỳ đã xảy ra nên tôi lại càng cảm thấy đứng ngồi không yên. Tôi xin lỗi đã để tất cả anh em bận tâm lo âu. Lâu rồi tôi cứ đinh ninh Mizushima hẳn phải là vị sư Miến Điện ấy. Nhưng tôi lưỡng lự không nói ra điều gì cho đến khi có chứng cớ hiển nhiên hơn. Trong lúc ấy chúng ta khám phá ra rằng người ấy chính là Mizushima và rồi chúng ta lại nhận được thư này.
'Vâng, tại sao chú ấy không trở lại với anh em chúng ta, và chú ấy hiện đang làm gì mà lại cải trang như một tu sĩ? Tôi nghĩ tôi biết câu trả lời khi tôi nhìn thấy cái hộp sắt ấy ở trong nhà quàn. Điều bí ẩn đã được giải quyết, như chỗ tôi biết. Tôi hiểu Mizushima. Tôi nghĩ lá thư này sẽ chứng tỏ là tôi đã không nghĩ lầm về chú ấy." Nói thế rồi, đại úy bắt đầu đọc:
Các bạn thân mến,
Tôi chẳng thể nói để các bạn rõ tôi đã ước ao muốn gặp các bạn đến chừng nào, tôi đã mong muốn trở về với đại đội đến độ nào, để làm việc với các bạn, để nói chuyện với các bạn và để ca hát với các bạn. Tôi sẽ không bao giờ quên những niềm vui và những nỗi khổ mà chúng ta đã cùng nhau chia sẻ ở cái xứ xa lạ này. Nhất là tôi không thể nói cho các bạn hay tôi đã mong muốn trở về đất nước chúng ta - đã thay đổi khủng khiếp đến thế - đến mức nào và để được đoàn tụ với gia đình tôi
Đã nhiều lần tôi bí mật nhìn ngắm các bạn khi các bạn đi ra ngoài làm công tác xây cất, hoặc ca hát ở trong trại giam. Ngay cả khi ở xa, tôi cũng thường nghĩ đến các bạn một cách nhớ nhung, thèm muốn và không làm sao cầm lòng không trở lại Mudon. Đã nhiều lần tôi đứng bên ngoài hàng rào vây quanh các bạn đến tận bình minh, đứng đó để nhìn căn nhà chòi lợp rạ nơi các bạn đang ngủ. Nhưng bây giờ ngay cả niềm an ủi ấy cũng đã qua rồi.
Tôi sẽ không trở về Nhật Bản. Tôi đã nguyện ở lại Miến Điện. Mặc quần áo như các bạn đã thấy đấy, tôi sẽ đi hết xứ này xuyên núi và vượt sông. Có một công tác phải làm ở nơi đây. Tôi không thể rời bỏ chừng nào chưa hoàn tất công tác ấy. Kể từ đây và nhiều năm về sau, khi làm xong công tác, tôi mới có thể tìm cách trở về Nhật Bản. Hoặc có lẽ tôi sẽ sống suốt cả đời ở nơi này; bây giờ thì tôi đã là một nhà sư, một tỳ kheo của đức Phật. Bất kỳ điều gì tôi làm, tôi sẽ vâng theo ý muốn của Ngài.
Từ trước đến giờ, tôi đã chăm nom, săn sóc những người Nhật Bản chết nằm phơi thây rải rác khắp xứ này. Tôi đào huyệt chôn những nắm xương trắng hếu của họ, để cho họ có một nơi an nghỉ cuối cùng. Hàng trăm nghìn thanh niên đồng bào của tôi đã bị động viên vào quân đội để rồi bị thua trận, chạy dài và bị giết chết - và bây giờ xương cốt của họ nằm bơ vơ không ai nhìn nhận. Đó là một cảnh tượng đau lòng. Một khi mục kích cảnh tượng ấy, tôi cảm thấy có bổn phận phải chăm nom, săn sóc những xác người bị bỏ quên này. Tôi chẳng thể tự mình rời bỏ nơi này chừng nào chưa làm xong phần nào công tác.
Như đại úy đã nói, tôi nghĩ tất cả anh em chúng ta sẽ trở về Nhật Bản và cùng nhau làm việc để xây dựng lại đất nước. Cho đến lúc này tôi vẫn muốn làm như thế. Nhưng một khi nhìn thấy những người đã chết đang bị bỏ rơi lại đằng sau chúng ta, tôi cho là tôi phải đè nén ước muốn ấy. Và điều này không phải chỉ là quyết định của riêng tôi. Hơn thế, có một tiếng gọi dịu dàng nhưng tha thiết đã yêu cầu tôi làm điều ấy. Tôi chỉ có thể cúi đầu và lắng nghe tiếng gọi dịu dàng, tha thiết này mà thôi.
