In books lies the soul of the whole Past Time: the articulate audible voice of the Past, when the body and material substance of it has altogether vanished like a dream.

Thomas Carlyle

 
 
 
 
 
Tác giả: Martin Cruz Smith
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 13
goài trời đang mưa. Những sàn nhà kêu cọt kẹt. Ở vài căn hộ bên trên và bên dưới, thỉnh thoảng Arkady lại nghe thấy tiếng chân người lau sàn. Ở sảnh cầu thang, một người phụ nữ già đang đi lên ven cầu thang. Không có tiếng gõ cửa, không một cuộc điện thoại nào.
Irina Asanova nằm ngoảnh mặt về phía anh, da của cô nhợt nhạt màu ngà do cơn sốt đang dần hạ nhiệt. Anh vẫn mặc nguyên quần áo. Lúc đầu anh cố gắng tìm một nơi nào khác để cuộn mình lại, nhưng chẳng có ghế hay cái sofa nào cả, không cả một cái mền, cuối cùng thì anh đành nằm chung giường với cô. Không phải bởi cô biết hay đó là vấn đề lớn. Anh nhấc tay lên nhìn đồng hồ. Chín giờ sáng. Để không đánh thức cô, anh ngồi dậy thật chậm rãi rồi tới cạnh một cánh cửa sổ và nhìn xuống sân chơi bên dưới. Không có khuôn mặt nào đang hướng lên cả. Anh sẽ phải đưa cô đi, nhưng anh không biết đi đâu. Không phải nơi cô ở. Khách sạn rõ ràng là chẳng thể được rồi, vào khách sạn lại là bất hợp pháp nếu bạn là công dân của thành phố. (Lý do gì phù hợp để một công dân có hộ khẩu thành phố không thể ở nhà của mình chứ?) Có điều gì đó sẽ nảy ra thôi.
Ngủ bốn tiếng là đủ rồi. Cuộc điều tra vẫn còn đó. Anh cảm thấy nó cuộn lên như một trận sóng trào dồn dập, ập vào anh, cả xương và cả thể xác, trong bộ quần áo nhàu nhĩ.
Cô gái kéo chăn trùm lên má, đủ để nằm dài say giấc thêm bốn tiếng nữa, anh nghĩ. Anh sẽ quay về đúng tầm đó. Đã đến lúc đi gặp vị tướng rồi.
Đường Enthusiasts, nơi mà những tù nhân bắt đầu hành trình tới Siberi bằng chân, đi dọc theo những công trường tới đường 89, một chiếc xe tải chạy trên con đường bê tông hẹp, đầy bùn ở miền đồng quê và những ngôi làng nằm trải dài dọc theo phía đông xuống tận Ural. Arkady lái xe bốn mươi cây số trước khi rẽ sang phía bắc vào một con đường đá dăm, hướng về ngôi làng có tên Balobanovo, trước đây chuyên trồng mướp tây và đậu, những cánh đồng đầy những chú bò màu nâu, rồi một con đường bẩn thỉu đi xuyên qua khu rừng rậm rạp tới nỗi những bông tuyết phủ dầy mặt đất mà chẳng bao giờ ánh sáng mặt trời chiếu đến được. Xuyên qua những tán lá, anh có thể thấy dòng Kliazma.
Tới một cánh cổng sắt, anh bước ra ngoài và đi bộ suốt quãng đường còn lại. Không có chiếc xe nào đi tới khu vực này thời gian gần đây. Ở giữa con đường, năm ngoái cỏ mọc cao và khô khốc. Một chú cáo hăm hở lao vào chân anh và lại nhanh chóng xù mình lên trước những con chó của vị tướng, nhưng cánh rừng thì lặng câm ngoại trừ tiếng mưa rơi rì rào.
Sau mười phút đi bộ, anh bước tới một ngôi nhà hai tầng với mái dốc bằng tôn. Ở phía bên kia của chiếc sân hình tròn, anh biết, là một cầu thang dài đi xuống bờ sông, ở đó có một bến tàu với một chiếc xuồng nhỏ được neo chặt xuôi dòng, và một chiếc phao trên những thùng dầu màu cam. Ngoài ra còn có cả những bụi hoa mẫu đơn được trồng trong những chiếc xô bằng gỗ dọc theo cầu tàu, một bồn đá được hai người giúp việc mặc áo khoác và đeo những chiếc găng tay màu trắng chăm sóc. Khi có tiệc, những chiếc lồng đèn Trung Quốc được treo trên cầu cảng và dọc theo đường cầu thang, một hàng những mặt trăng nho nhỏ treo lơ lửng giữa trời. Bóng của chúng trên dòng nước lắc lư rung rinh như những loài thủy sinh đang nhảy múa theo tiếng nhạc.
Anh ngước lên nhìn ngôi nhà. Những mảng sắt gỉ loang lổ từ máng xối xuống mặt đất. Một lan can nghiêng theo bậc thềm, cỏ dại mọc tràn lan trong sân xung quanh chiếc bàn hoen gỉ ngoài vườn và một chiếc chuồng thỏ trống rỗng. Những cây thông gầy guộc mọc bao quanh ngôi nhà và sân cỏ, nghiêng ngả theo mọi góc độ, những cây du mục rữa hoang phế, càng làm tăng lên cảm giác tan hoang tiêu điều. Dấu hiệu duy nhất của sự sống là một dãy những chú thỏ chết đang nằm lộ ra lớp thịt xanh, đỏ đen.
Đáp lại tiếng gõ cửa của anh là một người phụ nữ già nua, bà sững lại bất ngờ rồi chuyển sang ánh mắt đầy tức giận và mím chặt môi lại. Bà lau đôi bàn tay mình trên một cái tạp dề bóng nhẫy. “Ngạc nhiên đấy,” bà nói bằng giọng líu nhíu mỉa mai thoang thoảng mùi vodka.
Arkady bước vào. Đồ đạc trong nhà được phủ bạt. Chiếc rèm tối như một tấm màn phủ. Một bức tranh sơn dầu của Stalin được treo phía trên cái lò sưởi sặc mùi tro bụi ẩm ướt. Có những cành cây khô, lọ đựng những bông hoa giấy mờ mờ, một giá treo súng với một khẩu Mosin-Nagant huyền thoại và hai khẩu Carbine.
“Ông ấy đâu rồi?” Arkady hỏi.
Bà hất đầu về phía phòng sách. “Nói với ông ấy là ta cần thêm tiền,” bà nói thật lớn. “Và một người phụ nữ để ra tay giúp đỡ, nhưng, đầu tiên, là tiền.”
Arkady gỡ tay bà ra và bước tới cánh cửa được xây dưới cầu thang để đi lên lầu hai.
Vị tướng đang ngồi trong một chiếc ghế mây bên cửa sổ. Cũng như Arkady, ông có khuôn mặt nhỏ gọn, đẹp trai, nhưng làn da căng và mỏng, lông mày bạc trắng và không được cắt tỉa, mái tóc trắng xù lên quanh vầng trán cao lờ mờ ẩn hiện những mạch máu quanh thái dương. Thân hình ông lọt thỏm trong bộ quần áo nông dân lùng thùng và đôi bốt quá cỡ. Hai bàn tay ông, xanh như những tờ giấy hộp kem, gãi gãi lên chiếc tẩu gỗ dài không còn thuốc.
Arkady ngồi xuống. Có hai bức tượng bán thân trong phòng sách, một của Stalin và cái còn lại là của vị tướng, cả hai được đặt lên bục. Một bức panel được đóng khung nỉ đỏ trưng những hàng huy chương, có cả hai Huân chương Lê-nin. Miếng nỉ đỏ bọc khung đã đầy bụi, những tấm hình trên các bức tường đã được che phủ bởi một lớp mây bụi, và bụi bẩn cũng đọng lại trong những nếp gấp của lá cờ sư đoàn được đóng đinh trên tường.
“Ra là mày,” vị tướng cất lời. Ông khạc ra sàn, trượt khỏi chiếc ca sứ đựng gần ngập miệng bọt màu nâu. Ông vẫy vẫy chiếc tẩu thuốc. “Nói với mụ điếm già nếu muốn thêm tiền để xuống phố thì tự kiếm tiền mà về.”
