Hope is important because it can make the present moment less difficult to bear. If we believe that tomorrow will be better, we can bear a hardship today.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Martin Cruz Smith
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
hững người lái xe xua tan đi bóng đêm vần vũ và thổi bay đi lớp bùn mùa đông. Những bóng đèn pha được bọc kín đặt sâu dưới nước. Có thể nhìn rõ một bàn tay rồi sau đó là một cái vây khi những người đàn ông thăm dò nơi các đường ống nhánh dưới nước của nhà máy xưởng thuộc da Maxim Gorky hòa vào dòng Moskva.
Phía trên con đường bờ đê, cảnh sát vẫy vẫy đèn ra hiệu cho những chiếc xe tải buổi sớm. Arkady sải bước qua một khoảng đất không có ánh sáng chiếu rọi nơi mà William Kirwill ngồi sâu vào trong bóng tối ở ghế sau xe Arkady.
“Tôi không hứa gì cả,” Arkady nói. “Anh có thể quay trở lại khách sạn nếu anh muốn, hoặc anh có thể tới đại sứ quán.”
“Tôi sẽ ở lại.” Ánh mắt Kirwill lấp lánh trong bóng tối.
Arkady đưa ra một phong bì dày cộp. “Đây là các báo cáo pháp y về ba xác chết được tìm thấy ở công viên Gorky,” anh nói. Arkady dựa vào điểm tương đồng về sự khác biệt, dáng đi nặng nề cứng nhắc của các cảnh sát, ánh sáng chói lòa nghi hoặc của những bóng đèn, không khí chuyên nghiệp của các điều tra viên ở khắp nơi. Sau một ngày đấu tranh suy luận trong yên tĩnh, Kirwill đã đi đến kết luận rằng Arkady không làm cho KGB - không ai ở KGB có thể thực sự không biết gì.
“Để tôi nghĩ đã,” Kirwill nói.
“James Kirwill là ai?” Arkady hỏi.
“Em trai tôi.”
Arkady đưa chiếc phong bì qua cửa sổ ô tô, phiên trao đổi đầu tiên đã hoàn thành. Không có đề cập nào về Osborne bên trong phong bì. Nếu William Kirwill chỉ muốn giúp đỡ vụ điều tra, anh ta hẳn sẽ chuyển tấm chụp răng và phim X-quang ngay ngày đầu tiên ở Moscow. Nhưng anh ta đã mang theo cả vũ khí, nghĩa là anh ta đã sẵn sàng giải quyết miễn là khi anh ta biết được phải tấn công ai. Việc anh ta không có khẩu súng ấy chẳng còn là vấn đề. Anh ta có đôi tay.
Một sĩ quan của đội Tuần tra trên sông đến để nói với Arkady rằng những thợ lặn đã rất lạnh và không có chiếc túi nào được tìm thấy ở đáy sông cả. Bước qua con đường về phía bức tường, Arkady bị một trung sĩ kéo sang bên để nói chuyện với một tay cảnh sát trẻ từ đồn cảnh sát Oktyabrsky phụ trách tuần tra khu cầu cảng. Cậu chàng nhớ ra được một chiếc xe bốn chỗ Zhiguli đậu trên con đường đê một buổi chiều tối tháng Giêng. Có thể là tháng Hai. Tất cả những gì cậu ta có thể nhớ chỉ có người lái xe là một người Đức mặc một chiếc ghim cài áo có ghi Câu lạc bộ “Bóng da.” “Bóng da” là thuật ngữ của Komsomol dành cho bóng đá trẻ. Cậu cảnh sát biết người lái xe là người Đức bởi cậu ta là một người say mê sưu tập các ghim cài áo, cậu đã đề nghị mua chiếc ghim đó của ông ta và nhận được lời từ chối rất rõ ràng.
“Tiếp tục tìm kiếm thêm nửa tiếng nữa,” Arkady nói với những thợ lặn và chỉ mười phút sau đó họ hét toáng và trèo lên sợi thang dây vắt trên con đê kéo theo một chiếc túi phủ đầy bùn đang rỉ nước và lúc nhúc những con lươn.
Chiếc túi bằng da với một sợi dây thừng cuộn lại. Đeo găng tay cao su, Arkady mở nó ra dưới ánh sáng đèn pha và nhặt nhạnh giữa đống hỗn độn bùn, chai lọ và thủy tinh cho đến khi anh tìm thấy, một cái nòng súng đang chĩa lên trên. Anh lôi ra một khẩu bán tự động lớn.
“Đồng chí thanh tra?”
Fet vừa đến. Arkady đã không gặp anh ta kể từ sau buổi thẩm vấn Golodkin. Viên thám tử đứng ngoài ánh sáng của chiếc đèn pha, chỉnh kính, đôi mắt nhìn chằm chằm vào khẩu súng. “Tôi có thể làm được gì không?” Anh ta hỏi.
Arkady không biết được vai trò của Fet là gì trong cái chết của Pasha. Tất cả những gì anh biết là anh muốn viên thám tử không nhúng tay vào.
“Có,” Arkady nói. “‘Lập một danh sách những tượng thánh bị lấy cắp trong vòng ít nhất sáu tháng.”
“Tượng thánh bị lấy trộm ở Moscow?”
“Và các khu vực xung quanh Moscow,” Arkady nói, “và bất cứ đâu trên đất nước ở phía bên này dãy Ural. Và, thưa thám tử..”
“Vâng?” Fet tiến tới.
“Và, bất cứ tượng thánh nào bị lấy cắp ở Siberi,” Arkady nói. “Cậu biết Siberi ở đâu mà.”
Arkady nhìn tay thám tử rầu rĩ bước vào màn đêm, anh ta sẽ phải bận rộn cả tuần cho xem và cũng có chút ít khả năng là cái danh sách ấy sẽ hữu ích.
Viên thanh tra cẩn thận đặt khẩu súng lên một chiếc khăn. Không một ai trong nhóm cảnh sát, thậm chí cả những tay kỳ cựu, có thể nhận ra được cách làm khẩu súng này. Arkady đưa tiền cho viên cảnh sát tuần sông để trả công cho những người thợ lặn và mang chiếc túi và khẩu súng về ô tô của mình.
Anh đưa Kirwill tới một chiếc taxi dưới chân cầu Krimsky.
Bình minh đang hé rạng. Bên ngoài gara, những người lái xe mặc áo dài tay đang tháo và lắp ghép lại những chiếc taxi cũ hỏng. Bước giữa những chiếc xe, các nhà thầu bán vài bộ phận bị lấy trộm từ những chiếc vỏ quá cỡ.
Kirwill xem xét khẩu súng. “Loại tốt. Phiên bản Argentine của khẩu Mannlicher 7.65 li. Vận tốc đầu nòng lớn, chính xác, chứa tám viên đạn.” Bùn bắn lên áo khi anh kéo ổ đạn ra khỏi báng súng. Arkady đã không để ý thấy khi anh chọc anh ta nổi đóa ở khách sạn thì Kirwill đã một lần nữa ăn vận như người Nga. “Vẫn còn ba viên đạn.” Anh ta nhét hộp đạn trở lại và trả khẩu súng. “Từng thuộc về hãng Argenture trước khi chuyển sang một thương hiệu khác, Browning. Các khẩu Mannlichers được bán cho các tay buôn súng ở Mỹ, đó là điều tôi biết.”
“Những cái gối.” Arkady nhìn bộ quần áo của Kirwill. “Tôi không nhìn vào những cái gối của anh.”
“Đúng thế.” Kirwill gần như hé miệng cười. Anh ta đưa lại cái phong bì, lau những ngón tay và kéo chiếc thẻ từ trong túi áo sơ mi của mình ra. Chiếc thẻ có mười vệt bằng mực. Một chiếc thẻ lăn dấu tay. “Anh cũng bỏ lỡ cái này.” Anh ta lắc đầu và đặt chiếc thẻ sang một bên ngay khi Arkady thò tay với.
“Nhìn này, tôi sẽ không cho anh thấy...” Kirwill giang tay ra, che ngưỡng cửa sổ phía sau “nhưng tôi đang suy nghĩ. Có thể anh chỉ là đang giả vờ, Renko. Có thể chúng ta sẽ tìm ra một điều gì đó. Anh nói một thám tử của anh bị bắn và anh cũng mất cả Golodkin nữa. Anh sẽ cần mọi sự giúp đỡ có thể.”
“Vậy thì?”
“Dữ liệu của anh về Jimmy...” Kirwill hất về phía tập tài liệu.
“Anh gọi cậu ấy là Jimmy?”
“Phải.” Kirwill nhún vai. “Công việc điều tra được tiến hành khá tốt, nhưng không lần ra được điều gì cả.”
“Ý anh là sao?”
“Công việc của thanh tra. Nó được gọi là ‘bận bù đầu’. Năm mươi người sẽ đi thăm dò, hỏi bất cứ ai đến công viên trong suốt mùa đông này. Hỏi họ một, hai, ba lần. Những câu chuyện trên báo và một đường dây đặc biệt của cảnh sát được thông báo trên ti vi.”
“Chà, quả là ý tưởng hay.” Arkady nói. “Nếu tôi ở New York, tôi sẽ thử các cách này.”
Đôi mắt xanh lơ dịu lại. “Nếu tôi nhận dạng đúng xác em trai mình, điều gì sẽ xảy ra?”
“Nó sẽ trở thành một vụ án của bên An ninh Quốc gia.”
“KGB?”
“Đúng thế.”
“Thế thì tôi sẽ ra sao?”
“Anh sẽ bị giữ lại để đưa ra bằng chứng. Tôi có thể giấu thông tin về cuộc gặp gỡ của chúng ta ở công viên, về khẩu súng của anh. Việc giam giữ anh có thể không được thoải mái lắm.”
“Anh có thể làm cho nó vui hơn không?” Kirwill hỏi.
“Không vui lắm đâu.” Câu hỏi bất ngờ làm Arkady bật cười.
“Vậy...” Kirwill châm một điếu thuốc rồi búng que diêm ra ngoài cửa sổ, “Tôi nghĩ là tôi thích sự thu xếp như này. Chỉ anh và tôi.”
Một trong những người lái xe taxi bước qua phố để hỏi liệu họ có bộ phận ô tô nào cần bán hoặc mua không. Arkady xua anh ta đi.
“Một ‘sự dàn xếp’?” Arkady nói với Kirwill. Đó là điều anh đã nghĩ trong đầu, nhưng nghe điều đó từ Kirwill khiến anh cảm thấy không thoải mái lắm.
“Một sự hợp tác dựa trên hiểu biết song phương.” Kirwill nói. “Giờ, tôi thấy có vẻ như là gã to lớn, Kostia gục xuống trước, đúng không nhỉ? Jimmy có lẽ là thứ hai. Với cái chân vụng về, tôi thực sự ngạc nhiên với việc nó có thể trượt băng. Cuối cùng, cô gái Davidova. Điều mà tôi không hiểu đó là những phát bắn vào đầu, trừ khi tên sát nhân biết được cái răng đã làm của Jimmy và biết nó sẽ khác với cách làm răng của Nga. Hiện anh không nghi ngờ một nha sĩ nào, đúng không Renko?” Anh ta nhếch mép cười nửa miệng. “Hoặc bất cứ người nước ngoài nào?”
“Gì nữa không?” Arkady hỏi với một giọng bình thản, dù nó đã khiến anh mất mấy ngày để trả lời câu hỏi về cái răng của Jimmy.
