Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Chương 11
N
hững vệt sương thực sự đầu tiên của năm đã chuyển thành một bức màn ẩm ướt dọc cầu cảng Shevchenko. Đợi ở phía bên kia đường từ trụ sở Hội đồng Kinh tế và Thương mại Mỹ - Nga, Arkady có thể thấy các thư ký người Nga trong văn phòng còn các doanh nhân người Mỹ và chiếc máy bán Pepsi-Cola trong phòng thành viên. Anh húng hắng ho hắt ra một làn khói.
Đó vẫn là vụ án của Arkady. Chuyện đầu tiên diễn ra vào buổi sáng là cuộc gọi của Iamskoy, nói rằng việc một người Mỹ đã từng học tập ở Moscow có một vài đặc tính tương đồng về bề ngoài với cái xác được tìm thấy ở công viên Gorky, và vị thanh tra không nên lưỡng lự trong việc theo đuổi bất cứ bằng chứng nào có thể đưa ra một liên kết, dù một thanh tra không nên tiếp cận người ngoại quốc và, từ điểm này, không nhận được thêm băng ghi âm nào hay bản viết nào từ KGB.
Chà, Arkady nghĩ, Osborne đã tiếp cận anh, chứ không phải là anh tiếp cận. “Người bạn của Liên bang Xô Viết” không nên biết rằng hắn là chủ đề trong chuyến viếng thăm của một thanh tra tới Bộ Ngoại thương. Arkady không chắc chắn với việc làm thế nào để đưa cuộc trò chuyện với Osborne tới lĩnh vực thương mại và ghi lại đặc thù của anh ta, thực tế là, anh nghi ngờ việc Osborne sẽ xuất hiện.
Nửa tiếng sau thời gian đã thống nhất, một chiếc limousine Chaika dừng lại trước Bộ. John Osborne bước ra từ tòa nhà, nói vài câu gì đó với người lái xe, rồi sải bước về phía viên thanh tra. Hắn mặc một bộ áo choàng ngoài bằng da lộn.
Trên mái tóc bạc là chiếc mũ lông chồn màu đen mà chắc chắn còn đắt hơn số tiền Arkady có thể kiếm được trong một năm. Thứ được dùng để giữ cổ tay áo hắn lại là vàng chứ không phải là những chiếc nút áo. Trên người Osborne, những bộ quần áo phi thường ấy là một điều hiển nhiên, như một lớp vỏ bọc thuận lợi của sự tự tin tuyệt đối và lớn lao. Hắn có đủ sức mạnh để không khiến mình trở nên kỳ dị, nhưng bằng cách biến mọi thứ xung quanh mình trở nên kỳ quặc và tàn tệ. Hắn và Arkady ngồi bên nhau một lúc, rồi vị doanh nhân khẽ ôm choàng lấy viên thanh tra và bắt đầu rảo bước chân dọc theo cầu cảng về hướng điện Kremlin. Chiếc limousine theo sát đằng sau.
Osborne bắt đầu trước khi Arkady có thể cất lời. “Tôi hy vọng anh không phiền với sự vội vã này, nhưng tôi phải thực hiện một cuộc đón tiếp ở Bộ Thương mại và tôi biết anh không muốn tôi bắt ai phải đợi hết. Anh có biết Bộ trưởng Bộ Ngoại thương chứ? Có vẻ như anh biết hết những người khác và anh xuất hiện ở hầu hết những nơi không được mong đợi. Anh có biết gì về tiền không?”
“Không.”
“Để tôi nói với anh về tiền. Lông thú và vàng là những vật dụng cổ xưa nhất của Nga dành cho thông thương quốc tế, cống tặng cho các vị vua Khan và Ceasar. Tất nhiên, Nga không phải cống nạp cho bất cứ một ai khác nữa. Ngày nay, có hai phiên đấu giá lông thú một năm, vào tháng Một và tháng Bảy, ở Điện Lông thú tại Leningrad. Có khoảng một trăm người mua tham dự, trong đó có khoảng mười người đến từ Mỹ. Một vài là người mua chính, một vài thì lại là những kẻ môi giới. Những người mua chính thì mua lông thú cho mình và kẻ môi giới mua cho người khác. Tôi vừa là một nhà môi giới vừa là một người mua chính bởi tôi mua cho người khác nhưng đồng thời cũng có một salon của mình ở Mỹ và châu Âu. Các loại lông thú chủ yếu ở các cuộc đấu giá là lông chồn marten, lông chồn vizon, lông cáo, lông chồn putoa, cừu Ba Tư và chồn zibelin. Nói chung, các nhà môi giới Mỹ không đấu giá chồn vizon bởi chồn vizon của Nga bị cấm ở Mỹ - một tàn lưu từ thời Chiến tranh Lạnh. Bởi những cửa hàng ở châu Âu của tôi, tôi đấu giá với mọi loại lông, nhưng loại lông duy nhất mà hầu hết mọi người mua Mỹ đều thực sự quan tâm đó là lông chồn zibelin. Chúng tôi đến mười ngày trước phiên đấu giá để xem xét thật kỹ lưỡng các tấm lông. Ví dụ, nếu tôi mua lông chồn vizon, tôi sẽ xem xét cẩn thận năm mươi bộ lông từ một nhà sản xuất riêng biệt. Năm mươi bộ lông ấy sẽ cho tôi giá trị của một “chuỗi” hàng ngàn bộ của nhà sản xuất đó. Bởi có đến tám triệu bộ lông chồn vizon được thu hoạch ở Liên xô mỗi năm, hệ thống “chuỗi” ấy là rất cần thiết.
“Chồn zibelin thì lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Không đến một trăm ngàn bộ lông chồn zibelin đủ tiêu chuẩn xuất khẩu được thu hoạch trong một năm. Không có cái gì gọi là “chuỗi” cả. Mỗi một bộ lông chồn zibelin đều phải được kiểm tra kỹ lưỡng riêng lẻ về màu sắc và độ dày. Nếu như bộ lông được thu hoạch sớm một tuần, độ dày lại không đủ, muộn một tuần thì độ láng mịn lại mất đi. Cuộc đấu giá bằng đô la đơn giản như một tiêu chuẩn trao đổi. Tôi mua khoảng nửa triệu đô cho lông chồn zibelin ở mỗi phiên đấu giá.”
Arkady chẳng biết phải nói gì cả. Đây không phải là một cuộc đối thoại, đây đơn giản chỉ là một vở độc thoại lê thê lạc đề. Anh nhận ra là mình vừa bị lên lớp lại vừa bị lờ tịt cùng lúc.