Sau bài hát chia tay hôm nay, tôi đánh đàn đệm theo, cuối cùng tôi đã hoàn toàn chấp nhận là sẽ ở lại đây. Tôi sẽ ở lại xứ này trong khi các bạn trở về xứ sở. Xin các bạn quay về với quê hương trong tinh thần vui tươi - và làm việc hăng hái giùm tôi nữa.
Bây giờ tôi sẽ kể cho các bạn hay tất cả những gì đã xảy ra với tôi kể từ hôm tôi rời các bạn tại ngôi làng trong núi ấy.
Khi đại úy đọc đến chỗ này, người lính già nhắm nghiền mắt lại và chắp hai tay cầu nguyện. Vài người khác làm theo ông.
Con vẹt đang đậu trên dây căng tấm bạt; Đúng lúc ấy nó thốt kêu, giọng cao vút nghe như hát: "A, tôi không thể trở về quê hương được đâu " Những lời này kéo dài trong một tiếng thở dài ảo não.
Chúng tôi nhìn lên. Con vẹt xanh nghển đầu rồi nghiêng về một bên nhìn xuống chúng tôi. '
Trong lúc tiếp tục đọc, nét mặt đại úy bừng tươi vì vui sướng; không ngờ ông đã đoán đúng.
Tôi vội bước theo người lính Anh Cát Lợi và người dẫn đường, nhưng gần đến bốn giờ chiều chúng tôi mới tới quả núi lởm chởm ấy. Sau đó, tôi thấy tôi hầu như đang đi qua một làn sương mù dày đặc - trong đầu óc tôi không có cái gì rõ rệt cả. Tôi cũng không hiểu tường tận những sự việc liên tiếp xảy ra. Những gì tôi nhớ chỉ toàn là những cái vụn vặt, tuy nhiên, cũng linh động như thể tất cả mới xảy ra hôm qua.
Lúc chúng tôi đi qua rừng cây, tôi nghe thấy tiếng đạn đại bác gầm rít, và mỗi lúc càng trở nên rền vang, rõ rệt hơn. Rừng cây khá rậm rạp nên che kín cả mặt trời, tuy nhiên chúng tôi vẫn có thể nhìn thấy tia sáng như ánh chớp thỉnh thoảng lóe lên giữa đám cây cối - và rồi, lúc chúng tôi đếm "... ba, bốn, năm" thì một tiếng nổ long trời lở đất vang lên làm chúng tôi loạng choạng. Ngọn cây run rẩy vì tiếng nổ này. Chim chóc bay đi hết và không có một tiếng hót nào. Tôi nhìn thấy một cặp thằn lằn to tướng dài khoảng sáu mươi phân, miệng ngoạm vào nhau và hình như đã chết.
Cuối cùng chúng tôi ra khỏi rừng cây, rồi bất chợt gặp ngay ánh nắng chan hòa. Thẳng ngay phía trước mặt chúng tôi sừng sững ngọn núi hình tam giác màu xám. Một khối đá trọc lóc khổng lồ - một vách đá thẳng tắp vươn lên từ một lòng sông ngoằn, ngoèo, toàn mặt đầy những lỗ lốm đốm như tổ ong - trông như thể đã bị đào khoét để lấy đá ra hoặc chẳng khác gì một nơi người ta ẩn náu. Có vẻ những lỗ ấy, do một đường hầm, ăn thông vào bên trong. Từ miệng những hầm này làn khói súng mỏng manh tạt ra rồi lan ngược vách đá, thầm lặng dâng lên trong ánh nắng sáng tươi. Thỉnh thoảng lại có một tia khói súng lóe lên. Toàn bộ ngọn núi khô cằn, hoang lạnh hình như đang sống lại.
Bộ chỉ huy lực lượng tấn công Anh Cát Lợi đóng ở trong rừng. Nhờ người lính đi theo, tôi đã có thể gặp viên sĩ quan chỉ huy trưởng ngay tức khắc. Đứng tuổi, tóc muối tiêu, ông ta trông có vẻ có óc phán đoán. Sau khi lắng nghe lời giãi bày, ông ta nhìn tôi chằm chằm một lúc, rồi quyết định.
