There's nothing to match curling up with a good book when there's a repair job to be done around the house.

Joe Ryan

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11
ào đúng ngày hẹn, tôi quay lại nhà cô Havisham, và lần rung chuông
dè dặt của tôi đã đưa Estella xuất hiện. Cô khóa cửa lại sau khi mở cho tôi
vào, hệt như đã làm lần trước, và thêm lần nữa đi trước dẫn tôi vào lối đi tối
om nơi cây nến của cô đang chờ. Cô gái không để ý gì đến tôi cho tới khi đã
cầm cây nến trên tay, ngoái đầu lại và khinh khỉnh nói, “Hôm nay cậu phải đi
theo lối này,” rồi dẫn tôi tới một phần khác hẳn của ngôi nhà.
Lối đi thật dài và có vẻ chạy suốt quanh tầng trệt vuông vắn của Manor
House. Song chúng tôi chỉ đi qua một cạnh của hình vuông rồi cô gái dừng
lại khi đến cuối quãng đường này, đặt cây nến xuống và mở một cánh cửa. Ở
đây ánh sáng ban ngày lại xuất hiện trở lại, và tôi nhận ra mình đang ở trong
một khoảng sân nhỏ được lát, rìa đối diện của khoảng sân được tạo thành từ
một ngôi nhà phụ nằm tách riêng, dường như có thời là chỗ ở của người phụ
trách hay thợ cả của xưởng bia đã ngừng hoạt động. Trên bức tường ngoài
của ngôi nhà này có gắn một cái đồng hồ. Giống như đồng hồ treo tường
trong phòng cô Havisham hay cái đồng hồ quả quýt của bà, nó dừng lại ở
chín giờ kém hai mươi.
Chúng tôi đi qua cánh cửa để mở vào một căn phòng tối lờ mờ có trần
thấp, nằm ở tầng trệt phía sau. Đã có vài người trong phòng, và Estella nói
với tôi trong khi cô vào với họ, “Cậu ra đứng đằng kia, cậu bé, cho tới khi
cậu được cần đến.” “Đằng kia” kỳ thực là chỗ cửa sổ, tôi đi tới đó, đứng im ở
“đằng kia” trong một tâm trạng chẳng thoải mái chút nào, và đưa mắt nhìn ra
ngoài.
Khung cửa sổ mở ra mặt đất, và nhìn vào một góc vườn bỏ hoang
không thể thảm hại tàn tạ hơn được nữa, nhìn thẳng vào một luống cải bắp xơ
xác và một cây hoàng dương đã được xén thành tán tròn như một cái bánh
pudding từ lâu lắm rồi, và những nhánh cây mới đã đâm chồi trên tán cây,
phá vỡ hình dạng tán cây ban đầu và có màu khác hẳn, như thể chỗ bánh
pudding đó bị dính vào chảo và cháy sém vậy. Đó là ý nghĩ giản dị của tôi
trong khi tôi ngắm nhìn cây hoàng dương. Trước đó đã có tuyết rơi nhẹ trong
đêm, và từ những gì tôi biết, không còn tuyết đọng lại ở bất cứ đâu; nhưng
tuyết vẫn chưa tan hết trong khoảnh vườn nằm dưới bóng râm lạnh ngắt này,
và gió vun cuốn tuyết lên thành từng cuộn rồi hắt về phía cửa sổ, như thể để
ném tôi vì đã bén mảng tới chỗ đó.
Tôi nhận ra sự xuất hiện của mình đã làm cuộc trò chuyện trong phòng
dừng lại, và tất cả những người còn lại trong phòng đều đang nhìn tôi. Tôi
không nhìn thấy gì trong căn phòng ngoài ánh sáng của lò sưởi phản chiếu
trên kính cửa sổ, nhưng cả người tôi cứng lại vì ý thức được mình đang bị
săm soi thật kỹ.
Trong phòng có ba quý bà và một quý ông. Tôi đứng bên cửa sổ chưa
được năm phút thì không hiểu sao họ khiến tôi cảm thấy tất cả họ đều là
những kẻ bợ đỡ bịp bợm, song mỗi người đều giả bộ không hề biết những
người còn lại là những kẻ bợ đỡ bịp bợm; vì ai thừa nhận biết rõ điều đó sẽ để
lộ bản thân là kẻ bợ đỡ bịp bợm.
Tất cả họ đều có vẻ bơ phờ ủ rũ chực lấy lòng ai đó, và người lắm lời
nhất trong đám quý bà đã phải nói một cách khá cứng nhắc để nén cái ngáp
dài. Quý bà có tên Camilla này làm tôi nghĩ rất nhiều tới chị tôi, có khác là bà
ta già hơn, và (như tôi nhận ra khi thấy mặt bà này) có nét mặt đờ đẫn hơn.
Kỳ thực, khi biết về quý bà này rõ hơn, tôi bắt đầu nghĩ nguyên việc bà ta
mang bất kỳ nét mặt nào cũng đã là một ơn huệ lớn nếu tính đến khuôn mặt
lạnh lùng cao ngạo như một bức tường chết chóc của quý bà này.
“Kẻ khốn khổ!” quý bà này lên tiếng, với phong cách cộc cằn khá
tương đồng với chị tôi. “Anh ta chỉ tự hại mình thôi!”
“Hại ai khác thì sẽ đáng khen ngợi hơn nhiều,” người đàn ông nói,
“như thế tự nhiên hơn.”
“Anh họ Raymond,” một quý bà khác lên tiếng, “chúng ta phải yêu quý
hàng xóm láng giềng của mình.”
“Sarah Pocket,” anh họ Raymond đáp lại, “nếu một người không biết
yêu quý chính mình thì ai sẽ làm thế đây?”
