Số lần đọc/download: 2098 / 40
Cập nhật: 2016-07-13 10:11:04 +0700
Chương 7: Chiến Dịch Điện Biên Phủ
T
ẠI SAO LẠI ĐIỆN BIÊN PHỦ?
Chúng ta đến cái “chỗ trũng” heo hút trên vùng cao Bắc bộ này để làm gì? Câu hỏi này không biết đã bao nhiêu lần được đặt ra.
Để có thể hiểu được các lý do khiến tôi quyết định chiếm giữ cứ điểm Điện Biên Phủ và chấp nhận trận đánh tại đây, ta phải quay trở lại tình hình vào cuối tháng 10 năm 1953, khi Việt Minh từ bỏ kế hoạch đánh vào vùng châu thổ và chuyển các nỗ lực của họ về phía vùng cao Bắc Bộ và Bắc Lào.
Vào cuối tháng 10, chúng ta liên tiếp nhận được tin là lực lượng du kích của ta ở xứ Thái bị hai trung đoàn chính quy tiến công và sư đoàn 316 đã rời vùng ranh giới của miền châu thổ để tiến về Lai Châu.
Đầu tháng 11, có các dấu hiệu cho thấy một sự di chuyển về vùng phía núi của các đơn vị quan trọng chưa được xác định của các sư đoàn 304, 308 và 312 theo sau sư đoàn 316.
Dần dần, qua các nguồn tin rất chính xác, chúng ta nắm được kế hoạch của Việt Minh. Tại vùng Tây Bắc Đông Dương, họ nhằm mục đích tiêu diệt lực lượng du kích của ta ở vùng xứ Thái, các căn cứ phòng thủ tại Lai Châu, và bành trướng sức mạnh của họ trên toàn bộ lãnh thổ Bắc Lào (Phong Saly – Nậm Bạc - Luang Prabang), kiểm soát hoàn toàn biên giới Trung Quốc - Lào, áp sát vùng biên giới nước Xiêm. Chỗ dựa để tung ra những cuộc hành quân nói trên là Điện Biên Phủ.
Đứng trước tình hình rất rõ như vậy, ngay trong giai đoạn cuối của mười ngày đầu tiên tháng 11, vấn đề đòi hỏi là phải có ngay một quyết định, nếu không thì sẽ bị đối phương qua mặt. Có nên bảo vệ nước Lào hay không? Nên lắm chứ, nhưng phải làm như thế nào?
o O o
Việc bảo vệ nước Lào luôn là một trong những việc làm thường xuyên bắt buộc của Tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương. Nhưng giai đoạn chiến tranh 1952-1953 là thời kỳ mà gần như toàn bộ các lực lượng dự trữ đã được huy động để đảm bảo chiến đấu, cho thấy tình trạng hết súc khó khăn của ta.
Ở phần trên tôi có nói đến câu hỏi được đặt ra tại Ủy ban Quốc phòng Quốc gia vào tháng 7 năm 1953 (Xem chương 3) là liệu có nên loại bỏ việc bảo vệ nước Lào khỏi nhiệm vụ của Tổng chỉ huy quân đội Pháp tại Đông Dương hay không? Nhưng đã không có một quyết định nào được đưa ra. Do đó sứ mạng này, mặc dù không được gia hạn, nhưng vẫn tồn tại.
Nhiệm vụ này còn có ý nghĩa lớn lao và có tính bắt buộc hơn khi, vào ngày 28 tháng 10, một hiệp ước đã được ký ở Paris với Chính phủ Pháp, qua đó chính phủ Lào gia nhập khối Liên hiệp Pháp và nước Pháp cam kết có trách nhiệm bảo vệ nước Lào.
Hiệp ước đó được giới ngoại giao của chúng ta xem như một mẫu mực để về sau sẽ thực hiện với Việt Nam và Campuchia1. Không tôn trọng lời cam kết này 15 ngày sau khi đặt bút ký, đồng nghĩa với sự phá sản chắc chắn của chính sách này.
Khi được tôi hỏi ý kiến vào đầu tháng 11, ông Tổng ủy đã trả lời rằng không thể bỏ rơi nước Lào được. Ông Marc Jacquet, Tổng trưởng Bộ Quan hệ với các Quốc gia Liên kết khi đến Đông Dương vào giữa tháng 11 đã phát biểu với tôi một quan điểm tương tự. Ông thẳng thắn cho rằng nếu Việt Minh chiếm được vùng Luang Prabang và áp sát sông Mêkông thì nó sẽ tạo ra một cú sốc với dư luận nước Pháp và sẽ không thể nào tiếp tục cuộc chiến tranh được.
Việc phòng thủ nước Lào được nhất trí nhưng tiến hành nó như thế nào? Phải trực tiếp bảo vệ nước Lào hay phòng thủ nó một cách gián tiếp bằng cách tung lực lượng từ vùng châu thổ, buộc Binh đoàn Tác chiến Việt Minh, hoặc ít nhất là một phần lực lượng của nó phải ra mặt đối đầu với ta? Vấn đề này nằm trong chiến lược chung cho chiến trường Đông Dương mà chúng ta đã có nghiên cứu ở phần trước (Xem chương 6). Chúng ta còn nhớ do thiếu thốn về phương tiện nên cho dù tôi có muốn làm khác đi như thế nào, tôi vẫn phải quyết định phương án phòng thủ một cách trực tiếp nước Lào.
Việc phòng thủ này sẽ dựa vào khu vực nào?
Từ xứ Thái, nơi tập kết của Việt Minh, các con đường dẫn qua Lào được tập trung thành hai nhánh. Cả hai đều hướng về vùng Mêkông Thượng. Con đường phía đông đi qua Sầm Nưa và cao nguyên Tra Ninh, về phía Paksane, Luang Prabang và Vien Tiane. Nó được kiểm soát bởi một cứ điểm trong vùng cánh đồng Chum, do tướng Salan lập ra từ năm trước. Con đường đi về phía tây, tốt hơn rất nhiều, xuất phát từ Tuần Giáo, đi qua Điện Biên Phủ và thung lũng Nậm U, có đường sông có thể di chuyển được, hướng về Luang Prabang, sau đó đến Vien Tiane.
Nhưng theo những nguồn tin chắc chắn chúng ta nhận được, thì chính con đường thứ hai này sẽ được các lực lượng Việt Minh sử dụng. Việc tính toán sơ bộ cho thấy Binh đoàn Tác chiến của Việt Minh có thể sẽ có mặt tại Điện Biên Phủ ngày 1 tháng 12 và đến Luang Prabang vào khoảng ngày 1 tháng giêng 1954. Chúng ta dự kiến trong các tuần lễ đầu của năm 1954, ít nhất là những đơn vị nhẹ đầu tiên của Việt Minh sẽ đến được vùng Vien Tiane, tiến đến bờ sông Mêkông dọc theo biên giới nước Xiêm.
Việc phòng thủ nước Lào không thể được đảm bảo bằng chiến tranh cơ động. Trong chương trước tôi có nói đến các lý do: tính đặc thù của địa hình và việc không thể thích ứng được của các lực lượng phía chúng ta.
Do đó ta phải tìm một phương pháp đánh khác, theo cách gọi cổ điển là “chiến tranh chiến lũy” hoặc theo cách gọi hiện đại là hệ thống những “con nhím” hay hệ thống “cụm cứ điểm”. Phương pháp này có thể cho một giải pháp không tốt lắm, nhưng suy cho cùng đây là giải pháp duy nhất có thể có được. Nó sẽ không ngăn chặn các đơn vị nhẹ của địch tiến đánh các vị trí nhỏ lẻ trên đất Lào nhưng do ta trấn giữ được những điểm trọng yếu nên sẽ ngăn chặn được đối phương xâm chiếm nước này. Đây chính là phương cách tướng Salan đã sử dụng vào năm ngoái.
Nhưng vấn đề là đặt các chiến lũy, con nhím, cụm cứ điểm đó ở đâu?
Dù là cân nhắc tình hình một cách sơ đẳng nhất, không ai có thể chấp nhận phòng thủ nước Lào chỉ tại Luang Prabang hay Vien Tiane.
Về mặt chính trị, cũng giống như chúng ta phòng thủ nước Pháp ngay tại Paris hoặc Orléans. Trên thực tế, Luang Prabang có tầm quan trọng về mặt chính trị rất lớn, trong khi Vien Tiane chỉ là thủ đô hành chính, không có một tầm quan trọng nào cả. Vì vậy, chiến đấu để bảo vệ Luang Prabang có thể mang lại nhiều lợi ích lớn, trong khi phòng thủ bảo vệ Vien Tiane thì không có một ích lợi nào cả. Chẳng thà sơ tán khỏi tất cả vùng Bắc Lào còn có lợi hơn.
Đứng về mặt quân sự, thì cả hai thành phố này đều không thể được phòng thủ trong những điều kiện tốt, cả trên mặt đất lẫn từ trên không. Luang Prabang nằm gọn trong một cái lỗ bị đồi núi vây chặt từ mọi phía. Vào bất cứ thời điểm nào trong năm, việc tiến đến gần bằng máy bay cũng đều rất khó khăn. Việc phòng thủ Vien Tiane trên bộ sẽ dễ dàng hơn nếu chúng ta phát hoang được vùng rừng rậm chung quanh. Hơn nữa cả hai sân bay của hai thành phố này đều không nằm trong cự ly thuận lợi để có thể gom chung trong một cứ điểm phòng thủ duy nhất, trừ khi phải đầu tư vào đấy những phương tiện rất lớn. Cuối cùng cự ly của chúng với các sân bay ở vùng châu thổ là quá xa.