“Con đến để hỏi cha về Mendel. Có một số điều con cần phải chắc chắn.”
“Ông ta chết rồi, thế đã quá đủ.”
“Ông ấy giành được Huân chương Lê-nin vì đã bắn hạ vài phi công oanh tạc Đức ở gần Leningrad. Ông ấy là một người bạn khá thân thiết với cha.”
“Hắn là một thằng khốn. Đó là lý do tại sao hắn lại đến Bộ Ngoại giao. Tất cả những gì chúng nhận là những tên trộm và cặn bã và tất cả những gì chúng đã nhận. Một kẻ hèn như mày thôi. Không, còn tốt hơn mày chán. Hắn không hoàn toàn là một kẻ vứt đi. Đó là một thế giới mới, và những đồ phế phẩm rác thải cặn bã trôi xuống. Đi về đi. Sụt sịt tiếc thương con khốn mà mày đã cưới sao. Mày vẫn chưa ly hôn hả?”
Arkady lấy chiếc tẩu của vị tướng và nhét một điếu thuốc vào trong đó. Anh nhấp một điếu lên môi mình, châm cả hai và đưa cho ông chiếc tẩu. Vị tướng ho khan.
“Tao ở Moscow trong lễ họp mặt tháng Mười. Mày có thể đến và gặp tao ở đó. Belov cũng thế.”
Arkady trầm ngâm trước một bức ảnh đầy bụi. Đó là ảnh những người đàn ông đang nhảy múa chăng, hay là đang treo lơ lửng? Một cái khác là một khu vườn tươi mát hay một ngôi mộ lớn. Đã quá lâu và anh đã quên.
“Cha ở đó?”
“Tao ở đây.”
Lần đầu tiên vị tướng quay mặt về phía Arkady. Chẳng còn nhiều nét trìu mến trên gương mặt ấy. Những sợi cơ co duỗi như những sợi dây nằm dưới da và xương. Đôi mắt đen đã mù, trắng đục bởi bệnh đục nhân mắt. “Mày là một thằng nhu nhược,” ông nói. “Mày làm tao phát ốm.”
Arkady nhìn đồng hồ đeo tay. Vài tiếng nữa chắc cô sẽ tỉnh dậy và anh muốn mua chút đồ ăn trước khi quay lại Moscow.
“Nghe về những chiếc xe tăng mới rồi chứ? Cố gắng khoe khoang chúng với bọn tao. Những cái limousine dở hơi. Đồ Kosygin vớ vẩn cho mày. Được thiết kế bởi những giám đốc nhà máy. Những giám đốc nhà máy! Một người điều hành một lò phản ứng hạt nhân, cho vào đó vài vỏ nguyên tử đi. Một người thì pha chế nước chanh, nhét vào đó vài cái bình xịt chất hóa học chiến tranh. Một kẻ khác thì là người điều hòa cái thứ dở hơi ấy. Mày làm toilet, tao sẽ đưa vào đó những cái bệ xí. Còn lắm thứ thối tha hơn là một chiếc tàu sang trọng, như thể sẽ làm cho bọn tao ấn tượng vậy! Không, chúng mày tạo ra một cỗ xe tăng với càng ít tư liệu sản xuất càng tốt để rồi mắc sai lầm, và nếu nó có biến cố thì có thể hỏng ở đâu sửa ở đó. Cũng như Mikoyan chế tạo máy bay, một đội ngon lành với bộ não đỉnh cao. Nhưng chúng cứ chất cả đống rắc rối lên chúng tao như thể hoa quả bày trên nấm mồ. Tất cả đều mềm yếu. Mày vẫn có cái kiểu nhìn nhận xuẩn ngốc ấy về bản thân mình hả?”
“Vâng.”
Ông nhúc nhích, hầu như không làm rung rinh bộ quần áo thùng thình treo trên người.
“Mày có thể trở thành tướng ngay lúc này. Với thanh danh của tao, mày có thể leo lên nhanh hơn. Chà, tao biết mày không có máu với những mệnh lệnh chỉ huy thép, nhưng ít nhất mày có thể là một thằng dở hơi trong Tình báo.”
“Mendel thì sao cha?”
“Mày chỉ không có nó. Một con trùng yếu đuối hoặc một cái khỉ gì đó. Tao không biết.”
“Mendel có bắn quân Phát xít không?”
“Mười năm rồi mày không đến đây, và rồi giờ mày lại hỏi về một kẻ hèn nhát nấp trong nấm mồ.”
Tàn thuốc rơi lên áo vị tướng. Arkady nghiêng về trước và dụi đốm lửa.
“Những con chó của tao đã chết rồi,” vị tướng nói đầy giận dữ. “Chúng đang chạy trên đồng cỏ và chạy ngang qua mấy thằng chết tiệt nào đó ở trong những cái xe ủi. Bọn nó bắn chúng! Lũ nông dân khốn nạn! Xe ủi bò ra đấy làm gì cơ chứ? Trời, cả thế giới...” Ông nắm chặt tay thành một nắm đấm, một nắm trắng bệch. “Mọi thứ đều đang gieo rắc. Một lũ bọ phân. Mục ruỗng. Nghe đi, những con ruồi!”
Họ ngồi trong im lặng, tai của vị tướng nghểnh lên nghe tiếng mưa. Một con ong đang mắc kẹt giữa lớp cửa kính thứ hai và thứ ba của cửa sổ, nhưng nó vẫn miệt mài tìm lối thoát.
“Mendel đã chết rồi. Trên giường ngủ, hắn luôn lẩm nhẩm nói rằng mình sẽ chết trên giường. Hắn đã đúng. Giờ là lũ chó của tao.” Ông nhếch mép cười.
“Chúng muốn đưa tao đến một bệnh viện. Có một cái ở Riga. Rất lộng lẫy, chẳng có khoản nào dành cho những anh hùng cả. Tao nghĩ rằng đó là lý do mà mày đến đây. Tao bị ung thư rồi. Đó là tất cả những gì tao đang cố chống chọi, mày biết đấy. Họ có cái phòng khám với máy móc phóng xạ lẫn phương pháp trị nhiệt và tao được mời tới đó. Tao sẽ không tới đâu bởi tao biết nếu đi thì tao sẽ không bao giờ quay về được nữa. Tao đã từng thấy những bác sĩ ngoài thực địa. Ta sẽ không đi. Tao không nói với mụ quỷ già kia. Bà ta sẽ muốn ta đi cho mà xem bởi bà ta nghĩ sẽ lấy được khoản lương hưu của ta. Cũng như mày, phải không? Tao có thể ngửi thấy mùi mày đến giống như mùi một thầy tu bĩnh ra quần.”
“Con không quan tâm việc cha chết ở đâu,” Arkady nói.
“Đúng thế. Vấn đề chính ở đây là, tao sẽ lừa mày. Nhìn xem, tao luôn biết lý do vì sao mày tham gia vào văn phòng của ủy viên công tố. Tất cả những gì mày từng muốn làm đều khiến lòng tao tan nát, đến đây hít ngửi với lũ cớm của mày, và làm loạn mọi thứ lên một lần nữa. Liệu phu nhân của vị tướng chết bởi một tai nạn trên thuyền hay bà ấy bị giết? Điều đó giải thích cho cả cuộc đời của mày ngay tại đây là để làm gì - để tóm tao. Và tao sẽ chết trước khi mày làm được điều đó, và mày sẽ không bao giờ biết được vì sao.”
“Nhưng giờ thì con đã biết. Con đã biết được nhiều năm rồi.”
“Đừng cố mà lừa tao. Mày là một kẻ nói dối rất tồi, luôn là như thế.”
“Con vẫn thế. Nhưng con biết. Cha không làm điều đó và đó không phải là một vụ tai nạn. Mẹ đã tự tử. Vợ của vị anh hùng tự tử.”
“Belov...”
“Không nói với con. Con tự tìm ra được điều đó.”
“Vậy nếu mày đã biết tao không làm điều đó, tại sao mày không đến thăm tao sau từng ấy năm?”