Cô Pocket bật cười, còn bà Camilla phá lên cười và nói (vừa cố nén
một cái ngáp), “Ý tưởng mới tệ làm sao!” Nhưng tôi nghĩ dường như họ nghĩ
đó là một ý tưởng chẳng tồi chút nào. Người phụ nữ còn lại, cho tới lúc đó
vẫn chưa nói gì, nghiêm chỉnh lên tiếng nhấn mạnh, “Rất đúng!”
“Kẻ khốn khổ!” bà Camilla lập tức nói tiếp (tôi biết trong thời gian
ngừng lời tất cả họ vẫn quan sát tôi), “anh ta thật lạ! Liệu có ai tin được khi
vợ Tom chết, anh ta không chịu hiểu tầm quan trọng của việc cho bọn trẻ để
tang thật nghiêm trang chứ? ‘Chúa ơi!’ anh ta nói, ‘Camilla, chuyện đó thì có
thể có ý nghĩa gì khi những đứa trẻ tội nghiệp vẫn mặc toàn đồ đen chứ?’
Thật giống Matthew! Nghĩ ngợi thế đấy!”
“Ưu điểm của anh ta, ưu điểm của anh ta,” anh họ Raymond nói,
“Chúa thứ tội nếu tôi phủ nhận điểm tốt ở anh ta; nhưng anh ta chưa bao giờ
có, và sẽ chẳng bao giờ biết phép tắc gì cả.”
“Mọi người biết là tôi buộc phải,” bà Camilla nói, “tôi bắt buộc phải
cứng rắn. Tôi nói, ‘Như thế SẼ KHÔNG ỔN cho uy tín của gia đình.’ Tôi nói
với anh ta như thế, không để tang nghiêm chỉnh, gia đình sẽ bị mất mặt. Tôi
không ngớt lớn tiếng nhắc đi nhắc lại từ bữa sáng đến bữa tối. Tôi ăn mất cả
ngon. Và cuối cùng anh ta nổi xung lên theo đúng tính khí hung hãn của anh
ta và chửi rủa nói, ‘Thế thì cứ làm như chị thích.’ Ơn Chúa, tôi luôn cảm thấy
được an ủi khi biết tôi đã lập tức lao ra ngoài cơn mưa như trút nước để mua
sắm những thứ cần thiết.”
“Ông ấy trả tiền cho chúng chứ?” Estella hỏi.
“Cô bé thân mến của tôi, điều đáng nói ở đây không phải là ai trả tiền
cho những món đồ đó,” bà Camilla đáp. “Ta đã mua chúng. Và ta sẽ thường
xuyên bình yên nghĩ về điều đó khi ta thức dậy ban đêm.”
Tiếng chuông rung lên ngoài xa, cùng một tiếng khóc hay gọi vọng lại
theo hành lang tôi đã qua đó đi vào cắt ngang cuộc trò chuyện và khiến
Estella nói với tôi, “Nào, cậu bé!” Khi tôi quay người lại, tất cả họ cùng nhìn
tôi với vẻ khinh miệt tột độ, và khi bước ra khỏi phòng, tôi nghe thấy Sarah
Pocket nói, “À, tôi hiểu rồi! Tiếp theo mới hay làm sao!” rồi bà Camilla
chêm vào đầy phẫn nộ, “Có bao giờ lại có chuyện hoang đường thế chứ! Ý
tưởng hay thật!”
Khi chúng tôi bước đi cùng ngọn nến soi đường theo hành lang tối om,
Estella đột nhiên dừng bước, quay ngoắt lại, nói đầy châm chọc, mặt kề sát
vào mặt tôi.
“Thế nào?”
“Thế nào là sao cơ, thưa tiểu thư?” tôi đáp, thiếu chút nữa ngã chúi vào
cô gái và vội kìm mình lại.
Cô gái đứng nhìn tôi, và tất nhiên tôi đứng nhìn cô.
“Tôi có đẹp không?”
“Có, tôi nghĩ cô rất đẹp.”
“Tôi có xúc phạm cậu không?”
“Không nhiều bằng lần trước,” tôi nói.
“Không nhiều bằng ư?”
“Không.”
Cô gái nổi nóng khi hỏi câu cuối cùng, rồi lấy hết sức tát mạnh vào mặt
tôi khi tôi trả lời.
“Giờ thì sao nào?” cô hỏi. “Đồ quái vật nhóc con khố rách áo ôm, bây
giờ cậu nghĩ sao về tôi nào?”
“Tôi sẽ không nói.”
“Vì cậu sẽ nói ra khi lên trên kia. Phải vậy không?”
“Không,” tôi đáp, “không phải thế.”
“Vậy sao cậu lại không khóc nữa hả, nhóc con?”
“Vì tôi sẽ không bao giờ khóc vì cô nữa,” tôi nói. Một câu trả lời tôi
nghĩ cũng dối trá như bất cứ lời nói dối nào từng được tuyên bố; vì trong lòng
lúc ấy tôi đang khóc ròng vì cô, và tôi biết quá rõ nỗi đau cô sẽ gây ra cho tôi
sau đó.
Chúng tôi tiếp tục lên đường lên lầu sau biến cố dọc đường kể trên; và
trong khi lên lầu, chúng tôi gặp một quý ông đang mò mẫm đi xuống.
“Chúng ta có ai đây?” quý ông này hỏi, dừng bước nhìn tôi.
“Một cậu nhóc,” Estella nói.
