Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Chương 15
M
isha la lên đầy kinh hãi trên điện thoại. Arkady mặc vội quần áo trong khi Irina vẫn còn đang ngái ngủ, cánh tay vắt ngang giường qua chỗ anh vừa nằm.
“Tôi phải đi gặp một người bạn. Chúng tôi sẽ dừng lại ở một nơi nào đó trên đường,” Arkady nói khi William Kirwill lên xe.
“Tôi còn bốn ngày ở đây, và tôi đã phí cả ngày hôm qua chờ đợi anh đến,” Kirwill nói. “Ngày hôm nay, anh nói cho tôi biết ai giết Jimmy hoặc tôi sẽ giết anh.”
Khi Arkady bắt đầu rời khách sạn Metropole và lái xe tới quanh Quảng trường Sverdlov, anh cười thật lớn. “Ở Nga anh phải xếp hàng.”
Ở Serafimov 2, họ bước lên tầng hai. Cánh cửa họ đi tới không có khóa và được dán một tấm ghi chú mà Arkady đã mong chờ. Khi anh gõ cửa, một người phụ nữ lớn tuổi đang bế một đứa bé với cái đầu không một sợi tóc và khuôn mặt hằn những mạch máu ra mờ. Người phụ nữ nheo mắt lườm khi Arkady xưng danh.
“Tôi nghĩ rằng căn hộ này sẽ bị niêm phong,” anh nói. “Hai người đã chết tại đây một tuần trước, người chủ nhà và một thám tử cảnh sát.”
“Tôi chỉ là một bà già. Tôi không biết gì về điều đó cả.” Bà ta nhìn Arkady rồi lại nhìn Kirwill. “Dù sao thì, tại sao một căn hộ còn tốt lại trống được chứ? Mọi người cần chỗ ở.”
Không còn gì liên quan tới Boris Golodkin có thể được thấy trên cánh cửa. Những tấm thảm của tay buôn chợ đen, những chiếc máy ghi âm và những chồng quần áo ngoại quốc đã biến mất và ở chỗ của họ có một chiếc ghế sô pha được làm giống như một chiếc giường, một thùng các tông đựng đĩa, và một cái ấm đun trà cổ. Pasha và Golodkin có thể đã chết trong một căn hộ khác.
“Bà có tìm thấy cái rương nào ở đây không?” Arkady hỏi. “Có thể nó nằm trong một kho cất đồ dưới tầng hầm? Giống như những chiếc rương trong nhà thờ sao?”
“Chúng tôi cần một cái rương nhà thờ để làm gì chứ? Chúng tôi làm được gì với nó?” Bà bước tránh sang một bên. “Tự mà tìm đi. Những người thật thà sống ở đây, chúng tôi chẳng có gì che giấu cả.”
Hoảng sợ, đứa bé như một con sâu nhào vào lòng bà. Arkady mỉm cười và đứa bé giật mình đến nỗi nó lại cười nhe lợi và nhỏ dãi lòng thòng.
“Bà nói hoàn toàn đúng,” Arkady nói. “Tại sao một căn hộ còn tốt lại bị lãng phí được?”
Arkady gặp Misha ở một nhà thờ nhỏ gần cuối Serafimov. Đó là nhà thờ Thánh gì đó, một trong những nhà thờ lớn trước đây đã được đặt một cái tên khác là “bảo tàng”, được bình thường hóa và cải tiến bởi cuộc khôi phục văn hóa. Một hàng rào bằng giàn giáo mục rữa quanh những bức tường đổ nát. Arkady đẩy cánh cửa và bước vào trong bóng tối, thoáng thấy một vũng nước và những chú chim đang đậu trên sàn đá trước khi cánh cửa khép lại. Một que diêm bùng sáng và châm lửa cho ngọn nến, soi rõ Misha. Arkady có thể thấy bốn cột trụ trung tâm của nhà thờ, những thanh khung đã gãy của những bức hình thánh và ánh sáng mờ ảo từ mái vòm hắt xuống. Những giọt nước mưa chảy thành dòng xuống quanh những chiếc cột. Bên trong tòa nhà từng được chất đầy những tượng Thánh, thiên thần và tổng lãnh thiên thần, nhưng những mảng thạch cao đã rạn nứt, lớp sơn đã phai nhạt và tất cả còn lại là những hình dáng lơ lửng trên không trong ánh sáng hiu hắt của ngọn nến. Chim bồ câu xao xác trong những ô cửa vỡ vụn của mái vòm.
“Anh đến sớm đấy,” Misha nói.
“Có gì không ổn với Natasha à? Tại sao chúng ta không nói chuyện ở nhà anh được?”
“Anh đến sớm nửa tiếng.”
“Thế thì cả hai chúng ta đều đến sớm. Nói chuyện đi.”
Misha có vẻ kỳ lạ, mái tóc bù xù của anh ta không được chải, quần áo nhìn như được mặc vào khi ngái ngủ. Arkady thấy ổn khi anh đã thuyết phục Kirwill ở lại trong chiếc xe bên ngoài. “Có phải đó là Natasha?” Anh hỏi.
“Đó là Zoya. Luật sư của cô ấy là một người bạn của tôi và chúng tôi đã nghe thấy những lời khẳng định rằng cô ấy sẽ đưa sự việc ra tòa. Anh biết phiên hòa giải vụ ly dị của anh được bắt đầu vào ngày mai, đúng không?”
“Không.” Arkady không hề ngạc nhiên, anh chẳng cảm thấy gì trước tin này.
“Ai cũng nói về Đảng theo cách anh nói, nhưng không phải để lặp lại trong phiên tòa của anh. Anh, một trưởng thanh tra. Và còn tôi thì thế nào?” Misha hỏi. “Anh đã nói những điều đó về tôi, một luật sư! Điều đó có trong đơn của cô ấy nữa. Tôi sẽ mất Thẻ Đảng. Tôi sẽ xong đời trước tòa, tôi không thể quay trở lại được.”
“Tôi rất tiếc.”