“Nếu cha có thể biết tại sao mẹ tự tử, cha có thể sẽ hiểu tại sao con không bao giờ đến. Điều đó không phải một bí mật, đó chỉ là quá khứ mà thôi.”
Vị tướng trầm mặc trên ghế, khuôn mặt ông biểu thị một sự đấu tranh giằng co và rồi ông lại có vẻ như nhớ về một nơi nào rất xa, xa cả thân xác ông, cả chiếc ghế và cả Arkady. Khuôn mặt ông chùng xuống mệt mỏi. Ông thu người lại.
Trong sự lặng im, Arkady không hiểu vì sao anh lại nghĩ tới những triết lý dân gian về cuộc đời của phương Đông. Có lẽ, đó là sự bình yên chợt có trong tâm hồn của hình hài đang ngồi trên chiếc ghế. Triết lý dân gian đó nói rằng cả cuộc đời chỉ là sự chuẩn bị cho cái chết, rằng chết chỉ là một quá trình chuyển đổi cũng tự nhiên như khi sinh ra vậy, và rằng điều tồi tệ nhất một người có thể làm được trong cuộc đời mình đó là cố gắng chống lại cái chết. Có một bộ lạc truyền thuyết nói rằng họ không khóc khi sự sống nảy nở và không đau khổ khi cái chết gõ cửa. Những người này nghĩ rằng họ sẽ đi tới nơi nào sau khi chết, anh đã quên mất. Tuy nhiên, họ có vị thế hơn những người Nga, những người mà trải nghiệm cuộc sống với sự chống chọi như một người trên một dòng sông đang chảy xiết về phía một vực nước. Trong một khoảnh khắc, anh có thể thấy cha mình trở nên chậm rãi hơn, sức lực trong ông đang phai mờ thành một đốm tàn lực cuối cùng. Rồi, một cách rõ ràng, sức lực ấy tụ lại một cách vật vã đau đớn. Hơi thở sâu và máu ra lệnh giống như một sự tăng cường, truyền một rung động tới tứ chi. Đó là bức tranh về một người đàn ông đang cố vực lại khỏi ý chí của mình, gắng gượng với chính nội tâm mình. Cuối cùng, vẻ cau có trên khuôn mặt ông biến mất và đôi mắt trắng đục nhìn chằm chằm về phía trước, suy sụp nhưng đầy thách thức.
“Mendel học cùng lớp với tao tại Học viện Quân Sự Frunze, và cả hai ta đều được chỉ huy lực lượng thép ở tiền tuyến khi Stalin nói, ‘Không lùi một bước!’ Tao ư? Tao hiểu người Đức sẽ chờ thời cơ chín muồi để xâm nhập. Hiệu ứng từ các báo cáo của tao qua điện đàm từ phía sau hàng ngũ của họ lan nhanh như điện. Stalin lắng nghe từng đêm trong chiếc hầm chống bom của mình. Những bản tin từ báo chí nói, ‘Tướng Renko, nơi nào đó sau lưng quân thù.’ Những người Đức hỏi tao, ‘Renko, đây là Renko nào thế?’ Bởi vì lúc đó tao mới chỉ là một đại tá. Stalin đã thăng quân hàm cho tao, và tao thậm chí không biết điều đó. Người Đức có toàn bộ danh sách sĩ quan của bên ta, và cái tên mới này làm cho chúng thấy khó hiểu, làm rúng động sự tự tin của chúng. Tên của tao được nhắc tới từ khắp mọi người, chỉ sau mỗi tên của Stalin thôi. Và hiệu ứng khi tao tìm được đường tới Moscow và được chính Stalin tiếp đón, vẫn ở trong những chiếc xe bọc thép theo ông ấy tới Ga Mayakovsky và đứng cạnh ông ấy để nghe bài diễn văn vĩ đại nhất, những từ ngữ thay đổi làn sóng cuộn của quân Phát xít ngay cả khi chúng vẫn đang bắn phá trên đầu thành phố... Và bốn ngày sau đó, tao được trao binh đoàn bọc thép của riêng mình, Đội Hồng quân đầu tiên hành quân vào Berlin. Bằng cái tên của Stalin...” Bàn tay ông giơ lên chỉ về phía Arkady để anh không nhỏm dậy và rời đi. “Tao cho mày một cái tên như vậy và mày đến đây, một thanh tra tầm thường nhỏ bé, để hỏi về một tên hèn nhát trốn mình trong những va li gói gọn suốt cuộc chiến? Cũng chỉ là một kẻ chõ mõm tầm thường thôi sao? Đó là một cuộc đời sao? Hỏi về Mendel sao?”
“Con biết tất cả về cha.”
Bàn tay của vị tướng buông thõng xuống. Ông dừng lại và nghiêng đầu mình. “Tao ở đâu?”
“Với Mendel.”
Arkady cứ tưởng lại là những câu chuyện huyên thuyên bất tận nữa, nhưng vị tướng lại đi thẳng vào vấn đề.
“Một câu chuyện vui. Họ bắt được vài sĩ quan Đức ở Leningrad và đưa tới gặp Mendel để thẩm vấn. Tiếng Đức của Mendel thì...” Ông vỗ liên tục vào chiếc chén. “Nên tay người Mỹ này đã tình nguyện làm việc đó - Ta không nhớ ra tên của ông ta. Ông ta khá tốt, đối với một người Mỹ. Thân tình và cuốn hút. Những người Đức nói với ông ta mọi chuyện. Cuối cùng, ông người Mỹ này đưa những người Đức ấy đi picnic trong rừng với sâm panh, sô cô la và bắn họ. Cho vui thôi. Điều nực cười ở đây đó là đáng ra họ không bị bắn, bởi vậy Mendel đã phải làm một báo cáo giả về họ. Tay người Mỹ trả tiền cho những nhà điều tra quân sự và vì điều đó Mendel nhận được Huân chương Lê-nin. Hắn đã bắt tao phải hứa im lặng, nhưng mày là con trai tao...”
“Cảm ơn cha.”
Arkady đứng dậy, mệt rã rời hơn anh có thể tưởng tượng và lao sầm vào cánh cửa phòng sách.
“Mày sẽ quay lại nữa chứ?” vị tướng hỏi.
“Nói chuyện được thực sự sẽ tốt.”
Chiếc hộp các tông đựng sữa, trứng, bánh mì, đường, trà, đĩa và chén, một cái chảo rán, xà phòng, dầu gội, kem đánh răng và bàn chải - tất cả được mua trên đường quay lại Moscow - và anh lao tới tủ lạnh trước khi đáy của chiếc thùng bị thủng. Trong khi anh đang quỳ xuống để đặt thức ăn sang một bên thì nghe thấy tiếng Irina phía sau.
“Đừng nhìn,” cô nói trong khi nhặt xà phòng và dầu gội lên rồi lại đi. Anh nghe thấy tiếng nước xối trong bồn tắm.
Arkady ở lại trong phòng khách, ngồi trên ngưỡng cửa sổ và cảm thấy ngu ngốc khi do dự không bước vào phòng ngủ vì thực sự không có nơi nào để ngồi ở đây. Cơn mưa đã ngớt, tuy nhiên chẳng một bóng người trong những chiếc áo choàng bước đi trên phố. Anh ngạc nhiên bởi Pribluda không được tinh tế. Và điều đó khiến Arkady nhớ lại cuộc trò chuyện với cha mình. Osborne đã giết ba người Đức (“Tôi đã từng tới Leningrad trước đây,” Osborne đã nói trong băng, “Tôi đã ở đó với những người Đức.”) theo một cách gần như là y hệt với việc đã giết ba nạn nhân ở công viên Gorky. Arkady quan tâm tới những nhà điều tra quân sự được Mendel và Osborne đút lót. Họ là ai và đã vẽ ra những sự nghiệp vinh quang sau chiến tranh nào?
