Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 13
V
ới tôi, quả là một màn thử thách về cảm xúc khi phải nhìn Joe khoác
lên người bộ đồ mặc ngày Chủ nhật để đi cùng tôi tới nhà cô Havisham vào
ngày hôm sau nữa. Tuy nhiên, vì anh nghĩ bộ đồ mặc dự lễ này thực sự cần
thiết cho cuộc gặp, tôi chẳng thể bảo anh là trông anh khá hơn nhiều với bộ
đồ thợ rèn trên người; hơn thế, vì tôi biết anh đã chịu đựng tình trạng bất tiện
kinh khủng này hoàn toàn vì tôi, và cũng vì tôi anh dựng cổ áo sơ mi lên thật
cao ở đằng sau, làm tóc trên đỉnh đầu anh dựng đứng cả lên như cái mào.
Vào giờ ăn sáng, chị tôi tuyên bố ý định đi cùng chúng tôi vào thị trấn,
rồi ở lại nhà bác Pumblechook để chúng tôi quay lại đón “khi chúng tôi đã
xong việc với các quý bà của chúng tôi” - một cách để nói về cuộc gặp khiến
Joe không khỏi nghi ngại điều tệ hại nhất. Lò rèn đóng cửa nghỉ ngày hôm
đó, và Joe dùng phấn viết lên cửa (như thói quen anh vẫn làm trong những
dịp hiếm hoi không làm việc) một từ duy nhất NGỈ, kèm theo một hình - mũi
tên có vẻ muốn bay về hướng anh đã đi.
Chúng tôi đi bộ vào thị trấn, chị tôi đi đầu, đội một cái mũ rất to bằng
lông hải ly, và xách theo một cái giỏ trông giống như quốc ấn nước Anh đan
bằng rơm bện, đi một đôi giày đế cao, mang theo một chiếc khăn san dự
phòng và một cái ô, dù hôm đó nắng ráo đẹp trời. Tôi không rõ liệu những
món đồ này được mang đi vì hối lỗi hay để khoe khoang; nhưng tôi cho rằng
chúng được trưng ra để khoe của - cũng như Cleopatra hay bất cứ bà hoàng
nào đang nổi tam bành có thể trưng ra sự giàu có của họ trong một đám rước
hay cuộc diễu hành.
Khi chúng tôi tới nhà Pumblechook, chị tôi đi vào, bỏ Joe và tôi lại. Vì
lúc ấy đã gần trưa, Joe và tôi liền đi thẳng tới nhà cô Havisham. Estella lại ra
mở cổng như thường lệ, và ngay khi cô xuất hiện, Joe bỏ mũ ra, đứng cầm
lấy vành mũ bằng cả hai bàn tay nhấc nhấc lên như thể anh có lý do khẩn cấp
nào đó trong đầu cần phải biết chắc nó nặng bao nhiêu chính xác đến tận một
phần tám ounce*.
1 ounce = 28,35g.
Estella chẳng buồn để mắt tới hai chúng tôi, chỉ dẫn chúng tôi vào theo
lối tôi đã biết quá rõ. Tôi đi theo sau cô, còn Joe đi sau cùng. Khi tôi ngoái lại
nhìn Joe trong hành lang dài, anh vẫn cầm lấy cái mũ cẩn thận tột độ, và theo
sau chúng tôi bằng từng sải bước dài rón rén.
Estella bảo cả hai chúng tôi cùng đi vào, vậy là tôi cầm lấy lai tay áo
khoác của Joe và dẫn anh vào gặp cô Havisham. Bà đang ngồi cạnh bàn trang
điểm, và lập tức quay ra nhìn chúng tôi.
“Ồ!” bà lên tiếng nói với Joe. “Anh là chồng chị gái cậu bé này?”
Tôi khó lòng hình dung ra Joe khác hẳn anh lúc thường, hay giống hệt
một con chim lạ lùng nào đó, tới mức như vậy; trong khi anh đứng đó không
thốt nên lời, túm tóc như cái mào vểnh lên, miệng há ra như muốn được bón
cho một con giun.
“Anh có phải,” cô Havisham nhắc lại, “là chồng chị gái cậu bé này
không?”