“Như một đối tác thương mại và một người bạn lâu dài, tôi đã được vinh danh bởi những lời mời tới các cơ quan khác nhau của Xô Viết ngoài Điện Lông thú. Năm ngoái, tôi bay tới Irkutsk để tham gia tour của Trung tâm Lông thú. Chuyến đi tới Moscow của tôi hiện nay chỉ đơn thuần là vì công việc. Mỗi một mùa xuân, Bộ Ngoại thương ở đây liên lạc với một vài người mua và đàm phán về những khoản giảm giá các bộ lông tồn kho. Tôi vẫn luôn thích thú các chuyến viếng thăm Moscow bởi sự quen biết rộng rãi với những con người ở đây. Không chỉ những người bạn thân thiết của tôi ở trong các bộ ngành, mà còn có cả những nghệ sĩ múa và diễn viên. Giờ thì, trưởng thanh tra Trọng án, tôi lấy làm tiếc rằng không thể ở lại được cho đến ngày mùng một tháng Năm, nhưng tôi sẽ đi New York vào đêm trước đó.”
Osborne mở một chiếc hộp vàng, lấy ra một điếu thuốc và châm lửa. Arkady nhận ra rằng cuộc độc thoại chẳng lan man chút nào. Nó đi thẳng vào vấn đề. Mỗi một vật dụng về hành động của Osborne đều là tự nguyện và không bỏ qua cả việc đặt Arkady vào vai trò của một kẻ xu nịnh bợ đỡ chính phủ kém cỏi nhất. Chỉ trong vòng vài phút, chả cần chuẩn bị gì, Osborne đã hoàn toàn chứng minh được sự vượt trội của mình. Còn chẳng có đến một câu hỏi đọng lại trong đầu vị thanh tra, trừ những câu hỏi mang tính buộc tội mà lại chẳng thể hỏi.
“Chúng bị giết như thế nào?” Arkady hỏi.
“Ai cơ?” Osborne dừng lại mà chẳng tỏ chút vẻ quan tâm nào.
“Những con chồn zibelin.”
“Tiêm. Không hề đau đớn.” Osborne bắt đầu sải bước, chậm hơn một chút. Sương vờn trên chiếc mũ lông chồn. “Anh có một mối quan tâm mang tính nghề nghiệp tới mọi thứ, phải không thanh tra?”
“Nhưng những con chồn zibelin thật sự quyến rũ. Các ông bẫy chúng như thế nào?”
“Chúng có thể bị lùa ra khỏi hang bằng khói. Hoặc bị bắt trên cây bởi những con husky đã được huấn luyện để săn chúng, rồi tất cả những cây ở xung quanh đều bị chặt hạ và những tấm lưới được trải ra.”
“Chồn zibelin săn giống như chồn vizon?”
“Chồn zibelin săn chồn vizon. Không có gì nhanh nhẹn được trên tuyết cả. Siberi là thiên đường với chúng.”
Arkady dừng lại và quẹt mất ba que diêm trước khi châm được điếu Prima. Một nụ cười khẳng định với Osborne rằng tất cả những gì mà vị thanh tra khao khát chỉ là một người đối thoại vui vẻ hài hước.
“Leningrad,” Arkady thở dài, “một thành phố đẹp biết bao. Venice của phương Bắc, tôi nghe người ta gọi nó như thế.”
“Có vài người gọi như thế.”
“Điều mà tôi muốn biết là tại sao Leningrad lại có tất cả những đại thi hào vĩ đại nhất. Tôi không ám chỉ Yevtushenko hay Voznesensky, tôi ám chỉ những đại thi hào như Akhmatova và Mandelstam. Anh biết dòng thơ của Madelstam chứ?”
“Tôi biết rằng ông ấy không được yêu thích lắm.”
“À, nhưng ông ấy chết rồi và điều đó cải thiện vị thế chính trị của ông ấy một cách đáng kể.” Arkady nói. “Dù sao thì, hãy nhìn dòng sông Moskva của chúng ta. Rạn nứt như những con đường bê tông. Giờ thì hãy lấy dòng sông Neva của Madelstam, “sánh như một con sứa”. Cụm từ đó nói lên nhiều điều.”
“Anh có thể không nhận thức được rằng” - Osborne nhìn vào đồng hồ trên tay mình - “hầu như không ai ở phía tây đọc thơ của Madelstam. Ông ta mang quá nhiều phong cách Nga. Ông ấy không dịch thơ của mình.”
“Chính là quan điểm của tôi! Quá phong cách Nga. Đó có thể là một sai lầm.”
“Đó là quan điểm của anh?”
“Giống như những cái xác chúng tôi tìm thấy ở công viên Gorky mà anh hỏi. Ba người bị bắn chết bởi một khẩu súng từ phương tây với độ chính xác cao? Nó không được chuyển dịch sang phong cách Nga chút nào, đúng không?” Đôi khi, gió đập vào những tấm banner diễu hành và những khuôn mặt được tô vẽ trên tấm banner ấy rung lên, mà chẳng thay đổi vẻ biểu cảm chút nào. Trong mắt của Osborne, Arkady nhìn thấy một sự rung rinh như vậy, một sự hào hứng kích thích. “Ông hẳn phải để ý thấy được sự khác nhau giữa một người đàn ông như mình, ngài Osborne, với một người đàn ông như tôi. Cách suy nghĩ của tôi thật u ám, ngốc nghếch, mang tính chất của giai cấp vô sản và đó là đặc quyền để gặp bất cứ ai đó phức tạp rắc rối. Ông có thể tưởng tượng sự khó khăn của tôi khi cố gắng để tìm hiểu tại sao một người phương Tây lại bận tâm giết ba người Nga. Đây không phải là chiến tranh hay là tình báo. Hãy để tôi thú nhận với ông là tôi không có mang thiết bị nào hết. Thường khi tôi thấy một cái xác, hiện trường vụ án luôn là một đống lộn xộn - máu ở khắp nơi, dấu vân tay, thậm chí cả vũ khí của kẻ giết người. Một đứa trẻ với một cái dạ dày tốt cũng có thể làm được công việc đó giống như tôi. Động cơ? Ngoại tình, một kẻ say xỉn giận dữ, một món nợ vài rúp, có thể là một người phụ nữ giết một người phụ nữ khác vì mất một con gà. Tôi phải nói, một cái bếp chung là mảnh đất màu mỡ của niềm đam mê. Thẳng thắn ra thì, nếu tôi có tư tưởng của một nhà lý luận hoặc để điều hành một cơ quan hoặc biết được sự khác biệt giữa một tấm lông nguyên vẹn và một tấm khác, thì tôi sẽ làm gì, không làm được gì? Nên mọi sự cảm thông cần phải đưa tới một điều tra viên chậm chạp gặp phải một tội ác về kế hoạch điều hành, hoạt động táo bạo và trừ khi tôi nhầm, một âm mưu.”
