Số lần đọc/download: 924 / 10
Cập nhật: 2017-05-09 22:20:55 +0700
Chương 9
K
hi đã cởi bỏ lớp cải trang và cuốn lại cẩn thận cất đi, Freddy lên nhà trên. “Phải vượt qua thôi,” chú nghĩ. Nhưng ông Bean đang ngồi trên mấy bậc thềm nhà bếp, lặng lẽ hút cữ thuốc chiều. Rõ ràng ông ấy chưa phát hiện ra việc mất khẩu súng. Thế là con heo đi xuống khu chuồng bò để nói chuyện với bà Wiggins về những phát hiện mới; lâu nay bà vẫn là cộng sự của chú trong công việc thám tử. Bà Wiggins không thật thông minh - ít bò nào thông minh lắm - nhưng bà có sự sáng suốt, thứ mà Freddy, bằng kinh nghiệm, đã thấy là còn hữu ích hơn nhiều.
“Có vẻ lúc cậu ở trong hầm chứa thì Kẻ Mặt Mịt cũng đang có trong căn nhà ấy,” bà nói. “Và hắn cố dọa cậu sợ bằng cái ống cao su với mẩu giấy cảnh cáo. Tuy nhiên...”
“Sao cơ?”
“Chà,” con bò nói, “vô lý thật. Theo như mọi nguồn tin thì Mặt Mịt trông rất khủng khiếp. Kiểu kiểu như một con hà mã có cánh và có sừng, tôi tổng kết được thế. Nhưng tại sao một con vật như vậy lại phải mất công dọa dẫm bằng mấy mẩu giấy và ống cao su? Sao hắn không cứ thế mà đến ngay đầu cầu thang hầm chứa và nói, ‘Gr-r-r!’”
“Chao ôi!” Freddy nói. “Đúng đấy. Ý chị là...?”
“Trời ạ, tôi chẳng biết mình có ý gì đâu,” con bò nói. “Tôi chỉ nói điều tôi nghĩ thôi. Cậu khôn ngoan mà. Cậu muốn suy ra ý tôi là gì thì tùy cậu. Phải tay tôi, nếu tôi là một con trông dữ dằn như thế, tôi sẽ tự hào về điều đó. Tôi sẽ không núp trong rừng để cho thiên hạ phải thắc mắc mặt mũi mình thế nào đâu. Tôi sẽ chui ra và lộ diện, làm cho bà con hãi ngất đi luôn.”
“Biết đâu hắn xấu hổ vì quá xấu xí,” Freddy nói.
“Hắn có mỗi mình thì làm sao nói được là xấu xí? Nếu hắn có anh chị em thì mới nói được là xấu xí hơn mấy đứa kia chứ. Lấy bò làm ví dụ này. Là một con bò, tôi biết, tôi không đặc biệt đẹp. Không thực sự có phong cách, cậu có thể nói thế.”
“Tôi nghĩ chị vô cùng có phong cách,” Freddy nói một cách lịch sự.
“Vậy thì cậu không khôn ngoan như tôi tưởng rồi,” bà Wiggins nói. “Ý tôi là, nếu tôi là con bò duy nhất trên đời, tôi có thể đi đâu cũng nghĩ mình khá xinh đẹp, bởi vì chẳng có con bò nào khác để mà so sánh. Và Mặt Mịt có lẽ cũng thế. Hắn không biết một Mặt Mịt đẹp đẽ thì trông thực sự ra sao.”
“Tôi hiểu ý chị rồi,” con heo nói. “Chà, thế nếu không phải hắn xấu hổ vì xấu xí thì tại sao hắn lại phải mất công viết cái mẩu giấy đó, trong khi cứ để tụi này thấy mặt hắn có khi tụi này còn hãi hơn nhiều?”
“Tôi đoán là, hắn trông chẳng có gì đáng sợ,” bà Wiggins nói.
“Chà,” Freddy nói. “Tôi chưa bao giờ tin là có một Kẻ Mặt Mịt. Không thực sự tin. Nhưng sau cái sự tin rằng chẳng có con nào ấy thì bây giờ là con này vừa bé vừa nhút nhát. À mà trời ơi,” bất ngờ chú kêu lên, “có nhớ con vật kỳ quái với đuôi trắng và râu trắng ở nhà băng mà tôi kể chị không? Hay chính là hắn?”
“Tại sao không nhỉ? Mà có khi cái lông vũ trắng mà cậu tìm thấy là rụng ra từ đuôi hắn.”
