Số lần đọc/download: 6072 / 258
Cập nhật: 2018-09-21 16:57:29 +0700
Chương 12: Kampong Ch'Nang
L
ộ 5 đã thông, đại đội 2 và chúng tôi trở về đội hình tiểu đoàn bằng xe tải. Từ UĐông lên thẳng Kampong Ch’nang, rẽ phải xuôi ra bờ Tonle Sap. Tiểu đoàn 4 đã cùng tàu hải quân lên Kampong Ch’nang trước bằng đường thuỷ. Lúc đó ở bến sông KP Ch’năng thuyền cá lưa thưa lắm, không lắm nhà bè sầm uất như bây giờ. Cái “cầu tàu” bằng đất đắp lèn chặt giữa hai hàng cọc gỗ, dẫn thằng ra sông vì chỗ bến này khá cạn. Đại đội 2 qua sông bằng thuyền của dân, về đội hình tiểu đoàn ở “Bôngbăng” theo lính gọi (tức KP Hau trên bản đồ), bên kia thị xã Kampong Ch’nang.
Lúc đó trời đã ngả chiều. Chúng tôi đi theo một đám dân cũng từ bến sông về phum. Ban chỉ huy tiểu đoàn đóng tại cái chùa lớn. Trung đội thông tin nằm trong cái nhà đúc 2 tầng cách BCH khoảng 100m, chẹn cái ngã ba từ tiểu đoàn bộ xuống đại đội 4. Cái nhà không trát, đỏ hoét màu gạch trần. Thằng Vỹ thông báo ngay là đêm nào cũng bị địch tập kích. Trung đội thông tin cũng đảm nhiệm một mũi. Trung đội trinh sát ở cùng BCH tiểu đoàn trong chùa. Đại đội 4 hỏa lực chốt trong cái trường học một tầng lợp ngói, cũng nằm dài theo tuyến chốt của đội hình dọc con đường đất. Đại đội 2 mới nhập lại đội hình, bị đẩy lên cái phum xa nhất. Phum này có cái chùa cây cối rậm rạp như một khu rừng nhỏ.
Về đến nơi kịp làm hụm nước, tôi và anh Ky được phân công xuống đại đội 1. Anh Nhương đuổi bọn tôi đi sớm vì chiều đã tà. Đêm vừa xuống đến đại đội 1, địch tập kích ngay. Tiếng súng rộ lên khắp các nơi. Chủ yếu là đạn nhọn và M.79. Chưa bao giờ bị tấn công ban đêm nên tôi thấy lạ và hơi hoảng. Trước giờ chỉ có mình tẩn nó, còn lần này nó chủ động tấn công mình. Chúng tôi và BCH đại đội nằm sạp, trong cái lều vịt thấp lè tè. Khẩu cối tép nằm ngay cái lều bên cạnh, cách BCH một khoảng sân cho vịt ăn. Khi đại đội 2 chưa về đội hình, trung đoàn tăng cường cho đại 1 tiền tiêu một khẩu DK.75, một khẩu 12.8mm nên lúc này hỏa lực khá mạnh. Chúng tôi không bắn lại. Chỉ khi thấy chớp đầu nòng súng địch mới câu M.79.
Đại đội 1 nằm tựa lưng một gò núi nhỏ mọc đầy tre gai, chẹn ngang con đường đất đi về phía rừng thưa. Nhìn thấy phía đó có cái sườn núi cháy nham nhở. Rừng thưa trên núi trụi lá, chỉ còn những thân cây khô trắng xám. Ban ngày yên tĩnh. Cánh đồng trống trải nhìn rõ những gò cây khô. Lính tráng đi lại kiếm ăn cải thiện khá thoải mái. Thằng Sơn “ba tai” còn kiếm đâu được con ngựa liền cưỡi ra bờ sông sang thị xã Kampong Ch’nang kiếm rau ăn. Chiều tối cả người cả ngựa bơi vượt sông về. Tôi cũng thử cưỡi ngựa. Dù lót cả cái bao tải làm yên nhưng cũng trợt cả da mông vì mồ hôi ngựa.
