Books are lighthouses erected in the great sea of time.

E.P. Whipple

 
 
 
 
 
Tác giả: Martin Cruz Smith
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8
ù đang đi đầu trên con đường hướng tới thế kỷ XXI, Moscow vẫn duy trì thói quen di chuyển bằng đường sắt có từ thời Victoria. Nhà ga Kievsky ở gần khu người Do Thái nước ngoài và căn hộ riêng của Brezhnev, hướng về phía khách sạn Ukraina. Nhà ga Belorussia nơi Stalin lên tàu của Nga hoàng đi từ Postdam, và sau đó là nơi Krushchev và rồi Brezhnew lên chuyến tàu đặc biệt tới Tây Âu để kiểm tra vệ tinh của mình hay để thiết lập hòa giải quốc gia. Ga Rizhsky đưa bạn đến các lãnh thổ vùng Baltic. Ga Kursky gợi nhớ những chuyến nghỉ mát tắm nắng ở Biển Đen. Từ nhà ga nhỏ Savelovsky và Paveletsky, không có ai giàu có để mà du lịch cả - chỉ có những người ngày ngày phải bắt tàu đi làm ở một nơi cách xa nhà hoặc những người nông dân bụi bặm như những củ khoai tây. Ấn tượng hơn cả là ga Leningrad, Yaroslavl và Kazan, ba kẻ khổng lồ của quảng trường Komsomol, và kỳ lạ nhất trong số đó là ga Kazan, có những tháp Tác-ta đội chiếc cổng có thể đưa bạn đi xa hàng ngàn cây số tới những sa mạc ở Afghanistan, tới đường tàu tránh của trại tù Ural, hay cả quãng đường băng qua hai lục địa tới bờ biển Thái Bình Dương.
Lúc sáu giờ sáng trong ga Kazan, toàn bộ những gia đình người Turk nằm gối lên nhau trên các ghế băng. Các em bé làm rơi mũ chụp đầu bằng nỉ rúc mình lên những bọc gói mềm mại. Những người lính uể oải dựa vào tường, ngủ say đến nỗi dường như bức khảm anh hùng ở trần nhà trên đầu có lẽ là giấc mơ chung của họ. Đồ đạc bằng đồng sáng lóa. Ở quầy giải khát duy nhất đang mở, một cô gái mặc áo khoác lông thỏ tâm sự với Pasha Pavlovich.
“Cô ấy nói là Golodkin thường tới chỗ cô ấy, nhưng giờ không thế nữa,” Pasha báo cáo khi anh ta trở về chỗ Arkady. “Cô ấy nói có người đã thấy hắn ở chợ ô tô.”
Một người lính trẻ thế chỗ Pasha bên cô gái. Cô cười qua lớp sáp môi Vaseline và son trong khi chàng trai đọc giá được viết phấn lên trên mũi giày của cô. Rồi, tay trong tay họ bước ra khỏi cổng nhà ga khi viên thanh tra và thám tử bám theo sau. Quảng trường Komsomol nhuốm màu xanh lam trước lúc hừng đông, những ngọn nến chao đảo trên tàu là những thứ duy nhất chuyển động. Arkady quan sát cặp đôi mua-bán tình lẩn vào trong một chiếc taxi.
“Năm rúp.” Pasha nhìn chiếc taxi lăn bánh.
Người tài xế có lẽ sẽ ngoặt vào một con phố gần nhất và ra ngoài canh chừng cảnh sát trong khi đôi trai gái ân ái ở ghế sau. Với năm rúp, tay tài xế sẽ nhận được một nửa và có cơ hội bán một chai rượu mừng vodka cho tay lính sau đó, rượu vodka đắt hơn cô gái nhiều. Cô gái có thể cũng sẽ được vài ngụm. Rồi quay lại nhà ga, boa chút tiền cho người trông nhà tắm để rửa qua người, và bức bối rồi lảo đảo, cô ta sẽ bắt đầu mọi thứ lại từ đầu. Về mặt định nghĩa, gái điếm không tồn tại, bởi nạn mại dâm đã bị loại trừ nhờ cuộc Cách mạng. Họ có thể bị buộc tội làm lây lan bệnh truyền qua đường tình dục, thực hiện hành vi trụy lạc hay dẫn tới cuộc sống kém năng suất, nhưng theo luật pháp thì không có ả điếm nào.
“Cũng không phải ở đó.” Pasha quay lại sau khi nói chuyện với các cô gái ở nhà ga Yaroslavl.
“Đi thôi.” Arkady ném chiếc áo choàng vào phía sau xe trước khi ngồi vào vô lăng. Không có sương giá và mặt trời thậm chí còn chưa lên. Bầu trời chỉ sáng phía trên những biển hiệu đèn nê-ông của nhà ga. Giao thông đông hơn một chút. Trời có khi vẫn còn tối đen ở Leningrad. Một số người thích Leningrad hơn, những dòng kênh và cột mốc dính đầy những dòng chữ. Với Arkady, nó mang một vẻ dỗi hờn vĩnh cửu. Anh thích Moscow hơn, một cỗ máy lớn rộng mở.
Anh hướng về phía Nam xuống dòng sông. “Cậu không thể nhớ bất kỳ điều gì khác về người gọi điện thoại bí ẩn đã gặp Golodkin ở công viên à?”
“Nếu lúc đó là tôi đi...”Pasha càu nhàu. “Fet còn chẳng thể tìm được của quý của một con bò.”
Họ dõi mắt tìm xe của Golodkin, một chiếc Toyota. Băng qua sông, ở nhà tắm Rzhesky, khi họ dừng để uống cà phê và ăn bánh ngọt, một tờ báo mới tinh đang được ghim lên bảng công cộng. “Lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động truyền cảm hứng cho các vận động viên,” Pasha đọc to.
“Tuyên thệ sẽ ghi được nhiều bàn thắng hơn à?” Arkady gợi ý.
Pasha gật đầu, rồi quay ra nhìn. “Anh chơi bóng đá à? Tôi không biết đấy.”
“Thủ môn.”
“À há! Thấy chưa, giờ thì điều đó lý giải về anh.”
Một đám đông đã tụ tập sẵn ở cách nhà tắm một dãy nhà. Ít nhất một nửa số đó ghim biển trên áo choàng. “Căn hộ ba phòng, có giường, bồn tắm” là một người phụ nữ với đôi mắt u ám đầy vẻ góa bụa. “Đổi nhà bốn phòng lấy nhà hai phòng” là một cô gái mới cưới quyết tâm thoát khỏi cha mẹ mình. “Có giường” là một tay cò ma túy ranh mãnh. Arkady và Pasha đi từ hai đầu của dãy nhà và gặp nhau ở giữa.
“Sáu rúp cho hai phòng có vệ sinh khép kín,” Pasha nói. “Cũng không tệ.”
“Có tin về chàng trai của chúng ta không?”
“Tất nhiên là không có lò sưởi. Không, Golodkin ở đây vài hôm, vài hôm thì không. Hắn biến mình thành một tay cò trung gian, anh biết đấy, và lấy 30%.”
Khu chợ xe cũ ở gần rìa thành phố, chuyến đi xa càng dài hơn vì Pasha thấy một xe tải bán dứa. Anh mua được một trái to bằng quả trứng bự mà chỉ cần bốn rúp.
“Thuốc kích dục Cuba,” anh ta thủ thỉ. “Vài thằng bạn của tôi, tụi tập tạ, đi xuống đó. Chết tiệt! Gái da đen, bãi biển và đồ ăn chưa chế biến. Thiên đường của người lao động!”
Chợ ô tô là một lô đất ngập tràn những chiếc Pobeda, Zhiguli, Moskvich và Zaporozhet, một số chiếc cũ đến khổ sở nhưng những cái khác còn thơm mùi phòng trưng bày. Khi Arkady phải trải qua nhiều năm để cuối cùng nhận được chiếc Zaporozhet bản thu nhỏ với giá ba nghìn rúp, chủ xe khôn ngoan có thể lái nó ngay lập tức tới bãi xe đã sử dụng, bán đồ chơi của mình với giá mười nghìn, ghi lại giao dịch chỉ năm nghìn rúp tại nhà kho chính phủ và trả tiền hoa hồng 7%, rồi quay lại dùng sáu nghìn sáu trăm năm mươi rúp dư ra của mình để mua một chiếc Zhiguli mui kín đã qua sử dụng nhưng rộng hơn. Khu chợ là một cái tổ ong - với quy định rằng mỗi chú ong phải mang theo ít mật của chính mình. Có lẽ đang có sẵn hàng ngàn chú ong. Một nhóm bốn thiếu tá quân đội tụ tập quanh một chiếc Mercedes. Arkady lướt tay trên một chiếc Moskvich trắng.