Ông ta là một người đàn ông vạm vỡ với nước da đen sạm, cái đầu to
quá khổ và bàn tay cũng to tương xứng. Ông ta đưa bàn tay to tướng nắm lấy
cằm nâng mặt tôi ngước lên để nhìn tôi dưới ánh nến. Quý ông này đã sớm bị
hói trên đỉnh đầu, và có đôi lông mày đen rậm không cụp xuống mà dựng
đứng tua tủa. Ông ta có đôi mắt sâu hoắm, sắc lẹm và đa nghi đến mức khó
ưa. Ông ta có một sợi dây chuyền đeo đồng hồ to tướng, và những chấm đen
nhô lên ở nơi đáng lẽ là bộ râu và ria mép của quý ông này nếu ông ta để
chúng mọc. Ông ta chẳng là gì với tôi cả, và hẳn lúc ấy tôi đã chẳng có linh
cảm nào rằng ông ta rồi sẽ có ý nghĩa gì với mình, nhưng thật tình cờ tôi lại
có cơ hội này để quan sát ông ta thật kỹ lưỡng.
“Một cậu bé sống quanh đây hả? Này?” ông ta hỏi.
“Vâng, thưa ông,” tôi nói.
“Làm thế nào cậu lại tới đây?”
“Cô Havisham bảo cháu đến, thưa ông,” tôi giải thích.
“Được! Hãy xử sự cho đàng hoàng. Ta biết về những cậu nhóc rõ lắm,
và bọn bây là một đám nhóc hư đốn. Giờ hãy nhớ lấy!” ông ta nói, vừa cắn
vào bên ngón cái to tướng vừa cau mày nhìn tôi, “hãy xử sự cho đàng
hoàng!”
Nói xong, ông ta buông tôi ra - và tôi lấy làm mừng vì điều đó, vì bàn
tay quý ông này sực nức mùi xà phòng thơm - rồi tiếp tục đi xuống cầu thang.
Tôi tự hỏi liệu ông ta có phải là bác sĩ không; nhưng không, tôi nghĩ, ông ta
không thể là bác sĩ, nếu thế hẳn ông ta phải có thái độ nhẹ nhàng thuyết phục
hơn. Cũng chẳng có mấy thời gian để ngẫm nghĩ tới chủ đề này, vì ngay sau
đó chúng tôi đã ở trong phòng cô Havisham, tại đây vị phu nhân và mọi thứ
khác vẫn y nguyên như khi tôi ra về lần trước. Estella để tôi lại đứng ngay
gần cửa, và tôi cứ đứng đó cho tới khi cô Havisham từ bên bàn trang điểm
đưa mắt nhìn tôi.
“Vậy đấy!” bà nói, chẳng hề có vẻ ngỡ ngàng hay ngạc nhiên. “Những
ngày đó đã trôi qua rồi, phải không nào?” “Vâng, thưa bà. Hôm nay là…”
“Rồi, rồi, rồi!” vang lên kèm theo cử chỉ sốt ruột của các ngón tay bà.
“Ta không muốn biết. Cháu sẵn sàng chơi chưa?” Tôi buộc phải trả lời có
phần bối rối, “Cháu không nghĩ là có, thưa bà.”
“Không sẵn sàng chơi bài nữa sao?” bà hỏi, kèm theo cái nhìn dò hỏi.
“Có chứ, thưa bà; cháu có thể chơi bài, nếu cháu cần làm thế.”
“Cậu bé, vì ngôi nhà này với cháu có vẻ già nua ảm đạm như một nấm
mồ,” cô Havisham nóng nảy nói, “và cháu không sẵn sàng chơi, cháu có sẵn
lòng làm việc không?”
Tôi có thể trả lời câu hỏi này nhẹ nhõm hơn so với câu hỏi trước, và
nói tôi sẵn lòng.
“Vậy hãy vào căn phòng đối diện,” bà nói, bàn tay khô héo chỉ vào
cánh cửa sau lưng tôi, “và đợi cho tới khi ta đến.”
Tôi đi ngang qua chiếu nghỉ cầu thang, vào trong căn phòng bà chỉ.
Ánh sáng ban ngày cũng bị loại trừ hoàn toàn khỏi căn phòng này, và bên
trong nó phả ra một thứ mùi yếm khí ngột ngạt. Một ngọn lửa mới được
nhóm lên trong cái lò sưởi kiểu cổ ẩm thấp, chực lụi dần đi hơn là bùng lên,
và đám khói miễn cưỡng bốc lên lơ lửng trong căn phòng dường như còn
lạnh hơn cả những chỗ quang đãng - giống như sương mù trên đầm lầy ở chỗ
chúng tôi. Mấy cây nến lạnh lẽo cắm trên giá đặt ở mặt bệ lò sưởi cao soi
sáng lờ mờ căn phòng; hay đúng hơn là lay động bóng tối bên trong căn
phòng. Căn phòng này rất rộng, và tôi dám chắc từng có thời đẹp đẽ, song
mọi thứ có thể nhìn thấy được trong phòng giờ đều phủ kín bụi và mốc, và
rời rã ra từng mảnh. Vật thể dễ đập vào mắt nhất là một cái bàn dài được trải
khăn, như thể khi ngôi nhà và những cái đồng hồ của nó dừng lại, một bữa
tiệc đang được chuẩn bị dở dang tại đây. Một món đồ trang trí bàn ăn nào đó
đang ngự ở chính giữa tấm khăn trải bàn; nó bị mạng nhện phủ dày đến mức
khó lòng nhận ra hình dáng; và khi tôi nhìn theo mảng màu vàng nơi vật này
dường như mọc lên như một cây nấm đen, như tôi còn nhớ, tôi nhìn thấy
những con nhện chân lốm đốm với phần thân loang lổ chạy về phía nó hay từ
đó chạy ra, như thể có sự kiện nào đó có tầm quan trọng lớn lao chung vừa
mới được truyền đạt tới cộng đồng nhện.