Một lần vào buổi trưa, thằng Đồng “Huế” liên lạc phát hiện một con trâu đang xồng xộc chạy trên đồng, hướng địch hay vào tập kích. Tôi và nó nằm ngay trên cái sạp trong lều đại đội vớ ngay AK cứ thế tương. Con trâu đã loạng choạng lảo đảo thì lại thấy bóng người đang đuổi theo nó. Bọn tôi tưởng địch! Thế là lại quay sang tỉa nó. Thằng Gia “cà bây” bên cối 60 hét lên địch đâu mà địch! Ông Khanh đấy. Bọn tôi hoảng quá, ngưng bắn ngay. Anh Khanh -(Quê Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá - đại trưởng) – đúng là anh Khanh thật, từ từ đứng dậy quan sát rồi bình tĩnh tiến đến con trâu đã chết. Sau một hồi hì hục giải phẫu, xách về một cái lưỡi trâu, một quả tim lừ lừ đi thẳng vào lều hỏi thằng nào vừa bắn. Thằng Đồng im lặng. Còn tôi đứng ngay dậy: “Em bắn đấy! Em tưởng địch…”. Thế là veo một cái, cả cái lưỡi trâu trên tay cha Khanh bay thẳng vào mặt tôi. Phản ứng cực lẹ, tôi né được phát thứ nhất. Chưa định thần thì bụp, cả quả tim trâu đầy máu đập ngay vào bụng tôi rồi lăn ra đất. Dường như đã hả tức, anh ấy chửi rủa vài câu nữa rồi thôi. Thằng Đồng len lén đi nhặt chiến lợi phẩm bất đắc dĩ ấy đi rửa để chiều làm bữa. Còn tôi cởi áo ra sau bụi le *** vào, vò sạch máu trâu rồi đi giặt.
Đêm mùa khô lạnh. Địch tập kích đã thành quen. Những đêm không có tiếng súng thì bọn tôi không thể ngủ được. Tất nhiên, đứa nào gác cứ gác, đứa nào ngủ cứ ngủ. Chủ yếu là địch nó bắn chứ chúng tôi đâu có bắn phát nào. Kệ mẹ nó! Lắm đêm, khi nó bắn quá rát, lão Síu gọi liên lạc cùng chạy xuống các trung đội đốc gác trở về. Thấy bọn phối thuộc chúng tôi nằm ngủ, vẫn buông mùng trắng toát liền chửi đ..mẹ chúng mày! Sao lại có cái loại lính khốn như chúng mày? Anh ấy điên lên, giật tung từng tấm mùng. Tôi với anh Ky lặng thinh, thu dọn lại chỗ ngủ, chẳng ai nói gì.
Lắm đêm, địch nó đánh vào cả BCH tiểu đoàn. Ba thằng liên lạc tiểu đoàn và trung đội trinh sát bắn soi qua các ô cửa chùa mà không kêu chi viện. Gần như chỗ nào cũng độc lập tác chiến trong đêm. Trò tập kích quấy rối đó dần dần hầu như không có tác dụng. Một trường hợp duy nhất gây thương vong là ở hai khẩu cối 82mm của đại đội 4. Hai khẩu đội đóng sát nhau, cách mỗi cái sân trường. Một thằng khẩu đội 1 chạy qua sân trong khi địch đang tập kích sang xin nước, bị thằng gác khẩu đội kia bắn què chân…Những đêm nó đánh toàn tuyến thì chỉ mỗi cối tép các C và cối 8 tiểu đoàn lên tiếng. Khoảng đợi chờ giữa tiếng đề pa và tiếng nổ đạn của cối ta là khoảng lặng giống như chờ một ván bài ù. Rất yên lặng!