“Như vế đùi ấy nhỉ?” Một người Gruzia vận áo khoác da đứng lại cạnh anh.
“Ngon.”
“Anh đã phải lòng luôn rồi. Cứ từ từ, đi quanh nó xem.”
“Thật sự ngon đấy.” Arkady tản bộ ra phía sau.
“Anh là dân sành xe đấy.” Người Gruzia đặt ngón tay lên mắt. “Ba mươi nghìn kilomet. Một số người sẽ đảo số trên công tơ mét, nhưng tôi không phải dạng đó. Rửa và đánh bóng mỗi tuần. Tôi đã cho anh xem cần gạt nước chưa nhỉ?” Anh ta kéo chúng ra khỏi một túi giấy.
“Cần gạt nước được đấy.”
“Thực tế là nó còn mới. Chà, anh có thể thấy đấy.” Anh ta quay lưng lại về phía tất cả mọi người trừ Arkady và viết bút chì lên chiếc túi: “Mười lăm nghìn.”
Arkady vào trong xe, gần như chìm xuống tận sàn qua chiếc ghế thủng. Vô lăng nhựa đã giòn như ngà từ nghĩa trang voi. Anh đề máy và trong kính chiếu hậu thấy một chùm khói đen.
“Ngon.” Anh bước ra ngoài. Xét cho cùng ghế ngồi có thể được đệm thêm và động cơ có thể sửa được, nhưng thân xe thì quý như kim cương.
“Tôi biết anh sẽ nói gì rồi. Đã bán xong?”
“Golodkin đang ở đâu?”
“Golodkin, Golodkin.” Người Gruzia vắt óc nghĩ. Đó là một người hay một chiếc xe? Hắn chưa từng nghe cái tên này, cho đến khi viên thanh tra một tay giơ thẻ và tay còn lại vẫn giữ chìa khóa xe. Thằng Golodkin đó! Cái thằng khốn đó! Nó vừa mới rời bãi xe. Arkady hỏi hắn đang đi đâu. “Melodya. Khi thấy hắn, nói với hắn rằng một người trung thực như tôi sẽ trả hoa hồng cho nhà nước chứ không phải cho hạng du côn như hắn. Thực ra là đối với viên chức nhà nước, thưa đồng chí, có giảm giá đấy ạ.”
Ở Kalinin Prospekt những tòa nhà nhỏ là các hình chữ nhật năm tầng xi măng và kính. Các tòa nhà lớn là những hình chữ V hai mươi lăm tầng xi măng và kính. Phiên bản của Kalinin Prospekt có thể được tìm thấy ở bất kỳ thành phố mới nào đang được xây dựng, nhưng chưa có cái nào theo đúng cuộc hành quân tới tương lai như nguyên mẫu của Moscow. Tám làn giao thông phóng đi trên từng hướng phía trên đường hầm cho người đi bộ. Arkady và Pasha đợi ở cửa một quán ăn tự phục vụ phía đối diện một tòa nhà hẹp vốn là cửa hàng băng đĩa.
“Nó vui hơn một chút vào mùa hè.” Pasha rùng mình trước ly kem cà phê rưới si-rô dâu.
Một chiếc Toyota màu đỏ tươi đi tới phía bên kia Kalinin và ngoặt sang một con phố bên hông. Một phút sau, Feodor Golodkin, mặc một chiếc áo khoác được cắt may cẩn thận, một chiếc mũ len lông cừu và bốt cao bồi cùng quần jeans, thảnh thơi bước vào cửa hàng khi thanh tra và thám tử ra khỏi hầm.
Qua lớp kính trước cửa hiệu Melodya, họ thấy Golodkin không bước lên cầu thang ngoài trời dẫn lên tầng nhạc cổ điển. Pasha ở lại bên cửa khi Arkady đi qua đám nhóc đang lật giở những đĩa nhạc rock’n’roll. Ở phía sau, giữa những giá ngăn cách, Arkady phát hiện một bàn tay đeo găng đang lục tìm những đĩa chính trị. Tiến lại gần hơn, anh thoáng nhìn thấy mái tóc vàng-kiểu-nicotine bờm xờm rất thời trang và một gương mặt sưng húp với cái sẹo ở miệng. Một nhân viên bán hàng bước ra từ phía sau nhà đang nhét tiền vào túi.
“Bài phát biểu của L.T. Brezhnev trước Đại Hội Đảng lần thứ XXIV.” Arkady đọc to bìa album khi anh bước đi bên cạnh Golodkin.
“Cút đi.” Golodkin huých khuỷu tay vào Arkady, anh nắm lấy khuỷu tay và bẻ quặt nó buộc Golodkin phải gập người đứng trên mũi chân. Ba đĩa nhạc trượt ra khỏi vỏ và lăn quanh chân Arkady. Kiss, The Rolling Stones, The Pointer Sisters.
“Một trong số những Đại hội thú vị hơn,” Arkady nói.
Đôi mắt của Golodkin nằm giữa cặp mí nặng và đỏ. Với toàn bộ mái tóc dài và bộ vest đặt may của mình, hắn gợi cho Arkady nhớ đến một con lươn đang xoắn lưỡi câu theo chiều này rồi lại chiều khác. Đưa hắn tới văn phòng ở Novokuznetskaya là một sự phối hợp của các lưỡi câu. Đầu tiên, nó chính thức đặt Golodkin nằm gọn trong tay Arkady. Không luật sư nào có thể được triệu tập cho đến khi một cuộc điều tra kết thúc, và thậm chí cả công tố viên cũng không cần được thông báo về một vụ bắt giữ trong vòng bốn mươi tám giờ. Đồng thời, bằng việc mang Golodkin ra khỏi tầm nghe ngóng của Chuchin, nó ngụ ý rằng tay trưởng thanh tra Vụ Đặc Biệt đã phủi mọi trách nhiệm trước kẻ chỉ điểm quan trọng nhất của mình, hoặc rằng Chuchin đang trong một tình thế nguy hiểm nào đó.
“Tôi cũng ngạc nhiên như anh khi thấy những đĩa đó,” Golodkin chống cự khi Arkady dẫn hắn vào phòng thẩm vấn ở tầng một. “Chuyện này hoàn toàn là một nhầm lẫn.”
“Bớt căng thẳng đi, Feodor.” Arkady tự thả lỏng thoải mái ở phía kia của chiếc bàn và đặt một chiếc gạt tàn thiếc có đóng dấu ra trước mặt gã tù nhân. “Làm một điếu thuốc đi.”
Golodkin bóc một gói Winston và mời xung quanh.
“Bản thân tôi thì thích thuốc lá Nga hơn.” Arkady nói một cách hòa nhã.
“Anh sẽ được một trận cười khi anh nhận ra chuyện này quả là một nhầm lẫn,” Golodkin gợi ý.
Pasha bước vào phòng mang theo một chồng giấy tờ.
“Hồ sơ của tôi à?” Golodkin gặng hỏi. “Giờ các anh sẽ thấy là tôi ở cùng phía với các anh. Tôi có một quá trình dài phục vụ trong quân ngũ.”
“Các bản ghi âm à?” Arkady hỏi.
“Tốt lắm. Giờ tôi sẽ hoàn toàn thành thực. Đó là một phần trong việc thâm nhập của tôi vào mạng lưới giới tri thức đầy mưu đồ.”
Arkady gõ nhịp nhịp ngón tay. Pasha lôi ra một tờ biên bản.
“Hỏi bất kỳ ai về tôi đi, họ sẽ nói cho các anh biết,” Golodkin nói.
“Công dân Feodor Golodkin, thuộc Serafimov Hai, Thành phố và Khu vực thuộc Moscow,” Pasha đọc. “Anh bị cáo buộc ngăn trở phụ nữ tham gia hoạt động nhà nước và xã hội và kích động người chưa thành niên phạm tội.”
Một cách hay ho để miêu tả việc dắt gái, bản án là bốn năm tù. Golodkin chải mái tóc của mình ra sau, để có thể nhìn trừng trừng vào tay thám tử. “Nực cười!”
“Đợi đã.” Arkady giơ tay lên.
“Anh bị cáo buộc” Pasha tiếp tục - “nhận tiền hoa hồng trái phép từ việc bán lại ô tô tư nhân, vụ lợi từ việc bán lại không gian sống và vì bán tượng thánh với mục đích lợi nhuận.”
“Tất cả những điều này hoàn toàn có thể được giải thích một cách chính đáng hoàn hảo.” Golodkin nói với Arkady.
“Anh bị buộc tội dẫn dắt một lối sống ăn bám,” Pasha đọc và lần này con lươn giật lên. Nghị định chống lại chủ nghĩa ăn bám ban đầu được soạn ra cho dân Gypsy, rồi được mở rộng phóng khoáng ra cả những thành phần chống đối và mọi loại đầu cơ, và bản án không kém hơn trục xuất tới một lều chứa củi, gần Mông Cổ hơn là Moscow.
