Books support us in our solitude and keep us from being a burden to ourselves.

Jeremy Collier

 
 
 
 
 
Tác giả: Anne Frank
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Phạm Thu Hông
Upload bìa: Phạm Thu Hông
Số chương: 14
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2643 / 178
Cập nhật: 2015-07-09 06:10:16 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần 9
hủ Nhật, ngày 19 tháng 3, 1944
Hôm qua là một ngày rất quan trọng đối với mình. Vào lúc 5 giờ, mình nấu khoai tây, và mẹ đưa mình một ít xúc xích để cho Peter. Nhưng anh không chịu lấy và mình nghĩ đó là vì chúng mình vừa cãi nhau dữ dội.Bỗng nhiên mắt mình đầy lệ. Mình đưa đĩa trả cho Mẹ và đi vào phòng tắm để khóc.
Mình quyết định nói chuyện với Peter. sau khi tắm rửa xong, mình đi lên phòng anh. Chúng tôi đứng cạnh cửa sổ khi trời dần tối, điều đó giúp dễ nói chuyện hơn. Anh không nhận xúc xích không phải vì cãi nhau mà vì anh không muốn tỏ ra mình ham ăn. Sau đó chúng tôi cùng nhau nói chuyện thật nhiều. Ôi sao dễ chịu, đấy là một buổi tối tuyệt vời mà tôi có được ở "Nơi trú ẩn" này.
Chúng tôi nói về cha mẹ chúng tôi, và các vấn đề liên quan đến họ. Mình thuật lại cho anh nghe mình khóc ở trên giường ra sao. Anh nói anh đi lên gác mái mỗi khi anh nổi giận. Chúng tôi nói cho nhau nghe mọi cảm xúc của mình. ôi thật đẹp như mình mơ tưởng!
Chúng tôi nói về năm 1942, và giờ đây chúng tôi đã đổi khác biết bao. Lúc đầu,anh nghĩ mình là một cô gái ồn ào, đáng chán! Còn mình nghĩ anh ấy chẳng có gì hay ho! Mình bảo với anh chúng tôi giống như hai mặt của một đồng tiền. Mình ồn ào, anh lặng lẽ. Nhưng mình cũng thích sự thanh bình, yên tĩnh. Mình nói mình hiểu tại sao đôi khi anh lại bỏ đi để ngồi một mình. Và mình muốn giúp đỡ anh khi anh tranh cãi với cha mẹ.
- Nhưng em đã giúp anh rồi mà! Anh nói.
- Thật ư. Mình ngạc nhiên hỏi.
- Do em luôn niềm nở!
Đấy là lời nói dễ thương nhất của anh trong đêm hôm ấy. Giờ đây anh ấy đã yêu thương mình như một người bạn, mình rất hạnh phúc và biết ơn.
Thứ Tư, ngày 22 tháng 3, 1944
Mọi việc càng lúc càng tuyệt vời ở nơi đây. Mình nghĩ tình yêu thật sự có thể xảy ra tại "Ngôi nhà bí mật" này. Mọi người đã nói đùa với cúng tôi, bảo rằng chúng chúng tôi có thể sẽ thành hôn với nhau nếu ở đây đủ lâu. Có lẽ những lời nói đùa đó không có ác ý!
Mình nghĩ giờ đây Peter cũng đã yêu mình nhưng mình chẳng biết bằng cung cách nào. Phải chăng anh muốn mình là một người bạn tốt, một bạn tình, hay một người em.
Ôi, khi mình nghĩ về đêm thứ Bảy - nghĩ về những lời nói, giọng nói của chúng tôi - mình cảm thấy hài lòng với chính mình. Đây là lần đầu tiên, mình không muốn đổi thay những gì mình đã nói.
Thứ Năm, ngày 23 tháng 3, 1944
Người lo việc thực phẩm của chúng tôi đã ra khỏi tù, do vậy giờ đây nhiều việc đã khá hơn.