Bây giờ là khoảng giữa tháng hai năm 1979. Một hôm, sau khi ăn cơm chiều, bọn thông tin chúng tôi sang A cối uống trà. Tự nhiên thấy anh Síu ôm cái đài chạy sang. Này này, Trung Quốc nó đánh mình rồi! Chúng tôi cứ nhìn vào cái đài đang nói, quên cả uống nước. Được một tý thì anh ấy lại ôm cái đài đi về. Chúng tôi và cả bọn cối cũng chạy theo. Lúc đó BCH không có ai vì ông Khanh với liên lạc không biết chạy xuống trung đội nào. Lát sau thì về đủ, cùng các cán bộ trung đội hội ý chiều. Hôm đó hội ý hội báo chẳng cắt đặt nhiệm vụ gì như mọi ngày. Cả bọn im lặng hút thuốc rê, nghe đài. Lát sau khi hết tin, đến các đoạn nhạc tiến quân thì anh Khanh xua cán bộ trung đội về. Tôi không thấy lo gì. Thậm chí còn thấy mừng, nghĩ rằng có thể đơn vị sẽ được rút về tẩn nhau với bọn này. Nếu đi qua nhà thì tôi sẽ chuồn về ít ngày cho đỡ nhớ. Nói chung lúc đó bọn tôi tự thấy không ngán bọn xâm lược mà chỉ muốn được về nước ngay.
Dường như để phối hợp, bọn Pốt cũng tăng cường hoạt động. Có đêm, giữa đại đội 1 và đại đội 3, có thằng địch phụ B.40 đeo giá đạn lạc hẳn vào đội hình. Lính ta thấy lạ quát hỏi mày ở B nào? Nó chạy loằng ngoằng một lúc rồi phọt ra cánh đồng. Mất cơ hội bắt sống hoặc diệt địch. Một đêm khuya, từ bầu trời bất chợt vọng xuống tiếng kêu, nghe như tiếng trẻ con khóc. Nằm nghe rợn hết cả da người. Ông Khanh đại trưởng đại 1 hoá ra cũng sợ ma. Ông ấy hô thằng Dung “kỳ đà” bắn cối. Cối càng bắn, nó kêu càng rền rĩ. Cả đại đội thức, dỏng tai nghe tiếng kêu lạ mà không ai biết là cái tiếng kêu gì. Điện thoại tiểu đoàn gọi xuống hỏi tại sao địch không đánh mà các anh dùng hoả lực? (Mãi về sau mới biết đó là tiếng kêu của đàn công đất đi ăn đêm). Lúc này, hướng trung đội 2, nghe tiếng trung liên của thằng Cự kéo hai loạt ngắn trước. Tiếng AK của địch đáp trả rất gần. Một lát sau nổ thêm 3 phát nữa nhưng xa hơn. Sau đó tất cả lại im lặng. Bình thường địch bao giờ cũng nổ súng trước nhưng đêm nay như thế thì quả là lạ. Anh Khanh nhỏm dậy gọi thằng Đồng cùng xuống trung đội 2 kiểm tra tình hình. Một lát sau trở về kêu các trung đội tổ chức thêm vọng gác. Cả BCH đại đội và tiểu đội cối 60mm vì nằm gần nhau nên cũng phải tổ chức chung một vọng gác phía sau nữa.
Rồi đêm cũng dần qua. Buổi sáng, trước hầm gác của thằng Cự trung đội 2 lù lù một cái xác địch to vật. Nó nằm sấp úp mặt xuống đất. Lính ta định lật xác nó lên thì anh Khanh cản lại. Săm soi một lúc nữa mới phát hiện thêm một vệt máu nữa cách đấy một chút rồi mất dấu. Trở lại xác thằng địch chết, thận trọng lật lên (vì đề phòng chúng nó gài mìn) thu khẩu M.79 với rất nhiều đạn và lựu đạn. Bộ ka ki dày màu xám, cái túi mìn claymo bên trong có một cái võng nilon (cái võng này tất nhiên thuộc về thằng Cự). Một cuốn sổ ghi chép linh tinh chữ loằng ngoằng như giá đỗ. Đôi dép cao su dày, cắt vuông đầu đuôi, tự chế từ lốp xe ô tô. Ở moi quần còn phụt ra cả một đám tinh dịch loang lổ. Khẩu M.79 đã bắn nhưng đạn mới tòi ra khỏi nòng được một nửa vì ngã sấp, nòng cắm xuống đất. Trinh sát tiểu đoàn khi dịch cuốn sổ cho biết đây là bọn đặc công, đêm qua định mật tập xơi tái đại 1.