“Chà, anh chưa bao giờ là một Đảng viên tốt. Tôi cố gắng từng ngày theo mọi cách tôi có thể để giúp đỡ công việc của anh, và anh ném nó vào mặt tôi. Bây giờ đến lượt anh giúp tôi. Luật sư của Zoya sẽ gặp chúng ta ở đây. Anh sẽ phải phủ nhận việc đã từng là một kẻ phát ngôn chống đối trước mặt tôi. Có thể, trước mặt Zoya, nhưng không phải tôi. Là tôi hoặc là cô ấy. Anh phải giúp ai đó chứ.”
“Anh hay Zoya?”
“Làm ơn, vì quyền lợi của một người bạn cũ.”
“Tôi sẽ nói đó là ‘bạn thân’. Dù sao thì tất cả những kiểu sự việc như vậy đều được nói trong phiên hòa giải và không có ai đánh giá nó nghiêm trọng. Quá muộn rồi.”
“Anh sẽ làm thế vì tôi chứ?”
“Được thôi, cho tôi tên anh ta và tôi sẽ gọi cho hắn.”
“Không, anh ta đang trên đường, anh ta sẽ gặp chúng ta ở đây.” “Hắn ta không có văn phòng hay điện thoại ư?”
“Chúng ta không thể liên lạc với anh ta lúc này được, và anh ta đang trên đường.”
“Chúng ta sẽ nói chuyện ở đây, trong một cái nhà thờ ư?”
“Một cái bảo tàng. Chà, anh ta muốn riêng tư, nói chuyện với chồng của thân chủ cô ấy và tất cả. Anh ta làm điều này như là một sự giúp đỡ dành cho tôi.”
“Tôi sẽ không đợi nửa tiếng đồng hồ đâu.” Arkady nghĩ tới Kirwill đang ngồi trên xe.
“Anh ấy sẽ đến sớm thôi, tôi thề. Tôi sẽ không hỏi anh nếu tôi không buộc phải hỏi.” Misha nắm lấy tay áo Arkady. “Anh sẽ ở lại chứ?”
“Được rồi, tôi sẽ đợi một chút.”
“Anh ta sẽ không đến lâu đâu.”
Arkady dựa vào một cái trụ cho tới khi anh cảm thấy cổ mình ướt nhẹp bởi nước chảy xuống. Anh châm một điếu thuốc từ ngọn nến của Misha và bước quanh chiếc cột. Anh càng ở lâu bên trong nhà thờ, thì lại càng nhìn thấy rõ nhiều thứ. Có lẽ những bức tranh cũ kỹ được thấy tuyệt vời nhất dưới ánh sáng yếu ớt, anh nghĩ. Rất nhiều các hình dáng trên tường có cánh, dù anh không thể chỉ rõ đâu là thiên thần hay tổng lãnh thiên thần. Những đôi cánh của họ mỏng manh và uyển chuyển. Bản thân những thiên thần giống những chú chim, họ tỏa sáng lấp lánh, đôi mắt và những thanh kiếm. Bệ thờ đã biến mất. Những nấm mộ được chuyển đi, để lại những hố sâu hoắm. Cả mắt và tai đều dần thích nghi với khung cảnh. Anh nghe thấy âm thanh nháo nhác sợ hãi của một chú chuột. Anh cảm tưởng rằng anh có thể nghe thấy không chỉ tiếng một giọt nước rơi xuống sàn mà còn cả cái khoảnh khắc khi nó rời khỏi mái vòm. Trong ánh sáng của ngọn nến anh có thể thấy Misha đang đổ mồ hôi, dù bên trong nhà thờ khá lạnh. Anh thấy Misha đang chăm chú nhìn vào cái khe hở xanh mờ của cánh cửa đang đóng kín.
“Nhớ chứ,” Arkady nói đột ngột và quan sát Misha. “Khi chúng ta còn là những đứa trẻ - lúc đó không thể trên mười được - chúng ta có tới một nhà thờ?”
“Không, tôi không nhớ.”
“Chúng ta đến đó bởi anh định chứng minh với tôi rằng chẳng hề có Chúa. Đó là một nhà thờ đang hành lễ và là buổi cầu kinh. Những người già đang đứng quanh và những mục sư với bộ râu lớn. Anh đi tới ngay phía sau họ và hét lớn. ‘Chẳng có Chúa nào cả.’ Tất cả mọi người đều phẫn nộ và tôi thấy một chút sợ hãi. Tôi biết tôi sợ hãi. Rồi anh lại hét, ‘Nếu có Chúa, thì ông hãy đánh tôi đến chết và đánh chết cả Arkady nữa đi.’ Tôi đã vô cùng hoảng sợ. Nhưng tất nhiên chẳng đứa nào bị sét đánh chết cả và tôi đã nghĩ anh là người dũng cảm nhất trên thế giới này. Chúng ta đã hiên ngang bước ra khỏi đó, phải không?”
“Tôi vẫn không nhớ ra được.” Misha lắc lắc đầu, nhưng Arkady biết anh ta vẫn nhớ.
“Nó có thể là một nhà thờ y hệt như thế này.”
“Không, nó không phải.”
Trên một bức tường, Arkady có thể thấy được một hình bóng với một cánh tay giơ cao. Những thiên thần có vẻ như vút lên từ chỗ đấy. Bên dưới đó là hai hình hài trần truồng, có lẽ là một người đàn ông và một người phụ nữ, trong một hình hài giống như một chú chó hai đầu. Hoặc một con lợn. Hoặc một vệt ố. Những hồn ma lũ lượt qua đây, một người đàn ông dẫn một chú khỉ đi qua.
“Không có luật sư nào đang đến cả,” Arkady nói.
“Anh ta đang trên...”
“Không có luật sư nào cả.”
Anh châm một điếu thuốc khác từ đốm tàn của điếu trước. Misha thổi tắt nến, nhưng Arkady vẫn có thể thấy anh ta. Cả hai người họ đều dõi mắt về phía cánh cửa.
“Tôi không bao giờ nghĩ đó lại là anh,” Arkady nói. “Ai cũng được chứ không thể là anh.”