Nụ cười nhe răng của Golodkin nhẹ và sắc lẹm. “Tôi phủ nhận tất cả.”
“Công dân Golodkin,” Arkady nhắc nhở anh ta, “anh hiểu về các hình phạt vì không hợp tác với một cuộc điều tra chính thức đấy. Như anh đã nói, anh quen thuộc với văn phòng này.”
“Tôi nói...” Hắn ngừng lại để châm một điếu Winston và qua làn khói hắn ước lượng chồng giấy tờ. Chỉ có Chuchin mới có thể đưa họ nhiều tài liệu đến vậy. Chuchin! “Tôi đã làm việc cho...” Hắn khựng lại một lần nữa mặc cho vẻ mời mọc của Arkady. Buộc tội một trưởng thanh tra khác là tự sát.
“Bất kỳ điều gì...”
“Vâng?”
“Bất kỳ điều gì tôi đã làm, tôi đang không thừa nhận là mình đã làm cái gì cả, là nhân danh cái văn phòng này.”
“Dối trá!” Pasha nổi nóng. “Tao nên đấm vào cái mặt giả trá của mày.”
“Chỉ để lấy lòng lũ đầu cơ thật sự và những phần tử chống phá Liên Xô.” Golodkin giữ lập trường.
“Bằng cách giết người?” Pasha giương cánh tay lên.
“Giết người?” Mắt Golodkin trợn ngược lên.
Pasha lao qua bàn, suýt tóm được họng của Golodkin. Arkady ghìm vai tay thám tử lại. Gương mặt Pasha tối sầm và giận dữ, đã có những lúc, Arkady thật sự thích làm việc với anh ta.
“Tôi chả biết gì về giết người hết,” Golodkin buột miệng.
“Tại sao phải mất công thẩm vấn làm gì?” Pasha hỏi Arkady. “Tất cả những gì hắn làm là nói dối.”
“Tôi có quyền được nói,” Golodkin nói với Arkady.
“Hắn nói đúng,” Arkady bảo Pasha. “Chừng nào hắn còn có thể nói và nói sự thật, cậu không thể nói rằng hắn đang không hợp tác. Giờ thì, Công dân Golodkin” - Anh bật máy ghi âm lên - “hãy bắt đầu với một bản tường thuật về sự xâm phạm quyền phụ nữ của anh.”
Hoàn toàn như một dịch vụ không chính thống, Golodkin bắt đầu, hắn đã cung cấp phụ nữ mà hắn tin rằng đã đủ tuổi cho những người cho phép. Tên, Pasha yêu cầu. Ai quan hệ với ai ở đâu, khi nào và với giá bao nhiêu? Arkady lắng nghe một cách lơ đãng trong khi đọc những báo cáo từ Ust-Kut mà Golodkin tưởng là hồ sơ của mình. So với những tội cỏn con mà Golodkin đang khoác lác, những thông tin được cung cấp bởi thám tử Yakutsky là một cuộc phiêu lưu của Dumas.
Là một trẻ mồ côi ở Irkutsk, Konstatin Borodin, còn được gọi là “Kostia kẻ cướp”, tham gia khóa học nghề thợ mộc và tham gia vào công việc phục chế tại tu viện Znamiensky. Một thời gian ngắn sau đó, hắn trốn khỏi trường công của mình và đi cùng những người du mục Yakut tới Vòng Bắc Cực để săn cáo tuyết. Cảnh sát lần đầu chú ý tới Kostia khi một băng đảng của hắn bị bắt vì xâm nhập trái phép ở mỏ vàng Aldan dọc sông Lena. Trước năm hai mươi tuổi, hắn bị truy nã vì ăn trộm vé Aeroflot, phá hoại tài sản, bán linh kiện radio cho những người trẻ có trạm phát thanh “bất hợp pháp” gây cản trở việc phát thanh của nhà nước và tội cướp trên đường cao tốc kiểu cũ. Hắn luôn trốn vào rừng taiga Siberi, nơi mà ngay cả trực thăng của thám tử Yakutsky cũng không thể tìm ra hắn. Bức hình duy nhất gần đây của Kostia là một bức ảnh ngẫu nhiên chụp mười tám tháng trước bởi tờ báo Krasnoya Znamye của Siberi.
“Nếu anh muốn biết sự thật,” Golodkin đang nói chuyện với Pasha, “bọn con gái thích chơi tụi nước ngoài. Khách sạn xịn, đồ ăn ngon, ga trải giường sạch - bản thân chúng hơi giống đi du lịch một chút.”
Bức ảnh trên báo cho thấy khoảng ba mươi người đàn ông không rõ danh tính đang bước ra khỏi một tòa nhà xoàng xĩnh. Ở nền phía sau, được khoanh tròn, bị bất ngờ bởi chiếc máy ảnh, một gương mặt lấy lại bình tĩnh bằng cái nhìn chòng chọc. Đó là một kẻ nặng xương và có vẻ ưa nhìn ngang tàng, vẫn còn có những tên cướp ở trên đời này.
Phần lớn nước Nga là vùng Siberi. Tiếng Nga chỉ thừa nhận hai từ xuất phát từ Mông Cổ: taiga và tundra, và hai từ trên miêu tả một thế giới của rừng bất tận hoặc chân trời không một bóng cây, Ngay cả trực thăng cũng không tìm được Kostia? Một người đàn ông như vậy liệu có thể chết ở công viên Gorky?
“Anh có nghe về bất kỳ ai bán vàng trong thành phố không?” Arkady hỏi Golodkin. “Có thể là vàng Siberi?”
“Tôi không giao dịch bằng vàng, quá nguy hiểm. Anh và tôi đều biết, có một khoản tiền thưởng, các anh có thể giữ cho mình 2% trên tổng số vàng mà anh có thể bắt được từ một tên giao dịch. Không, tôi sẽ chẳng điên mà làm thế. Vàng dù sao cũng chẳng đến từ Siberi. Nó du nhập vào cùng thủy thủ, từ Ấn Độ, Hồng Kông. Moscow không phải một thị trường vàng lớn. Khi anh nói vàng hay kim cương nghĩa là làm ăn với bọn Do Thái ở Odessa hay bọn Gruzia hoặc bọn Armenia. Bọn người không giai cấp. Tôi hy vọng anh không nghĩ tôi lại dính dáng đến chúng.”
Da, tóc và áo khoác của Golodkin nồng nặc mùi thuốc lá Mỹ, nước hoa Tây và mồ hôi Nga. “Về cơ bản thì tôi chỉ làm dịch vụ cho người dân. Chuyên môn cụ thể của tôi là về tượng thánh. Tôi đi cả một trăm, hai trăm cây số, ra tới những vùng thôn dã, tới những làng nhỏ, tìm ra nơi những ông già tụ tập và làm một chai rượu. Xem này, những người này đang cố sống sót bằng tiền lương hưu. Xin thứ lỗi cho tôi, nhưng lương hưu quả là một trò đùa. Tôi đang làm phước cho họ khi đưa hai mươi rúp cho vài bức tượng thánh đã lưu cữu bụi suốt năm mươi năm. Có thể những bà già sẽ thà chết đói và giữ tượng thánh của họ, nhưng những người đàn ông có thể giải quyết được việc đó. Rồi, tôi trở về Moscow và bán.”
“Như thế nào?” Arkady hỏi.
“Vài tài xế taxi và hướng dẫn viên của Intourist giới thiệu về tôi. Nhưng tôi có thể đi thẳng xuống phố, tôi có thể nhận ra người mua thực sự. Đặc biệt là tụi Thụy Điển, hoặc bọn Mỹ từ California. Tôi nói tiếng Anh, đó là điểm mạnh của tôi. Người Mỹ sẽ trả tiền cho bất kỳ thứ gì. Năm mươi cho một bức tượng bình thường, cái mà anh không biết rằng mình đang nhìn vào mặt trước hay sau. Một ngàn cho thứ gì đó to và đẹp. Đấy là tiền đô nhé, không phải rúp. Đô la hoặc tem phiếu du lịch, vốn cũng chẳng kém gì. Với anh một chai vodka trị giá bao nhiêu? Mười ba rúp? Với tem phiếu du lịch, tôi có thể mua chai đó với giá ba rúp. Tôi được bốn chai với giá một chai của anh. Tôi muốn một gã sửa ti vi, ô tô, làm hộ tôi một việc gì, tôi thực sự định trả hắn tiền rúp? Rúp dành cho lũ kém cỏi. Nếu tôi mời một tay thợ sửa chữa vài chai rượu, tôi sẽ có một người bạn suốt đời. Rúp là giấy, thấy chưa và Vodka là tiền mặt.”