“Được rồi. Thạch cao trên quần áo. Tượng thánh, đúng không? Đó là lý do tại sao anh đưa người kia đi thu thập danh sách. Nhân tiện, đó chính là gã mà tôi đã bám theo tới KGB. Có thể anh không phải là một kẻ chọc ngoáy với họ, nhưng anh ta thì có.”
“Chúng ta đang suy nghĩ cùng một hướng đấy.”
“Tốt lắm. Giờ hãy trả lại tôi tấm phù hiệu cảnh sát.”
“Chưa được.”
“Renko, anh đang cản trở tôi đấy.”
“Thưa ngài Kirwill, chúng ta đều đang kìm kẹp lẫn nhau. Chúng ta mới đang ở bước bộc toạc đầu tiên thôi. Bởi cả hai đều không biết được rằng khi nào thì người còn lại sẽ ngoảnh mặt, nên chúng ta sẽ làm theo thứ tự từng bước một mà thôi. Đừng lo lắng, anh sẽ có được phù hiệu cảnh sát trước khi anh về nước.”
“Phù hiệu thanh tra.” Kirwill chữa lại, “Và đừng có đùa, tôi không cần. Nếu nó khiến anh cảm thấy thoải mái hơn, giữ lấy nó một hay hai ngày. Trong lúc ấy, anh hiểu thế nào là “khổ sở” chứ? Bởi vì đó sẽ là những bước lê thê anh phải làm trong vụ này, chưa kể đến việc anh chưa làm được gì trên góc độ tượng thánh. Tôi nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu chúng ta làm việc riêng lẻ và chỉ gặp để trao đổi thông tin. Anh chỉ định làm theo hướng đó mà thôi. Cho tôi số điện thoại tôi có thể dùng để liên lạc với anh.”
Arkady viết số điện thoại của văn phòng và số phòng khách sạn của anh ở Ukraina. Kirwill nhét chúng vào trong túi áo.
“Cô gái khá là xinh đẹp phải không? Cô gái bị giết với Jimmy ấy?”
“Tôi nghĩ vậy, nhưng sao anh nghĩ thế? Em trai anh sát gái lắm à?”
“Không. Jimmy là một thầy tu chuyên nghiệp. Thằng bé không đụng chạm với phụ nữ, nhưng nó lại thích ở gần họ và rất kén cá chọn canh.”
“Giải thích đi nào.”
“Madonnas, Renko. Anh biết họ là ai.”
“Tôi không nghĩ là tôi hiểu.”
“Chà, đừng cố.” Kirwill mở cửa phòng. “Tôi chỉ đang bắt đầu tin rằng anh thật sự đáng tin sau tất cả mọi chuyện.”
Arkady nhìn Kirwin qua đường và di chuyển giữa những tài xế taxi, sục vào họ đầy ngổ ngáo. Tên người Mỹ, rõ ràng là có tính toán điều gì đó trong đầu.
Sau khi bàn giao chiếc túi và khẩu súng cho Lyudin, Arkady hướng về Bưu điện Trung tâm để gọi tới khu vực quanh địa chỉ của Irina Asanova được giám sát. Không hề bình thường với một người như cô khi chẳng có điện thoại riêng, mọi người đợi hàng năm trời để có được đặc quyền này. Điều làm Arkady thấy thú vị đó là những ví dụ của sự túng thiếu ở cô: quần áo và giầy secondhand, thuốc lá hộp các tông. Mosfilm đầy những phụ nữ được trả mức phụ cấp tương tự nhưng lại ăn mặc đầy phong cách để tham dự các bữa tiệc Hội ngộ nhà làm phim dành cho các vị khách nước ngoài, ở đó thường xuyên có những lời tán dương đầy văn minh về một lọ nước hoa Pháp hay một chiếc váy đẹp lộng lẫy tới mức chẳng ai muốn thay ra. Irina Asanova chắc hẳn có được mời, thay vì thế, cô lại dè xẻn từng kopek. Anh thực sự ngưỡng mộ cô.
Đại tá Lyudin đang nói với Arkady về những mảnh vỡ khô ráo đã được phân tích từ chiếc túi tìm thấy dưới dòng sông thì điện thoại reo. Một người phụ tá trả lời và vừa đưa nó cho Arkady vừa nói “Đồng chí Renko.”
“Anh sẽ gọi cho em sau.” Arkady nói với Zoya.
“Chúng ta phải nói chuyện bây giờ.” Giọng cô the thé.
Arkady ra hiệu cho Lyudin tiếp tục. “Chiếc túi da làm ở Ba Lan,” vị chuyên gia điều tra bắt đầu.
“Arkady?” Zoya gọi.
“Một sợi dây da xuyên qua những mắt kim loại quanh mặt trên túi,” Lyudin minh họa, “nên nó có thể được cầm tay hoặc khoác vai. Kiểu dáng rất thể thao, được bán ở Moscow và Leningrad. Đây.” anh ta chỉ vào với một chiếc bút chì được chuốt, “một lỗ duy nhất ở góc đáy túi, cái lỗ bị khoét rộng bởi nhiều hơn một phát đạn. Có vết thuốc súng ở quanh lỗ và da chiếc túi khớp với các mẩu vụn da được tìm thấy trên viên đạn ở GP1.”
Viên đạn giết Kostina Borodin. Arkady gật gù khuyến khích.
“Tôi đang hoàn thành đơn đề nghị ly hôn ở Tòa án Thành phố,” Zoya nói. “Tiền phí là một trăm rúp. Tôi muốn anh trả một nửa. Suy cho cùng, tôi đã để lại căn hộ cho anh còn gì.” Cô dừng lại một chút để chờ đợi một câu trả lời. “Anh có ở đó không đấy?”
“Có.” Arkady trả lời về hướng điện thoại.
Lyudin liệt kê các vật trên mặt bàn. “Ba móc đeo chìa khóa, ba chiếc chìa giống nhau trên mỗi móc. Một cái bật lửa. Một chai vodka Extra rỗng. Nửa chai cognac Martell. Hai cái giầy trượt băng Spartak cỡ XL. Một thanh bảo quản hương dâu Pháp. Không phải hàng nhập khẩu, tôi có thể nói rõ thêm như thế, chắc chắn nó được mua từ nước ngoài.”
“Không bơ, bánh mì, xúc xích à?”
“Cá và lươn đã lượn qua lượn lại ở cái túi này hàng tháng trời, thưa Thanh tra. Có các dấu vết của mỡ động vật cho thấy các loại đồ ăn khác nữa. Cũng có cả dấu vết mô người.”
“Arkady, anh phải xuống đây ngay,” Zoya nói. “Mọi việc sẽ khả quan hơn và chúng ta sẽ có phiên làm việc với thẩm phán. Tôi đã nói chuyện với bà ấy rồi.”
“Anh đang bận.” Arkady nói vào điện thoại, rồi hỏi Lyudin, “Dấu vân tay thì sao?”
“Anh thực sự không hy vọng sẽ có dấu nào, Thanh tra.”
“Ngay bây giờ,” Zoya vẫn khăng khăng, “hoặc là anh sẽ thật sự hối tiếc.”
Arkady đặt tay lên chiếc điện thoại. “Xin lỗi, Đại tá. Cho tôi một phút.”
Anh ta giơ đồng hồ lên tính toán một cách tỉ mỉ, Lyudin rời khỏi bàn với một nhóm trợ lý phòng nghiên cứu. Arkady quay lưng lại với họ và thì thầm, “Chỉ là em dựa vào đâu để đề nghị? Anh đánh em à? Anh nhậu nhẹt say xỉn à?”
“Bắt đầu với” anh nghe thấy tiếng cổ họng cô nghẹn lại “sự bất đồng. Tôi có nhân chứng. Natasha và Tiến sĩ Schmidt.”
“Thế còn...” Anh không thể nói được những suy nghĩ của mình. “Vị trí của em tổ chức thì thế nào?”
“Ivan...”
“Ivan?”
“Tiến sĩ Schimidt nói sẽ không có gì ảnh hưởng xấu.”
“Cảm ơn Chúa vì điều đó. Chúng ta bất hòa tới mức nào nhỉ?”
“Điều đó còn tùy,” Zoya nói. “Anh sẽ hối tiếc nếu chúng ta sẽ phải ra tòa công.”
“Anh đã đủ hối tiếc rối. Còn hối tiếc vì điều gì nữa?”
“Những lời phê phán của anh,” cô sụt sùi.
“Phê phán nào?”
“Những lời chê trách, tất cả thái độ của anh. Tất cả những gì anh nói về tổ chức.”
Arkady nhìn chằm chằm vào ống nghe. Cố gắng hình dung hình ảnh của Zoya và hiện lên trong anh là hình ảnh tấm poster của Người tiên phong với mái tóc vàng óng như ngô. Rồi là một bức tường trống. Căn hộ bị lục tung. Khung cảnh tĩnh lặng, như thể cuộc hôn nhân của họ đã bị rỉa sạch sẽ theo năm tháng bởi những con vật vô hình, háu đói ngấu nghiến. Nhưng đó là suy nghĩ giống như Lyudin và thực sự chẳng có gì cả để mà tóm cả, những hình ảnh đã xáo trộn sẵn rồi. Anh đang nói chuyện với một sự trống rỗng. Những phân tích về bản chất chính trị, cảm xúc và mỉa mai nực cười tất cả đều chết trong sự trống rỗng mà một người nói với một người sẽ sớm trở thành vợ cũ.
“Anh chắc chắn rằng tương lai của em sẽ không bị ảnh hưởng xấu,” anh nói. “Anh chỉ cần đến tháng Năm. Một vài ngày nữa.” Anh dập máy.
Lyudin vỗ tay. “Trở lại với công việc thôi. Khẩu súng chắc chắn phải đưa vào một chậu axit rửa trước khi được bắn thử. Tuy nhiên, tôi có thể nói thêm với anh lúc này, thanh tra. Các chuyên gia vũ khí của chúng tôi tin chắc rằng khẩu súng là một khẩu Mannlicher, và có cỡ nòng chắc chắn giống với khẩu súng đã nhả ra những viên đạn chết chóc ở công viên Gorky. Đến mai, tôi sẽ có thể nói với anh chính xác mẫu. Trong lúc đó, chúng tôi sẽ làm hơn cả khả năng. Thanh tra Renko, anh có đang lắng nghe không vậy?”
Đi dọc theo Novokuznetskaya để kiểm tra bất cứ cuộc gọi nào từ Kirwill, Arkady bị bắt gặp bất ngờ trong một buổi họp tư tưởng. Các buổi họp này được tổ chức không đều đặn lắm nhưng khá đủ và thường là có một người sẽ đọc to trang đầu của tờ Pravada trong khi những người khác thì lại lật những trang tạp chí thể thao. Nhưng lần này thì đó lại là một cuộc họp thực sự, phòng thẩm vấn ở tầng trệt chật kín các điều tra viên trong quận đang ngồi đối mặt với Chuchin và một bác sĩ từ Viện Serbsky.