“Âm mưu?” Osborne lấy làm thích thú.
“Đúng thế. Nhớ điều mà Lê-nin nói. “Giai cấp lao động không bị tách khỏi xã hội tư sản cũ bởi một Bức tường Trung Hoa*. Và khi Cuộc cách mạng nổ ra, sẽ không có chuyện một cá thể chết đi rồi tự chôn chính mình. Khi xã hội cũ ra đi, nó sẽ không thể tự gói thể xác của mình vào tấm vải liệm và tự đặt vào trong nấm mồ. Nó sẽ thối rữa giữa chúng ta, cái xác ấy sẽ đàn áp và làm ô nhiễm chúng ta.” Nên, hãy cân nhắc một doanh nhân tư bản, người có thể hành quyết hai công nhân Xô Viết và bỏ họ nằm giữa trung tâm Moscow, sau đó nói với tôi rằng ông ta không phải là một nhân vật của cái âm mưu vĩ đại ấy.
“Anh nói hai á? Tôi nghĩ là anh tìm thấy ba cái xác trong công viên.”
“Ba. Ông hiểu rõ Moscow chứ, Osborne? Ông có vui với chuyến đi của mình không?”
Họ lại bước đi, để lại những vết chân sẫm mờ trên đá. Phía trước, một làn sương mờ màu vàng vờn quanh một cây cầu.
“Và ông có hài lòng với chuyến đi tới Moscow không?” Arkady lặp lại câu hỏi.
“Thanh tra, trong chuyến đi tới Siberi, tôi được một trưởng làng chào đón, ông ấy cho tôi xem công trình hiện đại nhất trong làng. Nó có đến mười sáu cái bệ xí, hai bồn tiểu và một cái chậu rửa tay. Nó là một công trình phụ công cộng. Đó là nơi những người lãnh đạo làng tập trung với chiếc quần tụt xuống và chất thải, trong khi họ đưa ra những quyết định quan trọng.” Osborne dừng lại. “Tất nhiên, Moscow thì lớn hơn rất nhiều.”
“Thưa ngài Osborne,” Arkady cướp lời, “Xin lỗi. Liệu tôi có nói gì làm ông khó chịu chăng?”
“Anh không thể làm tôi khó chịu được. Hình như là tôi đã đưa anh đi xa khỏi cuộc điều tra của mình.”
“Không hề.” Arkady chạm vào cái găng tay da lộn của Osborne và tóm lược lại chuyến đi của họ. “Nếu có thể, ngài là một sự giúp đỡ. Nếu tôi có thể, chỉ một phút thôi, suy nghĩ không như một người Nga mà như một thiên tài kinh doanh, những vấn đề của tôi có thể sẽ được giải quyết.”
“Ý anh là gì?”
“Không phải chỉ thiên tài mới thấy điều gì đó đáng giá để giết những người Nga sao? Đó không phải là một lời tâng bốc mà là sự ngưỡng mộ. Lông thú? Không, hắn ta có thể mua từ ông. Vàng? Làm thế nào mà hắn có thể mang nó ra được? Hắn đã có đủ rắc rối khi vứt cái túi đó đi rồi.”
“Cái túi nào?”
Arkady vỗ tay thành tiếng lớn. “Hành động đã được thực hiện. Cả những người đàn ông và cô gái đều đã chết. Kẻ giết người đã nhét thức ăn, chai nước, súng vào trong chiếc túi da bị rách toạc bởi những phát đạn. Hắn trượt băng qua công viên. Trời đang có tuyết rơi và màn đêm đang buông xuống. Ra khỏi công viên, hắn phải nhét đôi giày trượt băng vào chiếc túi và vứt nó đi với hy vọng sẽ không bị chú ý. Không phải trong công viên và không phải trong thùng rác bởi nó có thể sẽ bị tìm thấy. Ít nhất ở Moscow sẽ bị báo cáo. Dòng sông?”
“Dòng sông đã bị đóng băng cả mùa đông.”
“Hoàn toàn chính xác. Tuy nhiên ngay cả khi chiếc túi biến mất một cách thần kỳ, hắn vẫn phải quay trở lại bờ sông bên này.”
“Cây cầu Krimsky.” Osborne ra hiệu về hướng họ đang đi tới.
“Mà không gây chú ý tới bất cứ một người đa nghi hay một cảnh sát nào? Con người thường quá nhiễu sự và tọc mạch.”
“Taxi.”
“Không, rất bấp bênh với người nước ngoài. Một người bạn đợi trên cầu cảng trong một chiếc xe, điều này thậm chí rõ ràng đối với tôi.”
“Vậy thì tại sao kẻ đồng phạm ấy lại không tham gia vào việc sát hại?”
“Anh ta?” Arady cười lớn. “Không bao giờ! Chúng ta đang nói đến cám dỗ và sự thu hút. Kẻ đồng lõa không thể thu hút ruồi bâu vào mật được.” Arkady nghiêm nghị quay sang. “Nghiêm túc mà nói, người đàn ông đầu tiên, kẻ giết người, nghĩ rằng mọi thứ đều rất cẩn thận.”
“Có ai đó thấy hắn ta với chiếc túi sao?”
Một bên bờ sông lất phất mưa. Osborne quan tâm tới một nhân chứng, điều này có thể lật lại.
“Không đáng kể lắm. Điều mà tôi muốn biết,” Arkady nói, “là lý do. Tại sao? Tôi không ám chỉ một vật thể - mà nói ở đây, đó là tượng thánh. Ý tôi là, tại sao một người đàn ông thông minh, thành công và giàu có, hẳn là hơn đứt bất cứ ai ở Liên bang Xô Viết, tại sao lại phải giết người để giàu có hơn? Nếu tôi có thể hiểu được người đàn ông đó, tôi có thể hiểu được tội ác ở đây. Nói cho tôi biết xem, tôi có thể hiểu hắn ta được không?”