Anh cảm thấy Irina đang đứng ở cửa phòng ngủ trước khi anh thấy cô. Cô đang quàng một tấm mền với những chiếc lỗ được cắt để xỏ tay, chiếc thắt lưng của anh được quấn quanh hông, mái tóc ướt được quấn vào khăn và đôi chân trần. Cô không thể đứng ở đó quá một giây, nhưng anh có cảm giác đôi mắt cô đã quan sát anh lâu hơn thế nhiều, y hệt như lần đầu tiên anh thấy cô, như thể cô đang nghiền ngẫm một sự kỳ cục nào đó trong cách nhìn của cô. Một lần nữa, cô khoác lên mình bộ cánh kỳ quặc nhất trên đời có vẻ rất phong cách, như thể tấm mền là một thứ rất tự nhiên để mặc trong năm nay. Giờ, anh cũng đã nhận thấy khuôn mặt cô xoay nhẹ sang một bên như thế nào, anh nhớ điều mà Levin đã nói về bên mắt không thấy được, và nhìn chằm chằm vào vết thương trên má cô.
“Cô cảm thấy thế nào?
“Sạch sẽ hơn.”
Giọng của cô the thé khô khốc như vừa nôn, sulfazine có tác dụng ảnh hưởng như vậy nữa. Cô nhìn quanh căn phòng.
“Xin thứ lỗi vì tình trạng căn hộ lúc này.” Anh nhìn theo ánh mắt của cô. “Vợ tôi có dọn dẹp chút xíu. Cô ấy lấy đi vài thứ.”
“Có vẻ như là cô ấy dọn cả mình đi luôn.”
“Cô ấy đã làm thế.”
Tay khoanh trước ngực, Irina bước tới bếp với cái chảo rán duy nhất, chén và đĩa.
“Tại sao anh lại cứu mạng tôi đêm hôm qua?” Cô hỏi.
“Cô rất quan trọng với việc điều tra của tôi.”
“Thế thôi sao?”
“Còn gì khác nữa có thể chứ?”
Cô nhìn vào chiếc tủ tường trống rỗng. “Tôi không muốn làm anh thất vọng,” cô nói, “nhưng không có vẻ như là vợ anh sẽ quay lại.”
“Một ý kiến khách quan luôn có giá trị.”
Cô dựa vào bếp, bên kia phòng đối diện với anh. “Giờ thì sao?”
“Khi quần áo của cô khô, cô sẽ đi.” Arkady nói.
“Đi đâu?”
“Tùy cô. Nhà...”
“Họ sẽ đang đợi tôi. Nhờ có anh, tôi thậm chí còn chẳng tới trường quay được.”
“Vậy thì, bạn bè đi. Chắc là hầu hết bọn họ sẽ bị theo dõi, nhưng hẳn sẽ có ai đó cô có thể ở cùng,” Arkady nói.
“Với khả năng sẽ làm họ vướng vào rắc rối nữa sao? Đó không phải là điều tôi làm với bạn bè mình.”
“Chà, cô không thể ở đây được.”
“Tại sao không?” Cô nhún vai. “Không ai khác cả. Căn hộ của một trưởng thanh tra có vẻ sẽ hoàn hảo cho tôi. Đó có thể là một tội ác sẽ không còn thực hiện được nữa.”
“Đồng chí Asanova...”
“Irina. Anh đã lột đồ trên cơ thể tôi đủ rồi, tôi nghĩ anh có thể gọi tôi bằng tên.”
“Irina, có thể khó để nắm bắt, nhưng đây là nơi tồi tệ nhất cho cô trú ẩn. Họ đã thấy tôi đêm hôm qua, và đây sẽ là một trong những nơi đầu tiên họ sẽ đến. Cô sẽ không thể ra ngoài để mua thức ăn hay quần áo. Cô sẽ mắc kẹt ở đây.”
Họ càng nói chuyện lâu, tấm vải mền lại càng quấn sát vào cơ thể vẫn đang ướt nhẹp của cô, những mảng vải ướt để lộ phần da thịt.
“Tôi sẽ không ở lâu đến thế,” Arkady nhìn đi chỗ khác.
“Tôi thấy hai cái đĩa và hai cái chén,” Irina nói. “Rất đơn giản. Ngay cả khi anh có ‘họ’ thì vào tình huống ấy việc tôi đi đâu không còn quan trọng bởi anh sẽ mang tôi theo, hoặc nếu anh không có ‘họ’, tôi có thể kéo theo một người bạn đi với mình hoặc tôi có thể kéo anh. Tôi đã nghĩ rồi. Tôi muốn chọn anh.”
Điện thoại đổ chuông. Nó nằm trong góc phòng ngủ, màu đen, kêu liên hồi. Tiếng chuông thứ mười, Arkady nhấc ống nghe lên. Đó là Swan, hắn nói rằng ông già Gypsy đã tìm thấy nơi Kostia Borodin làm các tượng thánh.
Địa điểm mà ông già Gypsy tìm ra là một gara gần một đường đua xe địa hình nằm ở bên bờ sông phía nam. Một người thợ máy được gọi là “người Siberi” đã biến mất vài tháng trước. Hai chiếc xe đua go-kart được treo lủng lẳng trên trần nhà, những cái móc phẩy nằm trên một chiếc Pobeda gỉ sét được đặt trên các khối hộp. Mùn cưa và dầu phủ trên sàn. Một chiếc bàn với máy kẹp đang kẹp chặt một tấm phản đã được cưa một nửa. Các thanh kim loại và các bộ phận xe hơi xếp dựng chồng ở một góc và gỗ thì ở một góc khác. Có một cái khung để căng vải vẽ được treo trên tường, còn có các thùng đựng vôi bột, dầu hạt lanh và nhựa thông. Một cái tủ kéo có cánh cửa vỡ với một tấm khóa quá bẩn thỉu để có thể thò vào mà ăn trộm. Không có ngăn đựng dụng cụ nào cả, chẳng có gì giá trị và có thể cầm đi ở bên trong.
Tiếng lạo xạo của xe tăng ga rồi lại giảm ở con đường bên ngoài.
“Anh biết phải làm thế nào chứ?” Arkady hỏi.
“Tôi đã có hai năm ở Latent Prints. Tôi sẽ cố để giữ,” Kirwill nói.
Swan và người Gypsy đứng sang một bên, người Gypsy dùng cái túi của mình như một cái gạt tàn. Arkady đặt chiếc đèn bão xuống, mở va li điều tra rồi lấy ra một chiếc đèn pin, găng tay cao su mỏng, những tấm thẻ trắng và đen, những chiếc kẹp, những gói bột (trắng, đen và cả bột máu rồng - một loại bột bào chế từ nhựa các loại cây), bàn chải lông lạc đà và máy phun. Kirwill đeo một đôi găng tay, vặn xoáy lấy ra cái bóng đèn sáu mươi wat và thay nó bằng bóng một trăm năm mươi wat. Arkady bắt đầu ở cửa sổ, chiếu đèn pin vào những tấm ngăn đầy bụi và rắc lên đó những dòng bột trắng, rồi chuyển sang những cốc nước uống và các chai trên kệ, rắc bột trắng và thả các tấm thẻ đen lên những chiếc ly để tìm dấu tay. Kirwill bắt đầu với các bề mặt rỗ nhờ chiếc máy phim ninhydrin, phun theo chiều kim đồng hồ bắt đầu từ cửa gara.
Bụi bẩn là phần công việc có thể được làm ngon lành trong một ngày, không hay lắm nếu kéo dài tới một tuần. Sau khi tất cả các khu vực như lối vào, các tay cầm, ly chén - đã được phủ bột, một nhà điều tra phải xem xét tất cả các vị trí mà ngón tay con người có khả năng chạm vào ít nhất: lốp xe, mặt sau bức tranh, đáy các thùng sơn. Bình thường thì Arkady tránh việc dọn dẹp bụi bẩn nếu có thể. Lần này, anh lại ủng hộ việc đó, vì nó bình thường và cần thiết. Viên thanh tra người Mỹ làm việc trình tự và tỉ mỉ. Không ai nói một lời nào để tránh ảnh hưởng tới sự tập trung của mọi người. Arkady phủi bụi trên những tay cầm cửa, những tấm chắn bùn và biển số của ôtô trong khi đó thì Kirwill phun ninhydrin lên chiếc ghế chỗ bàn làm việc. Khi người Gypsy chỉ một đống quần áo vải vóc cũ, Arkady và Kirwill nhìn nhau tỏ ý lắc lắc đầu với ông ta, bởi chẳng có dấu tay nào giữ lại trên vải vóc cả. Arkady phủi bột đen lên rìa một tấm ảnh trên tường. Hình ảnh nữ diễn viên trên đó có một nụ cười vang vọng bởi những vách núi, sự chân thật và đồ lót ngoại quốc.