Cho dù bằng cách chấp nhận sử dụng số lượng phương tiện chiến tranh khổng lồ1, chúng ta có thể giữ được Luang Prabang và Vien Tiane trong một thời gian đủ để buộc đối phương từ bỏ những cuộc tấn công trực diện vào hai thành phố này, nhưng quân đội ta sẽ bị địch nhanh chóng bao vây. Sự phòng thủ của hai thành phố sẽ không ngăn chặn được Việt Minh chiếm đóng các vùng chung quanh và tiến sát về vùng biên giới nước Xiêm. Đây là mục tiêu chính trị của họ.
Nếu không bị bắt buộc phải giao tranh trên chiến trường, địch quân vẫn có thể đạt được mục tiêu đó mà không phải đưa vào vòng chiến cả Binh đoàn Tác chiến của họ. Một phần đáng kể của Binh đoàn này vẫn có thể được sử dụng hoặc ở vùng châu thổ, hoặc để tăng cường các lực lượng khác của họ ở vùng miền Trung Đông Dương. Như vậy, giai đoạn chiến tranh năm 1954 sẽ chứng kiến sự thất thủ chắc chắn của vùng Bắc Lào, kèm theo hoặc có thể là một trận đánh lớn vào châu thổ với một sự thất lợi lớn về mặt quân số của chúng ta và khả năng chuyển biến xấu nghiêm trọng cho ta2, hoặc có thể là một cuộc Nam Tiến của Việt Minh ngang qua vùng Trung Lào.
Để ngăn cản khả năng của Việt Minh vừa tiến sát đến bờ sông Mêkông mà không cần phải giao tranh, vừa giữ được các lực lượng cần thiết để có thể uy hiếp được ta ở các nơi khác, ta chỉ có một giải pháp duy nhất: chặn ngay con đường họ sẽ đi qua bằng một cứ điểm. Căn cứ này sẽ được thiết lập theo cách nào đó khiến Việt Minh nếu muốn đi vòng qua đó thì phải tìm cách ngụy trang một lực lượng rất quan trọng, hoặc phải tiến công nó trước khi vượt qua đấy.
Vậy thì phải đặt căn cứ này ở đâu?
Lai Châu là kinh đô của xứ Thái và là căn cứ duy nhất của lực lượng trên bộ có sân bay duy nhất mà chúng ta có thể có được tại vùng cao. Nó ở quá xa trục lộ chúng ta muốn ngăn chặn. Hơn nữa, nếu nó bị đặt trước một sự uy hiếp nghiêm trọng, thì chúng ta không thể phòng thủ được cứ điểm này. Sân bay tại đây nằm khuất trong một thung lũng rất hẹp. Cho dù thời tiết có tốt, khi muốn hạ cánh, máy bay phải lượn như làm xiếc. Thế nhưng, thời tiết ở đây lại thường rất xấu.
Cứ điểm duy nhất có thể lập được một căn cứ cho lục quân và không quân nằm cách Lai Châu 90 km về phía nam: Điện Biên Phủ.
Giá trị chiến lược của Điện Biên Phủ đã được xác lập từ lâu. Đây là nơi mà rất lâu, những kẻ xâm lược từ phương Bắc đã đi qua để tràn vào vùng Mêkông Thượng. Chúng ta luôn giữ ở đâu một lực lượng đồn trú, trước khi phải rút đi vì sức ép của Việt Minh.
Trước khi mãn nhiệm kỳ công tác, tướng Salan đã đề nghị chiếm lại Điện Biên Phủ. Trong một bản nghiên cứu đề ngày 25 tháng 5 năm 1953, khi nói về công tác phòng thủ nước Lào, tướng Salan viết: “Phải củng cố các lực lượng hiện tại bằng cách tổ chức một tung tâm kháng cự mới tại Điện Biên Phủ. Tôi đã ra lệnh tái chiếm khu vực này ngay từ đầu tháng giêng năm 1953, khi tôi nhận định nó rất cần thiết cho sự an toàn của kinh đô Luang Prabang. Các sự kiện xảy ra vào tháng tư và tháng năm đã chứng minh tính cấp bách của một cuộc hành quân như vậy. Chỉ vì thiếu phương tiện vận chuyển đường không nên ta không thể thực hiện được cuộc hành quân trước khi Việt Minh mở cuộc tiến công vừa qua”.
Các nhà lãnh đạo Lào, những người biết rất rõ đất nước họ, nhận định rằng chừng nào ta chưa chiếm lại được Điện Biên Phủ, thì con đường của Việt Minh tiến vào Luang Prabang vẫn còn được rộng mở, vì từ Điện Biên Phủ đến Luang Prabang không có một nơi nào khác có thể tổ chức phòng thủ được.
Và cuối cùng, chúng ta biết là Việt Minh cũng đánh giá Điện Biên Phủ có một giá trị cốt yếu1.
Trên thực tế, tính cách quan trọng của Điện Biên Phủ là không thể chối cãi được, cả trong cuộc chiến ta đang theo đuổi lẫn khi phải mở rộng chiến tranh. Đây là bản lề của các trục đường nối liền các vùng biên giới Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc. Tránh đi qua địa điểm này là cực kỳ khó khăn vì chỉ có những đường mòn dọc núi. Những cánh đồng ở Điện Biên Phủ là những cánh đồng đông dân cư và giàu có nhất vùng thượng du. Sản lượng gạo ở đây rất cao, đủ đảm bảo lương thực trong nhiều tháng cho từ 20.000 đến 25.000 người. Sân bay có khả năng được nới rộng ra một cách dễ dàng từ hai đến ba lần1.
Tuy vậy Điện Biên Phủ cũng có một hạn chế rất lớn về mặt sử dụng không quân, đó là cự ly giữa nó với các sân bay vùng châu thổ, nơi đồn trú lực lượng không quân của chúng ta. Nhưng ta phải chấp nhận, vì không có một giải pháp thay thế nào khác. Việc chi viện bằng không quân cho một trận đánh ở Điện Biên Phủ dù vậy vẫn dễ dàng hơn chi viện cho một trận đánh ở Luang Prabang hay Vien Tiane.
Hơn nữa nếu vấn đề cự ly gây cho chúng ta những khó khăn về mặt không quân, thì nó cũng tạo ra cho Việt Minh những khó khăn về mặt hậu cần. Điện Biên Phủ cách vùng châu thổ 200 km, cách biên giới Trung Quốc 300 km2. Các con đường nối liền Điện Biên với biên giới Trung Quốc hoặc không có, hoặc bị phá hủy. Mặt khác để tiến công vào Điện Biên Phủ, Binh đoàn Tác chiến Việt Minh chỉ có thể được tiếp tế bằng các đoàn dân công. Do đó, sức mạnh của họ bị hạn chế. Trong một bản nghiên cứu vào tháng 5 năm 1953 về các cuộc hành quân ở các vùng thượng du, tướng Salan cho biết quan điểm của ông là Việt Minh không thể nào sử dụng vũ khí nặng với một số lượng lớn được. Nhưng cường độ chi viện lớn của Trung Quốc làm cho nhận định này hoàn toàn sai.
Đứng về mặt chiến thuật, điều kiện phòng thủ của Điện Biên Phủ cũng tương tự như mọi cứ điểm được thiết lập trên các vùng núi, được bố trí chung quanh một sân bay. Vị trí của nó nằm trên một chỗ trũng. Không thể nào làm khác hơn, vì chúng ta chưa tìm được phương pháp xây dựng sân bay trên các ngọn núi. Tuy nhiên lòng chảo Điện Biên Phủ rộng nhất so với mọi nơi khác ở vùng thượng du. Đáy của lòng chảo là một cánh đồng thật rộng lớn với kích thước 16km chiều dài và 9km chiều ngang, bằng phẳng, thoáng, tạo điều kiện tuyệt vời cho việc sử dụng thiết giáp3.
Các ngọn núi cao nằm cách sân bay từ 10 đến 12km. Sân bay được các cứ điểm bọc quanh. Cự ly này dài gấp đôi cự ly hữu dụng của pháo binh địch. Các đơn vị pháo binh đối phương chỉ có thể bắn đi từ những triền núi đổ về phía lòng chảo. Lực lượng phòng không cũng phải tác xạ như thế nếu họ muốn khống chế vùng trời phía trên sân bay. Theo ý kiến của tất cả các chuyên gia pháo binh, thì không thể đặt pháo ở vị trí như vậy và trận địa pháo sẽ bị các đài quan sát đặt trong lòng chảo phát hiện, lúc họ đang chuẩn bị hoặc lúc họ khai hỏa. Chúng sẽ bị không quân và pháo binh của chúng ta bịt miệng ngay. Tuy nhiên phương cách Việt Minh sử dụng pháo binh hoàn toàn bác bỏ lý luận mang nặng tính lý thuyết nói trên. Tôi sẽ nói rõ hơn về những phương cách này ở phần sau.