Tôi cũng nghe thấy cả lũ chuột rúc rích đằng sau các tấm ván, như thể
biến cố ấy cũng rất quan trọng với lợi ích của chúng. Nhưng những con bọ
rùa đen chẳng hề nhận ra sự xáo động, và tiếp tục dò dẫm quanh nền lò sưởi
một cách chậm chạp già nua, như thể chúng vừa cận thị vừa nặng tai, và
không mấy ăn ý với nhau.
Những sinh vật bò lổm ngổm này thu hút sự chú ý của tôi, và tôi đang
quan sát chúng từ xa thì cô Havisham đặt một bàn tay lên vai tôi. Bàn tay kia
bà cầm một cây gậy chống để tì cả người lên, và vị phu nhân trông chẳng
khác gì mụ phù thủy - của nơi này.
“Đây,” bà nói, đưa gậy chỉ về phía cái bàn dài, “là nơi ta sẽ được đặt
lên khi ta chết. Người ta sẽ tới viếng ta ở đây.”
Với chút nghi ngờ mơ hồ rằng bà có thể leo lên bàn ngay lúc đó và chết
lập tức và hoàn tất việc trở thành bức tượng sáp ma quái ở Hội chợ, tôi rụt
người lại khi bà chạm tay vào mình.
“Theo cháu cái kia là gì?” bà hỏi tôi, và lại giơ gậy lên chỉ, “kia kìa, ở
chỗ mạng nhện ấy, đó là cái gì?”
“Cháu không đoán được, thưa bà.”
“Một cái bánh lớn. Một cái bánh cưới. Của ta!”
Vị phu nhân nhìn quanh căn phòng, trừng mắt giận dữ, rồi nói, tựa lên
người tôi trong khi bàn tay bà bóp chặt lấy vai tôi, “Nào, nào, nào! Dìu ta đi,
dìu ta đi!”
Từ mấy lời này tôi đoán công việc tôi phải làm là dìu cô Havisham đi
vòng quanh rồi lại vòng quanh căn phòng. Vậy là tôi lập tức vào việc, và bà
dựa lên vai tôi, rồi hai chúng tôi bước đi với nhịp bước có thể coi như bắt
chước cỗ xe của ông Pumblechook (dựa trên ấn tượng đầu tiên tôi có dưới
mái nhà đó).
Vị phu nhân không khỏe cho lắm, và chỉ một lát sau đã nói, “Chậm
lại!” Song chúng tôi vẫn tiếp tục đi với tốc độ gấp gáp nóng nảy, và trong khi
chúng tôi bước đi, bà bấu chặt bàn tay lên vai tôi, rồi không ngớt bắt miệng
mình làm việc, đến độ làm tôi tin chúng tôi đi nhanh vì những suy nghĩ của
bà lao đi thật nhanh. Sau một hồi, bà nói, “Gọi Estella!” vậy là tôi ra ngoài
chiếu nghỉ cầu thang và gọi lớn tên cô gái lên như tôi đã làm lần trước. Khi
ánh nến của cô xuất hiện, tôi quay lại với cô Havisham, và chúng tôi lại tiếp
tục đi vòng vòng quanh phòng.
Nếu Estella chỉ tới để làm khán giả cho chuyến diễu hành của hai
chúng tôi thôi, hẳn tôi cũng đã thấy đủ khó chịu rồi; nhưng vì cô lại dẫn theo
ba quý bà và quý ông tôi đã gặp qua dưới nhà, tôi chẳng còn biết phải làm gì
nữa. Vì lịch sự, chắc tôi đã dừng lại; nhưng cô Havisham lại bóp vai tôi, và
chúng tôi lại bước tiếp - tôi đầy ngượng ngập ý thức được rằng họ sẽ nghĩ tất
cả đều do tôi gây ra.
“Cô Havisham thân mến,” cô Sarah Pocket nói. “Trông bà thật khỏe
khoắn làm sao!”
“Đâu có,” cô Havisham đáp lại. “Tôi chỉ là một cái túi da vàng vọt
đựng xương.”
Camilla rạng rỡ hẳn lên khi cô Pocket phải hứng lời phủ nhận này; và
bà ta lầm rầm trong khi ái ngại ngắm nghía cô Havisham, “Bà già khốn khổ!
Làm sao mà trông khỏe khoắn được, bà già khốn khổ ấy. Nghĩ gì lạ vậy!”
“Thế cô có khỏe không?” cô Havisham hỏi bà Camilla. Và vì lúc ấy
chúng tôi đang ở ngay cạnh bà Camilla, hẳn nhiên là tôi đã dừng lại, chỉ có
điều cô Havisham không dừng. Chúng tôi tiếp tục đi, và tôi cảm thấy mình
trở nên rất đáng ghét với bà Camilla.
“Cảm ơn bà, cô Havisham,” bà ta đáp lại, “tôi vẫn khỏe như có thể
trông đợi.”
“Sao vậy, cô làm sao thế?” cô Havisham hỏi, với giọng quá gay gắt.
“Không có gì đáng nói,” bà Camilla đáp. “Tôi không muốn nói quá
nhiều về cảm xúc của mình, nhưng vào buổi tối tôi vẫn thường nghĩ về bà
quá cả sức tôi đấy.”
“Vậy thì đừng nghĩ đến tôi nữa,” cô Havisham vặn lại.
“Nói thì dễ lắm!” Camilla thốt lên, tử tế kìm lại một tiếng nức nở, trong
khi môi trên run rẩy và nước mắt trào ra. “Raymond có thể làm chứng buổi
tối tôi buộc phải dùng gừng và muối hít như thế nào. Raymond có thể làm
chứng tôi phải chịu đựng những cơn co giật bồn chồn dưới chân thế nào.