“Căn bệnh tâm thần của Cái tổ đang nằm trên ngưỡng phá vỡ, một lời tuyên bố dựa trên toàn bộ nền tảng bệnh học thần kinh,” vị bác sĩ nói. “Các cơ quan y tế và pháp luật đã hoạt động tách biệt quá lâu trong một hình mẫu không hòa hợp. Hôm nay, tôi rất vui được nói rằng, tình trạng này đã gần như đi đến hồi kết.” Ông ta dừng lại để đặt một viên thuốc con nhộng vào miệng mình và sắp xếp những tập giấy trên bàn. “Đó là việc tìm ra một nơi mà những tên tội phạm sẽ phải chịu đựng một sự bất ổn về tâm lý mà chúng tôi gọi là bệnh học không chính thống. Khám phá này dựa trên cả lý thuyết lẫn lâm sàng. Trong một xã hội bất công, một người có thể vi phạm pháp luật bởi những lý do kinh tế hay xã hội hợp lý. Trong một xã hội bình đẳng, không có bất cứ một nguyên nhân hợp lý nào ngoại trừ bệnh tật về mặt tinh thần. Thừa nhận thực tế này giúp bảo vệ người phạm pháp cũng như cái xã hội mà anh ta đã phá vỡ luật lệ. Nó cho phép kẻ vi phạm một cơ hội được cách ly cho tới khi căn bệnh của mình có thể được chữa trị một cách chuyên nghiệp. Do đó anh thấy việc các điều tra viên có được nhận thức tâm lý nâng cao quan trọng tới mức nào để họ có thể phát hiện được những dấu hiệu nhỏ nhất của bệnh học không chính thống trước khi kẻ lệch lạc kia có cơ hội phá luật. Đó là nhiệm vụ của chúng ta để ngăn ngừa xã hội bị tổn thương và để cứu giúp một người bệnh khỏi hậu quả từ hành động của mình.”
Vị bác sĩ dùng cả hai tay để chuyển sang một trang mới. “Anh sẽ ngạc nhiên với các thí nghiệm được tiến hành bây giờ ở Viện Serbsky. Chúng tôi hiện nay có bằng chứng cho thấy hệ thống thần kinh của một tên tội phạm khác biệt với một người bình thường. Khi lần đầu tiên được mang tới phòng khám, các chủ thể khác nhau có thể thể hiện các hành vi cư xử khác nhau rất lớn, đôi khi hét lên những lời vô lý, đôi khi lại xuất hiện bình thường như anh hoặc như tôi. Tuy nhiên, sau vài ngày cô lập trong một xà lim, họ rơi vào trạng thái căng trương lực. Tôi đã từng tự tay đâm một chiếc kim sâu xuống hai centimet vào da của một bệnh nhân như vậy và không hề thấy đau đớn chút nào.”
“Anh đã đâm kim vào đâu?” Arkady hỏi.
Một chiếc điện thoại đổ chuông trong văn phòng và Arkady bước ra ngoài cầu thang. Chuchin nói vào tai vị bác sĩ còn ông ta thì đang ghi chú lại.
“Tôi có một chú mèo khi tôi còn là cô bé.” Natasha Mikoyan vuốt chiếc chăn nỉ phủ trên chân. “Thật mềm mại, nhẹ như lông tơ, anh có thể cảm thấy một chút những chiếc xương sườn nhỏ xíu của nó. Đáng nhẽ tôi nên có một con mèo.”
Cô uốn người lên phần cuối chiếc sofa, tấm chăn trùm lên cổ áo ngủ xù xì, những ngón chân nhỏ xíu của cô hờ hững trên lớp nệm sofa. Rèm được kéo, chẳng có chút ánh sáng nào lóe lên. Tóc cô buông xõa, những lọn tóc tạo nên những dấu phẩy sẫm màu trên cổ. Cô nhấp một ngụm brandy từ chiếc cốc sứ.
“Cô nói cô muốn trao đổi về một vụ giết người,” Arkady nói. “Vụ giết người nào?”
“Của tôi.” Cô nói rõ ràng.
“Cô nghi ngờ ai cố gắng giết mình?”
“Tất nhiên là Misha rồi.” Cô cố lấp liếm nụ cười, như thể anh đặt một câu hỏi ngốc nghếch.
Dù cho ánh sáng mờ ảo của căn phòng, anh vẫn nhìn thấy những thay đổi so với tuần trước khi anh đến để ăn tối. Không có gì nhiều, một bức tranh xiêu vẹo, gạt tàn ngập đầy những mẩu thuốc lá, bụi trong không khí và bốc mùi như những bông hoa thối rữa. Một chiếc ví nằm trên bàn giữa chiếc sofa và chiếc ghế anh ngồi, son môi và một tấm gương nằm bên cạnh chiếc ví, và khi cô nhỏm dậy đầu gối cô va vào bàn, cây son môi lăn lên lăn xuống.
“Lần đầu tiên cô nghi ngờ Misha muốn giết cô là khi nào?”
“Ồ, hàng năm trời rồi.” Cô nói sau một hồi suy nghĩ, “Anh có thể hút thuốc. Tôi biết anh thích hút thuốc mỗi khi anh lo lắng.”
“Chúng ta đã biết nhau quá lâu rồi,” anh đồng tình và cảm thấy thèm một điếu thuốc. “Làm thế nào mà cô cho rằng anh ấy sẽ giết mình?”
“Tôi sẽ tự giết mình.”
“Đó không phải là giết người, Natasha, đó là tự tử.”
“Tôi biết anh sẽ nói thế, nhưng đó không phải là vụ án ở đây. Tôi chỉ là một công cụ, anh ta là kẻ sát nhân. Anh ta là một luật sư, anh ta không hề chớp một cơ hội nào.”
“Ý cô là anh ấy cố gắng làm cho cô phát điên, đúng không?”
“Nếu tôi bị điên, tôi đã không thể nói với anh rằng anh ta đang làm gì. Bên cạnh đó, anh ta đã lấy đi cuộc sống của tôi rồi. Chúng ta chỉ đang nói đến tôi lúc này thôi.”
“À.”
Cô không tỏ ra điên cuồng. Thực ra, giọng cô có sự dịu nhẹ mơ mộng và vẻ ngoài của sự ưng thuận. Giờ thì anh nghĩ về điều đó, anh và Natasha đã luôn là những người bạn tuyệt vời, nhưng chưa bao giờ thân thiết.
“Chà,” anh hỏi. “Cô muốn tôi làm gì cho cô nào? Chắc chắn tôi sẽ nói với Misha...”
“Nói với anh ta á? Tôi muốn anh bắt anh ta lại.”
“Vì tội giết người? Đừng tự tổn hại mình và sẽ không có đâu.” Anh cố mỉm cười.
Natasha lắc lắc đầu. “Không, tôi không thể mạo hiểm được. Tôi muốn anh ta phải bị bắt ngay bây giờ, khi tôi còn có thể.”
“Hãy có lý một chút.” Arkady đã mất kiên nhẫn. “Tôi không thể bắt một người vì một tội mà anh ta chưa thực hiện, đặc biệt là dựa trên lời nói của một nạn nhân mà đang định tự tước đoạt mạng sống của chính mình.”
“Vậy là anh chẳng phải một thanh tra giỏi, đúng không nhỉ?”
“Thế sao cô lại gọi tôi? Tại sao lại nói với tôi? Nói với chồng cô đi.”
“Tôi thích nghe tiếng đó.” Cô nghiêng đầu. “‘Chồng của cô’. Nghe nó gợi lên một sự sở hữu pháp lý.” cô thu mình lại. “Tôi nghĩ anh và Misha y hệt nhau. Anh ta cũng thế. Anh ta luôn gọi anh là ‘mặt tốt’ của anh ta. Anh làm tất cả những điều mà anh ta ước muốn mình có thể làm, đó là lý do tại sao anh ta ngưỡng mộ anh thế. Nếu tôi không thể chỉ ra được ‘mặt tốt’ của anh ta, anh ta cố để giết tôi, tôi không thể nói với bất cứ ai. Anh biết đấy, tôi thường tự hỏi tại sao anh không hề có hứng thú với tôi khi chúng ta còn ngồi trên ghế giảng đường cửa trường đại học. Tôi đã rất quyến rũ.”
“Cô vẫn thế.”
“Giờ anh có hứng thú không? Chúng ta có thể làm điều đó ở đây, chúng ta không phải đi vào phòng ngủ, và tôi hứa với anh nó sẽ tuyệt đối an toàn, không chút nguy hiểm nào cả. Không? Hãy thành thật đi, Arkady, anh luôn luôn thật thà mà, đó là sự cuốn hút của anh. Không? Đừng xin lỗi, tôi phải nói với anh rằng tôi cũng không hứng thú lắm. Đó là điều xảy ra với chúng ta...” cô cười lớn, “khi chúng ta không còn thấy thú vị chút nào nữa?”
Bằng một sự thôi thúc, Arkady với và mở chiếc ví của cô ra, lục lọi đồ trong đó, chủ yếu là các tập giấy Pentalginum, một viên giảm đau có chứa codein và thuốc an thần, được bán không cần đơn của bác sĩ, sự phụ thuộc vào thuốc của người vợ tần tảo.
“Cô đã uống bao nhiêu ngày rồi?”
“Cách làm việc của tôi, đó là thứ mà anh thấy. Anh rất chuyên nghiệp. Nhưng tôi đang làm phiền anh,” cô nói một cách rạng rỡ, “và anh có vài cái xác cần chú tâm. Tôi chỉ là một mối bận tâm nữa thôi. Anh là người đàn ông duy nhất mà tôi biết có thể sẽ quan tâm. Anh có thể quay lại với công việc rồi.”
“Cô sẽ làm gì?”
“Ồ, tôi sẽ chỉ ngồi đây. Giống như một chú mèo.”
Arkady đứng đó và tiến một vài bước về phía cửa. “Tôi nghe nói cô đang định đứng ra làm nhân chứng chống lại tôi ở tòa ly hôn,” anh nói.
“Không phải là chống lại anh. Nói một cách thẳng thắn thì là vì Zoya.”
Natasha dịu dàng, “Tôi chưa bao giờ thấy hai người bọn anh như một cặp, chưa bao giờ.”
“Cô sẽ ổn chứ? Tôi phải đi thôi.”
“Tôi sẽ hoàn hảo.” Cô từ từ giơ chiếc cốc lên miệng, rất nghiêm túc.
Ở sảnh thang máy, Arkady gặp Misha vừa mới đi đến, đầy sự ngượng ngùng.
“Cảm ơn vì đã gọi. Tôi không thể về sớm hơn được.” Misha cố gắng lách người qua.
“Đợi đã. Tốt nhất anh nên đưa cô ấy tới bác sĩ.” Arkady nói, “và vứt cái đống thuốc kia đi.”
“Cô ấy sẽ ổn thôi.” Misha quay trở lại căn hộ của mình. “Cô ấy đã làm thế trước đây rồi, cô ấy sẽ ổn. Tại sao anh không lo lắng cho chuyện của anh đi?”
Arkady dành cả buổi chiều xử lý đống giấy tờ, kiểm tra đăng ký của Hans Unmann về chiếc xe Zhiguli và kiểm tra lại visa của Osborne. Tay người Mỹ đã đi từ Paris tới Leningrad bằng đường sắt, đến vào mùng hai tháng Một. Quả là một chuyến đi, ngay cả khi đi bằng vé “hạng mềm” qua Pháp, Đức và Ba Lan. Hẳn là phải nhạt nhẽo, đặc biệt là với một doanh nhân đầy quyền lực như Osborne. Dù vậy, Leningrad bị đóng băng vận chuyển trong suốt những tháng mùa đông và công tác kiểm tra ở sân bay có thể đã phát hiện ra khẩu Mannlicher.
Buổi chiều muộn, Arkady tham dự lễ hỏa táng Pasha Pavlovich, xác anh ta cuối cùng đã được trả về và được đặt trong một chiếc hộp gỗ thông rồi đưa vào ngọn lửa thiêu.
Những tên lưu manh đã xóa tất cả chữ trên tấm biển báo màu đỏ ngoại trừ một từ: HY VỌNG.