"Được,' ông ta nói. "Thử xem nếu anh có thể thuyết phục tụi nó đầu hàng. Nhưng tôi sẽ chỉ cho anh có đúng ba mươi phút - không hơn một tích tắc' Lúc tôi chào rồi bước đi, ông ta gọi với theo và nói: 'May mắn nhé!'
Tôi cắm đầu đi từ bộ chỉ huy quân đội Anh tới đỉnh núi hình tam giác, vừa đi vừa chạy qua những giao thông hào nằm giữa nơi này và quả núi. Vùng này hình như trước kia là vị trí đóng quân của quân đội Nhật, nhưng bây giờ là vùng đất cấm địa không người, ngổn ngang những cây cháy đen thui và gãy nát tan tành. Xác người chết nằm ngay tại chỗ họ đã ngã xuống. Có những khẩu đại bác bị phá hủy hoàn toàn, mặt đất đầy những maniven, bánh xe răng khía, nẹp sắt cong queo làm bằng đủ thứ kim khí. Ngay cả mặt đất cũng cháy khô. Thật là một quang cảnh tàn phá ngoài sức tưởng tượng.
Vừa lúc tôi nhô đầu khỏi giao thông hào cuối cùng và đặt chân lên một mặt đá thoai thoải thì một loạt súng từ đỉnh núi khạc đạn bắn trúng quanh chân tôi. Bụi tre phía sau lao xao như thể có gió thổi qua và nhiều cây ngả gãy như thể đã bị một lưỡi liềm khổng lồ vô hình chặt đứt. Tôi lao mình nằm sát mặt đất. Lúc nhớ lại tôi thấy toàn bộ cảnh ấy hình như im lặng một cách kỳ lạ. Tôi chỉ nhìn thấy những viên đạn trượt khỏi mặt đá và những cây tre từ từ ngả xuống. Hướng về phía đỉnh núi, tôi cất tiếng gào, nhưng ngay cả chính tiếng nói của tôi cũng hình như thuộc về người khác.
Sau một lúc tôi đứng dậy và vẫy tay, nhưng một loạt đạn khác lại nổ ròn đáp lời tôi. Đạn súng máy đan quanh người tôi, và từ những chỗ đạn bắn trúng bụi đất bay lên. Đá vỡ thành mảnh nhỏ bắn tứ tung và cỏ bắt đầu cháy. Tôi lại gieo mình nằm xuống sát mặt đất.
Vì nghĩ cứ làm như thế này xét ra cũng vô ích, nên tôi, đã từ mặt đá thoai thoải nhảy xuống và bắt đầu cắm cổ chạy thẳng về phía trước. Hẳn họ đã nhận ra tôi là người Nhật vì tiếng súng im bặt tức khắc. Tôi bò lên mặt núi gồ ghề lởm chởm. Vài người lính Nhật đi ra cửa hầm và điệu tôi vào trong.
"Biết đường hả?' Họ hình như vui mừng khi nhìn thấy tôi.
"Làm sao mà anh tìm thấy?"
"Đồ trang bị đâu cả rồi?"
Đầu óc anh căng thẳng lắm rồi Có người đổ đầy đến tận miệng một nắp sắt chất gì dường như là nước lã và đưa cho tôi. "Này, uống cái này đi!" Tôi làm một ngụm hết liền. Sau đó tôi mới nhận ra đó là rượu saké.
"Chúng tôi sẽ đánh đến người cuối cùng, một người trong bọn nói với tôi.:"Anh có thể nhập bọn với chúng tôi anh không có súng hả? Vậy, cầm lấy khẩu này đi." Người ấy đưa cho tôi một khẩu súng.
Một người trông có vẻ là đại úy chỉ huy của họ từ trong hầm đi tới. Trong hầm tối om đến độ thoạt đầu tôi chẳng thể nhìn thấy gì cả, nhưng đến lúc này tôi nhìn thấy một đám thanh niên túm tụm ở miệng hầm và đang nhìn tôi. 'Rất mừng được gặp anh Ị" Họ nói, miệng mỉm cười nhăn nhó, gượng gạo. "Đồ trang bị của anh đâu cả rồi?' Tất cả họ đều trần trùng trục, từ thắt lưng trở lên, sẳn sàng chiến đấu; những thân hình gầy guộc, đen xì vì khói súng và những cặp mắt đỏ ngầu như vấy máu.