Cho dù có các mặt hạn chế không thể tránh khỏi của các cứ điểm đặt trên vùng thượng du, nói chung vị trí của cứ điểm Điện Biên Phủ có thể được đánh giá là tốt. Thực tế là vị trí của nó tốt hơn nhiều so với Nà Sản, Lai Châu và Luang Prabang. Nó có thể được đánh giá tương đương với cánh đồng Chum. Trên đây là những lý do đã thúc đẩy chúng ta phải chiếm đóng và chấp nhận giao tranh tại Điện Biên Phủ. Giải pháp này không phải là tốt nhất, nhưng có thể chấp nhận được để chống lại một đối thủ mà ta dự tính sẽ phải đối đầu. Giải pháp này đã bộc lộ rõ những điểm yếu chỉ sau sự gia tăng sức mạnh một cách hết sức bất ngờ và không thể dự kiến được của đối phương. Dù thế đi nữa, cũng không có giải pháp nào khác hơn4
o O o
Sau khi cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ, quyết định tiến hành cuộc chiến tại Điện Biên Phủ gây ra nhiều lời nhận xét, phê bình, nhưng hầu hết đều sai sự thật.
Có người nói rằng việc đánh chiếm Điện Biên Phủ là một sự áp đặt của chính phủ đối với tôi. Hoàn toàn không đúng! Chính phủ phải chịu trách nhiệm khi không quy định rõ ràng nhiệm vụ của tôi và không cung cấp đủ phương tiện để tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ nói trên. Nhưng trách nhiệm của chính phủ dừng lại ở đây. Chính phủ đã không can thiệp vào việc điều hành các cuộc hành quân. Ngay sau khi cứ điểm thất thủ, trong một cuộc họp báo, để trả lời câu hỏi của một nhà báo tôi nhận hết trách nhiệm về các quyết định dẫn đến chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ngược lại với ý kiến vừa nói, cũng có dư luận cho rằng quyết định giao tranh tại Điện Biên Phủ là đi ngược lại với ý kiến của một số thành viên của chính phủ, nhất là ý kiến của các vị chỉ huy quân sự trong đó có các thuộc cấp của tôi. Tất cả những dư luận này cũng sai hoàn toàn. Chưa bao giờ chính phủ phát biểu một quan điểm dè dặt nào trước khi chiều hướng của trận đánh xoay chuyển một cách bất lợi. Hơn nữa, ta sẽ thấy rõ hơn ở phần sau, chính phủ còn cho tôi là có tư tưởng bi quan khi tôi thổ lộ các nỗi lo ngại của riêng mình.
Cũng chưa bao giờ có một viên chỉ huy quân sự nào có ý kiến chống lại cuộc hành quân tại Điện Biên Phủ1. Cuộc hành quân này được thông qua một cách chính thức bằng một báo cáo của tướng Ely - Tổng tham mưu trưởng và là Chủ tịch Ủy ban Tham mưu Hỗn hợp.
Và cuối cùng, cũng chưa bao giờ một thuộc cấp của tôi trong không quân hay lục quân cũng như tất cả những người khác có liên hệ sâu xa đến cuộc hành quân có ý kiến phản bác.
Chỉ sau khi tinh hình chiến sự bắt đầu chuyển biến xấu và nhất là từ khi cứ điểm bị thất thủ thì mới bắt đầu có sự lên tiếng trong giới quân sự cao cấp và nhất là trong giới chính trị với những luận điệu: “Tôi đã nói rồi mà” 2.
Người ta còn nói rằng cứ điểm Điện Biên Phủ được lập ra để “tiêu diệt Việt Minh”. Những diễn giải ở các phần trước về lý do tại sao tôi buộc phải đi đến quyết định đó đủ để phản bác một sự giải thích quá đơn giản như vậy. Nhưng nếu sự thật có đúng vậy, thì tôi cũng không lấy gì làm xấu hổ. Và cho dù có đáng tiếc như thế nào về mặt quan điểm nhân đạo, thì việc tiêu diệt đối phương cũng là một trong những việc làm chính đáng của tất cả mọi người chỉ huy trong chiến tranh. Đây cũng chính là nhiệm vụ chính mà tướng Giáp giao cho quân lính của ông.
Ngoài việc phải chấp nhận chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi có còn một cách nào khác để bảo vệ Lào không?
Chiến lược không phải là một khoa học chính xác. Các vấn đề nó đặt ra bao gồm nhiều giải pháp, và người chỉ huy có trách nhiệm phải chọn một. Tuy nhiên cũng có những trường hợp - và nhất là trong những trường hợp khó khăn chỉ có thể có được một hướng giải quyết duy nhất, dù không được tốt lắm. Với những phương tiện ta có được chỉ như vậy nó là giải pháp duy nhất có thể giúp ta hoàn tất được nhiệm vụ.
Và đây chính là trường hợp của tôi. Chiếm đóng Điện Biên Phủ và chấp nhận giao tranh ở đây là giải pháp duy nhất có thể giúp tôi cứu được nước Lào trong điều kiện tôi đang có trong tay phương tiện.
Như tôi đã nói ở phần trước, trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ nổ ra, không có bất cứ ai đề nghị với tôi một giải Pháp thay thế nào khác. Tuy nhiên, khi sự việc là “những sự việc đã rồi”, thì không bao giờ thiếu các ý kiến: “lẽ ra phải làm như thế này, phải làm như thế kia”. Và không hề có một sự cố vấn nào khả dĩ có thể mang đến một giải pháp cụ thể, phù hợp với nhiệm vụ và phương tiện tôi có trong tay. Sự đánh giá này đã củng cố thêm nhận định của tôi rằng không thể làm gì khác hơn ngoài những gì tôi đã làm.
VIỆC CHIẾM GIỮ ĐIỆN BIÊN PHỦ
Tôi có quyết định vào thượng tuần tháng 11 phải chiếm giữ Điện Biên Phủ và xây dựng ở đó một căn cứ Lục - Không quân để bảo vệ Lào.
Cuộc hành quân này không phải là một sự ngẫu hứng vì kế hoạch thực hiện đã được chuẩn bị từ nhiều tháng trước. Tôi còn nhớ rất rõ vào mùa hè, khi ta cho sơ tán các đơn vị ra khỏi Nà Sản, nơi mà tướng Cogny đánh giá là một địa điểm không thích hợp về mặt chiến lược, về mặt chiến thuật, nó là một vực thẳm cho các tiểu đoàn, của chúng ta, vị tướng này đã nhiều lần đề nghị tôi nên đánh chiếm Điện Biên Phủ, nơi ông cho là có nhiều thuận lợi trên tất cả các lĩnh vực1. Vào lúc ấy, vì chưa có đủ các lực lượng dự bị, tôi đã cho hoãn lại cuộc hành quân. Dự kiến nó sẽ được tiến hành vào tháng 12 hoặc tháng giêng qua một sự hợp đồng tác chiến. Một mũi tiến từ Lào. Một mũi tiến từ Lai Châu, trong khi một lượng nhảy dù sẽ nhảy bổ xuống mục tiêu.
Một thời gian sau đó không lâu, tướng Cogny lại nhấn mạnh: “Một cuộc hành quân xuống Điện Biên Phủ đánh dấu sự nắm lại quyền chủ động một cách dứt khoát của ta tại vùng Bắc Bộ”.
Lúc này, vấn đề là phải ra tay nhanh chóng để kịp đến nơi trước Binh đoàn Tác chiến của Việt Minh. Lực lượng từ Lào chưa nằm trong cự ly để có thể can thiệp, lực lượng đóng tại Lai Châu thì không đủ để triển khai. Chỉ còn cách đổ quân bằng đường không. Ta chọn ngày 20 tháng 11 để hành động vì đây là thời điểm chót còn đủ thời gian triển khai lực lượng một cách vững chắc trước khi Binh đoàn Tác chiến Việt Minh tràn đến. Một lực lượng nhảy dù gồm sáu tiểu đoàn và một đơn vị pháo binh (súng không giật 75 ly) đổ quân chiếm Điện Biên Phủ trong lúc các đơn vị ở Lai Châu cầm chân tối đa các lực lượng đối phương trong vùng Tuần Giáo. Ngay sau khi đường băng được phục hồi, ba tiểu đoàn nhảy dù sẽ được thay thế bằng một lực lượng cơ động đường không rút từ vùng châu thổ2. Lực lượng đóng tại Lai Châu sẽ được rút về Điện Biên Phủ khi có nguy cơ chắc chắn sẽ bị tấn công.
Ngày 20 tháng 11, đúng theo dự kiến, một lực lượng gồm ba tiểu đoàn dù nhảy xuống Điện Biên Phủ, chiếm cứ điểm, đè bẹp một cuộc kháng cự quyết liệt của một tiểu đoàn địa phương Việt Minh, hoàn toàn bị bất ngờ. Đến ngày 21 - 22.11, lực lượng này được sự chi viện của ba tiểu đoàn dù khác cùng với một đơn vị pháo binh. Ngày 22.11, họ đã bắt được liên lạc với Lai Châu. Ngày 24 sân bay được mở trở lại. Cuộc hành quân được tướng Gilles chuẩn bị và thực hiện một cách tuyệt vời.
TỔ CHỨC CÔNG TÁC CHỈ HUY
Trận đánh diễn ra tại Điện Biên Phủ có ảnh hưởng lên toàn bộ chiến trường Đông Dương, vì nó có mục đích vừa phòng thủ nước Lào, vừa cầm chân quân địch tạo thuận lợi cho việc bảo vệ vùng châu thổ và vùng trung tâm Đông Dương. Đứng về mặt lý thuyết, nó có thể được giao cho một Ban chỉ huy trực thuộc trực tiếp vị Tổng tư lệnh quận đội Pháp tại Đông Dương.