Osborne có vẻ không muốn tiếp tục. Arkady cảm thấy như mình đang gãi lên một bề mặt bóng loáng và không tì vết. Da lộn, chồn vizon, da, mắt, tất cả đều như nhau, tất cả... tiền. Đó là một từ mà viên thanh tra chưa từng sử dụng trong một bối cảnh như thế này trước đây. Nói một cách trừu tượng, trong ảo tưởng của những tên trộm, thì là có. Nhưng chưa bao giờ anh có một sự liên hệ thực sự với tiền. Về điều này, Osborne là một người đàn ông có thể kiếm tiền một cách dễ dàng từ từng lỗ chân lông của mình. Có thể hiểu được một người đàn ông như thế không?
“Tôi cho là không.” Osborne trả lời.
“Tình dục?” Arkady hỏi. “Một người xa lạ cô đơn gặp một cô gái xinh đẹp và đưa cô ấy tới căn phòng khách sạn của mình. Những người lao công sẽ lờ đi. Ông ta và cô gái bắt đầu gặp gỡ thường xuyên. Đột nhiên, cuối cùng cô ta yêu cầu tiền và đưa ra một anh chồng khó nhằn. Cô ta là một kẻ tống tiền chuyên nghiệp.”
“Không.”
“Có gì không đúng sao?”
“Về quan điểm. Đối với người phương Tây, thì người Nga thật xấu xí.”
“Đó có phải là sự thật không?”
“Nói chung, phụ nữ chẳng quyến rũ hơn những con bò bao nhiêu. Đó là lý do tại sao những nhà văn Nga bọn anh gây ầm ĩ về những đôi mắt của các nữ anh hùng, vẻ bề ngoài mờ ảo và những ánh nhìn quyến rũ, bởi không có mặt thể chất nào khác lại mong muốn sự miêu tả.” Osborne nói tiếp. “Bởi vì mùa đông dài dằng dặc của các anh. Còn gì ấm áp hơn một người phụ nữ to lớn với đôi chân rậm rạp? Những người đàn ông mảnh khảnh hơn, nhưng thậm chí còn xấu hơn. Bởi sự suy giảm về vẻ ngoài đẹp đẽ, những yếu tố gợi cảm duy nhất còn lại là cái cổ dày và lông mày rậm, giống như bò.”
Arkady nghĩ rằng có thể là anh đang nghe về sự miêu tả những người thời nguyên thủy. “Từ tên của anh, anh có nguồn gốc người Ukraina đúng không?” Osborne nói thêm.
“Đúng. Chà. Chúng ta sẽ không nhắc đến tình dục nữa...”
“Như thế là thông minh đấy.”
“...mà nó lại đưa chúng ta tới một tội ác không có động cơ,” Arkady cau mày.
Xoay chậm rãi như một cánh cửa, Osborne nói. “Thật đáng ngạc nhiên. Anh có rất nhiều điều bất ngờ. Anh có nghiêm túc không thế?”
“Ồ, vâng.”
“Một vụ giết ba người chỉ đơn giản là bất chợt nảy ra?”
“Đúng thế.”
“Thật khó tin. Ý tôi là,” Osborne trở nên tràn đầy sức sống, “không thể tin được, không thể là từ một điều tra viên được đào tạo như anh. Từ một ai đó, không phải anh.” Osborne hít một hơi thật sâu. “Nếu một sự kiện như thế xảy ra, hoàn toàn là một vụ án mạng ngẫu nhiên không có nhân chứng, cơ hội để anh tìm ra tên giết người là gì?”
“Không gì cả.”
“Nhưng đó là những gì mà anh nghĩ là đã xảy ra.”
“Không. Tôi chỉ nói rằng tôi không tìm ra được động cơ. Động cơ rất khác nhau. Bối cảnh, quan điểm như ông nói. Giả dụ một người đàn ông, thi thoảng đến thăm một hòn đảo nguyên sơ. Những người ở thời kỳ đồ đá. Anh ta nói ngôn ngữ của họ, là một chuyên gia nịnh hót, trở nên gần gũi với những đầu bếp ở đó. Cùng một lúc, anh ta nhận thức được sự vượt trội của mình. Thực tế là, anh ta thấy rằng những người bản xứ ti tiện một cách lố bịch.” Arkady nói chậm rãi, nhớ lại những thống kê mơ hồ về những người lính Đức đã bị Osborne và Mendel giết. “Ở một điểm nào đó trước đây, anh ta dính líu vào vụ giết hại một người bản xứ. Trong suốt cuộc chiến tranh, anh ta không bị trừng phạt mà lại được tưởng thưởng. Và trong khi anh ta thưởng thức ký ức của hành động theo cách mà một người đàn ông tận hưởng nỗi nhớ về những chi tiết của người đàn bà đầu tiên. Có một sự quyến rũ trong xã hội nguyên thủy, ông có nghĩ thế không?”
“Sự quyến rũ?”
“Một sự soi sáng cho người đàn ông này. Anh ta khám phá ra nhịp đập lôi cuốn của mình là gì và anh ta cũng khám phá ra nơi mà anh ta có thể thực hiện sự thôi thúc này. Một nơi nằm ngoài nền văn minh.”
“Sẽ ra sao nếu anh ta đúng?”
“Đứng trên quan điểm của anh ta thì có thể lắm. Những người dân trên đảo là người nguyên thủy, không có gì phải nghi ngờ cả. Nhưng với tất cả vẻ bề ngoài văn minh mà anh ta có, tôi nghi ngờ việc anh ta có cảm giác khinh thường mọi người. Chỉ có trên hòn đảo nguyên thủy này mà anh ta mới có cảm giác đó. “
“Nếu anh ta giết một cách ngẫu nhiên, anh không thể bắt anh ta được.”
“Nhưng anh ta không làm thế. Đầu tiên, anh ta đợi rất nhiều năm trước khi ấp ủ sự thôi thúc bạo lực của mình. Và anh ta là một tay nghiệp dư, thậm chí là một tay nghiệp dư bị kích động. Và một sự thật đầy tò mò là một tay nghiệp dư khi thực hiện thành công một tội ác hầu như luôn luôn cố gắng sao chép chính mình như thể chỉ hắn ta có được bí mật dành cho một tội ác hoàn hảo. Do đó sẽ có một hình mẫu. Và, nó cũng được lên kế hoạch một cách tỉ mỉ. Một người đàn ông vượt trội phải có khả năng kiểm soát. Thậm chí với đĩa ghi có tiếng bắn đại bác của Tchaikovsky xuyên qua công viên, đúng không? Hắn nâng khẩu súng của mình lên trong chiếc túi, bắn vào gã cục súc rồi người đàn ông thứ hai và cô gái, lột da mặt cùng dấu vân tay của họ và tẩu thoát. Tuy nhiên, việc lập kế hoạch chỉ đến đó mà thôi. Như vậy không công bằng, nhưng vẫn luôn có một yếu tố cơ hội. Một người bán hàng nào đó đã đẩy xe vào những hàng cây để nghỉ ngơi, những thằng nhóc nấp sau những chiếc cây, những cặp uyên ương chui vào nơi nào đó để kiếm chút riêng tư. Suy cho cùng, nơi nào mà những cặp đôi đi tới vào mùa đông chứ? Tự vấn đi.”