“Có phải anh đang cố hối lộ chúng tôi không đấy?” Pasha gặng hỏi đầy phẫn nộ.
“Không, không phải, ý duy nhất của tôi là những người nước ngoài mà tôi bán tượng thánh cho là tụi buôn lậu và tôi đang trợ giúp một cuộc điều tra chính thức.”
“Anh bán cho cả công dân Nga nữa.” Arkady bình luận.
“Chỉ những kẻ chống đối thôi.” Golodkin phản kháng.
Báo cáo của thám tử Yakutsky tiếp tục nói rằng trong chiến dịch chống lại người Do Thái “theo chủ nghĩa thế giới” vào năm 1949, một giáo sỹ Do thái ở Minsk tên là Solomon Davidov, góa vợ, đã được tái định cư tại Irkutsk. Đứa con duy nhất của Davidov, Valerya Davidova, từ bỏ việc học nghệ thuật của mình sau cái chết của cha một năm trước để làm kỹ thuật viên phân loại ở trung tâm Lông thú ở Irkutsk. Có hai bức ảnh kèm theo. Một bức là hình cô gái đang đi chơi xa, mắt ánh lên lấp lánh, đội mũ lông, mặc áo khoác len dày và đi một dạng bốt nỉ tên valenki. Rất trẻ, rất rực rỡ. Bức hình còn lại là từ tờ Krasnoye Znamya, được ghi chú: “Cô công nhân phân loại xinh đẹp V. Davidova giơ cao tấm da chồn Barguzhinsky trị giá một nghìn rúp trên thị trường thế giới để tỏ lòng ngưỡng mộ các doanh nhân tới thăm.” Cô đẹp lạ thường, ngay cả khi vận bộ đồng phục xoàng xĩnh. Đứng ở hàng đầu cùng doanh nhân đáng kính với những ngón tay chải trên tấm da chồn là ông John Osborne.
Arkady quay lại với bức ảnh Kostia Borodin. Nhìn lại lần này, anh thấy nhóm bỏ đi khỏi tên cướp được khoanh tròn gồm hơn hai mươi người Nga và Yakut vây xung quanh một nhóm nhỏ người phương Tây và Nhật Bản, và lần này anh thấy Osborne.
Lúc này, Golodkin đang giải thích rất khẩn thiết về việc chắc chắn người Gruzia độc quyền thị trường xe ô tô đã qua sử dụng.
“Khát à?” Arkady hỏi Pasha.
“Vì nghe những lời nói dối,” Pasha nói.
Cửa kính mờ hơi người. Golodkin nhìn người này rồi lại người kia.
“Thôi nào, cũng đến giờ ăn trưa rồi còn gì.” Arkady kẹp tài liệu và băng ghi âm dưới cánh tay rồi dẫn Pasha ra cửa.
“Thế còn tôi thì sao?” Golodkin hỏi.
“Anh biết tốt hơn là không đi đâu cả, phải không?” Arkady nói. “Vả lại, anh sẽ đi đâu?”
Họ bỏ hắn lại. Một lúc sau, Arkady mở cửa để ném một chai vodka vào. Golodkin đón lấy chai rượu vào ngực.
“Hãy tập trung vào vụ giết người, Feodor,” Arkady thúc giục và đóng cửa trước vẻ ngơ ngác của Golodkin.
Cơn mưa đã cuốn trôi đi hết đám tuyết. Phía bên kia sông, chỗ ga tàu điện ngầm, những người đàn ông đứng xếp thành một hàng ở ki-ốt bán bia - “một dấu hiệu mùa xuân thực sự,” theo như Pasha nói - thế là anh ta và Arkady mua bánh kẹp thịt ở một xe đẩy khi họ đang xếp hàng. Họ có thể thấy Golodkin đang nhìn mình từ một vết ố trên cửa kính.
“Hắn sẽ tự nhủ với bản thân rằng mình quá thông minh để uống một ngụm rượu, nhưng hắn sẽ nghĩ lại, nói rằng mình đang làm tất cả mọi chuyện đúng và đáng được thưởng. Ngoài ra, nếu cổ anh khô thì hãy nghĩ về cổ của hắn xem.”
“Anh quả là một tay khốn quỷ quyệt.” Pasha liếm môi.
“Cũng xảo quyệt như một cú xô ngã từ trên cao xuống,” Arkady nói.
Tất cả đều như nhau thôi, anh nóng lòng. Tưởng tượng xem, gã Osborne người Mỹ có thể đã bắt gặp tên cướp người Siberi và người tình của mình. Tên cướp có thể đã đến Moscow bằng vé máy bay lấy trộm. Thật xuất sắc.
Pasha cầm bia, hai cốc đầy với giá bốn mươi tư kopek, chất lỏng vàng óng ấm và đầy bọt. Góc phố dần đầy chật người, thêm nhiều người đàn ông mặc áo choàng dùng bia ở ki-ốt như cái cớ để đứng loanh quanh. Không có bất kỳ một quảng trường lớn hay tòa nhà vào đủ cao để treo biểu ngữ, Novokuznetskaya có không khí của một thị trấn nhỏ. Thị trưởng và các nhà quy hoạch của mình đã cày Kalinin Prospekt xuyên qua khu Arbat cũ tới phía tây. Khu vực Kirov đến phía đông điện Kremlin có lẽ sẽ là chỗ tiếp theo, được chôn dưới một đại lộ mới dài gấp ba lần Kalinin. Nhưng Novokuznetskaya với những con phố hẹp và cửa hàng nhỏ của nó, là vùng kiểu như một nơi mà ta thấy mùa xuân đến đầu tiên. Đàn ông với những cốc bia chúc tụng lẫn nhau như thể trong mùa đông mọi người đều vô hình. Vào những lúc như thế này, Arkady cảm thấy một nhân vật như Golodkin quả thực là một sự lạc lõng.
Giờ nghỉ trưa kết thúc, Pasha sang Bộ Ngoại giao để tìm những ghi chú về hành trình của Osborne và tay người Đức Unmann, sau đó tới Bộ Thương mại để tìm những bức ảnh bên ngoài của trung tâm Lông thú ở Irkutsk. Arkady trở về một mình để giải quyết cho xong Golodkin.
“Để mà nói, tôi chắc đây cũng chẳng phải là bí mật gì với anh, bản thân tôi từng tham gia vào những cuộc thẩm vấn ở phía bên kia của chiếc bàn. Tôi nghĩ chúng ta có thể nói một cách thành thực, anh và tôi. Tôi có thể hứa với anh tôi sẽ hợp tác với anh như một nhân chứng giống như đã làm với những người khác. Giờ, về những điều mà chúng ta đã thảo luận sáng nay...”
“Chỉ là những vấn đề nhỏ, Feodor,” Arkady nói.
Gương mặt của Golodkin phấn khởi đầy hy vọng. Dưới sàn, chai vodka đã vơi đi một nửa.
“Đôi khi, những bản án có vẻ như hoàn toàn không tương xứng với tội,” Arkady nói thêm, “đặc biệt là cho những công dân như anh với, nói thế nào nhỉ, địa vị đặc biệt.”
“Tôi nghĩ là chúng ta có thể giải quyết chuyện này được, giờ gã thám tử kia không có ở đây nữa rồi.” Golodkin gật gù.
Arkady đặt một cuộn băng mới vào máy ghi âm, mời Golodkin một điếu thuốc, hắn nhận lấy và tự châm. Cuộn băng bắt đầu chạy.
“Feodor, tôi sắp nói với anh vài điều và cho anh xem vài bức ảnh, rồi tôi muốn anh trả lời vài câu hỏi. Điều này có thể nghe hoàn toàn nực cười, nhưng tôi muốn anh kiên nhẫn và nghĩ kỹ. Được chứ?”
“Làm luôn đi!”
“Cảm ơn,” Arkady nói, trong lòng anh cảm thấy như mình đang dần bước xuống mặt nước cho một hơi lặn thật dài, như mọi lần phải đi theo sự phỏng đoán. “Feodor, việc anh bán tượng thánh cho người nước ngoài, thường là người Mỹ, đã được xác minh. Văn phòng này có bằng chứng cho thấy anh đã thử bán tượng thánh cho một vị khách nước ngoài hiện đang ở Moscow tên là John Osborne. Anh đã liên lạc với ông ta năm ngoái và một lần nữa vào vài ngày trước qua điện thoại. Vụ “làm ăn” của anh bị thất bại khi Osborne quyết định mua từ một nguồn khác. Bản thân anh là một thương nhân nửa mùa và chuyện buôn bán của anh trước đây hẳn cũng từng đổ bể rồi. Vậy điều tôi muốn anh nói là vì sao lần này anh lại giận dữ đến thế.” Golodkin nhìn ngây ra. “Những tử thi ở công viên Gorky, Feodor. Đừng bảo tôi là anh chưa hề nghe về chúng đấy.”