Thật tệ hại; thế nhưng trong suốt cuộc nói chuyện, Joe vẫn cứ nhất định
nói với Tôi thay vì Cô Havisham.
“Điều anh muốn nói, Pip,” Joe bắt đầu lên tiếng theo một cách cùng lúc
thể hiện lý lẽ đầy sức thuyết phục, niềm tin chắc chắn đồng thời cũng rất lịch
sự, “anh đã cầu hôn và cưới chị cậu, và vào thời điểm đó, cậu có thể (nếu
muốn) gọi anh là một người đàn ông độc thân.”
“Được rồi!” cô Havisham nói. “Và anh đã nuôi nấng cậu bé, với ý định
dạy nghề cho nó; phải vậy không, anh Gargery?”
“Cậu biết đấy, Pip,” Joe đáp, “vì cậu và anh luôn là bạn, và cả hai
chúng ta đều nhóng đợi điều đó, và đều thấy như thế sẽ dất vui. Sẽ không thế,
Pip, nếu cậu không ưng nghề này - chẳng hạn vì nó nhem nhuốc vất vả hay gì
khác - hay vì những gì nghề này đòi hỏi, cậu thấy chứ?”
“Đã bao giờ,” cô Havisham nói, “cậu bé phản đối chưa? Nó có thích
nghề của anh không?”
“Chính cậu biết rõ, Pip,” Joe đáp lại, củng cố thêm tập hợp lý lẽ, niềm
tin và lịch sự của anh, “đó là ước mong của chính trái tim cậu.” (Tôi thấy ý
tưởng này đột nhiên tới với anh, làm anh phải dùng những lời định khắc lên
bia mộ vào dịp này, trước khi anh nói tiếp). “Và không có phản đối nào từ
phía cậu, và Pip ơi, đó là ước mong lớn lao của trái tim cậu!”
Tôi đã cố gắng thật vô ích nhắc nhở anh cần nói với cô Havisham. Tôi
càng ra hiệu bằng vẻ mặt và điệu bộ thúc giục anh làm vậy, anh lại càng
khăng khăng nói với tôi, càng lúc càng đầy lý lẽ, niềm tin và lịch sự.
“Anh có mang giao kèo của cậu bé theo không?” cô Havisham hỏi.
“Vậy đấy, Pip, cậu biết,” Joe đáp lại, như thể câu hỏi có phần vô lý,
“bản thân cậu cũng thấy anh cất nó trong mũ anh, vì thế cậu biết rõ nó ở
đây.” Nói xong, anh lấy bản giao kèo ra, rồi đưa nó không phải cho cô
Havisham mà cho tôi. Tôi sợ rằng mình đã cảm thấy xấu hổ vì con người
thân thương tốt bụng đó - tôi biết tôi đã cảm thấy xấu hổ về anh - khi tôi thấy
Estella đứng sau ghế cô Havisham, và đôi mắt cô đang cười cợt thật cay
nghiệt. Tôi cầm lấy giao kèo từ tay anh và đưa cho cô Havisham.
“Anh không trông đợi,” cô Havisham nói sau khi xem qua bản giao
kèo, “bất cứ khoản tiền học việc nào từ cậu bé sao?”
“Joe!” tôi trách vì anh chẳng hề trả lời. “Tại sao anh không trả lời…”
“Pip,” Joe đáp lại, ngắt lời tôi như thể anh đang bị tổn thương, “điều
anh muốn nói không phải là một câu hỏi cần trả lời giữa cậu và anh, và về
câu hỏi ấy cậu biết quá rõ câu trả lời là không. Cậu biết câu trả lời là không,
Pip, thế nên cần gì anh phải nói chứ?”
Cô Havisham đưa mắt nhìn anh như thể bà hiểu con người thực của
anh hơn tôi tưởng, thấy anh là ai; và bà cầm một cái túi nhỏ trên mặt bàn
cạnh mình lên.
“Pip đã kiếm được một khoản tiền cho học việc ở đây,” bà nói, “và đây
là khoản tiền đó. Trong cái túi này có hai mươi lăm guinea*. Hãy đưa nó cho
người dạy nghề của cháu, Pip.”