“Vậy là có nhân chứng sao?”
“Một nhân chứng thì có gì tốt? Ký ức của họ phai nhạt sau một ngày. Nói rõ ra thì, sau ba tháng tôi có thể khiến họ nhận ra bất cứ ai tôi muốn. Chỉ kẻ giết người mới có thể giúp tôi lúc này.”
“Hắn ta sẽ làm thế chứ?”
“Hoàn toàn có thể. Tôi có thể ẩn mình như con ếch nằm dưới dòng sông và hắn ta có thể tới và tìm ra tôi.”
“Tại sao?”
“Bởi vì giết người thôi thì chưa đủ. Ngay cả một gã khờ khạo nhất cũng hiểu ra rằng sẽ đến lúc sự hưng phấn ban đầu biến mất. Giết người chỉ là một nửa của hành động. Ông có nghĩ rằng một người đàn ông ở ưu thế vượt trội, với một sự thỏa mãn thật sự, sẽ cần gặp riêng một điều tra viên như tôi, một gã chỉ còn sự bất lực và vô vọng, thậm chí chỉ còn sự ngưỡng mộ?”
“Liệu đó có phải một thử thách quá sức không, ngài thanh tra?”
“Mọi thứ đều được xem như là” Arkady giẫm lên điếu thuốc - “không quá lắm.”
Họ đã tới cây cầu Novo-Arbatsky. Từ hai đầu cầu, những ngôi sao màu hồng của tòa Ukraina và Bộ Ngoại thương nhấp nháy như đèn hiệu. Chiếc limousine của Osborne đậu bên vỉa hè.
“Anh là một người thành thực, thanh tra Renko,” Osborne nói chuyển sang tông giọng trầm ấm như thể hành trình gian nan đã kết thúc, ông ta và Arkady đã có một cuộc trò chuyện thân mật, mệt mỏi nhưng ấm áp. Một nụ cười hiện ra như sự xuất hiện của nhân vật chính trong cảnh cuối. “Tôi mong từ giờ anh sẽ gặp nhiều may mắn bởi tôi chỉ còn có một tuần ở Moscow và tôi không nghĩ rằng chúng ta sẽ có thể gặp lại. Tuy nhiên, tôi không muốn anh về với bàn tay trắng.”
Osborne nhấc chiếc mũ lông chồn lên khỏi đầu mình và đặt nó lên đầu Arkady. “Như một món quà,” ông ta nói. “Khi anh nói với tôi ở nhà tắm rằng anh luôn mong muốn có một chiếc mũ, tôi biết rằng mình sẽ phải tặng nó cho anh. Tôi phải đoán kích cỡ, nhưng tôi có đôi mắt quan sát tốt.” Ông ta nhìn Arkady từ một góc độ khác. “Nó hoàn hảo.”
Arkady lấy chiếc mũ xuống. Nó đen như mực, với chất liệu satin. “Nó rất đáng yêu. Nhưng...” anh đặt chiếc mũ lại đầy hối tiếc. “Tôi không thể nhận nó được. Có những quy tắc về chuyện quà cáp.”
“Tôi sẽ rất buồn nếu anh từ chối.”
“Chà, cho tôi vài ngày để suy nghĩ. Bằng cách đó, chúng ta sẽ có lý do để nói chuyện một lần nữa.”
“Bất cứ lý do nào cũng được.” Osborne bắt tay Arkady, rồi bước vào trong chiếc limousine và đi qua cây cầu.
Arkady lên xe của mình ở tòa Ukraina và lái về khu đỗ xe cảnh sát ở Oktyabrsky, ở đó anh dò hỏi về bất cứ người ngoại quốc nào bị phát hiện đang ngồi đợi trên ô tô gần công viên quanh khoảng thời gian xảy ra án mạng.
Đến khi anh rời đi, mặt trời màu cam to đùng đã hiện ra. Nó trôi giữa những sợi cáp của cầu Krimsky. Những tia lấp lánh của nó giống như những đồng xu in trên các cửa sổ tòa nhà Bộ. Những tia gay gắt đang chiếu xuống chỗ cầu cảng nơi anh và Osborne tản bước cách đây không lâu.
Trưởng thanh tra Ilya Nikitin, với mái tóc mỏng được chải ướt rượt ra sau cái đầu tròn, liếc mắt qua làn khói của điếu thuốc mình đang ngậm chặt giữa hai hàm răng. Anh ta sống một mình ở quận Arbat trong một căn nhà hẹp với những bức tường lỗ chỗ mảng sơn và vữa rơi từ trần xuống vùi trong những chồng sách đầy bụi, được dán những mảnh giấy màu vàng, cao đến hai ba mét và dày đến năm tầng. Arkady nhớ đến những cái cửa sổ có ba lớp kính nhìn ra bên ngoài dòng sông và những ngọn đồi Lê-nin, nhưng khung cảnh ấy chỉ còn tồn tại trong ký ức. Những giá sách đã mọc lên trước cửa sổ, trong phòng bếp, trên cầu thang và trong phòng ngủ ở tầng hai.
“Kirwill, Kirwill...” Nikitin thận trọng đẩy chồng dữ liệu về Phần sửa đổi bổ sung của Hiến chương về vấn đề Kết hợp In - Xuất Bản toàn Liên bang sang một bên, để thấy cái chai rượu Rumanian đã gần như cạn đáy. Anh ta vừa uống vừa chớp mắt và bắt đầu bò lê lên cầu thang. “Vậy là anh vẫn đến chỗ Ilya khi anh cần giúp đỡ sao?”
Khi Arkady lần đầu tiên đến văn phòng của công tố viên ở thị trấn, anh suy được từ Nikitin rằng đó là một người đàn ông thiên tài và một nhà tiến bộ, hoặc là một thiên tài và một người bảo thủ. Một tác giả của các cải cách hợp pháp hoặc một người theo chủ nghĩa Stalin. Một bạn nhậu của ca sĩ da màu Robeson hoặc một người bạn tâm tình của tiểu thuyết gia phản động Sholokov. Ít nhất thì, một thiên tài của những ám chỉ ngộ đạo.