“Thú vật không có lông vũ,” Freddy nói.
“Cậu nói là cậu chưa bao giờ thấy một con có lông vũ,” con bò nói. “Nhưng cậu cũng đã bao giờ thấy một Kẻ Mặt Mịt đâu mà nói được?”
“Tôi cho rằng tốt hơn là tôi về nhà mà ngẫm nghĩ kỹ chuyện này,” Freddy nói. Chú đi xuống khu chuồng heo và hạ mình khoan khoái trong chiếc ghế đu đưa cũ, hai cẳng sau kê trên cái bàn bên cạnh máy đánh chữ, và chìm vào suy nghĩ sâu xa.
Khi Freddy tỉnh giấc, những tia mặt trời mới mọc đang tìm cách len qua khe cửa sổ bụi bặm bên cạnh chiếc ghế chú ngồi, và từ từ hóa vàng ươm. ‘Trời ơi,” chú tự nhủ, “mình đã suy nghĩ cả đêm!” Chú ngồi dậy, xoa xoa mắt, rồi bất thình lình nhảy bắn lên, chạy ra ngoài cửa, vì có ai đó đang gõ gõ. “Chào Robert,” chú nói. “Chà, gọi gì mà sớm thế. Chú có việc gì thế?”
Con chó to bước vào và ngồi xuống. “Nhiều lắm,” nó nói. “Tôi đoán chắc cậu chưa nghe gì vì cậu mới dậy mà.”
“Ồ, tôi chỉ thiếp đi chút thôi,” Freddy nói. “Suốt đêm ngồi đây trù tính một vấn đề.”
“Chà, thế thì biết đâu cậu đã nghe thấy gì đó trong đêm. Những bước chân chẳng hạn... một kẻ nào đó lởn vởn quanh?”
“Không nói được là tôi có nghe. Nhưng chú thấy đấy, khi suy nghĩ tôi tập trung ghê lắm. Khi ấy những tiếng động bên ngoài chẳng còn nghĩa lý gì đối với tôi.”
“Tôi đồ rằng đêm qua tôi cũng suy nghĩ hệt kiểu ấy,” con chó to nói. “Mà thôi, rất nhiều lúa mạch bị ăn trộm khỏi ngăn chuồng ngựa Hank, hai bộ trải giường đẹp nhất của bà Bean, hai cái áo sơ-mi đẹp nhất của ông Bean cũng bay mất, lại thêm khẩu súng săn của ông Bean ở cái tủ ngoài bếp nữa chứ. Sao chúng lấy được khẩu súng tôi cũng không hiểu nổi, vì George và hai con mèo với tôi đều ngủ trong bếp. Chúng tôi có thể không nghe thấy kẻ nào trong khu chuồng trại hay ngoài sân gà vịt, nhưng không hiểu làm sao một tên trộm có thể đi băng qua bếp mà không đánh thức chúng tôi. Thế mà hắn làm được đấy.”
“Khẩu súng của ông Bean phải không?” Freddy nói. Hai cẳng chú như lả đi, và chú vội ngồi xuống cái ghế đung đưa.
“Vâng. Ông Bean cáu chuyện đó lắm. Ông ấy cứ nhìn George và tôi rồi nói, ‘Tưởng hai đứa bay là chó canh chứ!’ Và ông ấy cứ thế bập tẩu miết, tới mức tôi nghĩ khéo ông làm cháy ria mất, xong ông đi ra khu chuồng trại. Kinh khủng, Freddy à. Tôi đã làm công việc canh gác nơi đây được tám năm rồi, nhưng chưa bao giờ xảy ra chuyện thế này.”
Freddy buông một tiếng thở dài. “Chà,” chú bảo, “tôi có thể giải thích vụ khẩu súng. Là tôi lấy đấy.”
“Cậu lấy?” Robert kêu lên.
Thế là con heo giải thích. “Thật không phải khi anh và George lại bị khiển trách,” Freddy kết lại. “Tôi sẽ đi gặp ông Bean và kể cho ông ấy ngay.”
“Chờ một phút,” Robert nói. “Ngay dù cậu có khai về khẩu súng thì ông ấy vẫn còn điên lắm vì bị mất lúa mạch với quần áo. Nếu cậu có thể bắt tay vào dò ra coi mấy thứ đó ở đâu rồi mang về, có lẽ cả khẩu súng luôn, biết đâu ông ấy sẽ không giận cậu và cũng chẳng giận chúng tôi nữa.”