Đại úy có đôi vai rộng, khuôn mặt tròn trĩnh, hồng hào và lớp ria mép lún phún. Trông ông vô cùng cương quyết. Tôi có thể nhận ra ngay rằng binh sĩ yêu mến ông. Vào dịp này ông lấy làm khoái trí chứng tỏ cho một người ngoài cuộc biết là đại đội của ông đang chiến đấu đến người lính cuối cùng. Lúc nắm tay tôi, mắt ông sáng lên.
"Chúng ta đang thực sự cho chúng nó biết tay phải không nào?' ông nói. "Tinh thần khá cao, hử?' Đoạn ông hỏi có phải tôi mang tin tức gì không.
Đứng nghiêm trước mặt ông, tôi nói rõ nhiệm vụ của tôi. Tôi nói cho ông biết những gì đã xảy ra cho các lực lượng Nhật Bản khác và yêu cầu ông đầu hàng.'
Bất thình lình, trong lúc tôi còn đang cố gắng giải thích tình hình đại úy hét lên: 'Đủ rồi!' Gân máu trên trán, trên cổ phồng tím vì tức giận, quá ư tức giận nên ông không thể nói chuyện. 'Làm sao mà anh có thể nói đầu hàng! Tiếng ấy nghe tởm lắm! Nếu bây giờ chúng tôi đầu hàng chúng tôi sẽ sỉ nhục những người đã chết. Đại đội của chúng tôi không hèn nhát như đại đội của các anh. Chúng tôi sẽ chiến đấu cho đến khi bị tiêu diệt hoàn toàn '
"Bị tiêu diệt hoàn toàn thì có ích lợi gì không ạ?' Tôi nói. 'Chúng ta phải làm thế nào để sống, chúng ta phải sống, phải tranh đấu và vật lộn vì tổ quốc chúng ta.'
'Vì tổ quốc chúng ta! "Một người lính trong bọn vừa thốt lên một cách khinh khi vừa đưa mắt nhìn đại úy của anh ta. "Còn gì là ái quốc cho bằng khi nói đến chuyện đầu hàng!'
"Trong đại đội của chúng tôi không có ai hèn nhát như thế đâu! " Một người khác nói. Người này cũng nhìn đại úy. Ông gật đầu một cách biểu đồng tình.
"Nếu ở bên nhà không có người đầu hàng thì làm sao Nhật Bản lại có thể thua trận được?"
Tất cả họ đều nói như thế trong khi uống rượu saké múc ra từ một cái thùng không nắp đặt ở giữa hầm.
Trong lúc lắng nghe tôi cảm thấy rằng những con người phẩn nộ này đang bị một sức mạnh kỳ lạ chế ngự. Có lẽ họ đang nghĩ những ý nghĩ khác nhau, tuy nhiên là một nhóm người thì tính cách cá nhân của họ đã biến mất. Vì đã kích thích nhau bằng một sự biểu lộ giả tạo lòng can đảm nên họ không thể lùi bước được nữa. Một cái gì đang quyết định và chỉ huy cả nhóm, chứ không phải ý chí của một cá nhân. Tôi không còn biết làm thế nào để đương đầu với sự bướng bỉnh này. Hiển nhiên là một số người trong bọn đã quyết tâm chiến đấu đến chết - tuy nhiên, hình như cũng có những người nghi ngờ không biết liệu đó có phải là một hành động hợp lý hay không. Nhưng họ không thể nói ra. Hơn thế, vì quá yếu để chống lại đám đông, họ đã không hiểu tình hình thực sự. Họ không có cách nào phán đoán tình hình cả. Ngay dù có muốn xác định thái độ, họ cũng không có cái gì chắc chắn để bấu víu vào. Đó là lý do tại sao cuộc tranh luận gay cấn nhưng lung tung đã chiếm hết ngày - hoặc có vẻ như thế.
"Cút đi! Anh không phải là một người Nhật; anh là một kẻ hèn nhát bẩn thỉu. Thôi cút đi!"
"Không. Tôi không đi. Tôi sẽ ở lại đây cho đến khi nào các anh bình tĩnh trở lại."
"Nếu không đi, anh sẽ mất mạng ở đây - anh không muốn mất cái mạng sống quí báu của anh chứ gì?"
"Tôi không muốn hy sinh đời mình một cách vô ích."
"Ồ! Anh nghĩ chúng tôi đang chiến đấu một cách vô ích chứ gì?”