Một phút trôi qua. Misha không nói gì cả. “Misha.” Arkady thở hắt ra. “Misha.”
Anh cảm thấy những giọt nước rớt xuống, những vòng tròn lan tỏa và đan xen vào nhau. Hẳn là trời đang mưa nặng hạt hơn ở bên ngoài, anh nghĩ. Tia sáng mờ ảo nhất xuyên qua mái vòm, tan biến ngay trước khi nó chạm vào bức tường. Misha nhìn Arkady với ánh mắt nài nỉ cầu xin. Những lọn tóc quăn bẩn thỉu và lố bịch. Nước mắt anh ta chảy xuống lã chã và tạo thành một chiếc đàn lia lấp lánh trên mặt anh. “Chạy đi,” anh ta thầm thì.
“Ai đang đến?” Arkady hỏi.
“Nhanh lên, họ đang lấy cái đầu.”
“Làm thế nào mà họ biết được cái đầu chứ?”
Arkady tưởng anh đã nghe thấy tiếng bước chân. Anh dập điếu thuốc, dựa lưng vào một bức tường và rút súng. Misha vẫn ngồi nguyên một chỗ, gượng cười một cách yếu ớt. Một chú chim bồ câu đang tắm trong một chiếc bình đựng nước thánh đã vỡ. Nó lắc mình giũ nước rồi vút lên, vỗ cánh bay giữa những cây trụ về phía mái vòm.
“Rồi anh sẽ ổn chứ?” Arkady hỏi. “Tôi sẽ gọi cho anh sau.”
Misha gật gật đầu.
Arkady di chuyển dọc theo bức tường và kéo cánh cửa mở ra. Một cơn mưa mùa xuân đang trút xuống giàn giáo, rượt đuổi những người đang che mưa dưới những tờ báo và chiếc ô. Kirwill đang sốt ruột bên trong chiếc xe.
“Arkady, tôi vẫn thường nghĩ về nhà thờ ấy.” Misha nói.
Arkady chạy thật nhanh.
Con đường trên đê ngập nước, và anh phải đi vòng quanh công viên Gorky. Ngay khi anh đến Viện dân tộc học, một chiếc Volga đen đang bật đèn lên vì cơn mưa và đang định đi ra. Anh nhận ra người lái xe. Cảm ơn, Misha, Arkady tự nói. Anh đến viện, chạy một vòng tròn quanh Andreyesk Prospekt và quay trở lại công viên, một dãy nhà phía sau chiếc Volga.
“Giờ chúng ta làm gì đây?” Kirwill hỏi.
“Tôi đang theo dõi một chiếc xe và anh sẽ phải bước ra ở cột đèn tới nhé.”
“Tôi sẽ phải thế đấy.”
“Có một nhân viên KGB bên trong chiếc xe đen đó. Hắn ta đã lấy trộm chiếc đầu được tái phục dựng cho tôi.”
“Vậy thì ngăn hắn và lấy lại nó.”
“Tôi muốn biết hắn đang mang nó đến cho ai.”
“Rồi anh sẽ làm gì?”
“Rồi tôi sẽ tới với một vài cảnh sát và bắt họ vì đã lấy trộm tài sản quốc gia và cản trở văn phòng công tố viên.”
“Anh nói, đó là KGB. Anh không thể bắt họ.”
“Tôi không nghĩ rằng đó là hoạt động của KGB. Phía KGB tuyên bố họ sẽ đảm nhiệm một vụ án, họ không lấy cắp chứng cứ. Căn hộ chúng ta đến đáng nhẽ phải được niêm phong trong một năm, đó là cách hoạt động của KGB. Những cái xác trong công viên đáng nhẽ phải được phát hiện ra trong vòng một ngày. Đó là cách mà KGB hoạt động, họ sẽ không để cho một vụ án trôi quá xa. Tôi nghĩ đó là một thiếu tá của KGB và một vài sĩ quan đang thực hiện công việc riêng của họ, bảo vệ ai đó vì tiền. KGB không thích những doanh nhân trong hàng ngũ của họ. Dù sao, công tố viên Moscow là đại diện của luật pháp ngoài KGB, và tôi vẫn là trưởng thanh tra của ông ấy. Anh có thể ra khỏi xe rồi.”
Họ đang dừng ở một cột đèn tại Sadovaya Ring, ba chiếc xe phía sau chiếc Volga. Người lái xe, một người đàn ông với khuôn mặt rỗ chằng chịt chính là người đã đi theo Irina vào trong ga tàu điện ngầm, nhìn xuống thứ gì đó đằng sau hắn ta ở ghế trước. Hắn không thèm kiểm tra gương chiếu hậu. Một gã như vậy không thể tưởng tượng được việc chính mình bị theo dõi, Arkady nghĩ.
“Tôi sẽ đi cùng,” Kirwill dang tay.
“Được thôi.”
Đèn chuyển màu. Arkady vẫn cứ chờ chiếc xe Volga rẽ trái vào trung tâm thành phố và tới văn phòng của Pribluda. Thay vì thế nó lại rẽ phải, về phía đông vào con đường Enthusiasts. Những biển bảng đã được dựng lên từ lúc nào. KHÔNG AI SẼ CHẬM LẠI PHÍA SAU! Một tấm viết như vậy. Arkady vẫn giữ khoảng cách ba chiếc xe.
“Làm sao anh có thể chắc chắn là hắn có chiếc đầu?” Kirwill hỏi.
“Đó nhiều khả năng là điều duy nhất tôi chắc chắn. Tôi muốn biết làm thế nào mà hắn biết về điều đó.”
Đi càng xa trung tâm, giao thông càng thưa thớt và khoảng cách giữa xe Arkady và chiếc xe màu đen ngày càng xa. Công trường Hammer và Sickle Works ở phía sau họ, cả công viên Izmailovo nữa. Họ đang rời xa Moscow.