Thế là Freddy quyết định có lẽ thế là hay nhất. Chú cực kỳ muốn thú nhận về khẩu súng săn, nhưng nếu làm thế chú sẽ phải nói chuyện với ông Bean, ông Bean lại khá là cổ lỗ sĩ và không nghĩ rằng súc vật có thể nói tiếng người. Ông luôn luôn khó xử mỗi khi có một con trong đám quên mất điều này và nói, “Chào ông.” Ông nghĩ súc vật thì chỉ nên để người ta “thấy” mà không nên để người ta “nghe”.
Thế là Robert và Freddy đi lên khu chuồng trại. Vô số súc vật đang đứng quanh đó bàn luận về vụ trộm. Chúng dẹp đường cho Freddy, nhìn chú một cách kính nể, và chú nghe có ai đó nói: “Ồ, mừng quá, cậu ấy tới rồi! Cậu ấy là một thám tử vĩ đại, bồ biết đấy. Cậu ấy sẽ tìm ra ngay đứa nào ăn trộm.”
Hank, con ngựa trắng già, đứng bên cạnh thùng lúa mạch. “Chà, Freddy,” nó nói, “việc này rắc rối phết.”
“Khá nghiêm trọng,” con heo bảo. “Nào, bác Hank, bác có nghe gì hay thấy gì suốt đêm qua khiến bác nghi ngờ có điều gì đó đang diễn ra không?”
“Không thể nói được,” con ngựa đáp. “Cậu không thể trông chờ tôi thấy được gì nhiều trong một cái chuồng ngựa về đêm, đặc biệt khi tôi đang thiếp ngủ và mắt thì nhắm.”
“Vậy có tiếng động nào khả nghi không?” Freddy hỏi.
“Nhiều lắm. Nhưng cậu biết rồi đấy: tiếng động nào ban đêm chả khả nghi. Mà cái chỗ cũ xì này thì đầy những tiếng kiểu đó - cọt kẹt với răng rắc với sột soạt với rầm rì. Ôi trời, tôi mà quan tâm tới chúng thì sẽ chẳng bao giờ chợp mắt được.”
“Bác chẳng giúp được mấy nhỉ,” Freddy nói. “Chà chà, ở đây có ít lúa mạch đổ trên sàn! Đằng kia lại có thêm một ít. Thế là thấy đường đi của tên trộm rồi. Xem bên ngoài nào.”
“À ha!” chú nói trịnh trọng khi len qua đám đông ngoài cửa. “Đây một đống nữa. Chà, nếu tên trộm cũng bất cẩn thế này trên suốt đường về nhà, chúng ta hoàn toàn có thể tìm ra hắn là ai.”
Dấu vết ấy lần theo thật dễ. Cứ mỗi khoảng nhỏ lại có vài hạt lúa mạch được rắc xuống, và Freddy bước từ từ băng qua khu chuồng trại, theo sau là đám đông lũ súc vật đầy ngưỡng mộ.
“Cậu ấy tuyệt quá phải không?” Alice nói. “Chính chị cũng thấy lúa mạch đấy, nhưng không bao giờ nghĩ ra được thế là có nghĩa gì.”
“Freddy đôi khi làm em nhớ cậu Wesley mình quá đi mất,” Emma nói. “Cậu ấy nhìn ra mọi việc mới nhanh làm sao. Dĩ nhiên Freddy không có được vẻ đường bệ, vẻ... vẻ chững chạc ấy.”
“Chà,” chị nó nói, “mong một con heo có được cũng khó lắm.”
Tuy nhiên, đường đi mà tên trộm dẫn dắt bắt đầu làm Freddy hoang mang, rồi làm chú cảnh giác, bởi nó đi thẳng xuống chuồng heo.
Chuồng heo có hai ngăn: ngăn lớn mà Freddy gọi là phòng làm việc của chú, và một ngăn nhỏ hơn ở phía sau được gọi là thư viện, trong đó chú cất những món cải trang thừa, sổ kế toán cũ của nhà băng, và một bộ Shakespeare Toàn tập. Có một cánh cửa nhỏ từ bên ngoài dẫn vào thư viện, và ngay đằng trước là một nắm lúa mạch. Và chính tại đó Freddy đã phạm sai lầm.