Hôm qua một máy bay đã rơi gần chỗ chúng tôi, trên nóc một trường học. Rất may không có học trò trong đó. Có một ngọn lửa nhỏ, và hai người bị chết. Các phi công bên trong máy bay đã thoát ra kịp thời nhưng bọn Đức đã bắn họ ngay. Người dân địa phương rất tức giận - Điều đó thật hèn mạt, kinh tỏm. Chúng tôi - những người phụ nữ trong "Ngôi nhà bí mật" rất khiếp sợ. Tôi căm ghét tiếng súng.
Thứ Ba, ngày 28 tháng 3, 1944
Mẹ cố ngăn mình không cho lên phòng của Peter. Mẹ bảo bà Van Daan không ưa. Có lẽ Mẹ cũng không ưa. Bố lại vui về điều đó, Bố vui hơn vì chúng tôi là bạn. Mẹ nghĩ Peter đã phải lòng mình. Mình mong đó là sự thật.
Mình rất muốn vẫn là bạn của Peter. Chúng tôi có những khó khăn, nhưng chúng tôi chiến đấu để khắc phục và sau cùng chúng sẽ làm cho mọi điều tốt đẹp hơn. Khi anh ngồi gục đầu trên đôi cánh tay và nhắm nghiền đôi mắt, anh như còn là một đứa trẻ. Khi anh chơi với con mèo Mouschi, anh đáng yêu. Khi anh mang những bọc khoai tây nặng cho chúng tôi: anh mạnh mẽ. Khi anh ấy nhìn máy bay oanh tạc, hoặc đi khắp gian nhà tăm tối để tìm kẻ trộm: anh dũng cảm. Và khi anh hoàn toàn không biết xử sự ra sao: anh thật dịu dàng.
Thứ Tư, ngày 29 tháng 3, 1944
Ông Bolkestein - một thành viên của chính phủ Hà Lan, đã phát biểu trên đài phát thanh từ London. Ông nói rằng sau chiến tranh, Nhà Nước muốn có được nhật ký và thư từ của mỗi người viết về chiến tranh - Những vật chứng này là một phần rất hấp dẫn của lịch sử. Mình có thể viết một cuốn sách tên gọi Ngôi Nhà Bí Mật. Người ta có thể tưởng đó là một câu chuyện trinh thám. Nhưng, nói một cách nghiêm túc, mười năm sau chiến tranh, người ta sẽ cảm thấy thích thú khi đọc chuyện về chúng tôi, những người Do Thái phải ẩn trốn. Chúng tôi sống ra sao, ăn cái gì, nói những chuyện gì. Nhưng mặc dù tôi kể cho bạn nghe cả lô chuyện về cuộc sống của chúng tôi, bạn vẫn còn biết rất ít về chúng tôi. Chẳng hạn, những người phụ nữ sợ hãi ra sao khi máy bay oanh tạc. Chủ Nhật rồi, 350 máy bay Anh đã bỏ bom ở Ijmuiden khiến cho ngôi nhà đã lắc lư như bị gió đùa.Hoặc những thứ bệnh khủng khiếp người ta mắc phải nơi đây.
Bạn không biết gì về tất cả những cái đó, và điều đó khiến mình phải mất cả mấy ngày để kể lể. Người ta phải sắp hàng chờ đợi để mua rau cải và tất cả mọi đồ vật khác. Bác sĩ không thể đi thăm bệnh vì xe ôtô hoặc xe máy của họ bị đánh cắp. Có rất nhiều kẻ trộm chung quanh đến đỗi bạn phải đặt câu hỏi điều gì đã xảy ra cho Hà Lan - tại sao người ta trôm cắp quá nhiều? Bọn trẻ nhỏ - 8 và 11 tuổi - đập vỡ cửa sổ nhà người ta và lấy trộm đi cái gì chúng có thể lấy đi được. Người ta không dám rời nhà ra đi dù chỉ năm phút bởi vì mọi thứ trong nhà có thể ra đi khi họ quay trở lại. Điện thoại công cộng bị ăn cắp và mọi bộ phận của các đồng hồ điện ở các góc đường cũng bị mất.