Chiếc Volga rẽ sang hướng bắc về Đường vành đai, vành đai chia rẽ thành phố và thôn quê. Bầu trời u ám bị chia cắt thành những đám mây sét khổng lồ và những cột ánh sáng. Đột ngột họ thấy bên vệ đường cao tốc là những chiếc xe bọc thép, những chiếc xe tải hạng nặng với cửa sổ súng, những chiếc xe tăng to như xe tải khổng lồ, những chiếc xe moóc chở đạn pháo, những chiếc toa moóc có hình chéo vát buộc vải bạt. Những người lính nhìn chăm chú vào các ánh đèn pha.
“Cho cuộc diễu binh ngày Quốc tế Lao động,” Arkady giải thích.
Anh lái xe chậm lại khi đến gần đường Dmitrov. Trong số những chiếc xe ở trước chỉ có mỗi chiếc Volga là rẽ vào dốc lối ra. Arkady tắt đèn pha đi khi anh rẽ sang lối đó. Những người cảnh sát trên vài chiếc xe gắn máy đang trong phiên trực ở đó kiểm tra biển số của chiếc Moskvich và vẫy vẫy cho hắn ta đi qua. Chiếc Volga cách khoảng hai trăm mét phía trước.
Đường cao tốc và thành phố đã ở tít sau lưng. Những cánh rừng làm nhòe đi con đường. Vùng đất trở nên trập trùng đồi núi và gập ghềnh, và đèn đuôi của chiếc xe phía trước sẽ biến mất, rồi lại hiện ra khi con đường trải thẳng ra. Những con quạ bay vọt qua.
“Nơi này tên là gì?” Kirwill hỏi.
“Hồ Bạc.”
“Và gã này chỉ là một thiếu tá thôi sao?”
“Đúng vậy.”
“Thế thì tôi không nghĩ rằng đó là người mà chúng ta sắp thấy đâu.”
Nước hiện ra qua màn khói và cây thanh lương trà. Ở những con đường nhánh, những nhánh ngập bùn, dẫn tới những ngôi nhà thôn quê đặc trưng của Nga. Khi họ đi qua một cây cầu bằng gỗ, Hồ Bạc nằm ở bên tay trái. Nó đã tan ra trừ phần đảo ở giữa lòng vẫn còn băng cứng và đầy những chú vịt biển đang đậu lên đó. Con đường lại trốn vào sau những rặng cây. Đèn đuôi của chiếc Volga tạo nên những vệt uốn dài ở cuối mỗi đoạn cua. Chiếc xe trôi qua những khoảng sân với những chiếc bàn uốn cong lên ở cuối, những chiếc ghế gãy chân dưới vòm cây, và một sân tập bắn cung.
Arkady tắt máy và đậu xe sang bên đường nhánh kết thúc bởi đoạn đường mòn bên một căn nhà gỗ được đóng đinh và kính kín mít. Sân cỏ của nó dẫn tới một vườn táo đã bị bỏ hoang và không được cắt tỉa, rồi dẫn tới một rặng liễu và dẫn xuống một bãi biển.
“Tại sao chúng ta lại dừng ở đây?” Kirwill hỏi.
Arkady đặt một tay lên môi anh và nhẹ nhàng mở cửa bên mình. Kirwill cũng làm như vậy và ở một khoảng cách gần họ nghe thấy tiếng đóng cửa một chiếc xe nào khác.
“Anh biết họ ở đâu chứ?” Kirwill hỏi.
“Giờ tôi đã biết.”
Mặt đất ngập nước và đặc quánh dưới chân Arkady. Anh có thể nghe thấy những tiếng nói, dù không rõ từng chữ, qua những hàng cây khi anh đang chạy qua sân cỏ. Anh di chuyển trong vườn táo, vuốt những cành cây, cố lần ra đường xuyên qua những chiếc lá ẩm ướt và vụn nát của mùa đông.
Tiếng nói ngày càng rõ hơn, đồng ý gật gù với những ý kiến nào đó khi anh chạy từ gốc cây này sang gốc cây khác. Khi những tiếng nói dừng lại, anh khựng lại giữa nửa bước chân. Họ tiếp tục bắt đầu, tới gần hơn, và anh áp sát người xuống bò tới một bụi cây thấp. Cách đó khoảng ba mươi mét, anh thấy góc một ngôi nhà gần đó, chiếc Volga đen, một chiếc limousine Chaika, gã đàn ông mặt thẹo và Andrei Iamskoy, công tố viên Moscow. Gã mặt rỗ ôm một chiếc hộp các tông. Iamskoy mặc chính chiếc áo choàng lông sói và đôi bốt như khi Arkady đến ngôi nhà trước đây, cũng như chiếc mũ len lông cừu trên cái đầu trọc lốc và đôi găng tay da mà ông ta đeo khi nói chuyện. Arkady không thể tóm lại được từng câu từng từ, vì vị công tố viên nói với một giọng trầm thấp, nhưng anh có thể thấy được quyền lực quen thuộc trong âm vực ấy, tầm nhìn xa và sự buộc tội trong đó. Iamskoy choàng tay quanh người đàn ông còn lại và đưa anh ta tới con đường dẫn ra bờ biển nơi mà Arkady đã thổi chiếc còi thiếc cho những chú vịt biển.
Arkady giữ khoảng cách với họ qua những bụi rậm và hàng liễu. Trong chuyến đi đầu tiên của anh tới thăm căn nhà gỗ này của Iamskoy, anh đã không để ý tới những đống gỗ được chồng rải rác giữa những gốc cây trên khu đất. Gã mặt thẹo đứng đợi bên một đống gỗ khi Iamskoy bước vào cái chòi. Arkady vẫn nhớ chiếc còi, cái xô đựng những viên thức ăn cho cá và những con vịt biển bên trong nó. Iamskoy bước ra, mang theo một chiếc rìu. Gã còn lại mở chiếc hộp trên tay ra và lôi cái đầu của Valerya Davidova - hoặc phần nào là thế, sản phẩm hoàn hảo của Andreev tái hiện gần như sống động chiếc đầu của cô. Họ đặt chiếc đầu nằm trên một bên má, nhìn chằm chằm, một cái đầu đã bị hành hình rồi lại chờ đợi bị hành hình một lần nữa trên một gốc cây đã bị đốn trơ trọi.