Nhưng trên thực tế, mọi việc đều diễn ra ngược lại. Điện Biên Phủ tọa lạc trên lãnh thổ Bắc Bộ. Các con đường liên lạc tiếp tế của đối phương nằm chi chít trên vùng lãnh thổ này. Về không quân và hậu cần, chiến trường Điện Biên Phủ phụ thuộc vào vùng châu thổ, nơi có những căn cứ đủ sức đảm nhận việc chi viện. Chỉ có các Bộ Tham mưu của các lực lượng trên bộ và trên không tại Hà Nội mới có khả năng chỉ huy trận đánh vì chỉ họ mới có phương tiện vật chất, sụ hiểu biết về địa hình và cả về đối phương.
Do đó việc chỉ huy được giao cho một Bộ Chỉ huy “tay đôi” gồm tướng Cogny, Tư lệnh các lực lượng trên bộ tại Bắc Bộ và tướng Dechaux, Tư lệnh Tập đoàn không quân chiến thuật phía Bắc. Cơ cấu tổ chức này phù hợp với các điều lệnh quy định ở cấp dưới của chỉ huy chiến trường các lực lượng trên bộ và trên không, phối hợp tác chiến mà không bên nào trực thuộc bên nào.
Trên thực tế, trong cơ cấu chỉ huy “tay đôi” Cogny - Dechaux, phần của tướng Cogny vượt trội hơn nhiều. Ông phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những trận đánh trên bộ và hướng dẫn không quân thực hiện nhiệm vụ chi viện trực tiếp, gián tiếp cho các lực lượng trên bộ. Và những nhiệm vụ nói trên gần như là toàn bộ các hoạt động của lực lượng không quân.
Tuy nhiên, do tính cách quan trọng của trận đánh đối với toàn bộ chiến trường Đông Dương, và để tránh sự khác biệt về quan điểm rất phiền phức giữa các vị chỉ huy trên bộ và trên không, tôi cử người phụ tá cho tôi, tướng không quân Bodet trực thường xuyên tại Hà Nội, thay mặt tôi để giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của tôi. Cuối cùng đích thân tôi cũng đến Hà Nội nhiều lần, trước và trong khi trận đánh diễn ra, và luôn có mặt ở đấy những lúc khủng hoảng.
Các quyết định liên quan trực tiếp đến trận đánh thường do tướng Cogny duyệt, hoặc do một mình ông quyết hoặc có sự thống nhất của tướng Dechaux, nếu đó là quyết định liên quan đến việc hợp đồng tác chiến giữa lục và không quân. Còn quyết định ở cấp Tổng chỉ huy thì do tướng Bodet hoặc chính tôi quyết nếu tôi có mặt - trên cơ sở đề xuất của tướng Cogny và tướng Dechaux.
Không bao giờ có một sự thiếu liên hệ hoặc không đồng bộ giữa hoạt động của các Bộ Tham mưu ở Sài Gòn và Hà Nội, như báo chí suy đoán. Trái ngược với những gì đã nhiều lần được khẳng định, không bao giờ có sự khác biệt quan điểm về các vấn đề do trận đánh tạo ra giữa tướng Cogny và tôi trừ một trường hợp ngoại lệ, tôi sẽ nói đến ở phần sau.
GIAI ĐOẠN MỞ ĐẦU TRẬN ĐÁNH
Vào đầu tháng 12, các đơn vị đi đầu của sư đoàn 316 được ghi nhận trong vùng Lai Châu. Ý đồ trước kia của tướng Cogny được sự thống nhất của tôi là giữ Lai Châu, chơi trò “giằng co trên trục cứ điểm Lai Châu - Điện Biên” càng lâu càng tốt. Nhưng vào lúc này, ông quyết định rút khỏi Lai Châu ngay lập tức. Ông nhận định là nên tập trung về một nơi cố thủ duy nhất là Điện Biên Phủ thì tốt hơn.
Lực lượng đồn trú chính quy tại Lai Châu đã được rút về Điện Biên Phủ bằng đường không ngày 8 tháng 12. Các lực lượng hỗ trợ được rút về một phần bằng đường bộ. Số còn lại đi về bằng đường rừng.
Từ nơi cố thủ tại Điện Biên Phủ, tướng Cogny hi vọng sẽ có thể mở những cuộc tiến công mạnh làm chậm sự chuẩn bị của đối phương. Nhưng trên thực tế, hoạt động này chỉ được giới hạn ở các cuộc tuần tiễu và trinh sát ở cự ly ngắn. Thực vậy, chúng ta sớm nhận thấy những hoạt động quan trọng và sâu hơn là không thích hợp, vì chúng đòi hỏi có sự tập trung lực lượng đông đảo trong khi việc tập trung quân để xây dựng trận địa tại cứ điểm Điện Biên Phủ lại rất cần thiết để đối phó với các cuộc tiến công của đối phương có thể sẽ diễn ra bất cứ lúc nào1. Hơn nữa những cuộc đụng độ giữa các đơn vị trinh sát của ta với đối phương cho thấy các đơn vị chiến đấu của chúng ta khó có khả năng thích ứng với những cuộc chiến đấu trong rừng rậm.
Vào ngày 8 tháng 12, tướng Gilles được đại tá De Castries thay thế trong nhiệm vụ chỉ huy cứ điểm Điện Biên Phủ. Tôi thấy cần thiết trình bày ở đây lý do thật sự của sự thay đổi người chỉ huy này, một sự việc gây ra nhiều lời bình luận không đúng hoặc có đụng ý.
Tướng Cogny có thể có đủ quân số cần thiết bằng cách nhanh chóng gửi lên Điện Biên Phủ các tiểu đoàn đã dự kiến nhằm đưa quân số ở đây lên mức tôi đã dự tính. Nhưng vì bận tâm với việc phòng thủ ở vùng châu thổ, tướng Cogny đã không làm như vậy. Ông cũng có thể tăng cường nhân lực cần thiết để xây cứ điểm phòng thủ Điện Biên Phủ bằng cách gửi đến đó những đội tù binh.
Bình thường thì tướng Gilles chỉ huy toàn bộ các đơn vị nhảy dù tại Đông Dương. Do phải chịu trách nhiệm việc huấn luyện và hình thành các đơn vị được dự kiến theo kế hoạch, tướng Gilles không thể nào làm việc xa Bộ Chỉ huy của ông trong một thời gian dài.
Theo đề nghị của tướng Cogny, tôi chỉ định đại tá De Castries. Về sau, sự lựa chọn này là một chủ đề cho nhiều sự chỉ trích.
Người ta nói tại sao lại lựa chọn một người lính kỵ binh trong khi việc chỉ huy một cứ điểm thường do một người lính bộ binh? Vì cả tôi lẫn tướng Cogny đều không có “đầu óc chuộng hình thức” và đại tá De Castries đối với chúng tôi là con người tốt nhất để bảo vệ Điện Biên Phủ. Chúng tôi chỉ định ông ấy không phải vì “ông là lính kỵ binh” hoặc là “mặc dù ông ấy là lính kỵ binh”.
Người ta hỏi tại sao lại giao cho một đại tá chỉ huy một cứ điểm mà lẽ ra phải giao cho một vị tướng? Là vì ở Đông Dương thiếu rất nhiều sĩ quan cấp tướng (Xem Chương 5), cho nên là chuyện bình thường khi đại tá phải làm nhiệm vụ chỉ huy của một vị tướng - và cũng vì tướng Cogny và tôi đều không có “tư tưởng hình thức”, tinh thần sùng bái sao và vạch.
Dù thế nào đi nữa, tôi luôn giữ quan điểm: cho dù bất cứ ai khác mà tôi có thể chỉ định - dù người đó là tướng và thuộc binh chủng bộ binh - cũng không thể làm tốt hơn đại tá De Castries.
Để tạo điều kiện giúp vị chỉ huy cứ điểm hoàn thành nhiệm vụ phòng thủ, một Bộ Tham mưu cấp sư đoàn được thành lập và đặt dưới quyền chỉ huy của ông. Một bộ phận liên lạc với không quân cũng được hoạt động bên cạnh Bộ Tham mưu này.
Tin tức tình báo dần dần cho biết mức độ quan trọng của các phương tiện đối phương đang di chuyển về phía vùng Thượng du và nỗ lực của Việt Minh về mặt hậu cần đạt đến mức độ chưa bao giờ có.
Ba sư đoàn rưỡi (316-308-312 và một phần của sư 304) đang tiến về phía Tây Bắc. Có các dấu hiệu cho thấy có sự tham gia của sư đoàn nặng 351.
Sự giúp đỡ của Trung Quốc gia tăng với cường độ rất cao. Trang thiết bị, đạn dược bị phát hiện trong vùng biên giới Bắc Bộ được báo cáo. Một số lượng 75.000 dân công chỉ có thể được tập kết ở vùng Thượng du nhờ sự chi viện về lương thực và phương tiện vận tải của Trung Quốc1. Họ đã phục hồi các tuyến đường xe hơi dài khoảng 200 km và đắp nhiều đoạn đường dài gần khoảng 100km2.
Hình như Việt Minh đã tổ chức được một trục giao thông mà xe ô tô có thể chạy suốt tuyến. Trục đường này dài khoảng 350 km, bắt nguồn từ biên giới Trung Quốc ở Lạng Sơn, Cao Bằng, vòng tránh vùng châu thổ qua Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, (nơi quy tụ một con đường chi viện khác từ Lào Cai xuống theo sông Hồng). Sau đó, theo một con đường phần lớn mới được khai phá, nó nối liền với đường số 41 (Hoà Bình - Lai Châu) gần Nà Sản và đến Tuần Giáo, nơi tập trung một căn cứ hậu cần rất lớn để phục vụ Binh đoàn bao vây Điện Biên Phủ.