Song những cơn co giật bồn chồn và cảm giác nghẹn thở chẳng phải là gì mới
mẻ với tôi khi tôi lo lắng suy nghĩ về những người mình yêu quý. Giá như tôi
có thể ít thương yêu và nhạy cảm hơn, chắc tôi sẽ tiêu hóa tốt hơn và có được
thần kinh thép. Tôi chắc mình ước gì được thế. Nhưng không nghĩ đến bà vào
buổi tối ư - sao mà nghĩ vậy được!” Đến đây nước mắt lại tuôn tràn.
Tôi hiểu người có tên Raymond được nhắc tới chính là quý ông đang
hiện diện, và hiểu ông ta chính là chồng bà Camilla. Đến lúc này ông ta ra tay
tiếp cứu, và lên tiếng an ủi khen ngợi, “Camilla yêu quý, ai mà không biết
những tình cảm dành cho gia đình đã dần dà gặm nhấm em tới mức làm một
bên chân em ngắn hơn bên kia chứ.”
“Tôi không hề nhận thấy,” quý bà nghiêm nghị tôi mới chỉ nghe qua
giọng nói một lần bình luận, “việc nghĩ về bất cứ ai cho phép đòi hỏi yêu
sách gì với người đó, chị thân mến.”
Cô Sarah Pocket, người giờ đây tôi có thể thấy rõ là một phụ nữ lớn
tuổi nhăn nheo nhỏ thó tóc nâu khô quắt, với khuôn mặt nhỏ choắt cứ như
làm từ vỏ quả óc chó, một cái miệng rộng như miệng mèo chỉ thiếu có ria,
ủng hộ ý kiến này bằng cách nói, “Quả đúng là thế, chị thân mến. E hèm!”
“Nghĩ ngợi kể ra cũng dễ thôi,” quý bà nghiêm nghị nói.
“Còn gì dễ hơn thế nào, chị biết không?” cô Sarah Pocket tán thành.
“Ô, vâng, vâng!” bà Camilla kêu lên, những cảm xúc chất chứa có vẻ
đang trào từ chân lên ngực bà. “Phải lắm! Luôn đầy thương yêu như thế quả
là yếu đuối, nhưng tôi không đừng được. Hẳn là sức khỏe của tôi sẽ khá hơn
nhiều nếu tính khí tôi khác đi, nhưng tôi vẫn sẽ không thay đổi nó dù có thể
đi chăng nữa. Nó là nguyên do gây ra nhiều khổ sở, nhưng biết được mình sở
hữu nó với tôi cũng là niềm an ủi khi tôi thức giấc ban đêm.” Đến đây lại
thêm một lần trào dâng cảm xúc nữa.
Suốt thời gian đó cô Havisham và tôi không hề dừng lại mà vẫn tiếp
tục đi vòng vòng quanh phòng; lúc thì cọ sát sạt vào váy mấy vị khách, lúc lại
cách xa họ cả chiều dài căn phòng ảm đạm.
“Như Matthew đấy!” bà Camilla nói. “Chẳng bao giờ quan tâm tới bất
cứ mối liên hệ ruột rà nào, chẳng bao giờ tới đây xem cô Havisham có khỏe
hay không! Tôi bị đưa tới xô pha, đăng ten yếm nịt phải cắt ra, rồi bị đặt nằm
đó hàng giờ bất tỉnh, đầu ngật sang một bên, tóc rũ rượi cả xuống, còn hai
bàn chân thì tôi chẳng biết ở đâu nữa…”
(“Ở cao hơn đầu em nhiều, em yêu,” ông Camilla nói.)
“Tôi đã rơi vào tình trạng đó, hàng giờ hàng giờ, vì cách cư xử lạ lùng
không thể lý giải nổi của Matthew, và chẳng ai buồn cảm ơn tôi cả.”
“Thực sự tôi phải nói rằng tôi nghĩ là không!” quý bà nghiêm nghị
chen ngang vào.
“Chị thấy chưa, chị thân mến,” cô Sarah Pocket (một nhân vật xấu xa
một cách dịu dàng) nói thêm, “câu hỏi chị nên đặt ra cho chính mình là chị
trông đợi ai sẽ cảm ơn mình kia, chị yêu?”
“Không hề trông đợi bất cứ lời cảm ơn nào, hay thứ gì tương tự,” bà
Camilla nói tiếp, “tôi ở nguyên trong tình trạng đó suốt hàng giờ rồi hàng giờ,
và Raymond có thể làm chứng rằng tôi đã ngộp thở đến mức nào, cũng như
món gừng đã hoàn toàn vô hiệu ra sao, thậm chí ở hàng chỉnh dây đàn piano
bên kia đường người ta cũng nghe thấy tôi, tại đấy đám trẻ con tội nghiệp
hiểu nhầm thậm chí còn đoán những âm thanh này là tiếng bồ câu gáy ngoài
xa - và rồi bây giờ lại bị nói là…” Đến đây bà Camilla đưa tay lên cổ họng,
và lại bắt đầu chế tạo những hỗn hợp âm thanh mới trong đó chẳng khác gì
làm phản ứng hóa học.
Khi cái ông Matthew này được nhắc tới, cô Havisham dừng tôi và cả
bà lại, rồi đứng nhìn người đang nói. Thay đổi này có ảnh hưởng lớn tới việc
làm phản ứng hóa học của bà Camilla đột ngột kết thúc.
“Matthew cuối cùng rồi sẽ tới gặp tôi,” cô Havisham nghiêm khắc nói,
“khi tôi được đặt lên cái bàn kia. Chỗ của anh ta sẽ ở kia,” bà gõ gậy xuống
cái bàn, “ở chỗ đầu tôi! Và chỗ của cô sẽ ở đằng kia! Còn chỗ của chồng cô
đằng kia! Sarah Pocket sẽ ở chỗ đó! Và đó là chỗ cho Georgiana! Giờ thì tất
cả các vị đều biết cần đứng ở đâu khi đến ăn mừng tôi chết. Giờ thì đi đi!”