Thay vì mở cửa ra, chú dừng lại và quay về phía đám súc vật. “Kiểu này là dấu vết che mắt rồi,” chú nói. “Dù kẻ ăn trộm lúa mạch có là ai đi chăng nữa, kẻ ấy ắt phải đánh lạc hướng chúng ta, và rồi mang lúa mạch sang một hướng khác. Tốt hơn là ta nên quay về và thử lần nữa.”
“Chà, tôi không biết à nha,” ngựa Hank nói. “Nếu một dấu vết dẫn tới một cánh cửa, và cánh cửa ấy đóng, thì việc đương nhiên là phải mở nó ra, đúng không? Tôi không biết, nhưng với tôi hình như là thế.”
“Xì!” Freddy nói. “Bọn trộm sẽ chẳng đi giấu những thứ chúng ăn cắp ngay trong nhà riêng của thám tử làm gì, đúng chưa?”
“Có vẻ không phải thế,” chó Robert nói, “nếu vị thám tử ấy ngồi cả đêm suy nghĩ. Vậy sao không mở cái cửa ra?”
“Chỉ tốn thì giờ,” Freddy gậm gừ. “Nhưng nếu chú cứ khăng khăng...” Và Freddy đẩy cửa mở ra. Trên sàn là một bó thứ gì đó cột lại trong một tấm khăn trải giường. Jinx chạy tới trước cào bung một góc, và một dòng lúa mạch chảy ra.
“Chà, lạy thánh thần!” Freddy nói yếu ớt.
“Cậu nói lạy thánh thần là đúng đấy!” Henrietta nhận xét khô khốc. “Tôi đoán cậu nên có đôi lời giải thích chứ, Freddy.”
“Giải thích!” Freddy nói. “Tôi có thể giải thích gì nào? Tôi cũng sửng sốt ngang với quí vị vậy. Tôi ước phải chi có ai đó giải thích được chuyện này.”
"Cậu nói lạy thánh mẫu là đúng đấy!"
“Với tôi thì chẳng có gì khó giải thích cả,” Robert vừa nói vừa, nhìn con heo một cách nghiêm khắc. “Tôi thấy dường như cậu có hơi bất cẩn, để lúa mạch đổ ra khi vác xuống đây đêm qua.”
“Tôi á?” Freddy kêu ầm lên. “Chú nghĩ tôi ăn trộm á? Tôi làm gì với cái đống lúa mạch ấy chứ? Heo có ăn lúa mạch đâu.”
“Đúng,” con chó nói, “nhưng cậu phải trả lúa mạch và bắp và hạt và đủ thứ khác cho đám súc vật đã mất của trong vụ trộm nhà băng. Cậu có thể dùng số lúa mạch này cho việc đó. Như thế cậu sẽ không phải tiêu số tiền cậu đã kiếm được.”
“Vớ vẩn!” Freddy giận dữ nói. “Bọn trộm đưa cái của nợ này vào nhà tôi để có vẻ như tôi đã ăn trộm. Súc vật các bạn có điên không mà rơi vào một cái bẫy như thế chứ?”
Chú nhìn quanh đám bạn bè, nhưng chúng đều lắc đầu nghi hoặc. “Tức cười thật, Freddy,” Hank nói. Và Robert đế thêm, “Cậu bảo tôi cậu thức cả đêm. Thế nếu chúng kéo tấm trải giường này vào đây, cậu bên kia, chỉ cách có một bức vách mỏng, chẳng lẽ cậu không nghe tiếng chúng?”
“Chà, tôi không chắc tôi có thức cả đêm không,” Freddy nói. “Chắc chắn thỉnh thoảng tôi có thiếp đi vài phút. Khi phải hoạch định vấn đề gì khó, tôi thấy rất hữu ích nếu ngưng suy nghĩ và chợp mắt một tí. Và rồi bắt đầu trở lại thật tỉnh táo.”
Chú cố làm cho mọi việc nghe càng có lý càng tốt. Nhưng Henrietta nói: “Xời! Thế sao lúc nãy cậu không mở cửa ra ngay nếu cậu vô tội thế?”
“Nói thật nhé, lúc ấy tôi sợ phải tìm thấy cái mà chúng ta đã thấy đây. Khi dấu lúa mạch dẫn đến cửa nhà tôi, tôi biết rất rõ sẽ có chuyện gì, và tôi biết thể nào các vị cũng nghi tôi.”
“Hừm, cậu hoàn toàn đúng,” Henrietta nói thẳng thừng.