Hai tuyến dường khác cũng chạy đến cứ điểm này. Một tuyến đến từ Trung Quốc, đi qua Nậm Cúm và Lai Châu. Tuyến này sử dụng một hệ thống những con đường mòn rất xấu hoặc các thủy lộ không tốt lắm với lưu lượng rất thấp3. Nó chỉ có thể chở một lượng gạo phụ thêm. Con đường kia đi từ Thanh Hóa dọc theo thung lũng sông Mã. Con đường thứ hai này cũng không mang lại nhiều hiệu quả.
Không quân của ta được sử dụng tối đa để ngăn chặn việc xây dựng và bảo dưỡng các tuyến đường liên lạc này, đồng thời tiến công các đoàn công-voa di chuyển theo các con đường ấy. Nhưng chúng ta không đạt kết quả nào cả. Những đoạn đường vừa bị cắt, lập tức được sửa chữa ngay. Xe tải, các đoàn xe đạp thồ và dân công chỉ di chuyển vào ban đêm, vào những lúc thời tiết xấu, khi máy bay của ta không thể cất cánh được. Họ cũng ngụy trang rất khéo đến nỗi máy bay quan sát không thể phát hiện được. Các phương tiện không quân phía ta đã tỏ ra không đủ sức để có thể đạt kết quả quan trọng.
o O o
Đứng trước tình hình làm cho tôi rất lo lắng như vậy, tôi yêu cầu sự quan tâm của chính phủ về các mối hiểm nguy đang đè nặng lên Điện Biên Phủ, và tôi cũng nhấn mạnh đến tính chất mới mẻ của cuộc chiến do sự gia tăng mạnh mẽ của viện trợ từ Trung Quốc.
Trong công văn đề ngày 1 tháng 1 năm 1954, tôi đã viết như sau: “Trong trường hợp địch tiến hành tiến công, cơ may thắng lợi của chúng ta là bao nhiêu? Cách đây hai tuần tôi cho thắng lợi là 100%. Đó là trận đánh ta chấp nhận đánh trên địa hình do chúng ta chọn và chống lại một địch thủ được trang bị phương tiện mà chúng ta biết rất rõ cho đến ngày 15 tháng 12. Nhưng khi đứng trước những phương tiện mới mà tin tức tình báo rất nghiêm túc đã cho chúng ta biết, tôi không thể nào đảm bảo một sự thắng lợi chắc chắn. Trước hết đây là “một cuộc chiến tranh không quân” và tôi đã nhấn mạnh: “nếu ta thua trong cuộc chiến tranh không quân này, có nghĩa là địch quân thành công trong việc đưa các phương tiện chiến đấu nặng vào trận, thì tôi không thể nào đảm bảo thắng lợi được. Thế nhưng không lực của chúng ta quá yếu so với nhiệm vụ khổng lồ mà nó phải đảm nhiệm”.
Vì vậy, tôi đã gửi khẩn một yêu cầu chi viện thêm không lực và đưa ra kết luận: “Tôi cho rằng những lực lượng chúng ta tập hợp tại Điện Biên Phủ tạo thành một sức mạnh đủ khả năng và cần thiết để phòng thủ vùng Thượng Lào, đồng thời duy trì sự có mặt của ta ở vùng Thượng du. “Sức mạnh” này có khả năng đem lại cho ta kết quả rất lớn nếu chúng ta thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Nó sẽ mất đi hết, nếu chúng ta thua. Dù sao đi nữa, Điện Biên Phủ cũng đóng vai trò điểm chốt thu hút quân địch và giúp tránh được một cuộc tổng tiến công vào vùng châu thổ”.
Không có một sự phúc đáp nào cho công văn nói trên. Ông Marc Jacquet, Tổng trưởng phụ trách các Quốc gia Liên kết, trong một chuyến công tác sau này tại Đông Dương cho tôi biết công văn đó bị chính phủ đánh giá là “rất bi quan”. Lúc đó, những vị có trách nhiệm còn đang ngây ngất với sự thành công của các cuộc hành quân mùa hè; thậm chí một trong những thành viên quan trọng nhất còn đánh giá nó là một cuốn “tiểu thuyết đen”.
Người phụ tá của tôi là tướng Bodet được cử về Paris để trình bày tình hình trước chính phủ và Bộ Chỉ huy tối cao và chỉ nhận được một sự nhất trí về mặt nguyên tắc cho sự tăng cường một vài phương tiện không quân. Nhưng những phương tiện này chỉ đến được đông Dương trong thời gian cao điểm của chiến dịch Điện Biên Phủ vì phức tạp trong những cuộc thương thuyết với người Mỹ. Đã là quá trễ để chúng có thể đóng được một vai trò hữu ích.
o O o
Trong thời gian hai tháng Việt Minh dành ra để chuyển các đơn vị đến trận tuyến và chuẩn bị trận đánh, chúng ta đã hình thành tại Điện Biên Phủ một hệ thống phòng thủ rất mạnh.
Ngày 25 tháng 12, lực lượng cơ động của chúng ta đồn trú tại cứ điểm liên lạc được với các đơn vị đóng tại vùng Thượng Lào, đang tiến về phía vùng Thượng du Nậm U. Tranh thủ cơ hội này, lực lượng ở Lào đã bố trí các nhóm biệt kích, trinh sát trong vùng giữa Điện Biên và Sop Nao.
Về phía họ, Việt Minh chiếm toàn bộ vùng chung quanh Điện Biên Phủ, hình thành một vòng vây gần như liên hoàn với nhau, nhưng chưa tìm cách tiếp cận các lực lượng của ta.
Vào ngày 20 tháng 1, tất cả mọi dấu hiệu về cuộc tấn công được nhận thấy một cách rõ. Cuộc tấn công được dự kiến sẽ xảy ra từ ngày 25 đến ngày 26 hoặc trong đêm kế tiếp. Rất nhiều hoạt động của đối phương diễn ra trong hai ngày 25-26 nhằm đưa các lực lượng pháo binh, đạn dược và các đơn vị bộ binh của họ vào vị trí tác chiến. Một phần những hoạt động này bị pháo binh và không quân của ta ngăn chặn.
Nhưng cuộc tấn công không diễn ra. Nguyên nhân chính là do đối phương chưa tập hợp được đủ phương tiện cần thiết, nhất là đạn dược1. Dù đã đạt được một số lượng rất quan trọng, nhưng sự viện trợ của Trung Quốc vào thời điểm ấy vẫn chưa đủ để tạo điều kiện cho Việt Minh một sức mạnh cần thiết để đập tan một tập đoàn cứ điểm phòng thủ mạnh như Điện Biên Phủ.
Vào cuối tháng giêng, những nguồn tin rất đáng tin cậy cho thấy đối phương quyết định hoãn cuộc tiến công, có thể huỷ bỏ nó, và sẽ mở một cuộc tiến công vào vùng Thượng Lào.
Các nguồn tin trên được xác minh một cách nhanh chóng. Sư đoàn 308 đã rút khỏi vòng vây bao quanh Điện Biên Phủ và với sự yểm trợ của Trung đoàn độc lập 148, tiến về hướng Luang Prabang. Do được báo động kịp thời, lực lượng của chúng ta ở vùng Nậm U Thượng du đã kịp rút, một bộ phận rút về Mường Sài, một bộ phận rút về phía Luang Prabang. Chỉ có một vài đơn vị đi sau của ta bị chặn đánh.
Sư đoàn 308 cố gắng tiến đến Nậm Bạc, nằm giữa Điện Biên Phủ và Luang Prabang. Nhưng do bị không quân và pháo binh ta tấn công dữ dội, nhất là do những khó khăn về mặt hậu cần1 sư đoàn này phải dừng lại.
Trong khi đó, đại tá De Castries cho mở các cuộc tiến công trinh sát mạnh mẽ chung quanh Điện Biên Phủ. Quân ta vấp phải những phòng tuyến vững chắc, được bảo vệ tốt, và phải chịu các sự thiệt hại tương đối nặng. Có vẻ như vòng vây của đối phương gồm hai sư đoàn và sư đoàn nặng không bị hề hấn gì2.
Đến lúc này diễn ra một sự kiện, đã tạo những hậu quả có ảnh hưởng quyết định đến cuộc chiến và khiến cho chiến dịch Điện Biên Phủ có một bước ngoặt hoàn toàn mới: việc thông báo nhóm họp hội nghị Genève (ngày 18 tháng 2).
Ngay vào ngày 23 tháng 2, chúng tôi nhận được tin tức về sự quay trở lại Điện Biên Phủ của sư đoàn 308, vừa gia nhập lại lực lượng bao vây.
Dấu hiệu về một cuộc tấn công vào Điện Biên Phủ xuất hiện dồn dập. Đối phương bắt đầu pháo kích các vị trí của chúng ta bằng những khẩu pháo đặt cách xa nhau, mỗi lần bắn từ vị trí khác nhau. Sự liên kết của các trận địa pháo trở nên chặt chẽ hơn qua sự chiếm giữ ngày càng nhiều hơn những vị trí trên triền núi phía bắc và đông nam lòng chảo. Đối phương bắt đầu thiết lập vị trí quan sát và đặt pháo phòng không.
Chúng ta được báo cáo về sự xâm nhập ngày càng nhiều của một khối lượng lớn đạn dược và trang thiết bị mới, đặc biệt cả một trung đoàn pháo phòng không (vượt qua biên giới vào cuối tháng 2).