Anh dùng càng ít bột càng tốt, chải theo chiều của cạnh trên, từ đỉnh của những đường lượn dấu tay cho đến chỗ đứt.
Có một đặc điểm nổi bật trong chiếc gara cần phải chú tâm. Khoảng trống quanh chiếc tô và những chiếc xe đua đầy những vết tay có dầu mỡ, một người đàn ông không chui xuống gầm ôtô trừ khi ông ta đang cần chút dầu.
Mặt khác, những người thợ làm gỗ lại là một cỗ máy gần giống kiểu như phẫu thuật và khó tính hơn nhiều. Kẻ tình nghi hoàn hảo nhất hẳn phải là một người đàn ông hay sợ hãi với một nước da bóng dầu và mái tóc đầy dầu dưỡng. Nhưng một người đàn ông thú vị, sạch sẽ có thể chỉ cần bắt tay với một người có cơ thể dầu hoặc dùng chung một cái chai là đủ. Cũng như thế, mùa đông là một vật dụng, lạnh run đến từng lỗ chân lông. Bụi gỗ có thể giữ các dấu tay ẩn như một miếng bọt biển.
Trong khi Arkady đặt lại dụng cụ của mình vào hộp đồ nghề và tìm chiếc kính lúp cùng với một tấm thẻ vân tay của Kostía Borodin, Kirwill cắm sợi dây nối dài của chiếc đèn pha, bật nó lên và bắt đầu lần lại theo dấu bước chân của mình, chiếu thứ ánh sáng nóng rực của chiếc đèn vào những nơi mà anh đã xịt trước đó. Arkady nhận ra tấm thẻ in dấu tay của Borodin cho thấy ở mỗi ngón tay trỏ đều có hai xoáy vân khác lạ và một vòng xoắn vân có sẹo trên ngón tay cái bàn tay phải. Thu thập bằng chứng cho tòa, anh sẽ sử dụng một phương pháp chậm rãi hơn, chụp ảnh các dấu tay và lấy chúng vào các tấm băng, cố gắng tìm ra càng nhiều điểm tham chiếu càng tốt giữa tấm thẻ và dấu tay anh thu được. Thay vì thế, lúc này anh làm với tốc độ nhanh chóng và Kirwill cũng di chuyển rất nhanh. Ánh sáng chiếu vào ninhydrin, cùng với những vệt axit amino còn sót từ những va chạm, những vệt tím khô bên dưới ánh đèn. Rồi Kirwill lại lần lại theo dấu vết của mình lần thứ hai, không có chiếc đèn và cái kính lúp, so sánh dấu ninhydrin với tấm thẻ của James Kirwill. Họ không đổi thẻ. Khi Arkady làm xong công việc với những dấu tay trên bụi, anh chuyển sang với những vết phun, còn Kirwill chuyển sang công việc của Arkady.
Ba tiếng sau khi họ đặt chân tới, Arkady gói ghém lại va li. Kirwill đứng dựa vào một tấm chắn bùn ô tô, châm một điếu thuốc và chuẩn bị được người Gypsy xin một điếu, ông ta đã có dấu hiệu thèm thuốc vật vã cả tiếng rồi. Arkady cũng tự châm cho mình.
Cả cái gara nhìn như thể những gã điên đi qua những cánh bướm, hàng ngàn con, đen, trắng, tím, mọi nơi mọi chỗ mà chúng có thể tới được. Arkady và Kirwill im lặng, tận hưởng sự khoan khoái sau khi hoàn thành đầy đủ công cuộc lao động.
“Anh có tìm thấy dấu tay của họ chứ,” người Gypsy chốt.
“Không, họ chưa bao giờ đến đây cả,” Arkady nói.
“Vậy tại sao cả hai nhìn đều vui vẻ thế?” Swan hỏi.
“Bởi chúng tôi đã làm được một điều gì đó,” Kirwill trả lời.
“Người đàn ông này đến từ Siberi,” ông Gypsy nói. “Có gỗ và sơn, đó là tất cả những gì ông nói với tôi.”
“Chúng ta không đưa cho ông ta đủ để tiếp tục.” Kirwill nói.
“Cái gì nữa chứ để đi tiếp vậy? Arkady tự hỏi. James Kirwill nhuộm mái tóc của mình, nhưng Arkady đoán rằng chính cô gái đã ra ngoài mua lọ thuốc nhuộm.
“Vậy cái gì ở trong bản báo cáo điều tra này?” Kirwill hỏi.
“Bột thạch cao, mùn cưa, những thứ chúng ta đã tìm kiếm,” Arkady nói.
“Không gì khác nữa sao?”
“Máu. Họ bị bắn, sau tất cả.”
“Tôi nhớ có gì khác nữa trên quần áo của họ mà.”
“Các vệt máu động vật,” Arkady trả lời.
“Máu cá và gà. Cá và gà,” anh nhắc lại và nhìn Swan.
“Giờ, tôi đã tới kho thực phẩm của anh, và tôi không thấy bất cứ thứ gì đủ tươi để chảy ra một giọt máu,” Kirwill nói. “Anh có thể kiếm được thịt tươi ở đâu quanh đây chứ?”
Một con gà còn chút xíu máu và nặng nước hay một con cá đông lạnh còn có thể kiếm được dễ dàng. Chứ một con gà mới bị giết hoặc một con cá tươi thì lại đắt cắt cổ và - không có ở các “cửa hàng riêng” chỉ dành cho quý tộc và người nước ngoài - chỉ có ở các nhà buôn tư nhân, ngư dân hoặc một người phụ nữ trong vùng với một cái chuồng gà ở sân sau.
Arkady cảm thấy tức giận với chính mình vì đã không nghĩ tới điều đó trước.
“Anh ấy khá đấy,” Swan hất về phía Kirwill.
“Tìm ra xem họ lấy thịt tươi và cá ở đâu ra,” Arkady ra chỉ thị.
Swan và ông lão Gypsy rời đi. Còn lại hai người đàn ông, Kirwill ngồi lún cả cái chắn bùn, Arkady ngồi lên bàn.
Arkady lấy huy hiệu thám tử New York ra và quẳng nó cho Kirwill.
“Có thể tôi phải đi tìm. Tôi có thể là một siêu nhân khỉ gió quanh đây,” Kirwill nói.
“Đó là ý hay đấy, về những vệt máu,” Arkady cố gắng thừa nhận một cách lịch sự.
“Làm thế nào mà anh bị vết cắt ở mắt như vậy? Anh đã đi đâu tối qua sau khi chúng ta ra khỏi quán bar?”
“Tôi quay về sau đi tiểu và rơi xuống một cái hố.”
“Tôi có thể đoán ra câu trả lời từ anh.”
“Nếu anh làm gãy một ngón chân thì sao? Anh sẽ phải kẹt lại trong một bệnh viện Xô Viết cho đến khi nó lành - ít nhất là sáu tuần. Tất nhiên là, không mất chi phí gì.”
“Thế thì sao? Tên sát nhân ở đây, điều đó sẽ cho tôi thêm nhiều thời gian hơn.”
“Nào.” Arkady nhổm dậy khỏi cái bàn. “Anh đã thu được một điều gì đó.”