“Tử thi?” Golodkin chẳng thể nào ít lúng túng hơn được.
“Để chính xác hơn thì, một người tên là Kostia Borodin và một người phụ nữ trẻ tên là Valerya Davidova, đều là người Siberi.”
“Chưa từng nghe về họ,” Golodkin trả lời một cách trung thực.
“Tất nhiên là không phải bằng những cái tên này. Vấn đề là anh đã hoàn toàn bị hất khỏi một vụ mua bán vì họ, rằng anh đã bị trông thấy đang tranh cãi với họ, và rằng chỉ vài ngày sau họ bị giết.”
“Tôi có thể nói gì đây?” Golodkin nhún vai. “Nó quả là nực cười đúng như anh đã nói. Anh nói mình có ảnh à?”
“Cảm ơn vì đã nhắc. Đúng, ảnh của những nạn nhân.”
Bằng cả hai tay, Arkady trải ra những bức ảnh của Borodin và Valerya Davidova đang phân loại lông thú. Đôi mắt của Golodkin khác thường, phóng từ chỗ cô gái sang Osborne, tới tay cướp bị khoanh tròn tới Osborne trong đám đông, tới Arkady rồi quay lại với những bức ảnh.
“Anh bắt đầu thấy sự việc thế nào rồi, Feodor. Hai người từ hàng ngàn dặm xa xôi và bí mật sống ở đây trong một hay hai tháng - khó mà có kẻ thù trừ khi là một đối thủ cạnh tranh kinh doanh. Rồi họ bị giết bởi một ai đó tàn bạo, một kẻ ăn bám xã hội. Thấy không, tôi đang miêu tả một chú chim lạ - anh có thể nói đó là một nhà tư bản. Thực ra là anh đấy và anh là chú chim đang nằm trong tay tôi. Áp lực đặt lên một thanh tra để khép lại những vụ kiểu này lớn khủng khiếp. Một viên thanh tra khác sẽ chẳng cần gì hơn. Anh đã bị trông thấy đang tranh cãi với các nạn nhân. Anh bị trông thấy đang giết họ? Đó là một câu rất ổn.”
Golodkin ngước lên nhìn chằm chằm Arkady. Con lươn và người câu. Arkady ý thức rằng đây có lẽ là cơ hội duy nhất của anh, trước khi lưỡi câu bị nhả ra.
“Nếu anh đã giết họ, Feodor, anh sẽ bị lãnh án tử hình vì tội giết người nghiêm trọng vì lợi nhuận. Nếu anh khai man, anh sẽ bị tù mười năm. Nếu tôi dù rất muốn nghĩ rằng anh đang nói dối, tôi sẽ tống anh đi vì những vấn đề nhỏ mà chúng ta đã nói lúc nãy. Sự thật là, Feodor, anh sẽ chẳng có một địa vị đặc biệt nào trong trại. Những tù nhân khác có quan điểm rất nặng nề về tụi mật thám. Sự thật là, Feodor, anh không thể chịu nổi việc đi tù. Anh sẽ bị cắt cổ trước khi tháng đầu tiên qua đi và anh biết điều đó.”
Golodkin mím chặt môi, lưỡi câu giờ đã nằm sâu trong bụng hắn và không nhả ra được nữa. Hắn bị lôi lên cạn, kiệt sức và bợt màu, tất cả dũng khí-vodka đã tiêu tan.
“Tôi là hy vọng duy nhất của anh, Feodor, cơ hội duy nhất của anh. Anh phải nói cho tôi biết mọi điều về Osborne và những người Siberi.”
“Ước gì tôi đang say.” Golodkin sụp xuống phía trước cho đến khi trán tựa lên bàn như thể mặt hắn dính bẩn.
“Hãy nói cho tôi biết, Feodor.”
Golodkin mất một lúc chống lại sự ngây thơ của mình, rồi bắt đầu kể câu chuyện của hắn, đầu gục giữa hai tay.
“Có một tay người Đức, một gã tên là Unmann mà tôi quen. Tôi thường kiếm gái cho hắn. Hắn nói hắn có một người bạn sẽ trả rất nhiều tiền cho tượng thánh và hắn giới thiệu tôi với Osborne tại một buổi tiệc.
“Osborne không thực sự muốn tượng thánh. Cái hắn muốn là một chiếc ghế nhà thờ hay một rương đựng những tấm bảng tôn giáo. Hắn hứa sẽ trả hai nghìn đô la cho một rương lớn, chất lượng tốt.
“Tôi dành cả mùa hè chết tiệt để tìm một chiếc rương và cuối cùng cũng kiếm được một chiếc. Osborne xuất hiện vào tháng Mười hai, như hắn đã nói. Tôi gọi điện thoại để báo tin vui cho hắn và bỗng nhiên thằng ngu đó gạt bỏ tôi và cúp máy. Tôi đi ngay tới Rossiya, đúng lúc thấy Osborne và Unmann ra ngoài và tôi đi theo chúng tới quảng trường Sverdlov nơi chúng gặp gỡ một đôi nhà quê vụng về, tụi trong ảnh của anh. Unmann và Osborne tách nhau ra, còn tôi đi theo hai người kia và nói chuyện với chúng.
“Họ ở ngay giữa Moscow nồng nặc mùi nhựa thông. Tôi biết chuyện gì đang xảy ra và tôi nói với họ. Họ đang sửa lại rương để bán cho Osborne trong khi tôi bị bỏ lại với chiếc của mình giữa trời lạnh. Tôi nhận được vụ này trước và tôi đã phải chịu phí tổn. Công bằng là công bằng, tôi muốn có một nửa số họ nhận được, như là tiền hoa hồng.
“Gã đàn ông, con khỉ đột Siberi ấy, quàng tay qua người tôi đầy thân thiện rồi bất ngờ dí một con dao vào cổ tôi. Hắn dí dao xuyên qua lớp cổ áo khoác vào họng tôi ở ngay giữa quảng trường Sverdlov và nói hắn không biết tôi đang nói về cái gì, nhưng tốt hơn là hắn không thấy tôi lần nữa và Osborne cũng thế. Anh có tin nổi không? Quảng trường Sverdlov. Khi đó là giữa tháng Một - tôi nhớ thế là vì đó là lúc vừa năm mới. Mọi người đều say xỉn, và tôi có thể mất máu đến chết mà chẳng ai hay. Rồi tay người Siberi cười và bỏ đi luôn.”
“Anh không biết là họ đã chết à?” Arkady hỏi.
“Không!” Golodkin ngỏng đầu dậy. “Tôi không bao giờ thấy họ nữa. Anh nghĩ tôi khùng chắc?”
“Anh đã lấy hết can đảm để gọi cho Osborne ngay khi anh biết tin hắn về đây.”
“Chỉ thử xem sao thôi mà. Tôi vẫn còn cái rương, chẳng bán được cho ai cả. Anh không thể tẩu tán một chiếc rương được. Khách hàng duy nhất là Osborne. Tôi không biết hắn đã nghĩ gì trong đầu nữa.”
“Nhưng hôm qua, anh đã gặp Osborne ở công viên Gorky,” Arkady cố gắng.
“Đó không phải là Osborne. Tôi không biết đó là ai, hắn chưa bao giờ nói tên. Chỉ là một tay người Mỹ nào đó gọi và nói là hắn có hứng thú với tượng thánh và tôi nghĩ có khi mình vẫn có thể tống khứ được cái rương. Hoặc là đập nó ra và bán từng phần. Tất cả những gì hắn muốn là đi dạo xuyên công viên.”
“Anh đang nói dối,” Arkady dồn ép.
“Tôi thề là tôi không nói dối. Hắn là một lão già béo hỏi mấy câu ngớ ngẩn. Hắn nói tiếng Nga rất chuẩn, tôi cho là thế, nhưng tôi cũng gần như là chuyên gia trong việc nhận ra người nước ngoài. Vậy nên chúng tôi đi qua gần hết công viên và dừng lại ở một khu lầy lội.”
“Ở phía bắc công viên, bên ngoài đường mòn?”
“Ừ. Dù sao thì, tôi cứ nghĩ có thể hắn muốn chút kín đáo để hỏi về gái, tiệc tùng, hiểu không, nhưng hắn bắt đầu nói về đứa sinh viên trao đổi nào đó, một người Mỹ tên là Kirwill mà tôi chưa từng nghe qua. Tôi chỉ nhớ ra lúc này vì hắn cứ hỏi mãi. Tôi bảo hắn, tôi gặp rất nhiều người. Thế thôi. Thằng ngu đó bỏ đi thẳng” - Golodkin búng tay - “như vậy đó. Dù sao thì ngay khi tôi thấy hắn tôi đã biết hắn không có ý định nghiêm túc mua tượng thánh.”