Chúng tôi cũng nhận được tin về sự hình thành của các đoàn tăng viện rút từ kho dự trữ và lực lượng trấn đóng tại vùng châu thổ. Những lực lượng này đang gấp rút tiến về Điện Biên Phủ.
Trên các tuyến đường tiếp tế, xe tải chạy cả ngày lẫn đêm, cho dù họ có bị thiệt hại do lực lượng không quân của chúng ta gây ra. Còn lực lượng này của ta, lúc nào cũng thiếu hụt một cách thảm hại.
Đầu tháng 3, ta nắm được tin cuộc tấn công nhất định sẽ xảy ra vào khoảng ngày 15 và ta còn được biết vào thời điểm đó Việt Minh sẽ mở một cuộc tiến công trên tất cả mọi mặt trận để cầm chân lực lượng trên bộ và trên không của chúng ta (xem chương 6). Những việc phải làm để phòng thủ Điện Biên Phủ được ghi rõ trong chỉ thị ngày 25 tháng 2. Chỉ thị này dự kiến việc tập họp ở Hà Nội một lực lượng trù bị gồm 5 tiểu đoàn nhảy dù, trong đó có 2 tiểu đoàn được rút từ vùng Tây Nguyên, sẵn sàng hỗ trợ cho Điện Biên Phủ.
VIỆC TỔ CHÚC PHÒNG THỦ
Việc tổ chức phòng thủ cứ điểm Điện Biên Phủ lúc đầu nhằm mục đích hình thành một cụm phòng thủ gồm từ năm đến sáu tiểu đoàn, được sự yểm trợ của một đơn vị pháo binh và các đơn vị bản xứ. Ý tưởng này tương ứng với số liệu của tin tức tình báo ta có được vào tháng 11, theo đó có lẽ chúng ta chỉ phải đối đầu với một sư đoàn Việt Minh (sư 316) được sự hỗ trợ của một hay hai trung đoàn độc lập hoặc được rút từ các sư đoàn khác. Việc bố trí cứ điểm ban đầu được tướng Gilles lập ra trên cơ sở các chỉ thị ông đã nhận được từ tướng Cogny.
Ngay những ngày đầu tháng 12, khái niệm ban đầu về sự phòng thủ đã phải thay đổi dần dần theo sự chuyển quân của đối phương. Thực vậy, trước việc di chuyển về phía Tây - Bắc của các sư đoàn 308, 312, một phần của sư 304 và của sư đoàn nặng 351; cho dù một phần của những đơn vị nói trên tiến về phía Sầm Nưa - cánh đồng Chum, Điện Biên Phủ có thể sẽ bị các đơn vị quan trọng hơn số lượng dự kiến lúc ban đầu tấn công. Do đó việc mở rộng cứ điểm và tăng cường lực lượng đồn trú là một điều rất cần thiết.
Việc bố trí mới được đại tá De Castries vạch ra trên cơ sở hướng dẫn của tướng Cogny và được tôi thông qua với một vài sửa đổi.
Ngay ngày 3 tháng 12, lực lượng đồn trú được ấn định là 9 tiểu đoàn, 2 đơn vị pháo binh. Sau đó, theo yêu cầu liên tục của tướng Cogny, được tăng lên 10, 11 và 12 tiểu đoàn, một thiết đội 10 xe tăng M-24, hai đơn vị pháo 105, một trận địa pháo 155 (chủ yếu dùng để phản pháo) và 4 đại đội súng cối 120 mm.
Sáu máy bay khu trục và máy bay trinh sát được bố trí tại sân bay.
Ngày 13 tháng 3, lực lượng đồn trú có đủ tất cả sự dự trữ được dự kiến: lương thực dự trữ đủ cho 9 ngày, nhiên liệu đủ cho 8 ngày, 6 đơn vị hỏa lực1 cho mỗi tiểu đoàn bộ binh, 6 đơn vị rưỡi cho đơn vị súng 105, 7 cho súng 155, 8 cho súng cối 120, 9 cho súng 75 (gắn trên xe tăng M-24).
Thêm vào đó là 3000 tấn kẽm gai được đưa vào sử dụng (gấp ba lần số lượng bình thường dành cho một tiểu đoàn), cùng với một số lớn vũ khí đặc biệt biệt như: súng phun lửa, mìn, Napalm, phương tiện chống đạn khói, trang thiết bị tia hồng ngoại.
Tướng Cogny ước tính số lượng hàng tiếp tế trong trường hợp bị tấn công lên đến 70 tấn cho một ngày chiến đấu trung bình và 96 tấn cho một ngày chiến đấu ở cường độ cao1.
Vận chuyển khối lượng hàng như vậy, với không quân là một việc bình thường2. Phương tiện tiếp tế bằng đường không được bàn giao cho Bộ Tham mưu ở tại Hà Nội.
Sau những tin tức tình báo nhận được về khối lượng và khả năng sức mạnh của phương tiện chiến tranh mà đối phương đưa vào sử dụng, chúng ta tiến hành tìm hiểu những yêu cầu cần có để chống lại lực lượng pháo mặt đất và phòng không này. Quan điểm chính thức của những vị có thẩm quyền trong binh chủng pháo binh3 là trong điều kiện địa hình tại Điện Biên Phủ cả pháo mặt đất lẫn pháo phòng không của đối phương không thể không bị pháo binh và không quân của ta đánh trả một cách hiệu quả nếu họ tìm cách chiếm lĩnh trận địa, nhất là khi họ bắn vào các vị trí của chúng ta.
Kết luận của bản báo cáo về khả năng pháo binh của đối phương như sau:
“Địch quân khó có thể bắn vào các vị trí của chúng ta giữa ban ngày và vào lúc trời quang đãng. Nó sẽ thu hút sự phản pháo ngay lập tức của không quân, pháo binh ta”.
Còn về hỏa lực phòng không của Việt Minh4, bản báo cáo kết luận như sau: “Địch quân rất khó đưa được những khẩu pháo 37 ly vào tầm của các vòng lượn cất cánh, hạ cánh và thả dù. Dù họ có khắc phục được khó khăn này, chúng ta cùng với việc phản pháo và những biện pháp phòng chống tiêu cực (việc lựa chọn các bãi thả dù, việc rút nhỏ các vòng lượn của máy bay) vẫn có thể đảm bảo việc thả dù tiếp tế, mà không phải chịu những tổn thất quá nặng... Trong điều kiện xấu nhất, việc tiếp tế có thể được tiến hành vào ban đêm... Có nhiều khả năng là việc tiếp tế bằng đường không luôn luôn được đảm bảo”.
Những lập luận quá lý thuyết như vậy đã trở nên hoàn toàn sai lạc do đối phương có và áp dụng các phương án khéo léo và phi thường để ngụy trang, phân tán và bảo vệ lực lượng pháo mặt đất, pháo phòng không của họ, nhất là sự tham chiến của một lực lượng rất lớn pháo phòng không đã ngăn cản có hiệu quả các máy bay quan sát và ném bom của ta.
o O o
TẬP ĐOÀN CỨ ĐIỂM ĐIỆN BIÊN PHỦ
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được tổ chức phòng thủ như sau:
Một cụm trung tâm, bao quanh đường băng sân bay, gồm năm cụm cứ điểm (“Claudine”, “Huguette”, “Anne-Marie”, “Dominique”, “Eliane”).
Cách từ 2 đến 3km về phía bắc và đông bắc là hai cụm cứ điểm (“Gabrielle”, “ Béatrice”) có nhiệm vụ bảo vệ cụm trung tâm từ hướng nguy hiểm nhất và tăng khoảng trời an toàn bên trên sân bay.
Cách 7km về phía nam là một cụm cứ điểm (“Isabelle”) là nơi bố trí các trận địa pháo cần thiết cho việc phòng thủ cụm trung tâm.
Một lực lượng dự bị gồm 3 tiểu đoàn và một chi đoàn xe tăng, được bố trí nằm giữa cụm trung tâm và “Isabelle”.
Hệ thống hàng rào dây thép gai dày từ 50 đến 75m bao quanh mỗi cụm cứ điểm, từng điểm tựa bên trong cụm. Hệ thống dây thép gai còn được dùng để ngăn chặn các hành lang mà đối phương có thể xâm nhập vào. Các chướng ngại vật này còn được củng cố bằng các bãi mìn, bộc phá, Na-palm. Cho đến trước khi cuộc tấn công của Việt Minh diễn ra, Điện Biên Phủ là một hệ thống phòng thủ mạnh nhất, chưa bao giờ có tại Đông Dương.
Không một nhân vật có thẩm quyền nào dù là dân sự hay quân sự, dù là bộ trưởng1 Pháp hay nước ngoài, tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp2 hay tướng lãnh Hoa Kỳ3 đến thăm Điện Biên Phủ mà không bị choáng ngợp bởi sức mạnh phòng thủ của nó, và họ đã thể hiện sự hài lòng đối với tôi.
Theo tôi được biết, cho đến trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ xảy ra, không có một sự nghi ngờ nào xuất phát từ bất cứ ai về khả năng phòng ngự của tập đoàn cứ điểm này, và cũng không có một bản báo cáo nào không thuận lợi được chuyển đến cho tôi.
Tôi cần phải trình bày chính xác như vậy, vì có rất nhiều ý kiến được nói và viết không đúng về vấn đề này. Những vấn đề trình bày trên đây chứng minh rằng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Điện Biên Phủ không phải là không thể phòng thủ được, như nhiều người nhận xét sau khi cứ điểm này thất thủ4.