Không có gì phải nghi ngờ rằng Nikitin là một trưởng thanh tra Trọng án tài năng. Dù Arkady là người làm vụ án, vẫn luôn có Nikitin đến phòng thẩm vấn với hai cái chai và cái liếc mắt đầy khinh nhạo, để dành hàng tiếng đồng hồ sau đó với tên sát nhân đầy hối lỗi dễ bảo. “Tự thú là tất cả,” Nikitin giải thích. “Nếu anh không đưa cho người ta tôn giáo hay tâm lý, ít nhất hãy để họ thú nhận tội ác. Proust từng nói ta có thể quyến rũ bất cứ người phụ nữ nào nếu như ta sẵn sàng ngồi xuống và lắng nghe cô ấy phàn nàn suốt bốn tiếng đồng hồ buổi sáng. Trong lòng, bất cứ tên sát nhân nào cũng đều là những kẻ muốn gào thét.”
“Để ăn hối lộ, cậu em à.” Nikitin giải thích khi Arkady hỏi tại sao anh ấy chuyển từ Ban Trọng án sang Liên lạc viên Chính phủ.
“Kirwill Reds. Diego Rivera. Trận chiến ở Quảng trường Liên bang.” Xoay lại để nhìn ra sau, Nikitin hỏi, “Anh biết Thành phố New York ở đâu rồi chứ?” Anh ngồi sụp xuống, lôi ra một quyển sách, kéo theo hai quyển nữa trôi xuống cầu thang, rồi lại một quyển nữa. Sau khoảnh khắc đó, dòng trượt dừng lại.
“Nói cho tôi biết về Kirwill,” Arkady nói.
Nikitin lúc lắc cái đầu như người ta vẫy vẫy ngón tay. “Sửa lại nhé: Nhà Kirwill. Red Star...” Anh ta dồn sức để bò xuyên qua cái sảnh tầng hai chật hẹp do bị bao vây bởi những bức tường sách.
“Ai là những người nhà Kirwill?” Arkady hỏi.
Nikitin vứt chiếc chai không xuống, bụng kẹt giữa những chồng sách, không cựa quậy được. “Anh lấy trộm một chai khỏi văn phòng tôi, Arkady. Anh là tên trộm. Anh xuống địa ngục đi.”
Nằm ngang tầm mắt Arkady là một mẩu bơ cứng ngắc và một nửa chai rượu mận nằm trên một quyển sách có tựa đề: Áp bức chính trị ở Mỹ, 1929 -1941.
Giữ cái chai bằng một tay, anh lướt qua mục lục của quyển sách. “Tôi có thể mượn quyển này không?”
“Giúp tôi một việc,” Nikitin nói.
Arkady thả cái chai vào tay Nikitin.
“Không.” Nikitin để mặc cái chai trượt đi.
“Giữ lấy quyển sách. Và đừng có quay lại.”
Văn phòng của Belov là một công trình tưởng niệm cuộc chiến. Những người lính nhỏ sần da đang hành quân qua những bức ảnh báo. Những dòng tiêu đề trên tấm giấy báo mềm viết: “Trận địa phòng ngự dũng cảm trên sông Volga”, “Cuộc nổi dậy cay đắng bị dập tắt”, “Những anh hùng ngợi ca Đất mẹ”. Miệng Belov ngáp rộng vì giấc ngủ, những mẩu bánh mì vương trên môi dưới và phần trước chiếc áo sơ mi. Một chai bia vẫn nằm trên tay ông.
Arkady lấy chiếc ghế còn lại và mở quyển sách anh vừa lấy ở chỗ Nikitin.
Lễ mít tinh Quảng trường Liên bang năm 1930 là buổi lễ tập trung lớn nhất được Đảng Cộng Sản Mỹ tổ chức. Những công nhân thất nghiệp, rất háo hức nghe và được lắng nghe bởi đội quân tiên phong của công bằng xã hội, kéo về quảng trường với số lượng còn lớn hơn rất nhiều so với con số những nhà lãnh đạo dự đoán. Dù thực tế là Cảnh sát trưởng Thủ đô Grover A. Whalen yêu cầu không chuyến tàu điện ngầm nào được dừng lại ở khu vực xung quanh quảng trường, ước tính số lượng đám đông kéo đến đã vượt quá năm mươi nghìn người. Cảnh sát và các nhân viên ngầm sử dụng các biện pháp khác để bẻ gãy, đập vỡ hoặc bóp nghẹt ý chí của những người có mặt ở đó. Trong khi họ ca vang bài Quốc tế ca, các điệp viên của Đội Cấp tiến xâm nhập vào quảng trường. Những kẻ kích động cố gắng mà không thể xúi giục được cuộc tấn công nào nhằm vào những cảnh sát mang sắc phục. Không có máy quay phim nào được phép ghi hình lại cuộc mít tinh vinh quang theo yêu cầu của Cảnh sát trưởng Whalen, người một lát sau đó lắp bắp rằng, “Tôi không thấy có một lý do nào để duy trì những phát ngôn phản nghịch, và tôi không định tham gia vào việc kiểm duyệt.” Câu nói của anh ta trở thành hình mẫu cho những mâu thuẫn trong vai trò của cảnh sát ở xã hội tư bản chủ nghĩa: Một vai trò là người gìn giữ hòa bình xung đột với vai trò cao hơn nữa là kẻ giữ cửa của tầng lớp bóc lột.
Arkady bỏ qua thông điệp kêu gọi đoàn kết từ Stalin được đọc cho đoàn người đang phấn khích.
Một cuộc diễu hành trong hòa bình tới Tòa thị chính Thành phố được đề nghị bởi diễn giả William Z. Foster. Tuy nhiên, ngay khi dòng người bắt đầu di chuyển, lối họ đi bị chặn lại bởi một xe tải vũ trang của cảnh sát. Bởi đó là ám hiệu Whalen đưa ra với các nhóm cảnh sát tập trung ở vỉa hè. Các cảnh sát mặt đất và trên lưng ngựa tấn công vào những người đàn ông, phụ nữ và cả trẻ em không một tấc sắt trên tay. Đặc biệt, những người da màu, là mục tiêu của cuộc tấn công. Một cô gái da đen bị một viên cảnh sát bắt được trong khi những kẻ khác đánh vào quanh ngực và bụng cô bé. James và Edna Kirwill, các biên tập viên của tờ Red Star, một tạp chí của Công giáo cánh tả, bị đánh bằng dùi cui nằm rạp xuống đất trên vũng máu. Những cảnh sát cưỡi ngựa lao vào cả những người đang giơ những áp phích cổ động và những công dân chỉ là người qua đường. Các lãnh đạo bị tấn công và bắt giữ. Bị giam trong xà lim, họ không được quyền có luật sư hay người bảo lãnh, cùng với tuyên bố của Cảnh sát trưởng Whalen: “Những người là kẻ thù của xã hội này sẽ bị đưa ra khỏi New York mà không cần đề cập đến các quyền theo hiến pháp của họ.”