Ở cửa hàng bách hóa Trung tâm, âm nhạc là một ngành nghiêm túc. Một bầu không khí trầm ngâm với một tâm hồn tươi trẻ có thể bị tác động bởi giá cả, bởi việc chấp thuận hai mươi rúp cho một cây violin và cái vĩ hoặc bởi sự cấm đoán bốn trăm tám mươi rúp cho một cây saxophone đồng thau. Một người đàn ông với khuôn mặt sẹo đội mũ và chiếc áo choàng nhấc cái saxophone lên, chiêm ngưỡng nó, đặt tay lên những nút nhạc và khe khẽ gật đầu với Arkady theo kiểu những đồng nghiệp thường làm với nhau. Arkady nhận ra khuôn mặt ở trong đường hầm tàu điện. Nhìn quanh, anh phát hiện ra một người đàn ông khác của KGB mặc trang phục bình thường đang ra giá những cây phong cầm. Khi anh đưa Kirwill vào cửa hàng giải trí gia đình, hai nhà yêu nhạc ấy đặt nhạc cụ của mình xuống và bước theo với một khoảng cách thận trọng, chú ý nhưng không gây khó chịu.
Kirwill xoay cái núm của một chiếc dàn âm li. “Gã này ở đâu, Renko? Anh ta làm ở đây à?”
“Anh thực sự không nghĩ rằng tôi sẽ để anh bắt tay với anh ta đấy chứ?” Arkady kéo một cuộn dây từ túi ra và đặt nó lên chiếc máy chạy băng, một cái Rekord, giống với cái máy anh có ở Ukraina. Cái máy có hai chỗ cắm tai nghe, để sự thưởng thức không làm ảnh hưởng một căn hộ đông người. Kirwill nhét một cái vào tai mình, theo hướng dẫn của Arkady. Người đàn ông mặt sẹo nhìn theo từ cuối dãy dài những chiếc ti vi. Người kia đã biến đâu mất - gọi điện miêu tả về Kirwill chăng, Arkady đoán vậy.
Arkady nhấn nút PLAY. Đó là đoạn băng ngày mùng hai tháng Hai ghi âm cuộc điện thoại giữa Osborne và Unmann.
“Chuyến bay bị hoãn.”
“Bị hoãn á?”
“Mọi việc sẽ ổn thôi. Anh lo lắng quá đấy.”
“Ông thì chẳng bao giờ lo lắng gì cả.”
“Thoải mái đi, Hans.”
“Tôi không thích thế!”
“Hơi muộn để thích hoặc không thích bất kỳ cái gì rồi.”
“Ai cũng biết về những chiếc máy bay Tupolev mới này rồi.”
“Một tai nạn à? Anh nghĩ rằng chỉ có người Đức có thể chế tạo mọi thứ chăng.”
“Ngay cả một vụ hoãn bay. Khi anh tới Leningrad...”
“Tôi đã tới Leningrad trước đây rồi. Tôi đã ở đó với người Đức. Mọi việc sẽ ổn thôi.”
Sau tiếng click được ghi âm lại của cú điện thoại bị ngắt là khoảng im lặng, Kirwill nhấn nút STOP, REWIND và nút PLAY. Anh ta chạy lại cuốn băng hai lần trước khi Arkady tháo nó ra.
“Một người Đức và một người Mỹ.” Kirwill tháo tai nghe ra. “Người Đức tên là Hans. Người Mỹ là ai?”
“Tôi nghĩ rằng hắn đã giết em trai anh.”
Một bộ màu Padoga có giá sáu trăm năm mươi rúp có hình một người phụ nữ đang đứng nói trước một tấm bản đồ thế giới. Âm thanh đã tắt. Arkady kiểm tra tên nhà máy, có những khác biệt lớn giữa các nhà máy.
“Nó không nói cho tôi biết điều gì hết.” Kirwill nói. “Anh chỉ đang xỏ mũi tôi thôi.”
“Có thể sau này anh sẽ biết ơn tôi.” Arkady chuyển sang kênh những người nhảy nhạc dân gian trong trang phục màu tùng lam nhảy ra sau lên trước nhẹ nhàng không một tiếng động, vỗ tay lên đầu gối và gót chân mình. Anh nhấn nút tắt cái ti vi, khi màn hình mờ đi, anh có được hình ảnh rõ ràng hơn về hai người đàn ông mặc áo choàng đang đứng ở cuối hành lang. Người còn lại đã quay về. “Hai người kia...” Arkady hất đầu, “Tôi nghi ngờ họ đang định làm gì đó với một du khách Mỹ, nhưng họ có thể không biết anh là người Mỹ.”
“Họ đi theo chúng ta trên một chiếc xe từ gara.” Kirwill nhìn vào màn hình ti vi. “Tôi cứ nghĩ họ là người của anh.”
“Không.”
“Không phải là có cả tá người ở phe anh sao, Renko?”
Arkady và Kirwill tách nhau khi họ bước ra phố Petrovka. Arkady hướng về Sở chỉ huy cảnh sát và Kirwill đi về hướng khách sạn Metropole. Đi được một nửa dãy phố, Arkady dừng lại châm một điếu thuốc. Con phố đông đúc người mua sắm sau giờ làm việc, những người lính kiên cường hành quân chậm rãi qua những ô cửa quán hàng. Từ khoảng xa anh có thể nhận ra được hình dáng to lớn của Kirwill đang di chuyển qua đám đông hùng hục oai vệ như Nga hoàng, lần theo hai tùy tùng trong áo choàng.
Arkady đi tìm ông già Gypsy.
Chiếc xe tải được sơn màu cam trên nền xanh lá, với những ngôi sao và ký hiệu của phép màu màu xanh da trời. Một em bé đang lao vào lòng chiếc váy lót sặc sỡ của mẹ, và nhanh chóng tìm tới bầu ngực mẹ. Nửa tá những bà già và những cô gái nhỏ ngồi quanh ngọn lửa với một người đàn ông. Những người đàn ông khác trong gia đình thì ngồi trên những chiếc xe, tất cả họ đều mặc những bộ quần áo bụi bặm, đội mũ và có ria mép. Mặt trời lặn phía sau Trường đua ngựa.
Có những khu lều trại của người Gypsy ở tất cả các sân cỏ quanh đường đua. Dù sao thì, tay người Gypsy của anh cũng đã đi, đã biến mất như Arkady từng mong muốn. Bằng cách nào đó, anh đã biết không phải là Swan phản bội anh.
Căn hộ im lặng tới mức khi anh bước vào anh nghĩ rằng cô đã đi mất, nhưng khi anh tới phòng ngủ cô vẫn đang ngồi vắt chéo chân trên giường. Cô mặc chiếc váy của mình, ngắn và ôm sát bởi bàn tay giặt là vụng về của anh.
“Nhìn cô đã khá hơn nhiều.”
“Tất nhiên rồi,” cô nói.
“Đói không?”
“Nếu anh muốn ăn, tôi sẽ làm gì đó.”
Cô đói meo. Cô ngấu nghiến một bát súp bắp cải và ăn một thanh sô cô la tráng miệng.
“Tại sao cô đi gặp Osborne tối hôm qua?”
“Tôi không gặp.” Cô giật điếu thuốc khỏi tay anh mà chả cần hỏi.
“Thế tại sao cô lại cho rằng Osborne đưa những người đó tấn công mình?”
“Tôi không biết anh đang nói về điều gì.”
“Ở trong ga tàu điện ngầm. Tôi đã ở đó.”
“Vậy hãy thẩm vấn chính mình.”
“Cô nghĩ rằng đây là một cuộc thẩm vấn sao?”
“Và có cả những người khác trong căn hộ bên dưới đang ghi âm cuộc thẩm vấn này,” cô nói một cách bình thản, nhả một làn khói và nhìn qua nó. “Đây là nhà của các điệp viên KGB, có cả buồng giam tra tấn ở dưới tầng hầm nữa.”
“Nếu cô thực sự tin vào điều đó, cô nên đi rồi mới phải.”
“Tôi có thể rời khỏi đất nước không?”
“Tôi không chắc về điều đó.”
“Vậy thì điều khác biệt nào giữa việc tôi ở trong căn hộ này hay ở một nơi nào khác?”
Cô chống cằm lên tay và thăm dò Arkady bằng đôi mắt sẫm, mù một bên của mình. “Anh có nghĩ rằng việc tôi ở đâu hay tôi nói gì thực sự quan trọng không...”