Iamskoy chém cái rìu xuống và xẻ cái đầu ra làm hai phần. Với sự chính xác của một kẻ ưa thích giết chóc, ông ta đặt nửa cái đầu lên và lại chặt đôi nó, và những mảnh nhỏ đấy ông ta lại chặt tiếp nữa. Với sự tỉ mỉ của một người thích vận động đổ mồ hôi, ông ta băm những phần nhỏ thành các phần nhỏ hơn, rồi xoay cái rìu sang mặt lớn hơn và chặt những mảng nhỏ đó thành bột, rồi quét lại vào trong hộp. Gã mặt thẹo mang cái hộp xuống bãi biển và đổ đám vụn bụi ấy xuống nước. Iamskoy lấy ra hai hòn bi, đôi mắt thủy tinh của Valerya, từ trên mặt đất và nhét chúng vào túi. Ông ta nhặt mái tóc giả lên khi tên mặt thẹo quay lại, nhét đầy gỗ vào chiếc hộp, và họ cùng nhau đi bộ lên con đường dẫn tới ngôi nhà.
Kirwill bám theo Arkady một cách im lặng.
“Đi thôi,” anh nói.
Kirwill biết. Nụ cười của anh ta có một vẻ thỏa mãn thâm sâu.
“Tôi đã theo dõi văn phòng của anh, nhớ chứ.” Kirwill nói. “Tôi đã thấy công tố viên trước đây. Tốt nhất là anh nên bỏ chạy vì mạng sống của mình.”
“Tôi nên chạy đi đâu đây?”
Đến lúc họ quay trở lại khu vườn, khói bốc lên từ ống khói ngôi nhà của Iamskoy. Qua cửa sổ, Arkady nhìn thấy ánh lửa bập bùng. Nếu đứng đủ cao thì anh có thể đã ngửi thấy mùi tóc cháy, anh nghĩ vậy.
“Nói cho tôi biết ai đã bắn Jimmy đi,” Kirwill nói.
“Anh sẽ không bao giờ tóm được hắn đâu. Anh không có bằng chứng nào cả, không có nhân dạng và giờ đây anh như chết rồi. Hãy để tôi tóm hắn.”
Arkady ngồi dựa vào cốp xe và cân nhắc lời đề nghị. Anh châm một điếu thuốc và khom tay che cơn mưa. “Nếu kẻ giết em trai anh sống ở New York và anh giết hắn, anh có nghĩ rằng mình có thể chuồn đi được không?”
“Tôi là một cảnh sát - Tôi có thể thoát khỏi bất cứ chuyện gì. Nhìn đi, tôi đang cố giúp anh.”
“Không,” Arkady nói. “Không, anh không như thế.”
“Ý anh là sao? Tôi đã nói với anh về chân của cậu ấy.”
“Cậu ấy có một cái chân yếu và đã chết rồi, ngoài ra tôi chả biết thêm gì nữa. Chà, nói với tôi, cậu ấy thông minh hay ngu ngốc, dũng cảm hay hèn nhát, hài hước hay là thanh niên nghiêm túc? Làm thế nào mà anh có thể nói ít thế về em trai mình chứ?”
Đứng cao hơn Arkady, Kirwill nhìn to lớn hơn những thân cây - một mánh về tỷ lệ: Những thân cây nhỏ quanh một gã đàn ông to lớn.
Cơn mưa lăn trên vai anh. “Bỏ đi, Renko, anh không còn chịu trách nhiệm nữa. Công tố viên đã giành việc và tôi cũng vậy. Tên là gì?”
“Anh không thích em trai mình lắm à?”
“Tôi sẽ không nói thế.”
“Vậy anh sẽ nói thế nào?”
Kiriwll ngước lên nhìn cơn mưa, rồi nhìn xuống Arkady. Anh ta rút tay ra khỏi túi, làm hai nắm đấm to đùng và xòe nó ra chầm chậm, như thể để tự củng cố lòng mình. Anh ta nhìn chằm chằm vào ngôi nhà. Anh ta sẽ làm gì nếu ngôi nhà không gần? Arkady tự hỏi.
“Tôi ghét Jimmy,” Kirwill nói. “Ngạc nhiên chứ?”
“Nếu tôi ghét một người anh em, tôi sẽ không đi nửa vòng Trái Đất với khả năng là người đó đã mất. Nhưng tôi tò mò. Khi chúng ta truy tìm vân tay ở trong gara, anh đã có chiếc thẻ vân tay cậu ấy - một tấm thẻ của cảnh sát. Anh đã bao giờ bắt em mình chưa?”
Kirwill mỉm cười. Anh ta cố gắng đút lại tay vào túi áo khoác. “Tôi sẽ đợi anh ở xe, Renko.”
Anh ta biến mất, len lỏi vào những hàng cây, với kích cỡ của mình anh ta hầu như không tạo ra tiếng động. Arkady tự chúc mừng mình vì đã loại bỏ người đồng minh cuối cùng.
Iamskoy. Giờ thì mọi chuyện có vẻ khớp nối, gã đàn ông nói khi anh ta trèo lên những bậc thang của giá treo cổ, Arkady nghĩ, Iamskoy từ chối cho bất cứ ai ngoài Arkady Renko điều tra những cái xác trong công viên Gorky. Iamskoy là người đã đưa Arkady tới Osborne. Pribluda không hề đưa Pasha và Golodkin tới căn hộ của Golodkin, không bao giờ có thời gian để giết họ, đánh cắp cái rương và mang nó đi. Chuchin đã nói với Iamskoy rằng Golodkin đang bị thẩm vấn, và Iamskoy có hàng tiếng đồng hồ để đưa chiếc rương đi và những sát thủ sẽ chờ đợi. Và anh đã nói với Iamskoy về cái đầu của Valerya? Chẳng ai khác ngoài Arkady Renko. Là như vậy, sau tất cả mọi chuyện, không phải là sự khám phá về Iamskoy mà là về chính bản thân anh, về sự ngu ngốc và lần mò tới mức nào của một điều tra viên như anh, mù, điếc và ngu xuẩn. Một thằng khờ, như Irina đã nói.