Viên Trưởng thanh tra Công nghiệp mở to đôi mắt ươn ướt của mình, liếm môi và ngồi rướn lên.
“Tôi chỉ là,” ông lên tiếng, chộp lấy chai bia ngay lúc nó bắt đầu đổ nghiêng, “nhìn vào một vài chỉ thị dành cho các nhà máy”. Ông nhét vào miệng phần còn lại của chiếc bánh sandwich rồi quẳng nó vào thùng rác, bật ra một tiếng ợ và nhìn chằm chằm vào Arkady. “Cậu đã ở đây bao lâu rồi?”
“Cháu chỉ đang đọc sách thôi, chú Seva à,” Arkady nói. “Quyển sách cho cháu biết ‘Kẻ thù của xã hội sẽ bị trục xuất không cần đề cập đến các quyền hiến pháp’.”
“Thế thì dễ thôi,” người đàn ông trả lời sau một khắc suy nghĩ, “Theo đúng định nghĩa, kẻ thù của xã hội không có quyền hiến pháp.”
Arkady búng những ngón tay mình. “Chính là chú đây rồi,” anh nói.
“Đó chính là bài học vỡ lòng.” Belov vẫy vẫy tay, phủi lời tâng bốc. “Vậy cậu muốn gì nào? Cậu chỉ lắng nghe tôi những ngày này khi cậu cần thứ gì đó.”
“Cháu đang cố tìm ra một thứ vũ khí được ném xuống dòng sông vào tháng Một.”
“Ném lên dòng sông, ý cậu là thế. Nó đóng băng mà.”
“Đúng là vậy, nhưng có thể không phải khắp nơi. Một vài nhà máy vẫn thải nước ấm vào dòng sông, khiến cho băng không thể nào đông được. Chú biết về các nhà máy hơn bất cứ ai khác.”
“Ô nhiễm là vấn đề lớn cần quan tâm, Arkady. Có những chỉ dẫn liên quan đến vấn đề môi trường cho các nhà máy. Cậu là người luôn luôn phàn nàn với tôi về các nhà máy khi còn là một đứa nhóc. Cậu quả thực là một kẻ phiền phức.”
“Nước ấm sạch, có thể được thải ra bởi một lệnh duy trì đặc biệt.”
“Ai cũng nghĩ rằng họ là trường hợp đặc biệt. Thải nước bẩn ra Moskva trong phạm vi thành phố bị nghiêm cấm, nhờ những người giống như cậu.”
“Nhưng công nghiệp cần phải phát triển. Một đất nước giống như một cơ thể vậy. Đầu tiên là cơ bắp, sau đó là tóc.”
“Đúng vậy, và cậu nghĩ rằng cậu đang làm tôi vui, Arkady, khi cậu nói vài điều không thật. Cậu thà ở một thành phố hoa lệ như là Paris. Cậu biết tại sao họ có những đại lộ lớn như thế không?” Khi Belov chà khuôn mặt mình, nó chuyển động như một chiếc bánh pudding. “Thứ mà cậu cần là nhà máy Gorky Tannery. Với lệnh duy trì đặc biệt, họ thải ra nước đã được xử lý. Tất cả hóa phẩm bị loại, hiểu chứ. Tôi có bản đồ...”
Belov lục cái tủ kéo và tìm một bản đồ công nghiệp, một món đồ có màu da cam và đen to bằng một chiếc khăn trải bàn được mở ra.
“Găng tay, vở, bao đeo, đồ kiểu như thế. Đây...” ngón tay của ông di xuống phía cầu cảng bên cạnh công viên Gorky. “Một đường ống nhánh. Dòng sông đóng băng ở đây, nhưng đó chỉ là bề mặt.
Một thứ gì đó đủ nặng có thể phá vỡ và xuyên qua bề mặt, sau đó nó lại đóng băng trong một giờ hoặc hơn. Vậy nên, Arkady, cậu nghĩ cơ hội là gì với việc một người đàn ông ném một khẩu súng xuống dòng sông ở nơi duy nhất băng không dày cả mét?”
“Làm sao chú biết được cháu đang tìm một khẩu súng?”
“Arkady, tôi chỉ già thôi. Tôi không hề suy yếu và không điếc. Tôi có thể nghe thấy mọi việc.”
“Việc gì?”
“Nhiều việc.” Belov nhìn Arkady, rồi nhìn vào hình ảnh những vị anh hùng đóng khung trên tường. “Tôi không hiểu nhiều chuyện nữa. Đó là một con người trước đây vẫn luôn tin vào tương lai. Có những bè phái, những sai lầm trong đánh giá, sự thanh trừng có lẽ đã đi quá xa, nhưng trong trái tim chúng ta đều đang xích lại với nhau. Ngày hôm nay...” Belov nháy mắt. Người đàn ông già nua chưa từng giãi bày tâm tư với Arkady như thế này trước đây. “Bộ trưởng Bộ Văn hóa bị sa thải vì tham nhũng, bà ta biến mình thành một triệu phú, xây những cung điện. Một Bộ trưởng! Không phải chúng ta đã cố gắng để thay đổi điều đó sao?”
Ngày tiếng súng nổ bên ngoài Mosfilm đã qua.
Arkady đi theo Irina Asanova quanh một căn nhà gỗ và những cây bạch dương được chống bởi những khung dây. Anh cảm giác được những sợi cáp điện bên dưới những ô cỏ. Mặc kệ tấm biển ghi KHÔNG HÚT THUỐC, cô gái vẫn phì phèo điếu papirosi rẻ tiền trong chiếc tẩu sơn cũ kỹ. Chiếc áo khoác Afghan phóng đãng của cô phanh ra để lộ chiếc váy cotton mỏng manh và chiếc bút chì treo lủng lẳng từ sợi dây đeo quanh cổ, phần nào đó nhấn mạnh vẻ duyên dáng của chiếc cổ. Mái tóc dài màu nâu của cô buông lỏng và đôi mắt nhìn thẳng vào Arkady. Cái vết trên má cô mờ đi thành một vệt đỏ thứ mà Tolstoy đã miêu tả trên khuôn mặt của những người lính pháo binh ở Borodino, màu đỏ bừng hân hoan khi cận kề trận chiến.