“Chính cậu thừa nhận cậu lấy khẩu súng mà,” Robert nói. “Sao chúng tôi lại không nghĩ cậu cũng lấy mấy thứ kia được chứ? Chúng tôi biết cậu, Freddy, và chúng tôi đều ái mộ cậu, nhưng cậu phải thừa nhận đi, những việc này là rất kỳ quặc.”
“Chà...” Freddy nói, và rồi dừng lại, vì lúc đó chú thấy ông Bean đang lần theo vết lúa mạch từ khu chuồng trại. Ông lần theo chầm chậm - mặc dầu không chậm như Freddy lúc nãy - và ông đến cánh cửa đang mở, ngó vào, thấy đống lúa mạch. Ông bập mạnh tẩu thuốc mất một phút, rồi lần lượt ngó cả đám súc vật, cuối cùng ngó Freddy. “Hừm!” ông nói, vẻ căm ghét. “Ăn cắp hả? Ta không ngờ lại là ngươi...” Thế rồi ông lắc đầu buồn bã và quay về nhà. Sau khi đã nhìn Freddy đầy thương cảm mất một phút, đám súc vật cũng bám theo ông.
Cho tới lúc này đám bạn Freddy thực ra cũng chẳng lấy làm nghiêm trọng lắm trong những điều chúng nói. Chúng chỉ cảm thấy khá là vui khi tóm được con heo trong một tình thế dở khóc dở cười, nhưng chúng không thực sự tin là chú ăn cắp lúa mạch. Tuy vậy khi ông Bean dường như chắc chắn việc ấy, một số con bắt đầu nghi ngờ. “Chẳng tên trộm nào lại mất công ăn cắp lúa mạch, rồi thay vì đem về nhà mà chén lại đem giấu trong chuồng heo,” chúng nói. “Và sao lại phải đổ nghi ngờ lên Freddy thế chứ? Làm thế thì được gì nào?”
“Ôi xời,” Jinx nói. “Có ai nghe nói một thám tử lại đi theo dõi chính mình chưa? Nếu ăn cắp, cậu ấy đã chẳng dẫn cả đám đi thẳng tới nơi cậu cất giấu.” Nhưng bọn súc vật vẫn nghi ngờ. Thế là Jinx quay lại.
“Này, Freddy,” nó nói. “Chúng tôi ủng hộ cậu. Chúng tôi biết cậu không ăn trộm. Tuy nhiên sẽ có vô khối lời xầm xì, và cậu sẽ trở thành con heo không ai ưa, trừ phi cậu bắt được tên trộm.”
“Quá chuẩn luôn,” Freddy nói đầy cay đắng. Chú ít khi dùng tiếng lóng, và việc phải dùng tới tiếng lóng lúc này cho thấy chú đã phiền lòng tới cỡ nào.
“Đúng đấy,” con mèo nói. “Cậu phải bắt tay vào thôi. Nào Freddy. Cậu biết người ta vẫn nói về cậu thế nào rồi đấy: Freddy luôn hiểu được lũ súc vật của mình. Hãy phô diễn tài nghệ Sherlock Holmes đi, tôi sẽ theo cậu đến cái móng cuối cùng. Tôi không giỏi trò thám tử, nhưng nếu có ẩu đả... chà, thì Jinx đây có ngay!” Và nó cong vòng lưng lại, phạt chân một cách hung hãn.
Freddy cười lớn. “Tôi chưa đến nỗi vô dụng thế đâu,” chú nói, “mặc dầu tôi không biết liệu thứ mà tôi vừa phát hiện ra có nhiều ý nghĩa không. Nhưng vào phòng làm việc đi và để tôi kể anh nghe về chuyến đi vừa rồi của tôi vào Rừng Lớn.”
Thế là chúng đi vào phòng làm việc và Freddy treo bên ngoài cửa một tấm biển ngoài cửa, ghi: Đang Họp: Xin Chớ Quấy Rầy. Đám súc vật trang trại rất tò mò; nếu thấy cái biển này và thực sự nghĩ đang diễn ra một cuộc họp, chúng sẽ vào phòng với một cái cớ nào đó hầu có thể nghe ngóng được tí chút. Nhưng qua kinh nghiệm, chúng cũng đã biết rằng, mỗi khi có cái biển đó thì thường là Freddy đang ngủ. Và việc đó dĩ nhiên chẳng có gì để mà tò mò. Thế là Freddy khá chắc ăn rằng hai đứa nó sẽ không bị ai xen vào.