Mọi người đều đói. Khẩu phần thực phẩm cho một tuần không đủ ăn trong hai ngày. Chúng tôi chờ đợi quân Đồng Minh đổ bộ, nhưng lâu quá. Đàn ông bị gửi sang Đức, trẻ con bị bệnh hoạn và đói, mọi người mặc áo quần cũ và rách. Quá đắt để đưa giày đi sửa và nếu bạn đưa giày đến người sửa giày, có thể bạn không bao giờ thấy chúng nữa.
Thứ Sáu, ngày 31 tháng 3, 1944
Bạn hãy tưởng tượng xem, trời vẫn còn lạnh nhưng giờ đây phần lớn mọi người không còn gì để sưởi ấm suốt cả tháng. Nghe khủng khiếp, phải không bạn? Chúng tôi hy vọng người Nga. Họ đã đến Ba Lan và sông Prut ở Rumani. Họ cũng đã đến gần Odessa.
Quân đội Đức đã xâm chiếm Hunggari. Một triệi người Do Thái đang sốn ở đây; giờ thì họ không còn hy vọng gì nữa. Không có gì đặc biệt xảy ra ở đây cả. Hôm nay là ngày sinh nhật của ông Van Daan. Ông nhận được và món quà và một cái bánh sinh nhật. Bánh không hoàn chỉnh vì chúng tôi không thể mua đúng vật liệu cần, tuy vậy ăn cũng ngon tuyệt.
Giờ đây người ta ít nói về chuyện Peter và tôi. Chúng tôi là những người bạn thân. Chúng tôi dành nhiều thời gian ở bên nhau, và chúng tôi nói bất cứ cái gì và mọi thứ. Tôi hkông thể nói với những thanh niên khác như vậy. Chúng tôi cũng nói chuyện kinh nguyệt. Anh cho rằng phụ nữ khá đủ mạnh để chịu mất máu và mình cũng thế. Mình tự hỏi tại sao anh nghĩ thế?
Cuộc sống của mình giờ đã khá hơn, khá hơn nhiều. Chúa đã không bỏ mình, và Người không bao giờ làm thế.
Thứ Hai, ngày 3 tháng 4, 1944
Mình sắp mô tả khẩu phần ăn của chúng mình. Thực phẩm là vấn đề khó khăn và quan trọng không những đối với chúng tôi ở "Ngôi nhà bí ẩn" này mà còn đối với mọi người ở Hà Lan, ở toàn Châu Âu và ngay cả ở nơi khác.
Chúng tôi sống ở đây đã 21 tháng và thường ở một thời đểm nào đó, chỉ có một loại thức ăn nào đó để ăn. Chẳng hạn một loại rau hay xà lách. Chúng tôi ăn chúng với khoai tây, bằng mọi cách mà chúng tôi có thể nghĩ ra.
Nhưng giờ thì không còn rau cỏ gì cả. Chúng tôi ăn khoai tây và đậu nấu. Chúng tôi nấu xúp. Chúng tôi còn ít bịch dự trữ để nấu ăn, ăn cũng hơi hấp dẫn. Nhưng mà ăn đậu với mọi thứ, ngay cả bên trong bánh mì.
Lúc sôi động nhất là khi chúng tôi ăn một miếng nhỏ xúc xích, mỗi lần một tuần và để ít mứt vào bánh mì - dĩ nhiên là không có bơ. Nhưng chúng tôi vẫn sống và gần như mọi thức ăn, ăn nghe ngon.
Thứ Tư, ngày 5 tháng 4, 1944
Đã lâu lắm rồi, tôi đã thực sự không quan tâm đến việc học hành. Chiến tranh có vẻ còn lâu mới chấm dứt. Nếu nó kéo dài hơn tháng 9, mình không thể trở lại trường, mình không muốn trễ hai năm.