“Tại sao?”
“Hắn nghèo rớt. Cả bộ đồ của hắn là hàng Nga.”
“Hắn có miêu tả tên Kirwill này trông ra sao không?”
“Gầy, hắn nói. Tóc đỏ.”
Những tia hy vọng đang đến với Arkady. Một cái tên Mỹ nữa. Osborne và một tay buôn chợ đen. Hai câu thần chú vừng ơi mở ra. Anh gọi cho thiếu tá Pribluda. “Tôi muốn thông tin về một người Mỹ với họ Kirwill. K-i-r-w-i-l-l.”
Pribluda mất một lúc để trả lời. “Nghe có vẻ như việc của tôi thì đúng hơn,” hắn cuối cùng cũng đáp lại.
“Tôi hoàn toàn đồng ý,” Arkady nói.
Một đối tượng nước ngoài cụ thể đang nằm trong cuộc điều tra. Còn có thể có bất kỳ nghi ngờ nào về việc ai nên điều tra hắn?
“Không” Pribluda nói, “tôi sẽ cho anh thêm trợ giúp. Anh cử thám tử Fet qua đây, tôi sẽ đưa cậu ta bất kỳ thứ gì tôi có.”
Hiển nhiên là, Pribluda sẽ chỉ đưa ra thông tin nếu nó đi cùng với mật thám riêng của hắn, Arkady biết điều đó. Tốt thôi. Anh gọi cho Fet ở khách sạn Ukraina, rồi nghịch diêm trên một tấm giấy trong khi Golodkin nhấm nháp chai rượu của mình.
Chuchin bước loanh quanh vào phòng thẩm vấn và trố mắt trước cảnh tượng mật thám riêng của mình đang ngồi với thanh tra khác. Arkady cộc cằn nói với thanh tra Vụ Đặc Biệt rằng liệu hắn có bất kỳ phàn nàn gì để tranh cãi với công tố viên và Chuchin vội ra ngoài. Golodkin thực sự thấy ấn tượng. Cuối cùng thì Fet cũng tới ôm theo một cặp tài liệu và mang dáng vẻ của một vị khách bất đắc dĩ.
“Có khi trưởng thanh tra sẽ muốn cho tôi biết thêm chi tiết.” Anh chỉnh lại chiếc kính gọng thép.
“Để sau. Ngồi xuống đi.”
Nếu Pribluda muốn một bản báo cáo từ Fet, thì Arkady sẽ đưa cho hắn một bản tốt. Golodkin thích sự phản kháng của tay thám tử, Arkady thấy điều đó. Anh đang lấy lại thăng bằng, điều chỉnh sang một tư thế mới. Arkady dốc chiếc cặp chứa các bản sao ra. Có nhiều hơn anh dự kiến. Pribluda khá hào phóng thứ mà hắn gọi là “trợ giúp”.
Chính xác là có hai bộ hồ sơ.
Bộ đầu tiên ghi:
Hộ chiếu Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tên: James Mayo Kirwill. Ngày sinh: 4/8/1952. Cao: 5 feet 11 inch [khoảng mét bảy. Arkady tính.] Vợ: XXX. Con: XXX. Nơi sinh: New York, Mỹ. Mắt: nâu. Tóc: đỏ. Ngày cấp: 7/5/1974.
Tấm ảnh hộ chiếu đen trắng in hình một người đàn ông trẻ, nhẹ cân với đôi mắt sâu hoắm, tóc quăn gợn sóng, một chiếc mũi dài và một nụ cười hết cỡ. Chữ ký dày và rõ ràng.
Thị thực thường trú. James Mayo Kirwill. Quốc tịch: Mỹ. Ngày và năm sinh tương tự. Nghề nghiệp: sinh viên ngôn ngữ học. Mục đích lưu trú: học tập tại trường Đại học Quốc gia Moscow. Người được bảo hộ: Không. Các chuyến thăm trước tới Cộng Hòa Xã Hội Liên bang Xô Viết: không. Họ hàng tại Cộng Hòa Xã Hội Liên bang Xô Viết: không. Địa chỉ thường trú: 108 phố West 78, New York, New York, Mỹ.
Bức ảnh như ở hộ chiếu được dán vào ô bên phải của thị thực. Một chữ ký gần như giống hệt, vẻ khó tính của nó rất ấn tượng.
Cục lưu trữ, Đại học Quốc gia Moscow. Đăng ký tháng Chín năm 1974 cho nghiên cứu sau đại học về Ngôn ngữ Slavic.
Các điểm số đều cao. Báo cáo hướng dẫn đầy những lời khen ngợi, nhưng...
Báo cáo Komsomol của J. M. Kirwill pha trộn quá nhiều với các sinh viên Nga, biểu hiện sự quan tâm quá mức tới các chính sách đối nội của Liên Xô, lớn tiếng bộc lộ thái độ chống Liên Xô. Bị quở trách bởi phòng Komsomol trong ký túc xá, Kirwill giả bộ có thái độ chống cả Mỹ nữa. Những cuộc lục soát bí mật phòng hắn đã khám phá ra những tài liệu của một nhà văn sùng đạo tên là Aquinas và một cuốn Kinh Thánh bản chữ Kirin.
Ủy ban An ninh Quốc gia. Trong năm đầu tiên qua thăm dò các bạn học về mức độ đáng lưu tâm của đối tượng cho kết quả không xứng đáng. Trong năm thứ hai, một nữ giảng viên đã cố gắng, theo chỉ đạo của chúng tôi, thân mật với đối tượng và bị từ chối. Một nam sinh viên được chỉ thị tương tự và không thành công. Người ta quyết định rằng đối tượng không phù hợp với bất kỳ một nỗ lực tích cực nào và chỉ có một danh sách tiêu cực được soạn bởi các cơ quan An ninh và Komsomol là được thiết lập. Sinh viên ngôn ngữ T.Bondarev, S. Kogan và sinh viên luật I. Asanova được báo cáo về việc tùy tiện kết thân với đối tượng.
Bộ Y tế, Phòng khám đa khoa Đại học Quốc gia Moscow. Sinh viên J. Kirwill đã được nhận những điều trị sau đây: kháng sinh tổng hợp cho viêm dạ dày-ruột trong bốn tháng đầu, tiêm vitamin C, vitamin E và liệu pháp tia cực tím trị cúm, cuối năm đầu tiên đối tượng được nhổ răng và trồng thay thế răng giả thép.
Biểu đồ nha khoa cho thấy răng hàm trên bên trái đã được đánh dấu. Không có ghi chép nào về việc làm ống chân răng.
Bộ Nội vụ. J. M. Kirwill ra khỏi Liên bang Xô Viết vào ngày 12/3/1976. Biểu lộ khí chất không phù hợp với một vị khách của Cộng Hòa Xã Hội Liên bang Xô Viết, đối tượng này không nên được cấp phép quay lại.
Vậy sinh viên tình nghi khổ hạnh này, Arkady nghĩ, đã chẳng có vấn đề gì với chân trái yếu như Levin thấy ở xác chết được gọi là Đỏ, có vẻ như không được làm răng kiểu Mỹ và không bao giờ quay lại Nga. Mặt khác, anh ta cùng tuổi, cùng vóc dáng, cùng có răng hàm thép, tóc đỏ và quen Irina Asanova.
Arkady cho Golodkin xem bức ảnh hộ chiếu. “Có nhận ra người này không?”
“Không.”
“Anh ta có thể có tóc đỏ hoặc nâu. Anh không gặp được nhiều người Mỹ gầy nhom tóc đỏ ở Moscow đâu, Feodor.”
“Tôi không biết anh ta.”
“Vậy còn những sinh viên đại học này thì sao? Bondarev? Kogan?” Anh không hỏi về Irina Asanova. Fet bày tỏ vừa đủ sự quan tâm.
Arkady xem bộ hồ sơ thứ hai.
Hộ Chiếu Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tên: William Patrick Kirwill. Ngày sinh: 23/5/1930. Cao: 5 feet 11 inch. Vợ: XXX. Con: XXX. Nơi sinh: New York. Tóc: bạc. Mắt: xanh da trời. Ngày cấp: 23/2/1977.
Trong bức ảnh là một người đàn ông trung niên tóc bạc và quăn và đôi mắt hẳn đã là màu xanh da trời sẫm. Mũi ngắn và quai hàm bạnh. Không cười. Áo sơ mi và áo khoác vừa vặn với những gì trông như là một lồng ngực nở nang và bờ vai cơ bắp. Chữ ký lớn và dày.