Một loại tiền vàng cổ lưu hành tại Anh.
Như thể đã hoàn toàn mất trí vì nỗi kinh ngạc mà bộ dạng lạ lùng của
vị phu nhân và căn phòng đánh thức trong anh, thậm chí tới lúc này Joe vẫn
nhất quyết nói với tôi.
“Pip, cậu thực là dất rộng rãi,” Joe nói, “và nó sẽ được đón nhận như
thế và chân thành hoan nghênh, cho dù chưa bao giờ được trông đợi, dù gần
hay xa, dù từ bất cứ đâu. Và bây giờ, anh bạn thân mến,” Joe nói, truyền đến
tôi cảm giác đầu tiên là nóng rần, rồi sau đó lạnh cóng, vì tôi cảm thấy dường
như cách diễn đạt thân tình này được dùng cho cô Havisham, “và bây giờ,
anh bạn thân mến, chúng ta hãy thực hiện bổn phận của mình! Cậu và anh
hãy thực hiện bổn phận của chúng ta, cả hai chúng ta, bởi cả hai, và bởi
những người chuyển món quà hào phóng cho cậu - để - vừa lòng - cho họ mà
chưa bao giờ…” Đến đây Joe cho thấy anh đang cảm thấy mình đã rơi vào
tình thế khó khăn khủng khiếp, cho tới khi anh đắc thắng cứu nguy cho bản
thân bằng mấy từ, “mà anh không hề từ nan!” Mấy từ này nghe có vẻ êm tai
và thuyết phục với ông anh rể tôi tới mức anh nói ra đến hai lần.
“Tạm biệt, Pip!” cô Havisham nói. “Đưa họ ra, Estella.”
“Cháu còn phải đến nữa không, thưa cô Havisham?” tôi hỏi.
“Không. Giờ Gargery là chủ của cháu. Gargery! Thêm một lời nữa
thôi!”
Sau khi gọi anh lại như thế trong khi tôi đi ra phía cửa, tôi nghe thấy bà
nói rõ ràng, dứt khoát với Joe, “Cậu bé đã cư xử đàng hoàng ở đây, và đó là
phần thưởng dành cho nó. Tất nhiên, là người trung thực, anh sẽ không trông
đợi thêm phần thưởng nào khác và không thêm gì nữa.”
Joe ra khỏi phòng như thế nào, tôi chẳng bao giờ có thể xác định được;
nhưng tôi biết khi anh ra ngoài, Joe cắm cúi leo lên cầu thang thay vì đi
xuống, và bỏ ngoài tai mọi lời trách móc cho tới khi tôi đuổi theo kéo anh lại.
Một phút sau, chúng tôi đã ở ngoài cổng, cổng đã bị khóa lại, còn Estella đã
quay vào.
Khi chúng tôi chỉ còn lại hai người đứng dưới ánh sáng ban ngày, Joe
tựa lưng vào tường và nói với tôi, “Thật đáng kinh ngạc!” Và anh ở yên đó
hồi lâu, cứ chốc chốc lại nói “Thật đáng kinh ngạc!” tới mức tôi bắt đầu nghĩ
thần trí anh sẽ chẳng bao giờ trở lại. Cuối cùng, anh kéo dài lời nhận xét
thành, “Pip, anh thực sự cam đoan với cậu chuyện này quả là ĐÁNG KINH
NGẠC!” và cứ thế dần dần anh có thể trò chuyện trở lại và bước đi.
Tôi có lý do để nghĩ trí tuệ của Joe được khai sáng thêm nhờ cuộc gặp
vừa kinh qua, nên trên đường chúng tôi quay lại nhà ông bác Pumblechook
anh đã nghĩ ra một kế tinh tế và sâu sắc. Lý do của tôi xuất phát từ những gì
diễn ra trong phòng khách nhà ông Pumblechook: ở đó, chị tôi đang ngồi
thảo luận với người đàn ông buôn bán ngũ cốc đáng ghét đó khi hai chúng tôi
vào trình diện.