Thật may là đàn công đất đã báo động cho chúng tôi. Khi đại đội bắn cối, địch nó tưởng là bị lộ nên rút ra. Có thể hình dung tổ ba người của thằng trinh sát này đen đủi mò vào đúng họng RPD của trung đội 2. Chết 1, bị thương 1 vì vẫn còn dấu máu khi tụi nó rút lui. Tiếng AK bắn 3 phát sau từ phía xa có thể là hiệu lệnh tập hợp đội hình của địch. Hú vía!
Sau hôm đó thì anh Hải C trưởng C2 tỵ, đòi tiểu đoàn đưa khẩu DK.75 và khẩu 12.8mm lên phối thuộc với đại đội 2 nhưng không được. Anh ấy không bằng lòng. Thỉnh thoảng uống rượu lại báo phát hiện trinh sát địch đang trèo cây trong cụm rừng chùa để xúi anh Khanh cho DK bắn. Những phát đạn xuyên 75mm bay đỏ lừ cả trong ánh sáng ban ngày. Bên đại đội 2 có một nhà thóc không biết dân hay địch bỏ lại. Cái nhà đó có cả một cái cối giã gạo. Ăn mãi gạo cũ nhạt bên nước chở sang, nên thỉnh thoảng anh Ky rủ tôi sang C2 vào ban ngày, xúc thóc đổ ra cối để giã. Gạo mới nhiều nhựa, nấu cơm hay cháo đều quánh và thơm…
Trong thời gian này, thằng T.Anh bạn cùng lớp cũ với tôi, bỏ đơn vị đi từ hổi còn nằm chốt Bờ đê biên giới quay trở lại đơn vị. Chắc hẳn ở nhà khó yên được với tiểu khu, phường đội. Nó lần mò vào được đến tiểu đoàn nhưng anh Sơn không nhận, bợp tai đuổi đi. Nó cứ về đại đội. Trung đội 2 vẫn chia cơm cho nó. Tôi nhớ mấy hôm đó có cả thịt ngựa ăn đàng hoàng. Tối thì nó ngủ ở lán anh nuôi chỗ thằng Lại, thằng Tào. Anh Síu cũng đuổi nó đi nốt. Tôi gặp nó trong lán anh nuôi, bảo mày cứ ở lỳ thêm một thời gian. Các ông ấy hết giận thì nhận lại súng mà chiến đấu. Tôi vẫn còn như nhìn thấy nó trong buổi chiều hôm ấy, tay mân mê một chỉ vàng đã quấn bọc lại bằng chỉ khâu cho khỏi mòn, cúi đầu nghe anh Síu chửi. Nhưng anh Síu đuổi gắt quá nên nó lại bỏ đi. Cả thằng Thoan phố Mã Mây, đang cầm khẩu B.40 ở B2 cũng chuồn đi theo nó. Mất thêm người, anh Síu quay sang chửi cả tôi. Bảo mày là bạn thân với nó, sao không biến mẹ nó nốt đi. Từ đó tôi hận thằng cha này. Anh Síu chính trị viên C1, quê Hải Hưng lính năm 1974 đóng hàm chuẩn úy. Anh ấy có một cái hộp thuốc cá nhân bằng nhựa màu xanh của Trung Quốc. Trong đó đựng mấy tấm ảnh chụp hồi quân quản Sài gòn. Anh Síu trong ảnh mặc quần ga ba đin bộ đội bó ống, tóc để dài như mốt thanh niên thành thị hồi đó. Ngoài ra còn một cái bọc nilon gói đôi quân hàm chuẩn úy có một gạch bạc, không có sao. Thỉnh thoảng lại giở ra xem.