Cứ nhắc tới mỗi cái tên, bà lại gõ gậy lên một chỗ mới trên bàn. Rồi bà
nói, “Dìu ta đi, dìu ta đi!” và chúng tôi lại đi tiếp.
“Tôi đoán là chẳng còn gì để làm nữa,” bà Camilla thốt lên, “ngoài
nghe theo mà đi thôi. Được thấy đối tượng tình yêu và bổn phận của mình dù
chỉ chốc lát thôi cũng đã là điều gì đó rồi. Tôi sẽ nghĩ về chuyện này một
cách hài lòng phiền muộn khi thức giấc ban đêm. Tôi ước gì Matthew có
được niềm an ủi đó, nhưng anh ta luôn coi thường nó. Tôi kiên quyết không
để lộ ra cảm xúc của mình, nhưng thật nặng nề khi phải nghe mình muốn ăn
mừng cái chết của họ hàng thân thích - cứ như thể ta là một gã khổng lồ vậy -
rồi bị bảo đi đi. Chỉ cái ý ấy thôi đã là!”
Ông Camilla can thiệp vào khi bà Camilla áp bàn tay lên khuôn ngực
phập phồng, thể hiện một màn chịu đựng ngoan cường chẳng mấy tự nhiên
mà tôi đoán là tỏ ý ngã lăn ra ngộp thở ngay khi khuất tầm mắt, đưa tay lên
gửi một cái hôn tới cô Havisham để rồi được tháp tùng ra ngoài. Sarah Pocket
và Georgiana tranh nhau xem ai ở lại cuối cùng; nhưng Sarah là một người
quá thạo đời không để bị qua mặt, bà ta nhẹ nhàng thong thả đi vòng quanh
Georgiana khéo léo một cách tinh quái khiến bà này buộc phải cáo lui trước.
Sau đó, Sarah Pocket có màn giả vờ cáo biệt riêng với câu chào, “Chúa ban
phước cho bà, cô Havisham yêu quý!” kèm theo một nụ cười ái ngại đầy tha
thứ trên khuôn mặt nhăn nheo như vỏ quả óc chó dành cho sự yếu đuối của
những người còn lại.
Trong khi Estella cầm nến dẫn đường đưa mấy người kia xuống, cô
Havisham vẫn tiếp tục bám lấy vai tôi bước đi, nhưng mỗi lúc một chậm dần.
Cuối cùng, bà dừng lại trước lò sưởi, rồi lên tiếng sau vài giây vừa lẩm bẩm
vừa nhìn vào ngọn lửa.
“Hôm nay là sinh nhật ta đấy, Pip.”
Tôi đang định chúc bà sinh nhật vui vẻ thì vị phu nhân giơ gậy lên.
“Ta không chịu đựng được người ta nói về nó. Ta không chịu đựng
được những kẻ vừa mới ở đây ra hay bất cứ ai nói về nó. Hôm nay bọn họ tới
đây, song không hề dám nhắc tới nó.”
Tất nhiên là tôi không đả động gì tới ngày sinh nhật nữa.
“Vào ngày này trong năm, từ rất lâu trước khi cháu ra đời, cái đống
mục nát này,” bà đâm gậy về phía đống mạng nhện trên bàn nhưng không
chạm vào, “đã được mang tới đây. Nó và ta đã tàn tạ đi cùng nhau. Lũ chuột
đã gặm nhấm nó, và những cái răng còn sắc hơn răng chuột đã gặm nhấm ta.”
Bà áp đầu cán gậy vào tim mình trong lúc đứng nhìn cái bàn; vẫn mặc
trên người bộ váy cưới từng có thời trắng tinh song giờ đây đã ố vàng, xơ
xác; tấm khăn trải bàn từng có thời trắng tinh giờ đã ngả vàng và tàn tạ cả;
mọi thứ xung quanh đều ở trạng thái chỉ cần đụng vào là vụn ra.
“Khi sự suy sụp này hoàn tất,” bà phu nhân nói với vẻ mặt tái mét như
xác chết, “và khi người ta đặt ta nằm chết trong bộ áo cưới của ta trên cái bàn
dành cho cô dâu - điều rồi sẽ được làm, và sẽ là lời nguyền rủa tối hậu trút
xuống đầu hắn ta - thật tốt biết bao nếu chuyện đó xảy vào ngày này!”
Bà đứng nhìn cái bàn như thể đứng nhìn chính mình nằm bất động trên
đó. Tôi vẫn lặng im. Estella quay trở lại, và cô cũng lặng im. Tôi đoán có lẽ
chúng tôi đã tiếp tục như thế một hồi lâu. Trong không khí nặng nề của căn
phòng, trong bóng tối nặng nề bao phủ lên những ngóc ngách xa nhất của nó,
tôi thậm chí còn có ảo giác đáng sợ là Estella và tôi rất có thể sắp bắt đầu
mục nát.
Sau hồi lâu, không phải dần dần bước ra khỏi trạng thái ủ ê phiền
muộn, mà trong tích tắc, cô Havisham nói, “Hãy cho ta xem hai đứa chơi bài;
sao hai đứa không bắt đầu đi?” Sau câu nói của bà, chúng tôi quay trở lại
phòng bà, rồi ngồi xuống hệt như lần trước; tôi bị tước sạch, hệt như lần
trước; và một lần nữa, hệt như lần trước, cô Havisham theo dõi chúng tôi từ
đầu đến cuối, nhắc cho tôi thấy vẻ đẹp của Estella, và càng làm tôi chú ý tới
cô hơn bằng cách ướm thử các món trang sức của bà lên ngực và mái tóc
Estella.