“Thế nào?” chị tôi reo lên, hỏi cả hai chúng tôi một lúc. “Có gì xảy ra
với hai người vậy? Tôi đang tự hỏi liệu hai người có hạ cố quay về chốn
nghèo nàn này hay không, quả đúng là thế đấy!”
“Cô Havisham,” Joe nói, mắt nhìn tôi đăm đăm, như thể cố gắng để
nhớ lại, “có dặn dất cụ thể là bọn anh cần chuyển lại giúp bà ấy - là lời thăm
hỏi hay tôn trọng nhỉ, Pip?”
“Lời thăm hỏi,” tôi nói.
“Anh cũng tin là thế,” Joe đáp, “lời thăm hỏi tới bà J. Gargery…”
“Thăm hỏi thì tôi được nhờ lắm!” chị tôi bình phẩm; nhưng có vẻ khá
hài lòng.
“Và ước gì,” Joe nói tiếp, thêm lần nữa chăm chăm nhìn tôi như thể
thêm một lần cố nhớ lại, “rằng tình trạng sức khỏe của cô Havisham có thể -
tro phép, có phải không nhỉ, Pip?”
“Cho phép bà có được niềm vui,” tôi thêm vào.
“Được tiếp đón các quý bà,” Joe nói. Và thở một hơi thật dài.
“Được lắm!” chị tôi thốt lên, đưa một cái nhìn đã dịu lại về phía ông
Pumblechook. “Bà ta đáng lẽ phải lịch sự gửi đi lời nhắn này ngay từ đầu,
nhưng muộn còn hơn không. Và bà ta đã đưa gì cho thằng nhóc hư đốn này?”
“Bà ấy không đưa cho thằng bé gì cả,” Joe nói.
Bà Joe sắp sửa nổi đóa, nhưng Joe vẫn nói tiếp.
“Thứ bà ấy đưa,” Joe nói, “được đưa cho bạn bè thằng bé. ‘Và khi nói
tới bạn của cậu bé’ bà ấy giải thích, ‘ý ta là trao tận tay chị gái cậu ấy, bà J.
Gargery’ Đó là những lời bà ấy nói, ‘bà J. Gargery.’ Có thể bà ấy còn trẳng
biết,” Joe nói thêm với vẻ hồi tưởng lại, “đó là Joe hay Jorge.”
Chị tôi đưa mắt nhìn Pumblechook; ông này đang xoa xoa tay vịn chiếc
ghế bành của mình đến bóng nhoáng, và gật đầu với chị và cả ngọn lửa trong
lò sưởi, như thể ông đã biết tất cả từ trước.
“Thế hai người có được bao nhiêu?” chị tôi bật cười hỏi. Thực sự cười!
“Thế những người đang có mặt tại đây sẽ nói sao về mười bảng?” Joe
hỏi.
“Họ sẽ nói,” chị tôi cộc lốc đáp, “cũng được. Không nhiều lắm, nhưng
cũng được.”
“Vậy thì còn hơn thế kia,” Joe nói.
Pumblechook, kẻ mạo danh đang sợ sệt, lập tức gật đầu rồi vừa nói vừa
xoa xoa tay vịn ghế, “Còn hơn thế kia, bà mẹ.”
“Sao cơ, bác không định nói là…” chị tôi mở miệng.
“Đúng vậy đấy, bà mẹ,” Pumblechook nói, “nhưng hãy đợi một chút.
Nói tiếp đi, Joseph. Nói hay lắm! Tiếp đi!”
“Mọi người có mặt tại đây sẽ nói sao,” Joe nói tiếp, “về hai mươi
bảng?”
“Câu trả lời là rất khá,” chị tôi đáp.
“Được lắm,” Joe nói, “Thực ra còn hơn hai mươi bảng.” Pumblechook,
kẻ đạo đức giả hèn hạ đó, lại gật đầu, và nói, kèm theo tiếng cười kẻ cả bề
trên, “Còn hơn thế kia, bà mẹ. Lại tốt rồi! Hãy nói tiếp cho chị ấy biết đi,
Joseph!”
“Vậy thì để kết thúc,” Joe nói, hân hoan đưa cái túi cho chị tôi, “tất cả
là hai mươi lăm bảng.”