Tôi được điều xuống đại đội 3 trực máy vì một lý do rất vớ vẩn. Thằng liên lạc mới (không nhớ tên) của anh Đạt đại trưởng nhặt được ở đâu đó quả đạn cối 81 lép mang về định kẹp thêm lựu đạn đánh cá. Những quả đạn cối Mỹ đã bắn rỉ sét, đôi khi chỏng trơ trên mặt ruộng khô. Anh Đạt đang nằm võng trông thấy hét nó mang đi vứt ngay. Thằng ngu đấy giật mình ném đi luôn thật. Thế là: “Uỳnh!”. Đạn thì nặng, tầm ném gần. Đại trưởng và thông tin bị thương, liên lạc hy sinh. Đang thiếu người, anh Thưởng, anh Sơn tiểu đoàn tức lộn tiết nhưng đành động viên anh Thoan xuống nhận nhiệm vụ đại đội phó. Tôi từ đại đội 1 sang đi với đại đội 3. Nói thêm một chút về anh Thoan, người Thanh Hoá, lính 74 đang mang hàm chuẩn uý. Sau những trận đánh ác liệt ở cầu Prasaut, anh ấy không nhận nhiệm vụ nữa. Tiểu đoàn rút lên kỷ luật **** nhưng vẫn để đi kèm tiểu đoàn bộ. Lính tráng nói kháy gọi là “tham mưu tụt tạt”. hay là “thành phần đọc báo” anh ấy cũng mặc kệ. Lần này không nhận nhiệm vụ không được nên đành xuống đại đội 3.
Một lần trong đêm, tôi gọi về tiểu đoàn kiểm tra đường dây như thường lệ. Thấy tay quay máy nhẹ và không có tín hiệu biết ngay là dây đã đứt. Tôi gọi thằng Phụng lên máy vô tuyến rồi trở dậy, khoác súng đi nối dây. Lại còn cẩn thận mang thêm cả bao xe. Xin anh Thoan thằng liên lạc đi cùng nhưng anh ấy không cho.Tôi bảo thằng Phụng gọi về tiểu đoàn thông báo các chốt gác để khỏi bắn nhầm rồi lên đường. Chỉ huy sở tiểu đoàn cách đại 3 khoảng 1km. Đêm tối như mực. Tay cứ lần theo dây mà đi thật chậm tìm chỗ đứt. Thỉnh thoảng lại co kéo dây thật nhẹ nhàng để kiểm tra. Nếu thấy dây điện thoại co về dễ dàng thì hãy cẩn thận, vì đã đến gần chỗ phải nối. Ai biết được dây đứt vì lý do gì? Bọn Pốt thường chơi trò cắt dây điện thoại rồi nằm phục tại vị trí cắt hoặc gài mìn. Điều này anh Hoạch, anh Tuấn “còi” đã dạy chúng tôi từ hồi còn nằm chốt biên giới. Lần mò dần nhưng không thấy dây đứt chỗ nào. Đã nhìn thấy nóc chùa tiểu đoàn mờ mờ trên nền trời sao. Vọng gác thông tin đây rồi. Tôi cúi người thật thấp rồi dặng hắng: “Thông tin đây! Đừng bắn!”. Anh Hoạch ra đón. Tôi thông báo tình hình. Anh Hoạch nhận định có thể dây bị đứt ngầm rồi giục tôi về làm cọc âm. Khi ta nối một dây vào cọc âm thì máy điện thoại vẫn có thể liên lạc được.
Về đến đại đội, tôi lôi que thông nòng AK ra, đóng xuống đất làm cọc âm. Nhưng vẫn không liên lạc được vì đất mùa khô độ dẫn truyền điện tích rất kém. Thế là tôi mang ra ngay cây dừa, dùng xẻng bộ binh làm búa, đóng cái thông nòng vào thân cây. Tiếng chan chát vang lên trong đêm làm anh Thoan cáu: “Thôi ngay đi! Địch nó bắn vào bây giờ!”. Tôi cũng phát khùng. Phần thì mệt, phần thì tức chuyện không cho người đi cùng lúc nãy liền vặc lại: “Đây là nhiệm vụ của tôi! Tôi không thể không làm!”. “Ah! Thằng cà chớn...!” Anh ấy chạm nọc văng vung xí mẹt, đòi đuổi tôi về tiểu đoàn ngay. Đến lúc này thì tôi cũng cóc cần gì nữa. Liên lạc đã thông, tôi quay máy thẳng về báo cáo với trung đội. Sau vụ đó vài hôm, thấy căng thẳng, anh Nhương (lúc này đã là trung đội phó) lại chuyển tôi sang đại đội 1.