Ống khói của nhà máy Likhachev biến mất trong đêm. Trên phố, các cửa hàng đã đóng, cửa hàng duy nhất bán vodka được bảo vệ bởi một cánh cổng sắt. Những tên say xỉn hò hét sau một người cảnh sát. “Đồ rác rưởi bẩn thỉu xấu xa.” Và người cảnh sát rời vỉa hè bước xuống phố, tìm một chiếc xe tuần tra.
Arkady bước vào quán cà phê nơi anh đã gặp Swan trước đây. Những vị khách ruột túm tụm lại bên những chiếc bàn tròn, những bàn tay thật thà đặt trên những cái chai, những chiếc áo cứng ngắc choàng trên ghế, hành sống và những con dao trên đĩa. Chương trình giải trí bất hợp pháp được bật trên một chiếc tivi đặt trên quầy bar: Dynamo đấu với Odessa. Arkady đi thẳng vào phòng vệ sinh, nơi Kirwill đang đi tiểu. Anh ta mặc một chiếc áo khoác da và đội một chiếc mũ vải. Mặc dù ánh sáng chập chờn, Arkady vẫn thấy được khuôn mặt của Kirwill, bên cạnh sự căng thẳng nguy hiểm thường thấy là khuôn mặt đang giãn ra thoải mái.
“Vui chứ?” Arkady hỏi.
“Đứng lên bãi nước tiểu của kẻ nào đó? Chắc chắn rồi.” Anh ta kéo khóa quần. “Anh đến muộn.”
“Xin lỗi.” Arkady bước tới, tránh vũng nước. Anh tự hỏi không biết Kirwill đã uống được bao nhiêu rồi.
“Đã tìm ra Mannlicher chưa?”
“Có vẻ như là sẽ được.”
“Anh đã làm cái khỉ gì hôm nay nữa thế? Hoàn hảo hóa mục tiêu của mình à?”
“Anh có thể làm nó tồi tệ hơn đấy.” Anh nhìn đôi giày của Kirwill.
Họ bước tới chiếc bàn mà Kirwill đã đặt nằm trong góc bar. Chai vodka đã vơi một nửa đứng giữa bàn. “Renko, anh có uống không?”
Arkady cân nhắc việc rời đi. Kirwill đủ tỉnh táo khó mà đoán biết được, và Arkady vẫn thường hay nghe rằng người Mỹ không thể giữ được ly rượu của mình. Nhưng Swan đang đến và anh không muốn bỏ lỡ hắn.
“Anh nói gì, Renko? Sau nữa chúng ta sẽ có một cuộc thi đi tiểu - khoảng cách, thời gian, mục tiêu và phong cách. Tôi sẽ lấy một cái xe lăn. Một chân. Như thế không đủ à? Không dùng tay?”
“Anh thực sự là một cảnh sát sao?”
“Người duy nhất tôi thấy ở đây. Kìa, Renko, tôi đang chi tiêu giải trí cơ mà.”
“Anh hơi xấc xược nhỉ?”
“Khi được kích động thôi. Anh thà bị tôi đấm quay cuồng như tôi đã làm trước đây chứ gì?” Kirwill ngửa ra sau, khoanh tay và nhìn quanh ra vẻ khoan khoái. “Một điểm khá hay đấy chứ.” Đôi mắt anh quay lại nhìn Arkady và hiếu động bắt chước giọng điệu hờn dỗi trẻ con: “Tôi bảo đây quả là một nơi khá hay.”
Arkady đi tới quầy và quay lại với một chai rượu cùng một chiếc ly dành cho anh. Anh đặt hai que diêm trên bàn nằm giữa chai của anh và chai của Kirwill, bẻ đôi một que, che kín cả hai que diêm chỉ để hở đầu khỏi tay mình, rồi nói, “Bốc phải que ngắn thì tự rót rượu uống.”
Kirwill cau mày rút một que. Là que ngắn.
“Khốn thật.”
“Tiếng Nga tốt đấy, nhưng diễn đạt sai rồi.” Arkady nhìn Kirwill rót rượu. “Thêm nữa, anh cũng nên tỉa bớt tóc ở hai bên mai. Đừng gác chân lên ghế. Chỉ người Mỹ mới gác chân như thế.”
“Ồ, tôi thấy chúng ta đang làm việc với nhau khá tốt.” Kirwill nốc cạn ly của mình trong một nhấp, ngửa đầu ra sau, cũng như Arkady. Một lần nữa họ chơi trò rút diêm và Kirwill lại thua. “Mẹ kiếp. Được đấy, Renko. Sao anh không cho tôi biết anh đã làm gì bên cạnh việc để cho máu của mình đi từ đầu tới chân.”
Arkady không định nói cho anh ta nghe về Osborne, và anh cũng không muốn Kirwill theo dõi Irina Asanova, nên anh nói về việc tái tạo đầu của cô gái xấu số.
“Tuyệt,” Kirwill nói khi Arkady kể xong. “Tôi đang gặp một chuyện khó nhằn đây. Một cái mặt được tạo ra từ đầu lâu? Chúa ơi. Chà, việc này quả là ly kỳ, cứ như đang xem cảnh sát thời Rome cổ đại vậy. Thế rồi sao nữa, ruột chim à, hay anh có ném xương không? Tái phục lại các tượng thánh, đó là điều Jimmy làm. Các ghi chú của anh có nói đến một cái rương đựng tượng thánh.”
“Bị lấy trộm hay mua, không phải là làm lại.”
Kirwill gãi cằm và ngực, rồi tay anh ta mò vào trong túi áo khoác và vung vẩy một tấm bưu thiếp trước mặt Arkady. Ở bên mặt trắng là một đoạn ngắn viết “Rương tôn giáo, Nhà thờ Tổng lãnh Thiên thần, điện Kremlin.” Mặt kia là một bức ảnh màu của chiếc rương mạ vàng đựng những chén thánh bằng pha lê và vàng ròng. Xung quanh chiếc rương, các hình ảnh tượng thánh minh họa trận đánh giữa những thiên thần bóng tối và thiên thần ánh sáng.
“Thanh tra, anh nghĩ là chiếc rương này bao nhiêu tuổi rồi?”
“Bốn trăm, năm trăm năm.” Arkady đoán.
“Thử tính năm 1920. Đó là khi Nhà thờ và mọi thứ bên trong được phục hồi lại. Ai bảo thời kỳ đó không có phong vị? Giờ, tôi chỉ đang nói về khung của cái rương. Các tấm tranh là nguyên bản. Chúng đi cả bộ với giá hàng trăm ngàn đô và hơn nữa ở New York. Và chúng đáng giá, các tấm tranh đó bị tuồn khỏi đây mọi lúc mọi nơi, nhưng đôi khi chúng không biến đi như tượng thánh. Có lẽ một tay buôn đưa ra nước ngoài một chiếc rương loại xoàng được gắn xung quanh những tượng thánh loại xoàng nhìn xấu xí. Nên theo ý tưởng sáng dạ này, tôi dành cả ngày lần tới mọi đại sứ quán khỉ gió trong thành phố, cố tìm ra ai đó đã từng xuất tượng thánh ra nước ngoài, trong vòng sáu tháng gần nhất. Chả đi đến đâu cả. Quay lại Đại sứ quán Mỹ, tới tùy viên chính trị, là trưởng vùng của CIA và béo trùng trục, anh ta có thể nói với tôi một cách bí mật rằng buôn lậu tượng thánh là một công việc bí mật ngon lành khác chống lại thời buổi lạm phát này. Anh có thể bị thoát vị khi cố mà lôi kéo hầu bao ngoại giao ở đây. Chỉ là, không một tay buôn tư nhân nào được cho phép. Tất nhiên là rồi sau đó tôi nhận ra anh không thể làm bất cứ việc phục dựng nào mà không có vàng và anh không thể mua hay ăn trộm vàng trên đất nước này, vậy nên toàn bộ ý tưởng là viển vông ngoài cửa sổ.
“Kostia Borodin có thể,” Arkady nói.
“Mua vàng ở đây?”
“Lấy trộm vàng ở Siberi. Nhưng không phải nó quá rõ ràng rồi sao, đặt một cái rương mới quanh những tượng thánh cổ?”
“Họ làm cho nó cũ kỹ. Chà trên lớp vàng để cho cái thân cây màu đỏ thấy qua được. Đưa một thám tử đến mọi cửa hàng nghệ thuật trong thành phố để kiểm tra bất cứ ai mua các thân cây Armenian, đá thạch cao, gelatin dạng hạt nghiền, vôi bột trắng, keo dính của thợ mộc, vải mùng, giấy nhám mịn, da thuộc...”
“Anh có vẻ có chút kinh nghiệm.” Arkady đưa ra một loạt ví dụ.
“Bất cứ tay cớm nào ở New York đều biết điều này. Cũng như cotton, rượu, những phát đấm và những tay đánh bóng mặt phẳng lì.” Kirwill rót một ly rượu khác cho mình trong khi Arkady viết nguệch ngoạc.
“Thật ngạc nhiên nếu anh không thấy lông chồn trên quần áo của Jimmy.”
“Lông chồn? Tại sao?”
“Đó là kiểu bàn chải duy nhất dành cho lớp mạ vàng, một chiếc bàn chải lông chồn màu đỏ. Cái khỉ gì mới được chứ?”
Swan đến cùng với một người Gypsy, một người đàn ông lớn tuổi với khuôn mặt một con tinh tinh cổ đại, nhăn nhúm và cảnh giác, một chiếc mũ méo mó trên mái tóc muối tiêu, một chiếc khăn bẩn thỉu quấn quanh cổ. Trong mọi khảo sát thống kê của Liên Xô đã không còn những kẻ thất nghiệp, ngoại trừ những người Gypsy. Mặc kệ mọi nỗ lực vực họ dậy hoặc đá họ ra ngoài, cứ mỗi Chủ nhật đến là lại thấy họ bán những chiếc bùa ngải ở các khu chợ nông dân, và mỗi mùa xuân họ lại xuất hiện đầy rẫy như chui lên từ lòng đất trong các công viên thành phố, những đứa bé ngăm đen đang ngậm những núm vú phơi giữa trời, quỳ lạy xin tiền.
“Người ta không mua các vật dụng nghệ thuật ở các cửa hàng nghệ thuật,” Arkady giải thích cho Kirwill.
“Họ mua chúng ở các khu chợ đồ cũ, ở các góc phố, ở căn hộ của một người nào đó.”
“Ông ta nói mình có nghe về việc một người Siberi có bán bụi vàng.” Swan hất đầu về phía người đàn ông Gypsy.
“Và bộ da chồn zibelin, tôi nghe được thế.” Người đàn ông Gypsy có giọng khàn khàn. “Năm trăm rúp chỉ cho một bộ da.”
“Anh có thể mua bất cứ thứ gì ở ngay góc phố,” Arkady nói với Kirwill nhưng lại nhìn vào người Gypsy.
“Bất cứ gì,” người Gypsy gật đầu.
“Kể cả con người,” Arkady nói.
“Giống như tay thẩm phán sẽ chết từ từ bởi căn bệnh ung thư, kẻ đã đẩy con trai tôi vào quân đội. Liệu ông ta có nghĩ tới những đứa con mà con trai tôi để lại hay không?”
“Con trai ông để lại bao nhiêu đứa con?” Arkady hỏi.
“Những đứa nhóc bé xíu.” Ông già Gypsy nghẹn ngào nuốt xuống với cảm xúc ứ đọng. Ông ta xoay người trên ghế để nhổ nước bọt lên sàn nhà và lau miệng bằng tay áo. “Mười đứa.”
Những kẻ say xỉn ở chiếc bàn gần nhất rên rỉ gào rú một bài tình ca, những cánh tay khoác lên vai nhau, đầu lắc lư. Ông già người Gypsy lắc lư hông và liếm môi đầy gợi tình. “Mẹ của chúng rất xinh đẹp,” Ông nói với Arkady.