“Hai mươi lăm bảng, bà mẹ,” Pumblechook, kẻ lừa đảo hạ đẳng nhất,
hùa theo, rồi đứng dậy bắt tay chị tôi, “và không hề quá những gì chị xứng
đáng (như tôi đã nói khi tôi được hỏi về quan điểm của mình), và tôi chúc chị
vui với khoản tiền!”
Nếu kẻ xấu xa này dừng lại ở đây, vai diễn của ông ta chắc cũng đã đủ
tệ hại rồi, song ông ta còn tiếp tục nhuộm đen tội lỗi của mình bằng cách đẩy
tôi vào vòng kiềm tỏa, với một thứ quyền lực bảo trợ vượt xa mọi hành động
tội lỗi trước đó của ông ta về độ xấu xa.
“Bây giờ anh chị thấy đấy, Joseph và vợ,” Pumblechook nói trong khi
nắm lấy tay tôi ở phía trên khuỷu tay, “tôi là một trong những người luôn làm
đến nơi đến chốn. Cậu bé này cần được ràng buộc, ngay lập tức. Đó là cách
của tôi. Ràng buộc ngay lập tức.”
“Có Chúa lòng lành chứng giám, bác Pumblechook,” chị tôi nói (trong
khi nắm chặt túi tiền), “chúng cháu chịu ơn bác rất nhiều.”
“Đừng bận lòng về tôi, bà mẹ,” ông lái buôn lương thực ma quỷ đáp
lại. “Đó là một niềm vui hơn mọi niềm vui trên thế giới này. Nhưng cậu bé
này, anh chị cũng biết đấy; chúng ta nhất thiết phải ràng buộc nó. Tôi nói là
tôi sẽ để mắt đến chuyện đó - thành thật mà nói với anh chị.”
Các quan tòa đang ngồi ở tòa Thị chính ngay gần đó, vậy là chúng tôi
lập tức tới đó để tôi ký giao kèo học nghề với Joe trước sự chứng kiến của
quan tòa. Tôi nói là chúng tôi đi tới đó, nhưng tôi đã bị Pumblechook xô dụi
đi, hệt như thể tôi vừa móc túi ai đó hay châm lửa đốt một đụn rơm; quả thực,
tại tòa mọi người có ấn tượng là tôi đã bị bắt quả tang phạm tội; vì trong khi
Pumblechook đẩy tôi đi đằng trước ông chen qua đám đông, tôi nghe thấy vài
người nói, “Nó đã làm gì thế nhỉ?” rồi người khác thêm vào, “Nó mới là một
thằng nhóc thôi, nhưng trông hư hỏng quá nhỉ?” Một người có vẻ hiền lành tử
tế thậm chí còn đưa cho tôi một tập Kinh Thánh mỏng được trang trí bằng
bức tranh khắc gỗ hình một người đàn ông trẻ xấu xa bị xích bằng cả một
đống xiềng với nhan đề ĐỂ TÔI ĐỌC TRONG XÀ LIM.
Theo tôi nghĩ, tòa Thị chính là một nơi thật lạ lùng, tại đó có những
băng ghế dài cao hơn ở nhà thờ - và cả rất nhiều người trèo lên băng ghế nhìn
ngó - rồi các vị quan tòa oai nghiêm (có một người đội tóc giả rắc bột) ngồi
ngả người trên ghế, khoanh tay hay cầm thuốc lá bột đưa lên mũi hít, hay ngủ
gà gật, hay viết, hay đọc báo - và có cả vài bức chân dung màu đen sáng bóng
treo trên tường, dưới đôi mắt chẳng có chút khiếu thẩm mỹ nào của tôi trông
chúng như một hỗn họp kẹo hạnh nhân và keo dính. Tại đây, trong một góc,
bản giao kèo của tôi được ký và chứng thực đúng luật, thế là tôi đã bị “ràng
buộc”; ông Pumblechook khư khư giữ lấy tôi suốt thời gian đó như thể trên
đường tới đoạn đầu đài chúng tôi chỉ ghé vào để hoàn tất những thủ tục sơ bộ
nho nhỏ đó.