Thị thực du lịch William Patrick Kirwill. Quốc tịch: Mỹ. Nơi sinh và ngày sinh tương tự. Nghề nghiệp: quảng cáo. Mục đích lưu trú: du lịch. Người được bảo hộ du lịch: không. Họ hàng ở Cộng Hòa Xã Hội Liên Bang Xô Viết: không. Địa chỉ thường trú: 220 phố Barrow, New York, New York, Mỹ.
Chữ ký và ảnh tương tự.
Nhập cảnh vào Cộng Hòa Xã Hội Liên bang Xô Viết ngày 18/4/1977. Xuất cảnh ngày 30/4/1977. Việc di chuyển được xác nhận qua hãng hàng không Pan American. Đặt phòng được xác nhận tại khách sạn Metropole.
Arkady giơ ảnh của William Patrick Kirwill lên.
“Nhận ra người này không?”
“Chính là hắn! Là kẻ tôi gặp trong công viên hôm qua.”
“Anh đã nói” - Arkady dừng một giây để tự nhìn - "là một lão già béo.”
“À thì, to lớn, anh biết đấy.”
“Nhắc lại về quần áo của hắn xem.”
“Hàng Nga, rất tầm thường. Mới cả. Với cái cách mà hắn nói tiếng Nga hắn có thể tự mua quần áo, nhưng mà,” Golodkin nhếch mép, “ai mà muốn thế chứ?”
“Làm thế nào mà anh biết chắc hắn không phải người Nga?”
Golodkin vươn người về phía trước, mặt đối mặt như hai người đồng chí. “Tôi làm một thứ kiểu như nghiên cứu về điều đó, nhận ra du khách trên phố ấy. Những khách hàng tiềm năng, hiểu chứ. Giờ, một người Nga bình thường luôn bước đi với trọng lượng gần như ở phía trên thắt lưng. Tay người Mỹ của anh bước đi bằng chân.”
“Thật à?” Arkady nhìn bức ảnh một lần nữa. Anh không biết gì nhiều về ngành quảng cáo Mỹ, anh có thấy một gương mặt biểu lộ sức mạnh của kẻ cục súc, một người đàn ông đưa Golodkin thẳng tới chỗ bãi trống tìm thấy thi thể và là nơi Arkady đã thua một trận ẩu đả. Arkady nhớ ra đã cắn vào tai kẻ hành hung. “Anh có nhìn thấy tai của hắn không?”
“Tôi không nghĩ,” Golodkin đăm chiêu suy nghĩ, “rằng có sự khác biệt giữa tai của người Nga và người phương Tây.”
Arkady gọi tới Intourist, họ nói với anh rằng ba ngày trước, khi Arkady bị đánh bầm dập một cách có bài bản, du khách W.Kirwill có vé tới nhà hát Bolshoi. Arkady hỏi làm thế nào để liên hệ với hướng dẫn viên du lịch Intourist của Kirwill. Anh được cho biết Kirwill là khách du lịch lẻ và Intourist không cung cấp hướng dẫn viên cho nhóm dưới mười người.
Khi Arkady cúp máy để đối diện với sự chú tâm dai như đỉa của Fet, Pasha quay lại sau chuyến thăm Bộ Ngoại giao. “Giờ chúng ta có một nhân chứng liên kết trực tiếp hai người có khả năng là nạn nhân với một kẻ tình nghi nước ngoài.” - Arkady nhấn mạnh quan điểm của mình trước các thám tử một cách phô trương, để khiến cho Fet chuyển lời đến Pribluda tốt hơn. “Suy cho cùng, là chuyện tượng thánh theo một cách nào đó. Việc chúng ta giữ một nghi phạm nước ngoài là bất thường. Tôi sẽ phải thảo luận vấn đề này với công tố viên. Nhân chứng của chúng ta thậm chí có thể cung cấp một liên kết gián tiếp tới nạn nhân thứ ba trong công viên. Thấy không, các chàng trai, mọi việc đang bắt đầu ăn khớp rồi. Feodor đây là chìa khóa tới mọi thứ.”
“Tôi đã bảo là tôi ở phía các anh mà,” Golodkin nói với Pasha.
“Nghi phạm nào?” Fet không thể kìm được.
“Tay người Đức,” Golodkin sốt sắng trả lời, “Unmann.”
Arkady thúc Fet mang chiếc cặp tài liệu ra khỏi cửa. Cũng chẳng khó gì vì cuối cùng thì chú chim hoàng yến của Pribluda cũng có bài để hót.
“Chuyện về gã Unmann này có thật không vậy?” Pasha hỏi.
“Cũng đủ khớp,” Arkady nói. “Thử xem anh có gì nào.”
Viên thám tử mang đến tất cả nhật ký hành trình ở Liên Xô của Osborne và Unmann trong sáu tháng qua, lối viết tốc ký của Bộ khiến họ trông như bị kẹt ở những cửa xoay:
J.D.Osborne, chủ tịch, Liên doanh Osborne Furs.
Nhập cảnh: New York-Leningrad, 2/1/1976 (Khách sạn Astoria), Moscow, 10/1/1976 (Khách sạn Rossiya), Irkutsk, 15/1/1976 (khách của trung tâm lông thú Irkutsk), Moscow, 20/1/1976 (Rossiya).
Xuất cảnh: Moscow-New York, 28/1/1976.
Nhập cảnh: New York - Moscow, 11/7/1976 (Astoria).
Xuất cảnh: Moscow - New York, 22/7/1976
Nhập cảnh: Paris-Grodno-Leningrad, 2/1/1977 (Astoria), Moscow, 11/1/1977 (Rossiya).
Thú vị đây, Arkady nghĩ. Grodno là một thị trấn đường sắt ở biên giới Ba Lan. Thay vì đi máy bay, Osborne đi tàu cả quãng đường đến Leningrad.
Xuất cảnh: Moscow-Leningrad-Helsinki, 2/2/1977.
Nhập cảnh: New York-Moscow, 3/4/1977 (Rossiya).
Lịch xuất cảnh: Moscow-Leningrad, 30/4/1977.
H.Unmann, Cộng hòa Dân chủ Đức, C.P.G.D.R.
Nhập cảnh: Berlin-Moscow, 5/1/1976.
Xuất cảnh: Moscow-Berlin, 27/6/1976.
Nhập cảnh: Berlin-Moscow, 4/7/1976.
Xuất cảnh: Moscow-Berlin, 3/8/1976.
Nhập cảnh: Berlin-Leningrad, 20/12/1976.
Xuất cảnh: Leningrad-Berlin, 3/2/1977.
Nhập cảnh: Berlin-Moscow, 5/3/1977.
Không có thông tin về việc di chuyển nội địa của Unmann ở Nga, nhưng Arkady luận ra rằng Osborne và gã người Đức có thể đã tiếp xúc trực tiếp với nhau trong vòng mười ba ngày vào tháng Một năm 1976 ở Moscow, hoặc mười một ngày vào tháng Bảy năm 1976 Moscow, và vào mùa đông năm nay với sự trùng hợp dữ dội từ mùng hai đến qua mùng mười tháng Một ở Leningrad và từ mùng mười tháng Một đến mùng một tháng Hai ở Nga (lúc vụ án mạng xảy ra). Vào mùng hai tháng Hai, Osborne bay đến Helsinki trong khi Unmann có vẻ như đã đi Leningrad. Họ giờ đã cùng ở Moscow từ ngày mười ba tháng Tư. Dù trong suốt mười hai tháng qua, Osborne chỉ gọi cho Unmann bằng điện thoại công cộng.
Pasha cũng đưa ra một tấm ảnh bóng lóa của trung tâm Lông thú Irkutsk. Chính là tòa nhà hiện đại màu nâu xám xịt trong bức ảnh Kostia Borodin. Nếu không phải nó, hẳn Arkady sẽ ngạc nhiên.
“Hãy chở anh bạn Feodor của chúng ta về chỗ anh ta đi,” Arkady bảo Pasha. “Có một chiếc rương đặc biệt ở đó, tôi muốn cậu lấy và mang đến khách sạn Ukraina để giữ nó an toàn. Đây, mang theo cả những cuộn băng nữa.”
Anh gỡ cuộn băng thú tội của Golodkin ra khỏi máy. Để lấy chỗ cho cuộn băng vào túi áo, Pasha phải chuyển quả dứa nhỏ quý giá của mình.
“Anh đáng ra cũng nên lấy một quả,” anh nói với Arkady.
“Sẽ bị bỏ phí thôi.”
“Tôi sẽ luôn sẵn sàng, Đồng chí Trưởng thanh tra”- Golodkin mặc áo choàng và đội mũ - “chỉ với anh thôi.”
Khi họ đã đi khuất và chỉ còn lại một mình, Arkady cảm thấy sự hứng khởi trong mình rít lên hối hả như động cơ motor. Anh đã làm được điều đó. Lần này, với lời khai của Golodkin và nguy cơ giam giữ một trong những người Mỹ được ưa chuộng của KGB, anh có thể nhồi vụ này vào họng Pribluda.