Căn hộ chìm trong màn tối, anh đã quên không bật đèn. Khi Irina dựa vào bức tường, có vẻ như cô đang dựa vào một bóng tối. Cô cũng hút thuốc nhiều như anh. Tóc cô đã khô quăn lại quanh khuôn mặt và những lọn tóc gợn sóng rủ xuống lưng. Cô vẫn để chân trần, và chiếc váy nhăn nhúm co lại ôm sát hai bầu ngực và hông cô.
Cô vừa bước đi vừa hút thuốc, nghĩ tới những lời nói dối, đôi mắt anh nhìn về cô. Trong ánh sáng mờ ảo của ánh đèn dưới sân hắt lên, anh nhìn vào từng phần cơ thể cô - những đường viền xương gò má, đôi môi sắc nét như được tạc. Cô có những đường nét tươi sáng, những ngón tay dài, cổ cao và đôi chân miên man. Ánh mắt cô lóe lên khi cô bắt gặp anh, như ánh sáng lấp lánh trên mặt nước.
Anh biết cô thừa hiểu cô có tác động lên anh, cũng như anh biết ưu thế nhỏ nhất của anh sẽ đầu hàng trước cô. Nên cô chẳng cần bận tâm để mà nói dối.
“Cô biết Osborne đã giết bạn cô Valerya, Kostia Borodin và một người Mỹ Kirwill, nhưng cô lại cũng để cho hắn có cơ hội để làm như thế với cô. Cô ép hắn phải làm thế.”
“Những cái tên đó nghe không quen thuộc lắm.”
“Cô ngờ vực chính mình, đó là lý do tại sao cô đến khách sạn của Osborne ngay khi cô biết tin hắn quay lại Moscow. Cô đã đáng ngờ ngay khi tôi đến Mosfilm.”
“Ngài Osborne quan tâm đến điện ảnh Xô Viết.”
“Hắn nói với cô là họ an toàn ra khỏi nước. Tôi không biết hắn nói với cô họ chuồn đi như thế nào, nhưng hắn đã lôi kéo James Kirwill vào cuộc. Có bao giờ cô hiểu được rằng trốn ra khỏi Liên bang Xô Viết, đặc biệt là với ba người, khó hơn rất nhiều không?”
“Ồ, tôi luôn biết điều đó.”
“Và điều đó sẽ giúp cho việc giết họ trở nên đơn giản hơn? Hắn đã nói với cô họ ở đâu chứ? Jerusalem à? New York? Hay là Hollywood?”
“Điều đó có quan trọng hay không? Anh nói họ đã chết. Trong bất cứ tình huống nào, anh không thể tóm được họ lúc này...”
Trong bóng tối, được chiếu sáng bởi điếu thuốc của cô, cô hiện lên hoàn toàn nổi bật.
“Solzhenitsyn và Amalrik bị đày ải. Palach bị cưỡng ép đến tự tử. Fainberg bị gãy hết răng ở Quảng trường Đỏ. Grigorenko và Gershuni bị ném vào viện tâm thần để làm họ hóa điên. Những người mà các anh đã ném vào tù ngục từng người một: Sharansky, Olov, Moroz, Bayev. Những người mà các anh ném vào cùng nhau, như những sĩ quan hạm đội Baltic. Những người mà các anh nhét vào trại giam cả ngàn người, như những người Tác-ta...”
Cô cứ tiếp tục. Đây là cơ hội của cô ấy, Arkady biết. Đây là một thanh tra và cô nói hết ra như thể đó là những viên đạn nhắm vào đội quân những thanh tra.
“Các anh sợ chúng tôi,” cô nói. “Anh biết anh không thể ngăn cản chúng tôi mãi được. Phong trào sẽ vẫn tiếp tục lan truyền rộng rãi.”
“Chẳng có phong trào nào cả. Dù đúng hay sai, điều đó không quan trọng. Nó chỉ đơn giản không hề tồn tại.”
“Anh quá sợ hãi để nói về nó rồi đấy.”
“Nó giống như việc tranh cãi về một viên đại tá mà cả hai chúng ta chưa từng gặp gỡ bao giờ.”
Anh đang quá lịch sự, anh thấy vậy. Cô thì đang dựng lên một khoảng cách lạnh lùng mà điều đó sẽ nhanh chóng khiến anh không thể tiếp cận cô được nữa.
“Vậy là cô đang viết cho Valerya trước khi cô thi trượt đại học,” anh bắt đầu lại.
“Tôi không trượt bất cứ một khóa học nào cả.” Cô nói, “Anh biết đấy, tôi bị đuổi khỏi trường đại học.”
“Thi trượt, bị đuổi, điều đó có khác gì không? Cô bị đuổi bởi cô nói cô ghét đất nước của mình? Đất nước mà đã mang lại cho cô sự giáo dục, học hành? Thật ngu ngốc, nó chả khác gì với thi trượt cả.”
“Cứ nghĩ điều gì anh muốn.”
“Thế là cô móc nối với một tay ngoại quốc, kẻ đã giết người bạn thân nhất của cô. À, nhưng đó là chính kiến của cô. Cô thà tin vào lời nói dối siêu tưởng từ một người Mỹ với bàn tay nhuốm máu hơn là sự thật từ một người cùng đất nước với mình.”
“Anh không phải kẻ thuộc về thế giới của tôi.”
“Cô thật giả tạo. Ít nhất Kostia Borodin cũng là một người Nga thực thụ, dù là kẻ cướp hay không phải kẻ cướp. Anh ấy có biết cô là một kẻ gian lận hay không?”
Cô hít một hơi thật sâu và đốm lửa thổi bùng lên sức nóng đột ngột trên khuôn mặt cô.
“Nếu Kostia muốn ra khỏi nước, anh ấy có lý do thật sự, anh ấy đang chạy trốn luật pháp,” Arkady tiếp tục. “Đó là một lý do mà bất cứ ai cũng có thể tôn trọng. Nếu không thì anh ấy đã ở lại. Nói cho tôi biết, Kostia nghĩ gì về cái tư tưởng phản Xô Viết của cô? Bao nhiêu lần anh ấy nói với Valerya rằng bạn cô ấy, Irina Asanova, là một kẻ giả dối? Anh ấy sẽ nói vậy nếu anh ấy còn sống.”
“Anh thật là ghê tởm,” cô nói.
“Nào. Nói đi. Kostia Kẻ cướp đã nói gì khi cô nói với anh ta cô là một kẻ chống đối chính trị?”
“Điều đó làm anh lo sợ, việc để một tên phản động trong nhà anh.”
“Cô đã bao giờ sợ ai chưa? Thật lòng đi! Ai quan tâm tới những kẻ được gọi là trí thức bị đuổi khỏi trường vì sỉ nhục lá cờ chứ?”
“Anh chưa bao giờ nghe về Solzhenitsyn à?”
“Tôi có nghe nói về tài khoản ngân hàng ở Thụy Sĩ của anh ta.” Arkady chế giễu. Cô muốn thỏa thuận với một quái vật hay sao? Vậy thì cô sẽ gặp một con quái vật khủng hơn điều cô đã phải ngã giá tranh cãi.
“Hay những người Do Thái Xô Viết?”
“Ý cô là những người Do Thái phục quốc. Họ có nền cộng hòa Xô Viết riêng của mình, họ còn muốn gì hơn thế nữa?”
“Hay là Czechoslovakia?”
“Ý cô là khi Dubcek đưa Phát xít vào như khách du lịch còn người Séc thì yêu cầu chúng ta giúp đỡ à? Trưởng thành lên đi. Cô chưa bao giờ nghe về Việt Nam, Chile hay Nam Phi sao? Irina, có thể tầm nhìn thế giới của cô không đủ rộng rồi. Cô có vẻ như nghĩ rằng Liên Xô là một mưu đồ khủng khiếp khiến cô trở thành một cô gái mới lớn bất hạnh.”
“Anh không tin điều anh đang nói đâu.”
“Và giờ tôi sẽ nói với cô điều mà Kostia Borodin nghĩ.” Arkady sẽ không dừng lại. “Anh ấy nghĩ cô muốn tận hưởng sự thích thú khi bị ngược đãi mà không cần phải có can đảm phá luật.”
“Như thế còn tốt hơn là làm một kẻ ác dâm và không có dũng cảm để dùng nắm đấm.” Cô nói.