"Không ích lợi cho tổ quốc hoặc cho chính các anh. Rõ ràng là thế. Chẳng cần đặt vấn đề nữa."
"Đồ phản bội"
Một người lính lấy hết sức đánh tôi. Tôi tránh và anh ta đấm ngay vào cây đàn tôi đeo trên vai.
"Cái ấy là cái gì?" Người ấy hét. "Muốn giở trò gì với một vật như thế?”
"Tôi dùng vật này để gửi đi những tin mật " Tôi quát lại.
Hết giờ rồi. Một lần nữa tôi nói với đại úy:"Thưa đại úy, đại úy phải chịu trách nhiệm về sinh mạng của những người này!" Tôi nói toạc ra cho ông nghe. "Nếu họ chết, một cách không cần thiết, liệu đại úy có nhận lời khiển trách không? Đại úy có thể tự mình giải thích với tổ quốc và gia đình họ không?"
Đại úy nín thở, như thể vừa bị tát vào mặt. Ông do dự một lúc rồi quay lại và nói: "Được, để biết kết quả hãy xem mọi người phát biểu ý kiến."
Theo lệnh ông, tất cả xếp hàng đi qua một lỗ hổng nhỏ ở đằng cuối sang một cái hầm khác, để người lính gác ở lại với tôi.
Tôi nhìn đồng hồ. Chỉ còn mười phút thôi.
Tôi cảm thấy bối rối và nôn nóng. Trong hầm bên kia có nhiều tiếng nói lớn giọng. Tôi hét vào trong đó:"Xin các anh quyết định trong năm phút tới!"
Người lính gác thì thầm: 'À mà này, tình hình ra sao hở?' Anh ta hình như có vẻ khó chịu lắm. Đoạn, anh ta tiếp lời, như thể lầm bầm với chính mình: 'Trong hầm ấy có nhiều người bị thương lắm và họ đều nói họ muốn dứt khoát đi cho rồi..:
Tôi nghe thấy đại úy đặt câu hỏi và những người lính hét to trả lời. Vài phút sau, họ trở lại trong trạng thái kích thích tột độ. Hiển nhiên là cái tinh thần đã đưa họ đi xa đến thế này vẫn bất di bất dịch. Nếu được thầm lặng nói chuyện với họ độ khoảng một giờ gì đó, có lẽ tôi đã có thể thay đổi ý định của vài người, nhưng dưới áp lực nhưthế này, chẳng làm gì được. Chỉ còn có đúng năm phút nữa mà thôi.
Dán mắt vào tôi chằm chằm, đại úy tuyên bố, giọng thật lớn: "Mọi người ở đây quyết tâm chiến đấu cho đến chết để bảo vệ vị trí. Ai cũng đồng ý như vậy.
Tôi cứng họng không nói được gì. Tôi cảm thấy máu chạy mạnh lên đầu. Vài người lính đang hô: "Hoan hô! Muôn năm"
Bàng hoàng, tôi bắt đầu đi ra phía cửa hầm. Những gì tôi có thể làm bây giờ ấy là yêu cầu vị chỉ huy người Anh cho tôi thêm chút ít thời gian nữa. Khi tới cửa hầm, tôi nghe thấy tiếng đả kích vang ở phía sau.
"Đồ khiếp nhược! Quân hèn nhát cố mà bảo vệ lấy tấm thân nghe chưa!"
Tuy nhiên, giọng nói của họ nghe đầy thương hại, những giọng nói cay đắng, đố kỵ của những người tận số xổ vào mặt một người sẽ tiếp tục sống.
Tôi đâm ra giận dữ và hét một cách man rợ: "Đây không phải hạng hèn nhát!"
'Vậy tại sao lại tự ý bó tay đầu hàng?"
"Cuộc sống đối với anh đắt giá lắm phải không?"
Nhìn lại, tôi thấy họ đang túm tụm, tay choàng lên vai nhau, trông thật thiểu não.
"Xin lắng nghe!" Tôi hét. "Trong ba phút nữa tụi Anh sẽ tấn công; Tôi sẽ đi ra và sẽ là người đầu tiên ngã xuống- Khi tôi chết rồi,các anh sẽ đầu hàng. Các anh sẽ thấy tôi có phải đứa hèn nhát không!"