Anh khoác áo choàng, sang bên kia đường và làm một chai vodka, cũng kịp hối tiếc vì đã không đi cùng với Pasha để họ có thể cùng uống mừng. “Chén này là vì chúng ta!” Rốt cuộc, họ không phải những thanh tra đến nỗi tệ. Anh nhớ đến quả dứa. Pasha hẳn là có kế hoạch khác cho nhu cầu thực sự của mình. Arkady nhận thấy mình đang nhìn chằm chằm vào quầy điện thoại công cộng. Anh vô tình cũng có đồng hai kopek trong tay. Anh tự hỏi Zoya đang ở đâu.
Cuộc điều tra vụ Công viên Gorky đã trở nên quá kỳ quặc. Anh đã thoát và giờ đang quay lại với đời thường. Quầy điện thoại công cộng là tảng đá nén, một mối liên hệ tới lực hút Trái Đất là Zoya. Nhỡ như cô đã bỏ Schmidt và về lại căn hộ? Anh đã không ở đó nhiều ngày nay rồi, và đã đi lại rất nhiều, cô không thể liên lạc được với anh. Anh không nên trốn tránh cô, ít nhất họ cũng nên nói chuyện. Anh tự nguyền rủa mình vì trở nên yếu đuối và quay số điện thoại. Điện thoại nhà bận, cô đang ở đó.
Ở ga tàu điện, mọi người đang đi làm về. Arkady là một trong số họ và anh cảm thấy mình gần như bình thường, lồng ngực hầu như không đau. Đầu anh ngập đầy những kịch bản mê-lô thống thiết. Zoya ăn năn và anh thì cao thượng. Cô vẫn giận dữ nhưng anh đầy khoan dung. Cô hoàn toàn chỉ là vô tình trở về căn hộ và anh cố gắng thuyết phục cô không bỏ đi. Tất cả các biến thể đều ở giữa những tình huống này, và mọi cái kết đều ở trên giường. Tuy nhiên, anh không thấy hứng khởi. Kịch mê-lô u mê, rẻ tiền và không thú vị, anh chỉ nhất quyết phải diễn cho ra chúng.
Anh ra khỏi Taganskaya, băng qua sân, bước hai bậc một lên cầu thang và gõ cửa. Âm thanh nghe trống rỗng. Anh mở khóa và bước vào.
Zoya đã quay lại, từng đó là rõ rồi. Không có ghế hay bàn, thảm hay rèm cửa, sách hay giá sách, đĩa nhạc hay máy hát, đồ sứ, cốc nước hay đồ bếp. Cô đã cuốn gói một cách cần mẫn, một sự kết hợp giữa sáp nhập và thanh trừng. Phòng đầu tiên trong căn hộ hai buồng cô chẳng để lại gì ngoài chiếc tủ lạnh và nó trống không kể cả đến khay đá, cho thấy, anh nghĩ, một sự tham lam đáng thất vọng. Căn phòng thứ hai còn lại chiếc giường, nên nó vẫn còn là phòng ngủ. Anh nhớ lại việc đưa chiếc giường vào phòng khó như thế nào. Cô chỉ để lại ga và chăn trên giường.
Cảm giác của anh trở nên dị thường và trống rỗng, như thể một tên trộm đã lẻn ra không phải nhà mà là trong anh, và với đôi bàn tay bẩn thỉu, hắn xé toạc mười năm hôn nhân. Hay cô đã nhìn sự việc theo cách khác, một ca đẻ mổ lôi cô ra khỏi anh? Chuyện vẫn luôn tệ đến thế sao? Cô là một tên trộm tài tình vì giờ đây anh không còn muốn nhớ tới nữa.
Ống nghe điện thoại bị kênh, đó là lý do vì sao anh tưởng cô ở nhà. Anh đặt ống nghe lại và ngồi bên chiếc điện thoại.
Chuyện gì đang xảy đến với anh vậy? Anh bị ghét bỏ bởi người từng yêu mình. Nếu cô đổi khác, hẳn anh đã thay đổi cô. Anh và hồ sơ hoàn hảo của mình. Sao anh không trở thành thanh tra Ban Chấp hành Trung ương, chuyện đó có gì sai trái đến vậy? Trở thành kẻ cặn bã và cứu vãn cuộc hôn nhân của mình. Anh là ai để mà thanh sạch như thế? Hãy xem anh vừa làm những gì, tưởng tượng của anh về chợ đen và những kẻ người Siberi và Mỹ, mối liên hệ giả này nối tiếp tới cái khác, chẳng phải để giải quyết bất kỳ vụ án nào, chẳng vì quyền lợi của công lý, chỉ để tống những thi thể từ công viên Gorky ra khỏi tay mình.
Điện thoại đổ chuông. Zoya, anh nghĩ. “A lô?”
“Đây có phải trưởng thanh tra Renko không?”
“Đúng vậy.”
“Có một vụ nổ súng trong một căn hộ tại Serafimov Hai. Một người tên là Golodkin đã tử vong, và thanh tra Pavlovich cũng vậy.”
Dấu vết của cảnh sát trải từ lối vào cầu thang lên đến tầng hai, băng qua một sảnh đầy những mặt người sau khung cửa hé mở và vào căn hộ của Golodkin, hơn hai thùng rượu whiskey Scotland, thuốc lá, đĩa nhạc và đồ hộp chất đống trên sàn nhà dày những thảm phương đông chồng lên nhau. Levin đang ngó ngoáy với những dụng cụ trong đầu Golodkin. Pasha Pavlovich nằm trên thảm, lưng áo choàng sẫm màu của anh ướt nhưng không quá ướt, anh đã chết ngay tức thì. Bên tay anh và tay Golodkin có hai khẩu súng khác nhau.
Một viên thanh tra quận mà Arkady không quen tự giới thiệu bản thân và những ghi chép của mình.
“Đó là phỏng đoán của tôi,” anh ta nói, “ừm, rõ ràng là Golodkin bắn viên thám tử từ sau lưng trước, và thám tử quay lại, khi anh đang ngã xuống, giết ngược lại Golodkin. Những người ở các căn hộ khác không nghe thấy nổ súng, nhưng những viên đạn có vẻ khớp với các khẩu súng, khẩu PM được phát của viên thám tử và khẩu TK của Golodkin, nhưng dù sao chúng ta cũng sẽ kiểm tra điều đó với phân tích đường đạn.”
“Những người ở các căn hộ khác có thấy bất kỳ ai ra khỏi đây không?” Arkady hỏi.
“Không có ai đi ra cả. Họ tự giết lẫn nhau.”
Arkady nhìn Levin vốn đang trông ra chỗ khác.
“Thám tử Pavlovich đang đưa người kia về sau một cuộc thẩm vấn.” Arkady nói. “Anh đã khám người thám tử chưa? Anh có tìm thấy cuộn băng ghi âm nào không?”
“Chúng tôi đã soát người anh ấy. Không tìm thấy cuộn băng nào cả,” thanh tra quận trả lời.
“Các anh có mang gì ra khỏi căn hộ không?”
“Không gì cả.”
Arkady xem qua nhà của Golodkin một lượt để tìm chiếc rương nhà thờ với những tấm bảng tượng thánh, anh ném một ôm đầy áo paca và ván trượt tuyết ra khỏi tủ quần áo, cắt tung những hộp các tông đựng xà phòng Pháp trong khi tay thanh tra quận đứng nhìn, chôn chân một chỗ không chỉ vì nỗi lo phải kê khai thiệt hại mà còn vì nỗi khiếp đảm sự tấn công những thứ giá trị như vậy. Khi Arkady cuối cùng cũng quay về chỗ xác thám tử trên sàn, thanh tra quận ra lệnh cho các cảnh sát bắt đầu mang đồ đi.
Phát đạn giết chết Golodkin để lại trên trán hắn một vệt lõm. Pasha trông có vẻ thanh thản, mắt nhắm lại, gương mặt Tác-ta điển trai của anh ta ấn xuống những sợi chỉ màu, một người khách du hành ngủ trên chiếc thảm. Chiếc rương của Golodkin đã biến mất, những cuộn băng đã biến mất, Golodkin đã chết.
Khi Arkady đi xuống phố, những người cảnh sát trên tầng đang truyền tay nhau những thùng rượu, đồng hồ, quần áo, một quả dứa, ván trượt, làm anh liên tưởng - trừ chính mình ra - tới đám kiến đang cần mẫn làm việc dưới những mẩu vụn.
Án Mạng Ở Công Viên Gorky Án Mạng Ở Công Viên Gorky - Martin Cruz Smith Án Mạng Ở Công Viên Gorky