Cánh cửa ngôi nhà bật mở, Iamskoy và gã mặt thẹo xuất hiện. Công tố viên đã thay sang bộ đồng phục màu nâu thường thấy cùng với chiếc áo choàng. Gã mặt thẹo phủi bồ hóng trong khi Iamskoy ngẩng lên nhìn. Họ bỏ đi mặc kệ ngọn lửa bùng cháy.
“Chà.” Iamskoy hít một hơi thật sâu, và đầy khí lực, “Ta sẽ nghe từ ngươi tối hôm nay.” Gã mặt thẹo nghiêm chào, leo lên chiếc Volga và lùi xe ra đường.
Iamskoy đi theo trên chiếc Chaika. Lăn trên đám lá khô và chìm sâu vào con đường, chiếc limousine có vẻ như thốt lên sự thỏa mãn, với công việc được thực hiện một cách trơn tru.
Ngay khi xe của họ đi mất, Arkady đi vòng quanh ngôi nhà. Nó có bốn phòng được trang bị nội thất giản dị kiểu Phần Lan. Cửa trước và sau được trang bị khóa hai lớp và những cửa sổ được giăng dây điện, bảo vệ cho những công dân cao cấp của Hồ Bạc, có một hệ thống báo động được liên kết trực tiếp với KGB trong vùng và các xe tuần tra.
Anh bước xuống bãi biển. Có một chiếc găng tay đặt trên gốc cây bị chặt và bụi đất sét màu hồng cùng với một hoặc hai sợi tóc dính vào tấm gỗ. Ở trên đất còn có nhiều bụi hồng hơn quanh chỗ lũ vịt và còn nhiều nữa thì đã bị cuốn theo chiều gió. Anh cào cào cái gốc cây. Có cả một chút bụi vàng.
Đó cũng là nơi chiếc rương của Golodkin được mang tới. Anh nhận ra nó hẳn là ở trong căn nhà gỗ trong chuyến đi đầu tiên của Arkady, đó là lý do tại sao ông ta vội vàng cho lũ vịt ăn. Rồi chiếc rương bị chặt trên gốc cây cụt. Liệu một cái rương lớn có bị đốt cháy hết một lần không? Anh tự hỏi.
Nhìn qua đống gỗ, anh không thể thấy bất cứ dấu vết nào của chiếc rương. Anh đá đống gỗ, ở dưới đáy là những mảnh vụn mà Iamskoy đã bỏ lỡ - những dằm gỗ và vàng.
“Nhìn này, Kirwill,” Arkady nói với tiếng bước chân sau lưng mình. “Chiếc rương của Golodkin, hay những gì còn lại từ nó.”
“Vậy là nó,” một giọng nói khác cất lên.
Arkady ngước lên nhìn gã mặt thẹo - kẻ đã rời đi trên chiếc Volga. Hắn chĩa cũng khẩu súng nòng ngắn TK ấy vào Arkady như lúc ở trong ga tàu điện ngầm. “Tao quên găng tay,” hắn giải thích.
Một bàn tay đưa ra từ phía sau gã mặt thẹo và đập tay cầm súng của hắn loạng choạng. Một bàn tay khác kẹp cổ họng hắn. Kirwill chộp vào tay và cổ hắn, đẩy tới cái cây gần nhất, cây sồi độc lập trên bờ biển, dúi hắn vào thân cây từ cổ họng và bắt đầu đánh hắn một trận. Gã mặt thẹo cố đá lại. Nắm đấm của Kirwill trông có vẻ thông minh và nhanh nhẹn hơn.
“Chúng ta muốn nói chuyện với hắn,” Arkady nói.
Máu tươi bắt đầu bắn ra từ miệng gã mặt thẹo. Đôi mắt hắn lồi ra. Những cú đấm của Kirwill vẫn tiếp tục nhanh hơn và mạnh hơn.
“Bỏ hắn ra thôi!” Arkady cố kéo Kirwill ra.
Kirwill hất Arkady ngã xuống sàn với một cú ve tay trái.
“Không!” Anh ta cố ôm lấy chân Kirwill.
Kirwill đá anh đúng vào chỗ vết bầm tím vẫn chưa lành, Arkady quằn quại vì đau. Kirwill tiếp tục quay sang đánh gã đàn ông đang dựa vào gốc cây. Máu từ miệng hắn trào ra và sủi bọt còn đôi chân quờ quạng mặt đất. Sự việc gần giống nhất với chuyện đang xảy ra mà Arkady tùng thấy là nhìn cảnh một con chó săn cắn xé một chú chim. Khuôn mặt gã mặt thẹo bị vả chan chát hết từ bên này sang bên khác, máu bắn ra tung tóe như nước bọt. Gót chân hắn gõ nhịp lên thân cây. Mỗi cú vung tay trở nên mạnh hơn, và lực từ cú đấm của Kirwill thì lại hút trọn vào một thứ ngày càng mềm và đơ. Kirwill chắc là đã đấm gãy xương sườn hắn từ cú đầu tiên, Arkady nghĩ vậy. Kirwill vẫn tiếp tục đấm trong khi khuôn mặt rỗ chằng chịt bắt đầu xám xịt dần.
“Hắn chết mất.” Arkady tóm lấy chân Kirwill và kéo anh ta lại. “Hắn chết đấy.”
Kirwill chần chừ dừng lại. Gã mặt thẹo khuỵu xuống và khuôn mặt đã chuyển sang màu trắng bệch, rồi gã lăn sang một bên. Kirwill ngã xuống và bò, đôi tay anh ta cũng đầy những vệt đỏ.
“Chúng ta cần có hắn,” Arkady nói. “Chúng ta có những câu hỏi cần hắn trả lời.”