“Bốn đứa bé.”
“Tám là con số cuối cùng...”
“Sáu.” Arkady đặt sáu rúp lên bàn.
“Ăn gấp mười nếu anh tìm ra chỗ những người Siberi sống.” Anh nói với Swan.
“Có một gã gầy nhằng tóc đỏ đi cùng họ. Họ đều biến mất khoảng đầu tháng Hai. Họ đã sao danh sách vật dụng nghệ thuật và đưa một tờ cho người Gypsy. Họ phải mua đồ cho mình từ một kẻ nào đó. Họ chắc chắn phải sống ngoại ô thành phố, không thể ở trung tâm. Họ không muốn có nhiều hàng xóm dị nghị về sự xuất hiện của họ.”
“Anh sẽ là một người vô cùng may mắn.” Ông già Gypsy nhét tiền vào trong túi. “Giống như cha anh. Vị tướng rất hào phóng. Anh có biết là chúng tôi đã đi theo đoàn quân của ông ấy trên khắp nước Đức không? Ông ấy luôn để lại điều gì đó tốt đẹp cho quân của mình. Không giống một số kẻ.”
Swan và ông già Gypsy rời đi ngay lúc Odessa ghi bàn trên ti vi trong quầy bar. Thủ môn đội Dynamo, Pilgui, đứng chống nạnh nhìn như thể đang nghiền ngẫm sân bóng không người.
“Những người Gypsy có thể tìm ra nhiều điều,” Arkady nói.
“Tôi cũng phải trải qua những chuyện kiểu như vậy với người cấp tin của mình, đừng lo lắng,” Kirwill nói. “Rút một que đi.”
Arkady thua và rót rượu.
“Anh biết đấy,” Kirwill lấy ly của mình, “có một vụ án ở công viên Tuxedo nhiều năm trước khiến họ phải ghép các mảnh vỡ khuôn mặt của một cô gái lại để nhận dạng. Và có một tay ở văn phòng Phòng khám New York làm công việc tái tạo khuôn mặt, chủ yếu là từ các vụ tai nạn máy bay. Anh ta đã bỏ các mảnh xương và tạo lại hình da. Tôi đoán anh có thể làm việc theo hướng ngược lại. Nào, ly này là vì người bạn thanh tra đã mất của anh, hử?”
“Ok. Vì Pasha.”
Họ uống, rút diêm và uống tiếp. Arkady cảm thấy vodka len lỏi trong cơ thể mình từ dạ dày đến tứ chi. Kirwill, chẳng cho thấy dấu hiệu đáng sợ nào của chứng liệt thần kinh do rượu, đang nằm xoài thoải mái trong chiếc ghế của mình, với ly rượu lủng lẳng trên một tay - anh ta cho thấy dấu hiệu của một người uống rượu đầy kinh nghiệm. Anh ta làm hiện lên trong tâm trí Arkady hình ảnh một vận động viên chạy đường dài mới chỉ vừa giậm đà, hay hình ảnh của một chiếc thuyền lớn khoan khoái vươn ra cơn sóng lớn. Mùi hôi của nơi này có thể xua đuổi bất cứ công dân Moscow có học thức nào. Thà chết trên bậc thềm của nhà hát Bolshoi còn hơn sống trong một quầy rượu của dân lao động. Nhưng Kirwill có vẻ thật sự thoải mái.
“Có đúng là tướng Renko như thế không?” anh ta hỏi. “Đao phủ của Ukraina là cha anh sao? Đó, như chúng tôi vẫn nói, là một dấu ấn nổi bật. Làm sao tôi lại không biết điều đó được chứ?”
Arkady tìm kiếm vẻ xúc phạm trên khuôn mặt đỏ ửng to bè. Kirwill chỉ cho thấy một sự tò mò thuần túy, thậm chí còn là một sự thích thú thân thiện.
“Dễ với anh,” Arkady nói, “khó với tôi.”
“Chà. Làm sao mà anh không bước chân vào Quân đội? Con của ‘Đao phủ Ukraina’, anh chắc chắn sẽ có huy chương của chính mình rồi ấy chứ. Anh là gì nào? Một kẻ phá phách à?”
“Ngoài sự bất tài, ý anh là thế à?”
“Đúng.” Kirwill cười. “Ngoài sự bất tài.”
Arkady nghĩ về điều đó. Đây là một câu chuyện đùa đầy căng thẳng mà anh không quen lắm và anh muốn đưa ra một câu trả lời chính xác.
“Sự bất tài của tôi thuần túy chỉ là một vấn đề về việc rèn luyện, là một “kẻ phá phách”, như anh nói, là khả năng thiên tài của riêng tôi. Và tôi nhắc lại rằng, rất khó. Vị tướng chỉ huy những chiếc xe tăng ở Ukraina. Một nửa Bộ Tổng Tham mưu hiện nay chỉ huy những chiếc xe tăng ở Ukraina. Nếu họ đưa vị tướng thành một nguyên soái, tôi sẽ không thể nào trốn được. Giờ đây, tôi hẳn sẽ có căn cứ tên lửa của riêng mình ở Moldavia rồi ý chứ.”
“Hải quân thì sao?”
“Là một trong những công tử bột với dải viền và thanh gươm đó sao? Không, cảm ơn. Dù sao thì, họ cũng không đưa ông ấy lên làm nguyên soái. Một nguyên soái Quân đội? Không bao giờ.”
“Họ giết ông ấy sao?”
“Cho ông ấy về hưu. Và tôi đã bị cho về làm thanh tra viên như anh thấy hôm nay. Rút một que đi.”
“Quả là một chuyện nực cười,” Kirwill rút một que và rót rượu “khi mọi người vẫn cứ hỏi làm thế nào mà anh lại làm cảnh sát, đúng không? Có ba công việc vẫn luôn nhận được những câu hỏi kiểu như vậy: mục sư, gái điếm và cảnh sát. Những công việc cần thiết nhất trên thế giới, nhưng mọi người vẫn luôn hỏi. Trừ khi anh là người Ai-len.”
“Tại sao?”
“Nếu anh là người Ai-len, có nghĩa là anh sinh ra trong một Holy Name Society* và anh sẽ chỉ có thể có hai nơi, sở cảnh sát hoặc nhà thờ.”
“The Holy Name? Đó là gì vậy?”
“Đó là cuộc đời đơn giản.”
“Đơn giản như thế nào?”
“Phụ nữ một là thánh, hai là gái bán hoa. Những mục sư Ai-len thì uống rượu, những người còn lại là đồng tính nam. Những người da đen thì cuồng tình dục và là những tay chơi gái đại tài. Quyển sách hay nhất từng được viết là Thế kỷ XIII, Thế kỷ vĩ đại nhất mọi thời, bởi John J. Walsh. Một luật sư công tố quận sẽ đi tiểu lên túi của anh và nói với anh rằng trời đang mưa. Đó là những điều có thật và Những quy tắc vàng, phần còn lại thì chỉ là những chuyện vớ vẩn lố bịch. Anh nghĩ tôi kiểu như một kẻ ngu dốt khốn nạn, đúng không?”
Không có gì để hiểu nhầm sự khinh bỉ trên khuôn mặt Kirwill. Sự thân thiện trên đó một khắc trước thôi - thực từng ở đó - đã biến mất. Arkady không làm gì để gây ra sự biểu cảm trên khuôn mặt của một người hay sự biến mất của một biểu cảm nào khác. Kirwill nghiêng người vươn qua bàn và nhắm mắt lại.
“Tôi không phải là một kẻ ngu dốt quá thể. Tôi biết về những người Nga, tôi đã được nuôi lớn bởi người Nga. Tất cả những người Nga mà Stalin dọa nạt đều biết tôi sống trong nhà tôi.”
“Tôi nghe bảo cha mẹ anh là những người cấp tiến,” Arkady nói một cách thận trọng.
“Cấp tiến? Những người cộng sản Công giáo Ai-len. Big Jim và Edna Kirwill, anh đã đúng khi nghe về họ.”
Arkady nhìn quanh quán rượu. Tất cả những thực khách khác đều đang chú tâm vào cái ti vi với trạng thái say xỉn. Odessa lại ghi thêm bàn và họ lại huýt sáo ầm ĩ. Một cái nắm chặt đau nhói vào cổ tay Arkady kéo anh quay lại.
“Big Jim và Edna, những trái tim rỉ máu của thế giới Liên Xô. Những kẻ vô chính phủ, ủng hộ phe Mensheviks, anh gọi thế, nếu xuất thân từ Nga và có một nơi ở New York - nhà của chúng tôi. Khi không một ai khác dám cho họ vào. Một lợi ích vĩnh cửu cho những người cộng sản bị đào thải. Tôi sẽ nói với anh điều này, những người vô chính phủ đó đã tạo ra những thợ máy ô tô tuyệt nhất. Những người vô chính phủ với đầu óc vô cùng máy móc, đến từ những quả bom đang được chắp vá.”
“Có vẻ như là phe cánh tả Mỹ có một lịch sử thú vị...” Arkady bắt đầu.
“Đừng nói với tôi về điều đó, tôi sẽ nói với anh về phe cánh tả dở hơi ấy. Phong trào Mác xít công giáo dặt dẹo, với những cái tên tạp chí dễ thương như Lao động, Niềm tin, Tư tưởng - như thể bất cứ ai trong số họ làm việc chăm chỉ hơn nâng một ly rượu sherry - hoặc những cái tên sụt sùi chỉ sau Jesus như là Orate Fratres hay The Gregorian Review. Tôi thích The Gregorian Review. Một kẻ vô công rồi nghề ở tu viện đấm đá với những kẻ đối lập. Chỉ có họ chẳng bao giờ xuất hiện khi những kẻ cầm đầu bị bắt, và cảnh sát đi bắt bớ thì lại hành quân vào nhà thờ để xin được ban ơn cho những cây dùi cui của họ. Các linh mục còn tồi tệ hơn cả lũ cớm. Chà, Giáo chủ thì lại là phần tử Phát xít. Ở Mỹ, để là giáo hoàng hay hồng y anh phải xấu xa, ngu ngốc và là người Ai-len, thế đấy. Đánh vào đầu Edna Kirwill và bà ấy thì cao gần mét rưỡi, và đứa con của anh lại được làm lễ kiên tín ở nhà thờ Thánh Patrick. Tại sao? Bởi trong vòng hai mươi năm Red Star là tạp chí Công giáo duy nhất với những quả bóng để có thể tự gọi mình là Cộng sản. Ngay ở trên các tấm banner. Đó là cách mà Big Jim làm mọi điều.
Ông ta đến từ một gia đình truyền thống quân đội Ai-len lâu đời, nhưng giống như một cái xe chở bia, chỉ hai tay là che hết cái bàn này,” Kirwill dang hai bàn tay to bè của mình ra “và được đào tạo, dạy dỗ quá ư là tốt. Edna là kiểu người lại quá chú trọng bề ngoài. Người thân trong gia đình bà ấy có một nhà máy bia và bà ấy đang định trở thành một nữ tu sĩ tại gia, kiểu gia đình như thế. Đó là lý do tại sao Big Jim và Edna không bao giờ được rút thông công bởi cha của bà ấy vẫn duy trì việc mua những nhà tu đạo cho Nhà thờ, ba cái phía trên dòng Hudson và một cái ở Ai-len. Tất nhiên, chúng tôi có những cái riêng của mình - Joe Hill House, Maryfarm - những cuộc đối thoại đầy trí tuệ sâu sắc quanh lò sưởi. De Chardin là một nhà đầu tư tủ áo, đúng hay không? Chúng ta có nên tẩy chay bộ phim Going My Way không? Ồ, chúng ta chỉ là những nhà tu hành cuối tuần mà thôi.