Về phần Estella, cô cũng đối xử với tôi hệt như trước, ngoại trừ chuyện
cô không hạ cố nói gì nữa. Khi chúng tôi đã chơi được chừng sáu ván, một
ngày khác được ấn định để tôi trở lại, và tôi được dẫn xuống sân để rồi lại
được cho ăn theo cách cho chó ăn hệt như trước. Và cũng vậy, tôi lại được bỏ
mặc đó để tha thẩn tùy thích.
Việc một cái cổng trên bức tường bao quanh vườn tôi đã leo lên để
nhìn qua lần trước đóng hay mở vào dịp đó cũng chẳng quan trọng. Quan
trọng là lúc ấy tôi chẳng thấy cái cổng nào cả, còn bây giờ lại thấy một cái.
Vì nó để mở, và vì tôi biết Estella đã tiễn các vị khách ra về hết - vì cô gái
quay lại với chùm chìa khóa trên tay - tôi tha thẩn bước vào trong vườn, và
tha thẩn khắp trong vườn. Bên trong quả là một chốn hoang tàn, với mấy khu
giàn cũ để trồng dưa hồng và dưa chuột, mấy cái giàn này trong cảnh suy tàn
của chúng dường như đã tạo nên vô vàn mầm cây mới yếu ớt nhoi lên từ
những mảnh mũ và ủng cũ, với thảng hoặc đây đó một cành vượt còi cọc
thành hình giống như một cái chảo móp méo.
Khi đã ngắm nghía khắp khu vườn và một cái nhà kính bên trong
chẳng có gì ngoài một gốc nho làm rượu đã đổ xuống và mấy cái chai, tôi
nhận ra mình đang ở đúng cái góc buồn bã ảm đạm tôi đã thấy khi nhìn ra
qua cửa sổ. Chẳng hề nghi ngờ dù chỉ trong khoảnh khắc về chuyện ngôi nhà
bây giờ đã vắng tanh, tôi nhìn vào một khung cửa sổ khác, và kinh ngạc nhận
ra mình và một cậu con trai xanh xao có mí mắt đỏ và mái tóc sáng màu đang
trố mắt nhìn nhau.
Cậu thiếu niên nhợt nhạt nhanh chóng biến mất rồi lại xuất hiện bên
cạnh tôi. Cậu ta đang để tâm vào mấy quyển sách khi tôi nhận ra mình đang
nhìn cậu ta chằm chằm, và giờ tôi thấy cậu ta dính đầy mực.
“Xin chào!” cậu ta lên tiếng, “chào anh bạn trẻ!”
Xin chào là một cách gọi chung chung mà theo tôi để ý tốt nhất nên
được đáp lại y nguyên, vậy là tôi nói “Xin chào!” và lịch sự bỏ qua mấy chữ
“anh bạn trẻ”.
“Ai cho cậu vào vậy?” cậu ta hỏi.
“Cô Estella.”
“Ai cho phép cậu lang thang quanh đây hả?”
“Cô Estella.”
“Vào đây đánh nhau nào,” cậu thiếu niên nhợt nhạt nói.
Tôi còn biết làm gì ngoài đi theo cậu ta chứ? Từ dạo đó tôi vẫn hay hỏi
mình câu hỏi này; nhưng tôi còn có thể làm gì khác đây? Thái độ cậu ta rất
dứt khoát, còn tôi lại quá kinh ngạc, thế là tôi đi theo tới nơi cậu ta dẫn tôi
như thể bị thôi miên.
“Nhưng dừng lại một phút đã nào,” cậu ta nói, quay ngoắt người lại khi
chúng tôi mới đi được dăm bước. “Tôi cũng cần cho cậu một lý do để đánh
nhau chứ. Nó đây rồi!” Bằng bộ dạng thật ngứa mắt, cậu ta lập tức vỗ hai bàn
tay vào nhau, kiểu cách vung một bên chân ra đằng sau, giật tóc tôi, lại vỗ tay
lần nữa, cúi đầu xuống rồi húc vào bụng tôi.
Cú tấn công kiểu bò tót vừa được nhắc tới ở trên, ngoài việc rõ ràng là
tự tiện, còn đặc biệt khó chịu sau khi tôi đã chén qua bánh mì và thịt. Thế là
tôi đánh lại cậu ta và chuẩn bị đánh tiếp cái nữa thì cậu ta nói, “Ái chà! Muốn
ư?” rồi bắt đầu nhảy tới nhảy lui theo một cách thật chẳng giống ai trong
phạm vi kinh nghiệm hạn hẹp của tôi.
“Luật của trò chơi!” cậu ta nói. Rồi cậu ta chuyển chân trụ từ trái sang
phải. “Luật thường lệ!” Nói tới đây, cậu ta lại đổi từ chân phải sang chân trái.
“Tới đấu trường, và trải qua các bước sơ bộ!” Đến đây, cậu ta cúi trước ngả
sau, làm đủ bộ dạng trò vè trong khi tôi bất lực nhìn cậu ta.
Tôi thầm sợ cậu ta khi thấy cậu ta khéo léo như vậy; nhưng tôi cảm
thấy tin tưởng về cả tinh thần lẫn thể chất rằng cái đầu có mái tóc sáng màu
của cậu ta chẳng có lý do gì để động chạm đến bụng tôi hết, và tôi có quyền
coi điều đó là không thích đáng khi bị dồn ép như vậy. Thế là tôi đi theo cậu
ta không nói một lời, tới một xó khuất nẻo của khoảng vườn được tạo thành
từ hai bức tường giao nhau và nằm khuất sau một đống đồ phế thải. Khi cậu
ta hỏi tôi có hài lòng với đấu trường hay không và được tôi trả lời có, cậu ta
xin phép vắng mặt trong chốc lát, rồi nhanh chóng trở lại cầm theo một chai
nước và một miếng bọt nhúng giấm. “Sẵn sàng cho cả hai,” cậu ta vừa nói
vừa để hai món này sát chân tường. Rồi quay ra cởi không chỉ áo vest và áo
gi lê mà cả áo sơ mi theo một cách vừa vô tư, nghiêm túc vừa khát máu.