Đôi mắt cô nhòe đi vì tức giận. Anh thực sự ngạc nhiên. Anh có thể ngửi được cả vị mặn của chúng. Cô ở trong trận chiến, dù cô có muốn hay không. Có một chút máu trên sàn lúc này. Như những cuộc chiến, sự việc này chuyển sang một mặt trận mới, chuyển sang phòng ngủ và căn hộ với một bộ nội thất duy nhất.
Họ ngồi hai bên đối diện của chiếc giường và dụi điếu thuốc của mình vào đĩa. Cô đã sẵn sàng cho cuộc tấn công tiếp theo, đầu cô ngẩng cao kiêu hãnh và tay khoanh chặt trước ngực như một cánh cổng khép kín.
“Cô muốn KGB,” anh thở dài. “Cô muốn những kẻ tra tấn, giết người, dã nhân.”
“Anh sắp giao tôi cho họ, đúng không?”
“Tôi đã định thế,”anh đồng ý. “Ít nhất, tôi nghĩ tôi định thế.”
Cô nhìn bóng của anh đi tới đi lui qua các cửa sổ.
“Tôi đã nói với cô Osborne đã làm như thế nào chưa?” Anh hỏi cô. “Họ đang đi trượt tuyết, anh ta và Valerya, Kostia và sinh viên Mỹ tên là Kirwill. Nhưng cô biết đoạn này rồi - cô đưa cho Valerya đôi giày trượt của mình - và cô biết rằng công việc của Osborne là mua những bộ lông thú của Nga, dù có thể cô không biết được rằng hắn là một tay điệp viên của KGB. Điều đó làm cô chán nản. Dù sao thì, sau một chuyến trượt băng ở công viên Gorky, họ bước vào một khu đất trống để nghỉ. Osborne, một gã giàu có, đã mang theo đủ đồ dùng.”
“Anh đang bịa đặt chuyện này như thể anh đi cùng vậy.”
“Chúng tôi có cái túi mà hắn đựng thức ăn trong đó, chúng tôi kéo nó lên từ dòng sông. Trong khi mọi người đang ăn uống, Osborne nhấc cái túi của mình lên chĩa về phía Kostia. Hắn giấu một khẩu súng trong đó. Hắn bắn Kostia đầu tiên, xuyên qua tim, rồi đến Kirwill, cũng xuyên tim. Một, hai, như thế. Hiệu quả, đúng không?”
“Anh nói như thể anh đã ở đó vậy.”
“Điều duy nhất tôi không có khả năng trả lời được và điểm mà cô có thể giúp tôi là tại sao mà Valerya không kêu cứu sau khi cô ấy thấy hai người kia bị giết. Cứ cho là có tiếng nhạc ầm ĩ rất lớn từ những chiếc loa trong công viên, nhưng cô ấy thậm chí còn không kêu cứu. Cô ấy đứng yên ở đó, nhìn thẳng mặt Osborne, đủ gần để có thể chạm vào hắn trong khi hắn đặt khẩu súng lên ngực cô ấy. Tại sao Valerya lại làm thế, Irina? Cô là bạn thân nhất của cô ấy, cô nói tôi biết xem.”
“Anh đã quên rằng,” cô nói, “là tôi biết luật. Đó là một mục trong bộ luật hình sự mà tất cả những kẻ vi phạm đều là tội phạm quốc gia. Anh có thể nói hoặc làm bất cứ gì để bắt họ và bất cứ ai giúp đỡ họ. Làm sao tôi biết được vụ tấn công ở ga tàu điện ngầm không phải là một vở kịch được dàn dựng? Rằng anh đã không lập kế hoạch cho việc đó? Hoặc là anh và những tay KGB? Giống như những cái xác mà anh nói là anh có - chúng đến từ đâu? Anh nói Osborne đã bắn ai đó? Anh có thể lấy bất cứ du khách nào và ném ông ta vào nhà tù Lubyanka.
“Osborne không ở trong nhà tù Lubyanka, hắn ta có bạn bè ở Lubyanka. Họ đang bảo vệ hắn. Họ sẽ giết cô để bảo vệ hắn.”
“Bảo vệ một người Mỹ?”
“Hắn đã đi và đến Nga trong vòng ba mươi lăm năm. Hắn mang đến hàng tỉ đô, hắn giới thiệu về những vũ công và diễn viên Xô Viết, hắn nuôi sống bạn bè mình - những người nhỏ bé ngu ngốc như cô và Valerya.”
Cô đặt tay lên che tai mình. “Bạn của anh, bạn của anh,” cô nói. “Chúng ta đang nói đến chính là anh. Anh chỉ muốn biết sẽ đưa sát thủ của mình đến đâu.”
“Để gửi tới sau Valerya? Tôi có thể tìm thấy cô ấy bất cứ lúc nào tôi muốn trong một cái tủ lạnh ở một căn hầm của Petrovka. Tôi có khẩu súng mà Osborne đã dùng để giết cô ấy. Tôi biết ai đang đợi Osborne sau đó và trong chiếc xe kiểu gì. Tôi có những bức ảnh của Osborne cùng với Valerya và Kostia ở Irkutsk. Tôi biết cái rương mà họ làm cho hắn.”
“Một người Mỹ như Osborne có thể mua hai mươi cái rương khác nhau từ hai mươi nguồn khác nhau.” Irina không lui một bước. “Chính anh đã nhắc đến Golodkin. Golodkin có thể đã đưa cho ông ta một chiếc và Golodkin không cần phải rời khỏi đất nước. Tiền có thể đủ, và như anh nói, Osborne có hàng triệu đô. Vậy tại sao ông ta lại mang Valerya và Kostia Borodin về từ Irkutsk? Tại sao lại là họ?”
Anh có thể thấy đôi mắt cô trũng sâu trên khuôn mặt trái xoan và bàn tay cô đang đặt lên chỗ hông. Anh cảm nhận được sự mệt mỏi của cô trong bóng tối.
“Trong suốt cuộc chiến, Osborne đã giết ba tù nhân người Đức cùng một cách đó. Hắn đưa họ vào một khu rừng ở Leningrad, cho họ ăn sô cô la và uống rượu sâm panh rồi sau đó bắn họ. Hắn có huân chương vì điều đó. Tôi không nói dối, cô có thể đọc điều đó trong sách.”
Irina không đáp lại.
“Nếu cô thoát ra khỏi sự việc này, cô muốn làm gì?” anh hỏi. “Trở thành một kẻ chống đối lớn và lên án thanh tra sao? Cô làm điều đó rất tốt. Xin học lại đại học? Tôi sẽ viết cho cô một thư giới thiệu.”
“Trở thành một luật sư, ý anh là thế à?”
“Đúng vậy.”
“Anh có nghĩ rằng tôi sẽ vui vẻ như vậy không?”
“Không.” Arkady nghĩ tới Misha.
“Tay đạo diễn đó,” cô lẩm bẩm, “kẻ đã đề nghị tặng tôi đôi bốt Italy ấy? Hắn hỏi cưới tôi. Anh đã cởi bỏ quần áo của tôi, tôi không hấp dẫn quá, đúng không?”
“Không.”
“Có thể đó là điều tôi sẽ làm sau đó. Cưới một ai đó, sống ở nhà và biến mất.”
Sau hàng giờ tranh cãi, giọng của cô trở nên sụt sùi như thể nó đến từ một căn phòng khác.
“Điều chốt lại,” Arkady nói, “là rằng mọi thứ tôi nói với cô là một lời nói dối vô cùng phức tạp hoặc chỉ là một sự thật giản đơn.”
Anh cảm nhận được nhịp thở của cô, nhận ra cô đã thiêm thiếp ngủ và đắp cho cô một chiếc chăn. Anh bước ra cửa sổ một lúc, quan sát bất cứ hành động bất thường đêm muộn nào ở trong các căn hộ bên kia sân hoặc trên Đại lộ Taganskaya. Cuối cùng, anh quay trở lại giường và nằm xuống phía còn lại.
Án Mạng Ở Công Viên Gorky Án Mạng Ở Công Viên Gorky - Martin Cruz Smith Án Mạng Ở Công Viên Gorky