Sau khi quay trở ra và thoát khỏi những cậu nhóc hào hứng trước viễn
cảnh được chứng kiến tôi bị tra tấn trước công chúng, và vô cùng thất vọng
khi thấy các bạn tôi chỉ tập hợp lại quanh tôi, chúng tôi trở lại nhà ông
Pumblechook. Và tại đây, chị tôi trở nên phấn khích tột độ với hai mươi lăm
đồng guinea, đến mức không gì có thể làm chị vừa lòng, và chúng tôi nhất
thiết phải ra ngoài ăn tối mừng món của trời cho đó tại quán Lợn Lòi Xanh,
và Pumblechook cần tới đó bằng cỗ xe của ông, và phải chở theo cả hai vợ
chồng Hubble và ông Wopsle.
Ý tưởng này được nhất trí thực hiện; và tôi phải trải qua một ngày rầu
nẫu ruột. Vì trong đầu tất cả những người có mặt, thật khó hiểu nhưng có vẻ
như đúng tôi là kẻ không được hoan nghênh trong buổi ăn mừng. Và để làm
sự tình thêm tồi tệ, tất cả họ đều thỉnh thoảng hỏi tôi - nói tóm lại là bất cứ
khi nào họ chẳng có gì khác để làm - tại sao tôi lại không thấy vui? Và khi đó
tôi còn biết trả lời thế nào đây, ngoài nói rằng tôi có vui - trong khi tôi chẳng
hề vui chút nào!
Tuy nhiên, bọn họ là người lớn và có quyền làm theo ý mình, và họ tận
dụng hết cỡ lợi thế đó. Quý ông Pumblechook bịp bợm, được tâng bốc lên
thành con người từ tâm đã xoay xở thu xếp toàn bộ chuyện này, thậm chí còn
trèo cả lên mặt bàn; và khi ông ta nói với họ về chủ đề tôi đã được ràng buộc
và nhiệt liệt chúc mừng họ về chuyện tôi bị đe dọa ngồi tù nếu chơi bài, uống
rượu mạnh, thức khuya hay đánh bạn bừa bãi, hay buông thả vào những trò
bốc đồng mà các điều khoản trong giao kèo của tôi nhìn nhận như không thể
tránh khỏi, Pumblechook lôi tôi đứng lên một cái ghế cạnh ông ta để minh
họa cho những nhận xét của mình.
Điều duy nhất còn lại tôi nhớ về bữa ăn mừng tưng bừng đó là họ
không cho tôi ngủ mà cứ mỗi lần thấy tôi gục đầu xuống họ lại đánh thức tôi
dậy, giục tôi hãy vui vẻ. Và tối hôm ấy, khi đã khá khuya, ông Wopsle dành
tặng chúng tôi bài tụng ca của Collins, và vung thanh kiếm đẫm máu của ông
ta chém xuống như sấm sét, ấn tượng đến mức một người hầu bàn xuất hiện
và nói, “Các thương nhân ngồi dưới nhà gửi lời thăm hỏi, nói rằng đây không
phải là rạp xiếc.” Thế là tất cả họ đều ở trong tâm trạng hân hoan trên đường
về nhà và hát, Ôi Quý bà Xinh đẹp! Ông Wopsle đảm đương phần bè trầm
đầy quả quyết bằng một chất giọng khỏe kinh hoàng (để đáp lại kẻ phiền
nhiễu hay tọc mạch đã khởi đầu bài hát này một cách lạc lõng tột độ, thông
qua việc muốn biết không sót thứ gì về chuyện riêng tư của tất cả mọi người)
rằng ông ta là người đàn ông với mái tóc bạc trắng tung bay, và rằng ông ta
hơn ai hết là kẻ hành hương yếu đuối nhất còn bước đi.
Cuối cùng, tôi nhớ khi chui vào căn phòng ngủ nhỏ xíu dành cho mình,
tôi thực sự thấy khổ sở, và cảm thấy tin chắc mình sẽ không bao giờ thích
nghề của Joe. Tôi đã từng có lúc thích nó, nhưng đã từng thì không phải là
lúc này.