Kirwill bắt đầu cố gắng chùi tay mình vào đá cuội. Arkady tóm lấy anh ta ở lưng cổ áo và kéo anh ta như một con thú xuống bãi biển nơi có nước, rồi quay trở lại chỗ cây sồi và lục lọi trong quần áo gã đàn ông đang nằm bất động. Anh tìm thấy một chiếc ví rẻ tiền với một ít tiền, một cái kẹp tiền lẻ, một con dao bấm và một quyển nhân dạng màu đỏ của sĩ quan KGB. Cái tên ghi bên trong là Ivanov. Anh giữ lại quyển sổ và khẩu súng.
Arkady kéo cái xác ra căn chòi. Khi anh đẩy cửa mở, hơi ấm và những tiếng vo ve ào ra. Những con vịt biển được treo thành hàng khắp trên trần, chân giãy nảy, đầu đặt trên bộ lông bẩn thỉu. Tiếng rào rạo vo ve của những con ruồi nhung nhúc bò ra khỏi lông và có mùi hôi thối của chất lỏng. Anh quẳng cái xác khô vào và đóng sầm cửa.
Họ trở lại Moscow. “Đầu tiên thì cậu ấy định làm mục sư,” Kirwill nói. “Một trong số những thằng nhóc xanh xao yếu ớt đó thấy xót xa cả khi những bông hoa bị cắt. Nó có thể trở thành một thầy tu của những công nhân, một kẻ chẳng được ưa thích cho lắm. Rồi nó đã nâng được tầm nhìn, nó muốn trở thành một vị Chúa cứu thế. Nó không ranh mãnh và cũng chẳng khỏe mạnh, nhưng nó muốn là một vị cứu thế.”
“Cậu ấy làm thế nào vậy?”
“Một người theo Thiên chúa không thể làm thế. Nếu anh tự gọi mình là một thiền sư phương Đông hoặc một vị thánh guru, vừa nhỏ nước dãi vừa gặm đầu gà và không bao giờ thay quần, anh có thể thu hút các môn đệ anh muốn. Nhưng một người theo Thiên chúa giáo, không thể.”
“Không?”
“Nếu anh là người theo Thiên chúa giáo, điều tốt đẹp nhất anh có thể hy vọng là rút phép thông công. Có quá nhiều vị cứu tinh ở Mỹ. Đó cứ như là một siêu thị cứu tinh vậy. Anh không biết là tôi đang nói về cái khỉ gì đúng không?”
“Không.”
Ở cao tốc Outer, họ tới công viên Exhibition. Bóng tối quấn quanh một tháp tưởng niệm.
“Nga là vùng đất màu mỡ mới mẻ của các vị cứu thế,” Kirwill nói. “Jimmy có thể phát triển ở đây, nó có cơ hội. Nó đã phá tung mọi thứ ở nhà rồi. Nó phải làm một điều gì đó thật khủng ở đây. Nó viết thư cho tôi khi ở Paris rằng nó sẽ đến đây. Nó bảo lần tới khi tôi thấy nó hẳn sẽ là ở sân bay Kennedy. Nó bảo nó đang chuẩn bị thực hiện một việc với tinh thần của Thánh Christopher. Anh có biết điều đó có nghĩa gì không?”
Arkady lắc đầu.
“Có nghĩa là nó sẽ tuồn một người ra khỏi Nga và chủ trì một buổi họp báo ở sân bay Kennedy. Nó sắp trở thành một đấng cứu thế, Renko - ít nhất, một nhân vật có tiếng tăm trong tôn giáo. Tôi biết làm thế nào mà nó vào được đây. Nó nói với tôi khi nó trở về từ đây lần đầu tiên rằng việc tìm một sinh viên Ba Lan hay Séc giống nó dễ dàng như thế nào. Chúng đã tráo đổi hộ chiếu và Jimmy có thể quay trở lại đây với tên của một người khác. Nó nói đó là cách mà các nhà Thờ tuồn rất nhiều Kinh thánh vào đây từ Ba Lan. Người Đức và Séc ở cạnh người Nga, điều đó không khó. Điều khó là không bị bắt ở đây. Và chuồn.”
“Anh nói là cậu ấy đã phá tung New York. Như thế nào?”
“Nó dính líu với lũ trẻ Do Thái quấy rối người Nga ở New York. Lúc đầu chỉ là sơn vẽ lên các xe ô tô và chống đối. Rồi sau đó là bom thư. Rồi là bom ống vào hãng hàng không Aeroflot và nổ súng vào cửa sổ đoàn Ngoại giao Liên Xô. Có một đơn vị cảnh sát thuộc Bộ Công an được gọi là Quân Đỏ theo dõi các phần tử cấp tiến, họ can thiệp vào và quan sát những người Do Thái. Thực ra, chúng tôi bán túi ngòi nổ tức thời của họ. Cùng lúc đó Jimmy đi xuống Georgia để mua một vài khẩu súng và đạn. Nó đã thực hiện hai chuyến đi - một chuyến nó mang vào một cái bệ thờ.”
“Thế có chuyện gì xảy ra với đống ngòi nổ?” Arkady hỏi.
“Chúng có chất lượng tồi. Tôi đã cứu mạng nó. Nó định giúp tạo những quả bom. Buổi sáng hôm đó, tôi đi tới căn hộ của nó và nói với nó là đừng đi. Nó không nghe. Tôi quăng nó lên giường và đánh gãy chân nó nên nó đã không đi được. Lũ Do Thái gắn những cái ngòi hỏng vào và những quả bom phát nổ. Cả lũ chết sạch. Vấn đề là, tôi đã cứu mạng Jimmy.”
“Thì sao?”
“Ý anh là gì, ‘thì sao’?”
“Những đứa nhóc Do Thái còn lại, chúng nghĩ rằng em trai anh là một kẻ chỉ điểm?”
“Chắc chắn rồi. Tôi phải quẳng nó ra khỏi thành phố.”
“Cậu ấy không bao giờ có cơ hội được giải thích cho bạn bè mình hiểu?”
“Tôi nói với nó rằng nếu nó mà quay lại thì tôi sẽ bẻ gãy cổ nó.”
Một trận mưa như trút trên Đại Lộ Hòa Bình. Những tờ báo bay rải rác trên vỉa hè.