Peter lấp đầy các ngày tháng của mình, ngoại trừ Peter chứ không có cái gì khác. Không có gì ngoại trừ mơ mộng và suy tưởng, cho đến một đêm thứ Bảy bỗng mình cảm thấy khiếp sợ. Mình mặc áo ngủ ngồi trên sàn nhà và mình đọc kinh cầu nguyện. Sau đó mình lăn ra sàn nhà và khóc. Nhưng mình biết mình phải chiến đấu chống lại nó. Sau cùng lúc 10 giớ, mình đã leo lên giường, sự đau khổ đã đi qua!.
Và giờ đây nó đã thực sự đi qua. Mình biết rằng mình phải học lại. Mình muốn làm một cái gì đó cho đời mình. Mình muốn mình là một nhà báo. Mình biết mình có thể viết. Một ít chuyện của mình cũng khá, một phần cuốn nhật ký của mình khá linh động và thích thú, nhưng...mình không biết mình có thật sự là một nhà viết văn giỏi. Nhưng nếu mình không viết sách hoặc báo, mình có thể luôn viết cho mình. Mình không muốn sống như Mẹ, như bà Van Daan và như mọi người đàn bà khác, họ chỉ làm công việc gia đình của họ và sau đó bị quên lãng. Mình cần có nhiều hơn là một ông chồng và mấy đứa con. Mình muốn mình có ích và mang niềm vui đến cho tất cả mọi người, ngay cả những người mình chưa hề gặp. Mình muốn mình vẫn sống sau khi mình chết đi.
Mình cám ơn Chúa về việc viết lách của mình. Do vậy mình tiếp tục cố gắng, và mọi việc sẽ ổn cả bởi vì mình sẽ không bỏ cuộc.
Thứ Ba, ngày 11 tháng 4, 1944
Mình không biết nên bắt đầu từ đâu - nhiều điều đã xảy ra từ Ngày thứ Năm - khi mình viết cho bạn đây - mọi việc vẫn bình thường. Thứ Năm và Thứ Bảy cũng vậy. Vào tối Chủ Nhật lúc 9 giờ 30, Peter gõ cửa phòng chúng tôi. NAh chờ Bố mình lên tầng trên và giúp anh giải thích vài từ tiếng Anh. Nhưng mình không tin anh.
Thật là kỳ lạ - mình nói với chị Margot, em nghĩ nhà có trộm.
Mình đã đóan đúng. Chúng đang chui vào hầm chứa. Bố, ông Van Daan và Peter đang chạy nhanh xuống dưới. Chị Margot, Mẹ, bà Van Daan và mình ở lại chờ. Bốn người phụ nữ sợ hãi cần bàn ra tán vào với nhau, quả là như vậy! Sau đó chúng tôi nghe có tiếng động lớn, nhưng không ai trở lại cho đến lúc 10 giờ.
Bố trông tái xanh khi người trở về với chúng tôi " Tắt đèn đi, và lên tầng trên mau! Cảnh sát sẽ đến đây ngay đấy!".
Những người đàn ông lại trở xuống dưới và chúng tôi vẫn không biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng mười phút sau họ trở lại. Họ bảo bọn trộm phá cửa hầm chứa và ông Van Daan đã la lên "Cảnh sát". Họ cố đóng lại cửa nhưng bọn trộm lại đá sập.Sau đó có một người đàn ông và một người đàn bà trên đường chiếu đèn từ trên đường ( sau này chúng tôi mới biết đó là ông Van Hoeven, người mang đến cho chúng tôi khoai tây, và vợ ông ta ).
Chúng tôi chờ đợi, chờ đợi trong bóng tối cho đến sau 11 giờ. Sau đó có nhiều tiếng ồn ào hơn bên dưới, đoạn có ai đó cố đẩy cửa tủ sách. Chúng tôi sợ đến khiếp. Tôi tưởng cảnh sát đến bắt chúng tôi.Nhưng sau đó người đó bỏ đi, ngôi nhà trở lại yên tĩnh. Chúng tôi phải giữ im lặng suốt đêm và dùng một cái thùng lớn để đi vệ sinh. Cố gắng ngủ trên sàn nhà.