Gloria có những chiếc trống, những tấm kính rực rỡ hoa văn màu và những tượng thánh mạ vàng không chứ. Chúng tôi ghê tởm cái tình anh em cho tới khi cuộc chiến kết thúc và vụ án Rosenberg bắt đầu. Rồi tất cả những nhà tu hành kéo những chiếc mũ trùm choàng qua đầu và tìm chỗ ẩn nấp ngoại trừ Big Jim, Edna và những người Nga khốn khổ đồng cảnh. Chúng tôi bắt đầu với những thứ mà chẳng cho chúng tôi được cái gì tốt đẹp ngoài McCarthy và FBI ngoài cửa. Tôi đang chiến đấu với những người Trung Quốc ở Hàn Quốc khi Jimmy được sinh ra. Đó quả thực là một trò đùa trong gia đình. Hoover vướng Big Jim và Edna trong nhà nên họ phải mím môi gồng mình lên lần nữa.”
Dynamo cuối cùng cũng đã có bàn thắng, sự ủng hộ mờ nhạt phấn khích trên khắp quầy bar.
“Rồi tôi phải bỏ lại sự mất mát riêng tư này để quay về nước bởi họ đã chết. Cùng nhau tự tử - morphine, một cách giã từ cõi đời nhẹ nhàng thanh thản. Big Jim và Edna rõ ràng đơn giản là chết bởi sự thất vọng. Nhưng chúng tôi vẫn tổ chức một tang lễ thú vị. Các nhà chủ nghĩa xã hội dân chủ đến bởi Big Jim và Edna là Cộng sản, Công giáo không đến bởi tự tử là một tội lỗi, Cộng sản không đến bởi Big Jim và Edna không ủng hộ Uncle Joe. Nên chỉ có mỗi FBI, Jimmy và tôi mà thôi. Khoảng năm năm sau đó, có một người từ Đại sứ quán Liên Xô đến hỏi nếu chúng tôi muốn Big Jim và Edna được đưa về Nga không. Họ sẽ không có chỗ phía sau Bức tường Kremlin - không có gì tuyệt được như vậy - nhưng sẽ có một chỗ đẹp ở Moscow. Quả là thú vị khi nghĩ lại.
“Vấn đề ở đây là, tôi nói và anh ngồi đó như thể anh có những quả trứng giữa má mình - vấn đề đó là tôi biết anh và người của anh. Một ai đó trong cái thành phố này đã giết người em bé bỏng của tôi. Anh đang đùa giỡn với tôi, nhưng ở đâu đó bởi anh muốn đi tóm cổ cái gã đã giết hại người bạn của anh, hoặc bởi sếp của anh bảo anh làm vậy, hoặc bởi anh là một thằng khốn sau tất cả mọi chuyện, anh đang định cố bỏ lại tôi với một trạng thái đầy kích thích và sợi thừng quấn quanh cổ. Và tôi chỉ muốn anh biết rằng khi anh làm điều đó thì tôi sẽ làm với anh trước. Tôi chỉ muốn anh biết điều đó.”
Arkady lái xe một cách vô định. Anh không say. Ngồi với Kirwill giống như ngồi trước một cái lò sưởi mở bung đang đun vodka thành những làn hơi nước và để lại những thứ phù phiếm. Cứ qua mỗi tòa nhà lại thấy những tấm băng rôn màu đỏ được treo bên dưới những chiếc đèn pha.
Những chiếc xe tải vệ sinh gù lưng như những chú ốc sên lừ đừ đi qua sục vào những vũng nước. Moscow đang mộng du và hướng tới Ngày quốc tế Lao động.
Cuối cùng cũng cảm thấy đói, anh dừng lại kiếm gì đó lót dạ ở Petrovka. Quán cà phê cảnh sát vắng tanh trừ một bàn có những cô gái đến từ phòng báo động chống trộm tư nhân. Có vài người trả rất nhiều rúp một tháng cho một hệ thống báo động chống trộm đặc biệt. Những cô gái này buồn ngủ rũ rượi, gục đầu lên cánh tay. Arkady thả vài đồng tiền lẻ vào trong một cái can để lấy bánh và trà, ăn một cái và bỏ lại hết.
Anh có linh cảm điều gì đó đang xảy ra, nhưng anh không biết được đó là gì và ở đâu. Ở trong sảnh, tiếng bước chân anh vang lên giống như tiếng của một kẻ nào khác. Hầu hết các sĩ quan trực đêm đang ở ngoài làm nhiệm vụ thường niên là tống sạch những kẻ say xỉn khỏi trung tâm thành phố trước Ngày quốc tế Lao động, ngược lại thì, ngày này lại là ngày cho những người lao động say xỉn. Thời gian là tất cả. Những kẻ cấp tiến, những bóng ma của Kirwill từ cái thời tăm tối mờ mịt của những khát vọng đã chết mà Arkady nghi ngờ thậm chí những người Mỹ có biết hay có quan tâm hay không - làm thế nào mà họ lại liên quan tới vụ giết người ở Moscow chứ?
Trong phòng thông tin liên lạc, hai trung sĩ với những chiếc cổ áo mở bung đang gõ những tin nhắn điện đàm, những mớ lộn xộn không nhìn thấy được từ thế giới bên ngoài. Mặc dù không có đèn trên bản đồ thành phố, Arkady vẫn đứng đó nhìn chằm chằm vào nó.
Anh tiếp tục bước tới phòng của đội thanh tra. Một người đàn ông, cô độc, đang gõ những văn bản tòa án. Các vụ kiện cáo được lưu lại bằng các bản viết tay và các bản mềm. Các thông cáo trên tường hô hào cổ động “Nâng cao tinh thần cảnh giác trước Tuần lễ Vinh quang” và đưa ra lời mời “Trượt tuyết ở Caucasus.” Anh ngồi vào một chiếc bàn và ấn số máy Trung tâm Điện tín. Đến tiếng chuông thứ mười hai thì mới có tín hiệu nhấc máy, anh hỏi về những cuộc điện thoại trả trước ở quanh khu nhà ở của Irina Asanova.
Một giọng nói lè nhè với vẻ ngái ngủ đáp lời, “Thưa thanh tra, tôi sẽ chuyển một danh sách vào buổi sáng. Tôi sẽ không thể đọc cho ngài một danh sách cả trăm số điện thoại lúc này được.”
“Có bất cứ cuộc gọi nào tới Khách sạn Rossiya từ điện thoại trả trước không?” Arkady hỏi.
“Không.”
“Khoan đã.” Phòng điều tra có một quyển danh bạ. Arkady lật sang các trang vần “R” tới Rossiya. “Có cuộc gọi nào tới số 45-77-02 không?”
Có tiếng khịt khịt cau có ở đầu dây bên kia và rồi một khoảng im lặng thật lâu trước khi giọng nói lại vang lên. “Lúc 20 giờ 10 phút, có một cuộc gọi từ điện thoại công cộng số 90-28-25 tới 45-77-02.”
“Thời lượng?”
“Một phút.”
Arkady dập máy, gọi tới số của khách sạn Rossiya và hỏi tên Osborne. Người thư ký nói Osborne đã ra khỏi phòng rồi. Osborne đang gặp Irina Asanova.
Trong gara, Arkady lao tới chiếc xe của mình và vòng lên phố Petrovka một chiều về phía nam. Đường không đông lắm. Cứ cho là cô đã gọi Osborne, Arkady nghĩ, thì đó phải là sự chủ động của cô, thậm chí còn là sự khăng khăng nhất quyết. Một phút còn dài hơn thời gian cần thiết để xác định địa điểm gặp. Ở đâu? Không thể là ở phòng của Osborne được và cũng không phải là một nơi nào đó mà hắn không quen thuộc và bị chú ý. Không phải là trong ô tô - điều đó có thể làm cho những cảnh sát nghi ngờ, và nếu như không ở trong một chiếc xe, thì Osborne hẳn phải đưa cô về nhà. Phương tiện giao thông công cộng ngừng phục vụ lúc 12 giờ 30 phút. Đồng hồ của Arkady chỉ 12 giờ 10 phút. Sự thật là, anh không biết liệu có phải họ đang gặp nhau hay không, hay ở đâu hay khi nào. Anh chỉ có thể bám vào điều rõ ràng nhất.
Anh rẽ vào Quảng trường Cách mạng, tắt máy xe và từ từ lăn tới một khoảng tối giữa các đèn đường. Đây là nhà ga gần nhất với khách sạn Rossiya, cũng là điểm tiếp nối thẳng tới khu vực cô ở. Một chiếc xe khẩn cấp của cảnh sát đang phóng qua, chiếc đèn xanh trên đầu đang lấp lóa, không có tiếng hú còi. Arkady đã từng một lần hối tiếc vì không lắp điện đàm trên xe mình. Anh cảm thấy tim đang đập rộn. Anh gõ gõ vô lăng. Sự phấn khích cho anh biết rằng anh đã đúng.
Quảng trường Cách mạng mở cửa ở phía bắc trên Quảng trường Sverdlov, và phía nam trên Quảng trường Đỏ. Anh vẫn đưa mắt dõi theo những hình bóng xuất hiện trên ánh sáng của Quảng trường Đỏ, một luồng sáng mờ ảo như những bông tuyết được phản chiếu qua mặt trước khổng lồ của G.U.M, Siêu thị Toàn cầu. Nhưng những bước chân dội đến từ mọi hướng, kéo ánh mắt anh đảo từ bên này sang bên kia. Ngoài tiếng những bước chân, còn tiếng lẹt xẹt tản bộ, tiếng chân chạy thể dục, anh nhận ra trong số đó tiếng sải chân của Irina Asanova. Cô xuất hiện quanh góc siêu thị, tay nhét vào trong túi áo khoác, mái tóc dài hất ra sau bay như lá cờ. Cô bước tới cửa kính nhà ga, ngang qua chính xe của Arkady. Anh nhìn thấy hai người đàn ông, mỗi người ở một bên cửa vào, tiến ra phía sau cô.
Bên trong nhà ga, Irina đã chuẩn bị sẵn năm kopek. Khi anh bước vào, Arkady phải lấy tiền lẻ từ một chiếc máy. Đến lúc anh đang đứng trên thang xuống, cô đã cách rất xa ở phía trước rồi, cùng với hai người đàn ông mà cô vẫn chưa để ý thấy. Họ mặc áo choàng dài và đội mũ, kiểu hóa trang chán òm mà có thể thấy ở bất cứ bậc thứ ba hay thứ tư nào trên một cái thang cuốn đang đưa xuống hai trăm mét bên dưới - độ sâu của một hầm chống bom nằm bên dưới thành phố. Tuy nhiên đó lại là một tiếng đồng hồ lãng mạn, có một vài cặp đôi loạng choạng ngất ngưởng, những người đàn ông đứng ở bậc thấp hơn những người phụ nữ mà họ đang gục đầu vào ngủ bình yên. Êm ái bình thản như những tấm đệm, những người phụ nữ nhìn chằm chằm về phía trước vào cái trần nhà đang cuộn dần, ánh nhìn dè chừng sở hữu khi Irina chen qua. Hai người đàn ông mặc áo choàng đẩy lên ngay sau cô, và Arkady từ phía xa sau nữa. Khi chiếc thang cuốn xuống bậc cuối cùng ở điểm thắt nút màu trắng thấp của trần nhà, Irina bước ra và biến mất, hai người đàn ông mặc áo choàng theo ngay sau.