Tôi nhảy khỏi hầm, rồi lao vút tới một gốc cây đã bị chặt cụt tại chỗ đất không một bóng người nằm giữa vách đá và vị trí dàn quân của quân đội Anh. Để chân lên gốc cây cụt, tôi đặt cây thụ cầm lên đầu gối và bắt đầu đánh đàn.
Khoảng một phút sau quân Anh nổ súng. Quân Nhật ở trên núi bắn trả lại. Khói súng và mùi thuốc súng khét lẹt bay tạt vào lỗ mũi tôi. Chẳng mấy chốc làn khói ấy đã bao lấy tôi như một đám sương mù dày đặc; đứng giữa đám khói, trong khi cảm thấy như bị tê cóng, tôi bấm đàn lia lịa.
Đạn bay qua tai tôi rít lên như tiếng roi vụt. Tôi nghe thấy tiếng chẻ xé, gãy đổ quanh mình đến hết hồn. Mặt vách đá lỏm chởm bắt đầu lỗ chỗ, sứt sẹo chỗ này chỗ kia. VỊ trí quân Anh cũng bị bắn phá ác liệt.
Thoạt đầu tôi không thể nghe rõ tiếng đàn của chính mình. Nhưng sau một lúc tiếng nhạc thấm sâu vào tai tôi đã bị ù điếc. Tiếng nhạc dần dần ngân to hơn, và lúc lắng nghe tôi có cảm tưởng như thể thân xác và tâm hồn tôi đang lơ lửng bay trong khoảng không. Cuối cùng cây đàn đang hát thực sự. Trước kia cây đàn chưa bao giờ lại ngân vang to và rõ đến thế. Không khí dày đặc khói súng, cuồn cuộn và ngộp thở.
"Hát lên!" Tôi hét trong lúc bấm liên miên. -"Hát lên cho đến khi dây của mi phựt đứt! Khi mi thôi ngân hát và ta đã chết thì những người kia sẽ được cứu sống."
Nhưng rồi một viên đạn bắn trúng ngay cây đàn nghe đánh phập một tiếng làm những bông hoa lan khoa và những chiếc lông chim gắn trên đó bay tứ tung. Cây đàn bị phá hủy.
"Bây giờ thôi thế là hết!" Tôi gào to.
Nhiệm vụ của tôi hoàn toàn thất bại. Tôi đứng đó chán nản hết sức, cây đàn lủng lẳng trên tay, và rồi tôi cảm thấy một cái gì giống như một cái gậy nện vào đùi đã đánh ngả tôi xuống. Tôi cố gắng đứng dậy, nhưng lại lăn kềnh ra. Chân trái tôi lạnh và ướt; tôi thấy chân tôi đang chảy máu.
Trong lúc nằm trên mặt đất, tôi biết là tôi đang ngất lịm. Dẫu vậy tôi vẫn có cảm giác thanh thản và thoải mái. Dường như không có cái gì khác khiến tôi quan tâm; tôi không cảm thấy sợ sệt hãi hùng. Tôi nhớ là đã uể oải ngắm quang cảnh ấy như thể đang ngắm đèn kéo quân. Từ miệng hầm một lá cờ trắng treo lửng lơ. Rồi lính Nhật đổ ra và quân Anh ngừng bắn.
Tôi đờ đẫn nhìn bầu trời. Tôi nhớ những đám mây trắng đang bồng bềnh trôi trên một nền trời chiều xanh ngắt. Bầu trời và dãy núi xung quanh dường như đang cuồng nộ dồn hết tốc lực về phía tôi.
Sau đó một lúc tôi thấy có người khuân đồ đạc ra khỏi hầm dãy núi lởm chởm. Tâm trí tôi bắt đầu tỉnh táo một chút, tôi khát nước quá chừng, cuống họng dường như đang bốc lửa. Thế rồi tôi chợt nghe thấy tiếng nước chảy ở một nơi nào đó phía dưới chỗ tôi đang nằm. Chẳng đắn đo gì nữa, tôi bắt đầu bò về phía tiếng nước róc rách. Tôi chưa cảm thấy đau đớn vì vết thương, nhưng toàn thân đã cứng đơ như thể bị trói lại và kìm kẹp.
Tôi cứ tiếp tục bò cho đến khi tới một tảng đá lớn bằng phẳng gần chân núi. Tôi nghe thấy tiếng thác nước ở phía dưới. Khi ngả người về phía trước, tôi thấy tảng đá gối mỏm trên mép một gò đất thấp. Tôi ngả, và mọi thứ trở nên tối om.