Cho dù cậu ta trông không khỏe mạnh cho lắm - mặt đầy mụn, miệng
khuyết mất một cái răng - màn sửa soạn kinh khủng kia cũng làm tôi phát
hoảng. Tôi đoán chừng cậu ta cũng trạc tuổi tôi, nhưng cậu ta cao hơn nhiều,
và có kiểu quay người thật ấn tượng. Còn lại thì cậu ta là một quý công tử trẻ
tuổi trong bộ vest màu xám (khi chưa cởi phăng ra để chuẩn bị đánh nhau)
với khuỷu tay, đầu gối, cổ tay và gót chân nảy nở hơn đáng kể phần còn lại
của cơ thể.
Tim tôi muốn ngừng đập khi tôi nhìn cậu ta thủ thế trước mặt với bộ
dạng chính xác như một cỗ máy cơ khí, và nhìn khắp người tôi như thể đang
chọn thật kỹ khúc xương sẽ ra đòn vào. Trong đời mình, tôi chưa bao giờ
thấy ngạc nhiên bằng lúc tôi tung ra cú đấm đầu tiên và thấy cậu ta ngã ngửa
ra, nhìn tôi với cái mũi chảy máu và khuôn mặt đột ngột co rúm lại.
Nhưng cậu ta lại lập tức đứng dậy, và sau khi lau máu mũi một cách rất
thành thạo lại bắt đầu thủ thế. Ngạc nhiên lớn thứ nhì tôi từng gặp trong đời
là thấy cậu ta lại ngã ngửa ra lần nữa, nhìn tôi với một bên mắt thâm tím.
Khí phách của cậu ta làm tôi rất ngưỡng mộ. Dường như cậu ta chẳng
có mấy sức lực, và chẳng hề đánh tôi mạnh lấy một lần, và cậu ta luôn bị đo
ván; nhưng rồi cậu ta sẽ lại lập tức vùng dậy, dùng giẻ nhúng giấm lau vết
bầm hay uống nước từ cái chai với vẻ hài lòng cực độ khi tự chăm sóc mình
đúng quy cách, rồi lại lao về phía tôi với thái độ và bộ dạng làm tôi tin cậu ta
cuối cùng cũng sắp thực sự ra đòn với tôi. Cậu ta bị bầm tím tơi tả, vì tôi rất
ái ngại phải kể ra ở đây là càng đấm cậu ta nhiều thì tôi lại càng đấm mạnh
hơn; nhưng cậu ta vẫn tiếp tục đứng dậy hết lần này tới lần khác, cho tới khi
cuối cùng bị ngã một cú thật thảm đập đầu vào tường. Thậm chí cả sau đòn
trời giáng đó, cậu ta vẫn đứng dậy, lảo đảo loạng choạng vài vòng, không biết
tôi đang đứng đâu; nhưng cuối cùng cậu ta lại khuỵu xuống, lấy miếng bọt và
đầu hàng, đồng thời vừa thở hổn hển vừa nói, “Như thế có nghĩa là cậu đã
thắng.”
Cậu ta có vẻ thật dũng cảm và trung thực, đến mức cho dù tôi không hề
đề nghị cuộc thi tài, tôi cũng chẳng cảm thấy hân hoan lắm với thắng lợi của
mình. Kỳ thực, trong lúc mặc lại đồ, tôi đi xa tới mức hy vọng nhìn nhận
chính mình như một con sói non hung hãn hay một loài thú hoang nào đó. Dù
vậy, tôi cũng mặc đồ vào, vừa mặc vừa thỉnh thoảng chùi khuôn mặt khát
máu của mình và nói, “Tôi giúp cậu được chứ?” nhưng cậu ta đáp, “Không,
cảm ơn,” vậy là tôi nói, “Xin chào,” và cậu ta nói, “Chào cậu.”
Khi quay ra sân trước, tôi thấy Estella đang đợi đó với chùm chìa khóa.
Nhưng cô chẳng hề hỏi tôi đã ở đâu, cũng không hỏi vì sao tôi khiến cô phải
đợi; và khuôn mặt cô sáng bừng, như thể có điều gì đó vừa xảy ra khiến cô
rất thích thú. Và thay vì đi thẳng ra cổng, cô lùi vào trong lối đi, và vẫy tay ra
hiệu cho tôi.
“Lại đây nào! Cậu có thể hôn tôi nếu cậu thích.”
Tôi hôn lên má cô khi cô chìa má cho tôi. Tôi nghĩ hẳn tôi đã trải qua
rất nhiều để được hôn lên má cô. Nhưng cũng cảm thấy cái hôn được ban
phát cho một cậu nhóc thô kệch tầm thường chẳng khác gì một đồng xu bố
thí, và chẳng hề có chút ý nghĩa nào.
Vì mấy vị khách tới dự sinh nhật, vì những ván bài và cả trận đánh
nhau, tôi đã lưu lại đó lâu đến độ, khi tôi về tới gần nhà, ánh đèn trên dải cát
nằm tận bên kia đầm lầy chỉ còn le lói hắt lên bầu trời đêm tối đen, và lò rèn
của Joe đã hắt một vệt sáng dài chạy vắt ngang qua đường.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)