______________________________________
1. Các ngài Bộ trưởng là Pléven, De Chevigné và Marc Jacquet.
2. Các tướng Ely, Tổng tham mưu trưởng; Blanc, Tham mưu trưởng Lục quân; Fay, Tham mưu trưởng Không quân.
3. Tướng O’ Daniel, Trưởng phái bộ Mỹ, sau một chuyến viếng tham Điện Biên Phủ đã đến gặp tôi để thể hiện sự hài lòng của ông về cách tổ chức phòng thủ tập đoàn cứ điểm này.
4. Trong các cuộc phỏng vấn dành cho ông Jean Ferran (báo Paris-Match) và ông Merry Bromberger (Báo Paris-Presse), tháng 4, 5.1956, tướng Giáp đã phát biểu quan điểm của ông về cách bố trí chiến thuật tại Điện Biên Phủ là không có gì không hợp lý cả.
ĐỐI PHƯƠNG
Vào ngày 13 tháng 3 năm 1954, ngày đầu tiên của cuộc tấn công, lực lượng đối phương như sau:
Lực lượng bao vây có 33 tiểu đoàn chính quy, trong đó có 27 tiểu đoàn đối đầu trực tiếp với cứ điểm, sáu tiểu đoàn khác được bố trí phối hợp với những đơn vị địa phương chặn đánh các hướng ta có thể tiếp viện từ bên ngoài, nhất là từ phía Bắc Lào.
Pháo binh của họ gồm một trung đoàn 75 ly (20 khẩu), một trung đoàn 105 ly (cũng 20 khẩu). Thêm vào đó là một số lượng rất lớn súng cối nặng.
Lực lượng phòng không của họ gồm 4 tiểu đoàn phòng không nhẹ (100 khẩu đại liên 12,7 ly) và tiểu đoàn súng cao xạ hạng trung, 16 khẩu 37 ly. Sự xuất hiện của một trung đoàn cao xạ với 4 tiểu đoàn, trang bị 64 khẩu pháo hiện đại 37 ly của Nga cũng được báo cáo.
Chúng ta cũng nắm được tin tức rất tốt về khả năng tiếp tế đạn dược của Việt Minh. Chưa bao giờ họ có sự chuẩn bị lớn đến như vậy (15.000 quả 105 ly, 5.000 quả 75 ly, 25.000 quả cối, 45.000 đạn 37 ly cho pháo cao xạ). Nhưng số lượng này vẫn chưa đủ cho một cuộc tấn công kéo dài. Vào thời điểm ngày 9 tháng 3, Bộ Tham mưu ở Hà Nội tính toán khả năng của pháo binh Việt Minh là pháo kích với cường độ tối đa từ năm đến bảy giờ liên tục, cho phép mở một cuộc tiến công kéo dài từ 5 đến 6 ngày, bao gồm một cuộc tiến công vào hai hay ba cụm cứ điểm. Nhưng chúng ta cũng biết rằng họ có nguồn chi viện rất quan trọng từ Trung Quốc, có thể làm thay đổi tình hình.
Chung quanh vị trí của chúng ta, đối phương đẩy mạnh việc xây dựng những con đường được ngụy trang tốt, có thể trận chuyển được đạn dược bằng xe bò, trong một vài trường hợp bằng xe ô tô đến những vùng lân cận của các trận địa pháo.
Chúng ta cũng biết rất chắc chắn một số lớn các trận địa pháo mặt đất và pháo phòng không của đối phương đã được chuẩn bị, nhưng việc ngụy trang của Việt Minh tuyệt hảo đến nỗi chỉ có một số ít bị phát hiện trước khi trận đánh bắt đầu.
Họ đã tổ chức tốt việc bảo vệ các trận địa pháo của họ đến nỗi việc phản pháo bằng pháo binh và không quân của chúng ta trở nên vô cùng khó khăn.
Với sự cố vấn của các chuyên gia Trung Quốc, Bộ Chỉ huy Việt Minh đã áp dụng một phương cách sử dụng pháo binh rất khác với phương cách thông thường. Các khẩu pháo được phân tán mỏng. Chúng được tháo rời và đưa vào trận địa bằng cách vác vai, đến các vị trí họ có thể có được tầm quan sát trực tiếp vào mục tiêu. Chúng được đưa vào hầm trú ẩn, từ đó được điều chỉnh bắn thẳng vào mục tiêu qua lỗ châu mai, hoặc từ bên ngoài hầm trú ẩn. Khi chúng ta phản pháo, chúng được khiêng bằng tay trở vào trong. Mỗi khẩu pháo, hoặc mỗi cụm pháo đều được một cụm pháo cao xạ rất mạnh bảo vệ. Sở dĩ họ có thể áp dụng được phương pháp này là vì họ có một nguồn nhân lực đông như kiến, và chính phương pháp này đã làm phá sản mọi sự đánh giá của các chuyên gia pháo binh ta. Đây là điều bất ngờ chính của trận đánh.
Về sự chi viện để bổ sung thiệt hại, đối phương chỉ có được tại chỗ một lực lượng dự phòng gồm 6.000 đến 8.000 người nhưng ta được biết các cánh quân quan trọng khác đang được rút từ kho dự trữ và lực lượng từ vùng châu thổ.
Từ bức tranh trên, ta có thể kết luận là: cho đến thời điểm giữa tháng hai Việt Minh chỉ dự kiến có thể mở được một trận đánh ngắn hạn với một sức mạnh hạn chế vì những lý do hậu cần cùng với sự thiệt hại rất lớn họ đã tính toán trước. Từ thời điểm hội nghị Berlin, họ chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn hơn rất nhiều, và nếu cần thì thời gian có thể kéo dài lâu hơn. Họ sẵn sàng chấp nhận hy sinh lớn lao và họ phải có được phương tiện rất lớn mà họ chưa nắm được trong tay.
Trên thực tế là phương tiện chiến tranh mới sẽ chỉ lần lượt xuất hiện khi trận đánh diễn ra.
Hỏa lực pháo phòng không gia tăng một cách vô cùng dữ dội với sự vào trận của một trung đoàn pháo cao xạ mới, ta biết được nó đến từ Trung Quốc. Sự tham gia của trung đoàn hiện đại này, được huấn luyện kỹ, với một tỷ lệ khá lớn chuyên gia Trung Quốc có một ảnh hưởng quyết định đến trận đánh. Trong những ngày cuối của trận đánh, chúng tôi còn được báo cáo về việc sử dụng tên lửa đất đối không. Hỏa lực pháo mặt đất được gia tăng với sự tham gia có thể là hai đơn vị 105 ly mới bổ sung và vào giai đoạn cuối là sự vào trận của loại pháo phản lực nhiều nòng, loại những “đàn ống của Staline”.
Về đạn dược thì khối lượng ban đầu được nhân lên gấp đôi vào tháng 3. Tháng 4, một số lượng đạn dược ngày càng lớn được đưa vào sử dụng, chúng ta không thể biết được con số chính xác. Ta chỉ biết số lượng đạn pháo mặt đất và súng cối nặng mà đối phương bắn vượt quá con số 200.000. Cuối cùng, quân chi viện dùng để bổ sung sự thiệt hại là 25.000 người.
Nhờ có sự tham gia của phương tiện chiến tranh ngày càng quan trọng hơn, Việt Minh có thể kéo dài các trận đánh, với cường độ ngày một cao mà lúc đầu họ không thể nào dự kiến được.
TRẬN ĐÁNH
Ở phần này, tôi chỉ trình bày một bản tổng kết khách quan và vô tư về chiến dịch Điện Biên Phủ. Việc mô tả lại trận đánh này với tất cả chi tiết, cảm nhận chính xác, sự hy sinh và đau đớn phải chịu đựng chỉ có thể là việc làm của chiến binh từng sống ở đấy, trên bộ cũng như trên không. Với một dụng ý có sẵn, tôi không nêu danh bất cứ một ai, nhắc đến người này là một sự bất công đối với người khác. Tất cả họ đều đáng được tôn vinh.
Ở đây tôi cũng không giải thích lý do của các quyết định được chọn để điều hành trận đánh. Để cho phần trình bày của tôi được rõ ràng, tôi chọn giải pháp nên đưa sự giải thích ở cuối chương.
o O o
Trước khi trận đánh diễn ra (ngày 12 tháng 3), chúng tôi có được thông tin tương đối đầy đủ về ý đồ của đối phương.
Chúng tôi được biết là từ ngày 13, các cụm cứ điểm nằm tách rời của ta (“Béatrice”, “Gabrielle”) sẽ lần lượt bị chiếm, và cuộc tấn công nhắm vào cụm trung tâm được tiến hành ngay sau đó. Một số dấu hiệu cho thấy đối phương dự tính đánh chiếm toàn bộ tập đoàn cứ điểm trong vòng từ 5 đến 7 ngày.
Trận đánh đã kéo dài từ ngày 13.3 đến ngày 7.5. Trận đánh có thể chia thành một số giai đoạn như sau:
GIAI ĐOẠN ĐẦU (TỪ NGÀY 13 ĐẾN NGÀY 15 THÁNG 3): đối phương tấn công và tiêu diệt các cụm cứ điểm ở phía bắc và đông bắc.