- Chúng ta phải giấu cái máy thu thanh! Bà Van Daan nói.
- Nếu bọn chúng tìm được chúng ta, đâu có vấn đề gì chúng tìm được máy thu thanh hay không. Ông Van Daan đáp.
- Chúng sẽ tìm được quyển nhật ký của Anne, Bố nói.
- Chúng ta phải đốt nó đi thôi! Ai đó gợi ý.
Ôi! Quyển nhật ký của mình! Nếu nó không còn, mình vẫn không còn! Nhưng rất may không ai làm việc đó.
Lúc 7 giờ, chúng tôi gọi ông Kleiman, sau cùng Jan và Miep đến. Họ lại phải đến cảnh sát để trình báo về việc bọn trộm, và chúng tôi phải mất nửa tiếng để chùi nhà và sắp xếp mọi vật lại cho ngay ngắn. Cả một sự lộn xôn kinh khủng!
Đêm qua chúng tôi ở trong tình cảnh nguy hiểm thực sự. thử nghĩ xem, cảnh sát đã đến sát bên cửa tủ sách và không tìm thấy chúng tôi." Chúa đã cứu chúng con, cầu Chúa hãy cứu chúng con trong tương lai!. Lời cầu nguyện của chúng tôi giờ đây là như thế.
Kể từ đây, chúng tôi cũng phải cẩn thận hơn. Dussel sẽ đến làm việc của ông trong phòng tắm, và Peter phải đi tuần cả ngày giữa 8 giờ 30 và chính giờ 30 mỗi tối. Có ai đó nhận thấy cửa sổ Peter bị mở, do vậy anh phải đóng luôn.
Điều đó nhắc nhở chúng tôi là những người Do Thái, và chúng tôi phải sống như những người tù nhân. Chúng tôi phải quên đi mọi cảm xúc cá nhân, phải can đảm và cương nghị. Một ngày nào đó chiến tranh sẽ qua đi. Lúc đó chúng tôi lại trở thàng người và không chỉ người Do Thái.
Ai đã làm cho chúng tôi chịu đau khổ như thế? Ai đã chia rẽ chúng tôi khỏi tất cả những người khác? Chúa đã làm chịu như thế, nhưng Chúa cũng sẽ nâng chúng tôi dậy. Có thể về sau này, nếu có người Do Thái nào sống sót, sự đau khổ của chúng tôi sẽ khuyên bảo cho con người điều gì đó. Có thể họ sẽ học được đôi điều về cái thiện, và vì sao chúng tôi phải chịu đau khổ. Chúng tôi không bao giờ có thể là người Hà Lan, hoặc người Anh - chúng tôi luôn là người Do Thái.
Hãy can đảm! Đó là lối thoát. Chua luôn chăm lo cho chúng ta. Qua dòng lịch sử, người Do Thái đã phải chịu đau khổ, nhưng họ mãi là người Do Thái, và sự đau khổ làm cho chúng tôi cương nghị hơn lên.
Mình nghĩ mình sẽ chết đêm nay. Mình chờ đợ cái chết như một người lính. Nhưng giờ mình vẫn còn sống, mình muốn ở lại Hà Lan sau chiến tranh. Mình yêu Hà Lan. Mình yêu đất nước này, yêu tiếng nói dân tộc này. Mình muớn được làm việc tại đây. Nếu Chúa để cho mình sống, mình sẽ làm nhiều việc hơn việc Mẹ đã làm.Mình muốn tiếng nói của mình sẽ được mọi người nghe thấy. Mình sẽ đi vào thế giới và làm việc cho nhân loại.
Nhật Kí Anne Frank Nhật Kí Anne Frank - Anne Frank Nhật Kí Anne Frank