“Có một vụ án ở New York.” Kirwill cầm điếu thuốc từ Arkady. “Có một kẻ rạch mặt, một tên cướp, kẻ rút dao ra dọa người và sau khi cướp được thứ hắn yêu cầu thì hắn chém người ta cho vui. Chúng tôi biết hắn là ai, một gã da đen - chủ yếu nhắm vào trang sức. Tôi muốn hắn biến khỏi các con phố, nên tôi bẫy hắn. Anh biết đấy, tôi có một trong những chiếc nhẫn của các nạn nhân, thả nó phía sau tên da đen này và tóm cổ hắn. Gã khùng ngu xuẩn này lôi ra một khẩu súng và bắn hụt. Tôi thì không bắn hụt. Chuyện đó xảy ra ở Harlem. Một đám đông vây quanh, có kẻ nào đó lấy khẩu súng của tên khốn này và bỏ chạy. Khiến hắn trở thành kẻ tử vì đạo, một công dân bị bắn hạ trên đường tới nhà thờ. Có những đoàn người tuần hành lên xuống phố 125, những vị quan chức da đen có thể lê chân mình, thêm cả cái đám đông da trắng phản đối chiến tranh, Jimmy và những người trong Chủng viện Thần học của nó. Tất cả những kẻ đó giơ những ký hiệu nói: ‘Trung sĩ Killwell: Truy nã vì giết ngườiʼ Tôi biết ai đã nghĩ ra cái tên ‘Killwell’. Jimmy chưa bao giờ nói thế với tôi, nhưng tôi biết”
Nước sông màu đen dâng cao, cuốn trôi những tảng băng nổi cuối cùng.
“Anh có biết nó còn thích gọi tôi là gì khác không?” Kirwill hỏi. “Nó thích gọi tôi là Esau. Người anh em Esau của nó.”
Ở Viện Dân tộc học, Arkady đi một mình tới gặp Andreev để nói điều xảy ra với cái đầu. Từ phòng làm việc của Andreev, anh gọi tới căn hộ và văn phòng của Misha nhưng không thấy trả lời. Anh gọi Swan, hắn nói đã tìm thấy ngôi nhà được Kostia Borodin, Valerya và James Kirwill sử dụng. Người phụ nữ đưa Swan tới ngôi nhà nói cô ấy đã bán gà và cá tươi cho họ hàng ngày.
Arkady đưa Kirwill đi cùng để xem ngôi nhà, hóa ra là một căn nhà gỗ nằm giữa những nhà máy ở quận Lyublinsky và cung phía nam của đường cao tốc Outer Ring. Hầu hết mọi thứ ở đó quen thuộc với Arkady, như thể anh đã đi vào sản phẩm trí tưởng tượng của chính mình. Kirwill di chuyển một cách lặng lẽ, như trong trạng thái mê hoặc.
Hai người họ tới một quán cà phê dành cho công nhân. Kirwill gọi một chai vodka và tiếp tục câu chuyện đang nói dở về em trai mình, nhưng với một tâm trạng hoàn toàn khác, hầu như là về một người khác. Anh ta nói với Arkady chuyện mình đã dạy Jimmy trượt băng như thế nào, đã dạy cậu ấy lái xe, làm thế nào để mạ vàng lên khung, làm thế nào để đối phó với các bà xơ, làm thế nào để đi lên dòng Allagash mỗi mùa hè, rằng họ đã thấy Roger Maris đánh quả home run như thế nào, và họ đã chôn con búp bê Babushka Nga như thế nào, ai đã nuôi họ lớn. Câu chuyện cứ trôi chảy, đôi điều anh hiểu, đôi điều thì không.
“Tôi sẽ nói khi nào tôi biết anh thành thật,” Kirwill nói. “Khi anh bắn tôi ở khách sạn. Anh nhắm đi chỗ khác, nhưng không xa.
Anh có thể bắn trúng tôi. Anh không quan tâm và tôi không quan tâm. Chúng ta giống nhau.”
“Giờ thì tôi quan tâm rồi,” Arkady nói.
Nửa đêm, anh thả Kirwill gần khách sạn Metropole. Người đàn ông to lớn bước đi loạng choạng trên đôi chân đã say khướt.
Irina đang đợi anh. Cô làm tình với anh đầy trìu mến, như thể cô đang nói rằng, ‘Đúng, anh có thể tin tôi, anh có thể đi vào, anh có thể dành cuộc đời với tôi.’
Điều cuối cùng anh nghĩ trước khi ngủ là điều Kirwill nói ở quán cà phê khi anh hỏi liệu anh ta và em trai Jimmy có bao giờ bẫy chồn không.
“Không. Có những con chồn thông ở Marne với Canada và lông của chúng lại được gọi là lông chồn zibelin, nhưng chúng khá hiếm. Chúng bị bẫy bởi các hố khoan. Nếu đó là một gã khốn, thì tay thợ săn ấy sẽ sử dụng khoan tạo một cái lỗ sâu hơn chục centimet vào thân cây. Chừng này này. Hắn sẽ nhét thịt sống vào đầy lỗ. Rồi sẽ nhét hai cái đinh móng ngựa ở góc độ chéo vào cái lỗ sao cho đầu đinh chạm tới khoảng bảy centimet bên trong lỗ. Cái lỗ thực hiện công việc còn lại. Con chồn thông là một chuyên gia leo trèo - mảnh dẻ và thông minh. Nó ngửi thấy mùi thịt, trèo ngay lên cái thân cây chui vào cái bẫy. Nó chỉ cần lựa sao cho đầu mình luồn qua những cái đinh hướng về phía đống thịt. Nó lấy được thịt - nó luôn lấy được thịt - nhưng vì thế những cái đinh lại tóm được nó. Nó sẽ cố để thoát tránh những cái đinh, và nó càng vùng vẫy để kéo đầu ra, thì cái đinh càng đâm sâu vào nó. Cuối cùng nó chảy máu đến chết hoặc thậm chí làm rụng cả đầu. Không còn nhiều chồn thông nữa. Nhưng cái lỗ khoan đã diệt sạch chúng rồi.