“Valerya Davidova và người yêu cô ấy - Kostia Borodin - đến từ vùng Irkutsk,” Arkady nói. “Cô đến từ Irkutsk, cô là bạn thân nhất của Valerya ở đó, và khi cô ấy chết ở đây cô ấy đang mang đôi giày trượt mà cô bị mất”.
“Anh định bắt tôi đấy à?” Irina thách thức Arkady. “Tôi đã từng học khoa Luật, và tôi hiểu rõ luật pháp cũng như anh vậy. Anh cần một cảnh sát có mặt nếu anh muốn bắt tôi.”
“Vậy thì cô nên nói với tôi trước. Người đàn ông được tìm thấy cùng với Valerya và Kostia là một người Mỹ tên là James Kirwill. Cô biết James Kirwill ở trường đại học. Tại sao cô vẫn cứ nói dối tôi?”
Cô quay đi trước câu hỏi của anh, đưa anh tới một vòng tròn quanh căn nhà như thật này. Với tất cả vẻ hiên ngang, cô cảm thấy như thể anh đang theo dõi một chú nai.
“Đừng cho đó là việc cá nhân.” Cô nhìn lại. “Nhìn chung, tôi hay nói dối nói với những kiểu người như anh.”
“Tại sao?”
“Tôi cư xử với anh theo cách tôi cư xử với người bị bệnh hủi. Anh bị bệnh. Anh là thành viên của một tổ chức bệnh tật. Tôi không muốn bị lây.”
“Cô đang học luật để trở thành một người bệnh à?”
“Một luật sư. Theo một góc độ thì, một bác sĩ giúp cho sự chống chọi của sức khỏe với bệnh tật.”
“Nhưng chúng ta đang nói đến án mạng. Không phải là bệnh tật.” Arkady châm một điếu thuốc cho mình. “Cô rất dũng cảm. Cô mong đợi một tên cớm chìm Beria xuất hiện và ăn thịt một đứa bé trước mắt mình. Nhưng tôi sẽ làm cô thất vọng thôi, tôi ở đây chỉ để tìm ra kẻ đã giết bạn bè cô.”
“Giờ anh lại nói dối tôi. Sở thích duy nhất của anh là những cái xác chết, không phải là bạn bè của một ai đó. Anh cần quan tâm tới bạn bè anh chứ không phải bạn bè tôi.”
Đó thực sự là một lời buộc tội vô tình, nhưng cô đã nói ra một sự thật. Lý do duy nhất anh đến trường quay là vì Pasha.
Anh đổi chủ đề. “Tôi đã xem lý lịch quân sự của cô. Cô đã nói những lời phỉ báng Xô Viết nào mà khiến mình bị đuổi khỏi trường đại học vậy?”
“Làm như anh không biết vậy.”
“Giả vờ như tôi không biết,” Arkady nói.
Irina Asanova khựng lại một chút, cách anh nhìn cô lần đầu tiên anh bước vào trường quay, chìm sâu trong sự tự tin và say mê là một thế giới riêng.
Cô bước tới gần hơn khiến họ gần như chạm vào nhau. “Nhưng tôi không hề đùa, tôi hoàn toàn nghiêm túc. Thanh tra, nếu một ai đó đưa cho tôi một khẩu súng ngay lúc này và bảo tôi có thể ra khỏi Liên bang nếu tôi giết anh, tôi sẽ bắn anh ngay chỗ anh đang đứng đấy.”
“Thật thế sao?”
“Tôi sẽ rất mừng mà làm thế.”
Cô nhét điếu thuốc vào cây bạch đàn bên cạnh Arkady. Lớp vỏ trắng của cái cây sẫm đen dần và bốc khói quanh những mảng gỗ đang hóa thành than, một phần lớp vỏ bốc cháy và cuộn lên. Arkady cảm thấy một cơn đau nhói lên, như thể một vết đâm ấm nóng đang nhấn vào tim anh. Anh tin lời cô nói.
“Đồng chí Asanova, tôi không biết tại sao tôi vẫn phải làm vụ án này,” anh cố gắng một lần nữa. “Tôi không muốn làm, cũng không nên làm. Nhưng ba người tội nghiệp đã bị giết hại và tất cả những gì tôi yêu cầu chỉ là cô đi với tôi lúc này và nhìn những cái xác. Có lẽ từ quần áo hoặc...”
“Không.”
“Chỉ để chứng minh với chính mình rằng họ không phải là bạn cô. Chẳng lẽ cô không muốn xác nhận điều đó?”
“Tôi biết đó không phải là họ.”
“Vậy họ ở đâu?”
Irina Asanova không nói gì. Một vết cháy in dấu trên chiếc cây. Cô không nói gì, nhưng lối đi dẫn đến sự thật vẫn còn rộng mở. Arkady đột nhiên cất tiếng cười, nỗi sợ hãi từ sự ngu ngốc của chính mình. Lúc nào anh cũng tự hỏi mình xem điều mà Osborne có thể muốn có từ hai người Nga là gì, mà không phải họ có thể muốn gì từ ông ta.
“Cô nghĩ là họ ở đâu?” Anh hỏi. Arkady cảm thấy cô đang nín thở.
“Kostia và Valerya đang chạy trốn khỏi Siberi,” Arkady tự trả lời chính mình. “Điều đó hoàn toàn không phải là vấn đề với một tên cướp như Kostia, không phải với những chiếc vé Aeroflot bị lấy trộm của hắn. Hoàn toàn có thể mua những giấy tờ làm việc ở chợ đen và giấy phép định cư ở đây nếu có đủ tiền và Kostia có thể xoay xở được khoản đó. Nhưng Moscow chưa đủ xa. Kostia muốn đi đến cùng. Và điều đó là không thể, trừ khi anh ta chết với một người Mỹ mà không hề có ghi chép về việc tái nhập cảnh vào Liên bang.”
Irina bước lùi lại về phía những tia nắng cuối ngày.
“Trên thực tế,” Arkady nói. “đó là lý do duy nhất cô thừa nhận cô biết họ. Tôi biết họ đã chết ở công viên Gorky, nhưng cô lại nghĩ là họ đang sống ở bên kia biên giới. Cô nghĩ rằng họ đã thoát rồi.”
Ánh mắt cô rạng ngời chiến thắng.