Lối đi của tầng ga thấp hơn có sàn đá cẩm thạch, những chiếc đèn pha lê, những bức tường vòng khảm, những bức tranh cách mạng của máu thịt, súng đạn và lửa bằng đá màu che giấu đi tiếng rít và cái rung bần bật của con tàu còn khuất tầm mắt. Arkady chạy qua hai tay lính Mông Cổ nhỏ bé đang kéo một cái vali nặng trịch ngang qua bức tranh khảm hình Lê-nin đang diễn thuyết trước Đảng Cộng sản. Arkady không thể thấy Irina Asanova, và anh cũng không thể nghe thấy tiếng vang của bước chân cô. Cô đơn giản là đã biến mất. Ở cuối hành lang, những cánh vòm thấp đưa đến một phòng chờ dành cho khách. Con tàu vừa mới lăn bánh, những người khách mới đứng phía đằng sau song sắt và tấm kính, những người già và cựu chiến binh bước vào chỗ ngồi dành cho họ, những cặp uyên ương cùng nhau vung vẩy đung đưa, trở thành một hình ảnh nhạt nhòa, một con thằn lằn đuôi dài, rồi chỉ còn là hai đốm đỏ ánh đèn trong đường hầm. Arkady không nghĩ rằng cô ở trên tàu, nhưng không dám chắc. Trên suốt chặng đường, những bóng đèn số của một chiếc đồng hồ kỹ thuật số nhích từng bước từ 2 giờ 56 phút đến 0 giờ 00 phút và lại bắt đầu đếm một lần nữa. Trong suốt giờ cao điểm, những chuyến tàu không bao giờ cách nhau quá một phút, bởi vậy luôn luôn có một sự run rẩy im lìm liên tục trong những đường hầm, và vào ban đêm, ngay cả sát giờ sắp ngừng phục vụ, không con tàu nào cách con tàu trước đó quá ba phút. Những nhân viên điều hành đường ray, những bà ngoại khó tính trong đồng phục màu xanh, những lá cờ bằng kim loại nằm trong tay, đi một vòng quanh những chiếc ghế dài và thì thầm với những đôi uyên ương còn đang quấn quýt, “Chuyến tàu cuối đang đến... chuyến cuối.” Arkady hỏi về một người phụ nữ dong dỏng, trẻ và ưa nhìn với mái tóc dài màu nâu, người điều hành sân ga đã hiểu nhầm, lắc lắc đầu một cách thông cảm. Arkady xồng xộc lao qua hành lang để tới sân chờ đối diện của chuyến tàu ngược chiều còn lại, rồi bước vào chỗ những tấm khảm tranh cách mạng lấp lánh, bước sang bên để những hành khách cuối cùng lao tới chuyến tàu. Anh chắc chắn rằng anh chưa đi qua cô.
Arkady mở một cánh cửa được đánh dấu chữ thập đỏ và tìm thấy một chiếc tủ đựng các bình ô xi, bình dập lửa, băng cứu thương và các tấm cáng đang dựng nghiêng, các nạng chống trong trường hợp khẩn cấp. Một cánh cửa ghi CẤM VÀO đã bị khóa. Cánh cửa thứ hai ghi CẤM VÀO bung mở một cách dễ dàng và anh lách qua nó.
Anh đến một nơi có kích thước tương đương một cái đầu kéo xe lửa. Một bóng đèn đỏ được phản chiếu ánh sáng dài hun hút. Anh nhặt trên sàn một thứ nhìn ban đầu có vẻ giống một mảnh vải. Đó là một cái khăn, màu đen dưới ánh sáng của chiếc đèn.
Một cánh cửa có ghi chữ NGUY HIỂM. Arkady đẩy nó ra và bước vào trong đường hầm. Anh đang đứng trên một lối đi bằng kim loại cao ngang ngực trong đường hầm. Không khí màu xám, phản chiếu từ ánh đèn le lói phía sân chờ tàu tít xa. Irina Asanova nằm trên đường đi ngay bên dưới, đôi mắt và miệng mở to, khi một người đàn ông mặc áo choàng đang tóm chân cô. Người đàn ông còn lại đang đứng trên lối đi vung gậy vào Arkady.
Arkady ra hai đòn vào tay hắn và cảm thấy một sự tê liệt âm ỉ từ khuỷu tay trở xuống. Dù sao, anh đã học được từ vụ đối đầu với Kirwill trong công viên Gorky. Khi gã đàn ông còn lại lao đến và vung một cú đấm thẳng vào thóp anh, Arkady nhấc chân một cách hung hãn đạp thẳng vào khu vực mềm mại giữa hai chân hắn. Hắn ta gập chân lại như một chiếc ghế và đánh rơi vũ khí. Arkady nhặt nó lên và vung nó trong một động tác, quật đầu gã quay ngược ra sau. Hắn gục xuống ngồi trên lối đi, một tay đặt trên háng, một tay thì tóm lấy cái dòng máu đang phụt ra từ mũi. Arkady nhìn xuống đường hầm về phía chiếc đồng hồ ở tít mù xa chỗ sảnh chờ tàu, ngạc nhiên khi thấy anh nhìn thấy một con số rõ ràng 2 giờ 27 phút.
Người đàn ông đứng trên đường hơi mất hứng khi coi vụ ẩu đả phía trên mình vì cảm giác giống như một người quản lý với trợ lý của mình bị gạt sang một bên bởi một khách hàng hách dịch. Khuôn mặt ông ta chằng chịt sẹo lồi lõm như một con phố đầy tuyết: khuôn mặt của một kẻ chuyên nghiệp. Đôi mắt ti hí nhìn khẩu côn TK, loại súng của KGB, đang ngắm vào ngực Arkady. Irina không hề động đậy. Arkady không chắc liệu cô còn sống hay không.
“Không” Arkady vừa nói vừa nhìn về phía sân chờ tàu. “Họ sẽ nghe thấy đấy.”
Gã đàn ông trên hành lang gật gật đầu và nhét khẩu súng vào trong túi, rồi hướng về phía chiếc đồng hồ ở sân chờ tàu và quay lại nhìn Arkady với sự gợi ý hợp lý. “Quá muộn rồi. Về nhà đi.”
“Không.”
Chính lúc cuối cùng, Arkady đã nghĩ anh có thể ngăn không cho gã nhảy khỏi đường ray và đi lên hành lang, nhưng chỉ với một bước hắn đã bám được vào thanh sắt hành lang, và lẳng người như một vận động viên để trèo lên vị trí của Arkady. Arkady đập mạnh bằng cây gậy, vũ khí mới mà anh chộp được, nhưng lại chới với khi vụt trúng áo choàng và đường ray và để hắn đá anh lăn quay, lộn ra sau người đồng nghiệp đang nằm bẹp dí và lao tới với những bước chân nhanh nhẹn gọn gàng khi Arkady đang cố hồi lại. Arkady tung một cú đá vào bụng hắn và hắn che ngực trong sự sợ hãi, rồi một cú khác, làm hắn phải gầm lên một tiếng. Khuôn mặt chuyên nghiệp dò xét, như bác sĩ đang tìm ven trên tay bệnh nhân. Ở đây? Ở đó? Đôi tay và chân hắn không cứng cáp như Kirwill và không thu về nhanh gọn sau khi ra đòn. Arkady vứt cái gậy, tung cú đá tiếp theo và thu lại. Gã loạng choạng tóm lấy lan can hành lang để giữ thăng bằng, để Arkady lao tới với một cú đấm. Cú đấm thứ hai, được nhắm chuẩn vào tim, làm cho hắn gục xuống. Hắn đứng dậy không hề kêu ca, thủ thế trước Arkady, rồi cố lao tới vung tay móc. Khi Arkady xoay người tránh, hai người cùng rơi qua lan can và ngã xuống đường tàu.
Arkady rơi lên trên, nhưng anh cảm thấy một thứ gì đó đập vào thắt lưng mình. Choàng đứng lên, anh thấy một lưỡi dao chọc xuyên qua túi áo choàng của hắn. Hắn cuộn người và lôi con dao bấm bật ra với ngón tay cái ôm sát lưỡi dao dẹt. Mũ trùm đã bung ra, để lộ mái tóc cắt sát chân nhọn mái chữ V, và cũng lần đầu tiên để lộ sở thích riêng với công việc của mình. Con dao xoay vòng, trước tiên là mổ vào mắt rồi chọc vào người. Lưỡi dao lấp lánh, rồi gõ gõ vào lan can để nhấn nhá. Arkady nhảy lùi về sau vấp phải Irina. Đáng gờm là, khi hắn nhảy xổ tới với con dao, đôi mắt hắn trừng trừng con ngươi màu da cam, đôi mắt tăm tối như loài bướm và đầy thông minh như thể nó được đốt cháy từ bên trong.
Cái lan can rung lắc dưới lưng Arkady. Như trong một vở kịch câm lạnh lùng, hắn nhặt chiếc mũ của mình lên và trườn về phía hành lang. Arkady nhìn những con số phía xa xa ở sân sau đổi từ 2 giờ 49 phút sang 2 giờ 50 phút, và anh quay về phía hai ngọn đèn pha phía đầu tàu. Vầng hào quang lan tỏa dọc những vách tường đường hầm. Anh cảm thấy một cơn gió, không khí đang xoáy lao tới phía trước con tàu và đường ray thì gầm rú.
Đôi tay của Irina tê cứng và nóng rẫy khi anh nắm lấy chúng. Anh phải nhấc cô lên và xoay ra hướng khác nếu sẽ bị lóa mắt. Anh chưa bao giờ được chiếu sáng chói lòa như thế. Cánh tay của cô rũ ra và anh phải bước đi loạng choạng. Một tiếng rú rít từ hệ thống phanh vang lên ầm ĩ, rồi đột ngột im lặng khi con tàu lao vọt qua.
Arkady đẩy Irina lên hành lang và dựa mình vào tường.
Ngay khi Levin mở cánh cửa phòng mình, Arkady bế Irina vào trong chiếc sô pha bọc ni lông.
“Cô ấy bị đánh vào đầu hoặc chúng đã tiêm gì đó, tôi không có thời gian để xem nữa,” anh nói. “Cô ấy rất nóng.”
Levin đang mặc áo choàng ở nhà và đi dép lê, gấu áo ngang bắp chân và sắc lẹm như mũi anh ta vậy. Rõ ràng anh ta đang cân nhắc có nên nói với Arkady là đi hay không.
“Tôi không bị bám theo đâu,” Arkady nói.
“Đừng xúc phạm tôi.” Levin đã quyết định, gập chiếc áo choàng lại và ngồi xuống đo nhiệt độ cho Irina. Mặt cô đỏ ửng và phờ phạc, chiếc áo khoác Afghan cô mặc đầy mảnh vá. Arkady cảm thấy ái ngại cho cô. Anh chưa từng nghĩ tới việc mình trông thế nào. Levin nhấc cẳng tay phải của cô lên để thấy một vết bầm tím do kim châm. “Bị tiêm. Sulfazine, nhiều khả năng là thế, dựa vào thân nhiệt. Một công việc phức tạp đây.”
“Cô ấy chắc là phải vật lộn chứ.”
“Đúng thế.” Âm điệu trong giọng Levin nhấn mạnh vào sự ngu ngốc của câu nhắc nhở này. Anh quẹt một que diêm và đưa nó chậm rãi lên mắt cô, che một mắt và đổi sang che mắt còn lại.
Arkady vẫn cảm thấy nỗi kinh sợ sau khi chết hụt. Chuyến tàu điện ngầm đã dừng lại ngay sát sân tàu cùng lúc những kỹ sư đến và người nhân viên điều hành gọi cho cảnh sát, Arkady đã đưa Irina từ nhà ga vào xe của mình. Trốn thoát là một câu chuyện dài, cái từ đó chuyển động bên trong anh như là một bánh đà mất kiểm soát. Tại sao một thanh tra lại phải trốn những cảnh sát? Còn gì hơn việc một cô gái bất tỉnh có thể nguy hiểm với Levin? Đó là một đất nước tuyệt đẹp mà mọi người có thể hiểu tốt những ám hiệu ngầm.
Anh mất một chút thời gian để nhìn kỹ căn hộ của Levin. Anh chưa bao giờ đến đây cả. Thay vì những đồ trang trí lặt vặt thì các kệ và bàn lại chất đầy những quân cờ sơn trên những chiếc bàn cờ bằng ngà voi, gỗ tếch và kính màu, mỗi bàn cờ được xếp một trận đang đánh dở. Thay vì những bức tranh thêu búp bê babushka được đóng lên tường thì lại là những bức ảnh của Lasker, Tal, Borvinnik, Spassky và Fischer, tất cả đều là kiện tướng cờ vua và đều là người Do Thái.
“Nếu anh biết nghĩ thì anh phải đưa cô ta quay lại chỗ anh thấy cô ta,” Levin nói. Arkady lắc đầu.
“Vậy thì anh phải giúp tôi,” Levin nói.
Họ đưa cô gái lên giường của Levin, một chiếc giường sắt thuần túy. Arkady kéo đôi bốt ra và giúp Levin cởi bỏ quần áo của Irina.
Arkady đã nghĩ tới rất nhiều lần anh và Levin bước qua những cái xác khác trắng bệnh, lạnh giá và cứng đơ. Với Irina, Levin lại e dè một cách kỳ lạ, không thoải mái và cố gắng lột ra sự thật. Bởi không thể phủ nhận Irina Asanova vẫn còn sống. Hôn mê, nhưng không lạnh ngắt. Cô sốt đỏ ửng. Mảnh mai hơn Arkady nghĩ, những xương sườn bên dưới hai bầu ngực to lớn, nặng nề với quầng núm hình chữ nhật, bụng lõm xuống. Đôi chân yêu kiều duỗi dài. Cô nhìn chằm chằm về phía Arkady.
Khi họ đang đắp những chiếc khăn giúp cô hạ nhiệt, Levin chỉ vào vết bớt nhạt màu xanh trên má phải của cô. “Thấy không?”
“Tôi nghĩ là một tai nạn lâu rồi thôi.”
“Tai nạn?” Levin nhếch mép. “Dọn dẹp đi. Anh có thể tìm thấy nhà tắm, đây không phải là Cung điện Mùa đông.”
Trong gương phòng tắm, Arkady nhìn thấy mình bê bết bùn đất, và một bên lông mày bị cắt sắc lẹm như thể bởi một lưỡi dao lam. Sau khi rửa ráy, anh quay trở lại phòng khách với Levin.
“Họ đưa cho tôi đề nghị một căn hộ với một cái bếp hoặc một căn hộ với phòng tắm. Với tôi thì phòng tắm quan trọng hơn.”
Sau một khoảng dài không thể hiện lòng mến khách, ông ta hỏi, “Anh có muốn ăn gì không?”
“Một ly trà với chút đường, thế thôi. Cô ấy sẽ thế nào?”
“Đừng lo về cô ta. Cô ta trẻ và khỏe. Cô ta sẽ mệt một ngày thôi, không quá lâu đâu. Đây.” Ông ta đưa cho Arkady một ly trà ấm.
“Vậy ông cho rằng đó là sulfazine.”
“Anh có thể đưa cô ta đến viện nếu anh muốn chắc chắn.” Levin nói.
“Không.”
Sulfazine là một trong những loại thuốc gây mê ưa thích của KGB, anh sẽ chẳng nhanh hơn chút nào khi đưa cô đấy đến bệnh viện so với việc gọi một bác sĩ. Levin biết được điều đó.
“Cảm ơn.”
“Không phải thế.” Levin cắt lời. “Anh nói càng ít, càng tốt cho tôi. Tôi chắc chắn là trí tưởng tượng của tôi đủ phong phú, tôi chỉ tự hỏi không biết của anh có thế không.”
“Ý ông là sao?”
“Arkady, cô gái này của anh không còn trinh trắng.”
“Tôi không biết anh đang nói về điều gì?”
“Cái vết trên má cô ta. Họ đã từng giữ cô ta trước đây rồi, Arkady. Họ bắn aminazin vào cô ta lâu lắm rồi.”
“Tôi tưởng là họ đã ngừng sử dụng aminazin vì nó nguy hiểm rồi chứ.”
“Đó chính là mấu chốt vấn đề. Họ liều lĩnh tiêm nó vào cơ bắp để nó không bị hấp thu. Nếu không được hấp thu, nó sẽ hình thành nên một khối u ác tính, như với cô ta. Tỉnh dậy đi. Cô ta bị mù một bên mắt. Ai đó đã cắt khối u và cắt luôn cả dây thần kinh thị giác và để lại cái vết đó. Đó là dấu vết của họ.”
“Như thế thì hơi cường điệu quá rồi, ông có nghĩ thế không?”
“Hỏi cô ta. Hãy nói về con mắt bị mù.”
“Ông đang nghĩ quá xa rồi. Một nhân chứng bị tấn công và tôi phải bảo vệ cô ấy.”
“Vậy tại sao anh không ở Sở cảnh sát lúc này chứ?”
Arkady bước vào phòng ngủ. Chiếc khăn phủ trên người Irina nóng bừng, anh thay một cái mới. Tay chân cô thỉnh thoảng lại giật giật trong giấc ngủ, một phản ứng của cơ thể do sự thay đổi thân nhiệt. Anh vuốt vuốt trán cô, kéo những lọn tóc rối bù ra sau. Cái vết trên má cô ẩn hiện màu tím nhạt của những mạch máu dưới da.
Họ muốn gì chứ? Anh tự hỏi. Ngay từ đầu, họ đã ở đó. Thiếu tá Pribluda đã cào các cái xác ở công viên Gorky lên. Thanh tra Fet khi Goldokin bị thẩm vấn. Những kẻ sát nhân ở căn hộ của Golodkin, kẻ có thể là hung thủ ở trong đường hầm tàu điện ngầm. Những quả bóng cao su, những vết tiêm, những lưỡi dao - tất cả các chữ ký của Pribluda và sự làm chủ của Pribluda. Dù sao thì, họ chắc sẽ phải đang phục sẵn ở quanh nhà của cô và lúc này đây họ hẳn đã có một danh sách những người bạn của cô. Họ sẽ chán nản với việc chờ đợi ở các bệnh viện và Pribluda sẽ không cần nhiều thời gian hơn để nghĩ tới việc sẽ có một nhà nghiên cứu bệnh học như Levin nhúng tay vào. Levin có lòng dũng cảm, nhưng khi tỉnh lại, cô sẽ phải đi.
Khi anh quay lại phòng khách, Levin đang trầm ngâm trước bàn cờ, có vẻ thư giãn. “Trông cô ấy khá hơn rồi.” Arkady nói. “Ít nhất cô ấy cũng đang ngủ.”
“Tôi ghen tị với cô ta.” Levin nói mà chẳng thèm ngẩng đầu lên.
“Ông muốn chơi không?”
“Anh ở cấp nào rồi?” Levin hỏi.
“Tôi không biết.”
“Nếu có, anh sẽ biết. Không cần, cảm ơn.” Tuy nhiên, điều này lại làm Levin cảm thấy muốn được hiếu khách lần nữa, và cả những lo lắng cho người phụ nữ bị săn lùng đang say ngủ trên chiếc giường của ông. Ông ta giả vờ nhoẻn miệng cười. “Thực ra thì, đây quả là một thế cờ khá là thú vị. Một trận đấu giữa Bogolyubov và Pirc ở phút thứ ba mươi mốt. Đến lượt đen đi, chỉ có anh ta không có tù binh nào.”
Chỉ có trong Quân đội, Arkady mới cảm thấy đủ nhàm chán để có thể chơi cờ một cách nghiêm túc, và năng khiếu duy nhất của anh lại là phòng ngự. Cả hai bên đều đang thủ thế và quân Trắng đang kiểm soát khu vực trung tâm, như Levin nói. Một mặt khác, Arkady để ý thấy không có những chiếc đồng hồ bấm giờ thi đấu trong căn hộ, biểu hiện của một kiểu người thích thú với việc phân tích tình trạng lộn xộn bên ngoài bàn cờ. Và, Levin tội nghiệp cũng đang hăm hở với ván cờ trong một đêm chắc là sẽ dài và đầy lo lắng.
“Ông có phiền không?” Arkady di chuyển quân đen.
“Tượng ăn tốt.”
Levin nhún vai. Tốt ăn tượng.
... Hậu ăn tốt! Vua ăn hậu, Mã lên N5 chiếu tướng! Vua sang N1, Mã ăn Hậu! Mã đen đang công cả tượng và xe trắng.
“Anh có bao giờ tốn thời gian suy nghĩ trước khi đi không thế?” Levin lầm bầm. “Có một sự thích thú thật sự trong đó.”
Tượng tới N3, mã ăn xe, Levin cân nhắc xem liệu nên ăn quân mã bằng xe hay bằng vua. Cả hai cách thì đều phải hy sinh quân mã, đổi tượng và mã để lấy hậu, xe và hai tốt. Kết quả sẽ phụ thuộc vào khả năng của quân trắng đưa tượng vào thế trước khi quân đen có thể liên kết phần lớn các tốt và nhân đôi xe.
“Anh mới chỉ đưa ra vấn đề thôi,” Levin nói.
Trong khi Levin suy nghĩ về nước đi của mình, Arkady trầm ngâm với cái giá sách và bộ sưu tập của tác giả Poe. Anh sớm thấy Levin đã thiếp đi trên ghế. Lúc bốn giờ sáng, anh đi xuống xe, lái nó quanh tòa nhà để kiểm tra xem liệu mình có bị theo dõi hay không và quay trở lại căn hộ của Levin. Anh không thể đợi lâu thêm nữa được. Anh mặc lại cho Irina bộ quần áo ướt sũng của cô, cuốn cô trong một chiếc chăn và bế cô xuống. Trên đường lái xe, những người duy nhất anh thấy là những công nhân làm đường đang hối hả cho ngày Quốc tế Lao động. Một người đàn ông ngồi một mình trên chiếc xe lu đang chỉ đạo bốn người phụ nữ đang rót nhựa đường nóng. Khi anh đi qua con sông và vào trong khu hai tòa nhà của Taganskaya, anh bước ra ngoài, đi bộ một mình quãng đường còn lại về phía căn hộ của mình, và bước chân vào từng phòng để chắc chắn rằng không có ai khác trong nhà. Anh quay trở lại xe, lái về phía căn hộ, tắt máy và tắt đèn pha khi ngoặt vào sân khu ở. Anh bế Irina lên lầu, đặt cô nằm xuống giường, cởi quần áo và đắp cho cô chiếc chăn của Levin và chiếc áo choàng của mình.
Anh đang định bước ra ngoài để di chuyển cái xe một lần nữa thì thấy mắt cô mở to. Đồng tử giãn ra và phần lòng trắng thoáng màu đỏ. Cô không thể nào nhấc đầu lên được.
Án Mạng Ở Công Viên Gorky Án Mạng Ở Công Viên Gorky - Martin Cruz Smith Án Mạng Ở Công Viên Gorky