Trong đêm 13 rạng 14, Việt Minh tấn công mạnh vào “Béatrice” và tìm cách đánh vào “Gabrielle”. “Gabrielle” đã kháng cự được, nhưng “Béatrice” đã thất thủ sau vài giờ chiến đấu. Lý do sụp đổ nhanh chóng của một cụm cứ điểm được tổ chức như vậy và do một tiểu đoàn Lê Dương rất thiện chiến trấn đóng (tiểu đoàn III/13 D.B.L.E) là vì tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó và người chỉ huy khu vực phòng thủ phụ trách nơi đóng quân của họ bị chết ngay trong đợt pháo kích đầu tiên. Đạn pháo xuyên trúng hầm trú ẩn của họ, ngang qua lỗ châu mai quan sát. Từ đó, tiểu đoàn không còn người chỉ huy. Việc phòng thủ như rắn mất đầu: pháo binh phản pháo không được hướng dẫn chính xác và các cuộc phản công không mang lại kết quả.
Đêm hôm sau (ngày 14 rạng 15), “Gabrielle” (do tiểu đoàn V/7 RTA trấn giữ) bị tấn công mạnh. Cuộc tấn công được mở đầu vào lúc 20 giờ. Đến 22 giờ, cuộc tấn công đã hoàn toàn bị ngưng lại vì hỏa lực chính xác của pháo binh và sự phối hợp hỏa lực rất tốt của cụm cứ điểm. Thế nhưng người tiểu đoàn trưởng phải tổ chức lại lực lượng phòng thủ, và phải sử dụng gần hết lực lượng dự bị. Đối phương mở lại cuộc tấn công vào lúc 2 giờ 30. Sử dụng các đơn vị mới, họ đã tràn vào được mặt đông bắc. 4 giờ 30, tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó bị thương nặng. Trường hợp của cụm “Béatrice” được lập lại. Việc phòng thủ mất người chỉ huy và địch quân tràn ngập cứ điểm. Một lực lượng gồm một đại đội rưỡi vẫn bám trụ ở phần phía nam của cụm cứ điểm. Một cuộc phản công của xe tăng được phóng ra vào lúc 5 giờ 30 từ cụm trung tâm. Vào lúc 7 giờ, mũi phản công này đã đến được dốc của phía nam “Gabrielle”, nhưng trước sự chống trả quyết liệt của địch quân, nó đã không tái chiếm lại được phần trung tâm của cụm cứ điểm mà chỉ cứu được tàn quân của lực lượng đồn trú.
Sự sụp đổ của hai cụm cứ điểm vòng bên ngoài đưa đến hậu quả rất nghiêm trọng cho chúng ta: Vỏ bảo vệ phía bắc và đông bắc đã bị bóc, đối phương đã đưa được pháo binh, pháo cao xạ đến gần cụm cứ điểm trung tâm hơn. Chúng ta thiệt hại rất nặng nề, tiêu hao một lượng đạn dược rất quan trọng. Các kho dự trữ giảm nhiều và phải mất thời gian để bổ sung lại.
Về phía đối phương, họ cũng bị thiệt hại tương tự, cũng sử dụng hết rất nhiều đạn dược đến nỗi họ chưa có khả năng tiếp tục cuộc tấn công ngay lập tức.
GIAI ĐOẠN HAI (TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 30 THÁNG 3): đối phương cho bổ sung để bù đắp thiệt hại của họ và xây dựng một cơ số dự trữ đạn dược. Còn chúng ta cũng cho tổ chức lại và củng cố các lực lượng chiến đấu.
Ngay ngày 14 tháng 3, tướng Cogny yêu cầu tôi giao ngay cho ông quyền điều động 3 tiểu đoàn nhảy dù (trong tổng số 5 tiểu đoàn dự trữ) để tung ra một cuộc phản công tái chiếm các cụm cứ điểm bị mất. Tôi đồng ý ngay lập tức và 2 tiểu đoàn (số 6 BPC, số 5 BPVN) được thả xuống Điện Biên Phủ trong hai ngày 14 - 16 tháng 3. Nhưng không may là đại tá De Castries, do phải bịt kín các lỗ hổng trong tuyến phòng thủ, đã sử dụng hết lực lượng dự bị tại chỗ, và lực lượng tập hợp lại đã không đủ để mở một cuộc phản công mạnh. Các kho dự trữ đạn dược cũng không còn đủ. Hơn nữa thời tiết quá xấu trong vòng ba ngày, cản trở việc sử dụng không quân ở cường độ cao. Sau khi tham khảo đại tá De Castries, tướng Cogny huỷ bỏ cuộc phản công.
Do tình hình dao động trong các tiểu đoàn Thái1 và việc bỏ ngũ của một trong các tiểu đoàn này (tiểu đoàn 3 BT), vào ngày 18 tháng 3, hai điểm tựa bắc của cụm cứ điểm “Anne-Marie”, mặt phía tây bắc của cụm trung tâm phải thu hẹp lại, “Anne-Marie” bị giải thể, hai điểm tựa phía nam được nhập “Huguette”.
Lực lượng trấn đóng ở cụm trung tâm được sắp xếp lại để hình thành một phòng tuyến liên hoàn ở vùng ngoại vi, nhằm mục đích đối phó với các cuộc xâm nhập mà đối phương đang tìm cách tiến hành về phía sân bay.
Liên lạc giữa cụm cứ điểm trung tâm với Isabelle vẫn được thực hiện mỗi ngày nhưng trong những điều kiện càng lúc càng khó khăn vì đối phương tìm cách chiếm giữ đoạn giữa hai bộ phận của tập đoàn cứ điểm. Một cuộc hành quân vào làng bản cách Điện Biên Phủ 2 km về phía tây, nơi đặt hỏa lực phòng không của đối phương, gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng cho Việt Minh và thu về được nhiều súng 12 ly 7.
Trong giai đoạn này, việc thả dù vẫn được tiến hành trong điều kiện bình thường, cho dù có hỏa lực phòng không của đối phương.
Việc di tản thương binh ngày càng khó khăn hơn. Việc này chỉ có thể thực hiện bằng sự hạ cánh bất ngờ của máy bay và trực thăng xuống một sân bay bị pháo kích dữ dội, chúng chỉ đậu được vài phút để gấp rút đưa thương binh lên. Không lâu sau đó, việc hạ cánh vào ban ngày cũng không còn thực hiện được, máy bay phải đáp xuống vào ban đêm trên một đường băng không được chiếu sáng. Chỉ vài ngày sau đó, mặc dù các phi hành đoàn tỏ ra rất can đảm, nhưng chúng ta phải huỷ bỏ hoàn toàn việc di tản thương binh bằng máy bay. Chiếc trực thăng cuối cùng bị bắn rơi lúc cất cánh vào ngày 23.3. Chiếc máy bay cuối cùng di tản 28 thương binh ngày 26 tháng 3.
Trong khi đó, đối phương luôn tìm cách siết chặt vòng vây. Giao thông hào đã xuất hiện chung quanh cứ điểm, nhất là ở phía đông. Các trận địa pháo mặt đất và pháo cao xạ của địch mọc lên trên các vùng cao bao quanh tập đoàn cứ điểm. Cả pháo binh và không quân của ta đều không cách nào làm im được họng súng của họ.
GIAI ĐOẠN THỨ BA (TỪ 30 THÁNG 3 ĐẾN 5 THÁNG 4): đối phương tấn công đánh chiếm mặt phía đông của cụm phòng thủ trung tâm, chiếm một điểm tựa quan trọng ở phía tây bắc. Đây là giai đoạn quyết định của trận đánh.
Trong đêm ngày 31 tháng 3, Việt Minh mở một cuộc tiến công dữ dội vào mặt phía đông. Tuyến phòng thủ này sụp đổ. Những trận dữ dội diễn ra từ ngày 31 tháng 3 đến 4 tháng 4. Các lực lượng của chúng ta - trong đó có một số đơn vị qua bảy lần phản công - tái chiếm lại được một phần các vị trí bị mất với sự yểm trợ của không quân và pháo binh. Nhưng không may là hai điểm tựa quan trọng nhất vẫn nằm trong tay đối phương. Nhờ vậy họ có thể đặt pháo binh và pháo cao xạ vào một cự ly cách sân bay và trận địa pháo của chúng ta dưới 1500m, mở đầu cho sự thất thủ hoàn toàn của tập đoàn cứ điểm.
Mặt khác, việc bỏ ngũ một phần của tiểu đoàn Thái (tiểu đoàn 2 B.T.) đã kéo theo một sự tháo lui khỏi tuyến tây bắc, tạo điều kiện cho đối phương áp sát lực lượng pháo binh vào sâu thêm.
Việc thả dù trở nên càng lúc càng khó khăn, và khó khăn lắm mới giữ được các kho đạn của chúng ta ở mức tối thiểu.
Trong những ngày 3 và 4 tháng 4, một tiểu đoàn nhảy dù thứ ba (tiểu đoàn II/1 R.C.P.) đã được thả xuống để thay thế những đơn vị thiệt hại và tăng cường cho lực lượng cố thủ.
GIAI ĐOẠN THỨ TƯ (TỪ NGÀY 5 THÁNG 4 ĐẾN MỘT THÁNG 5): chứng kiến sức ép gia tăng của đối phương, và sự khống chế dần dần của hỏa lực phòng không đối phương vào tập đoàn cứ điểm.
Do cũng phải chịu nhiều thiệt hại hơn dự kiến và thiếu đạn dược, đối phương hoãn lại các cuộc tiến công dữ dội, nhưng cứ mỗi đêm, bằng nỗ lực phi thường, họ đào chiến hào áp sát vào phòng tuyến của chúng ta. Vào ngày 1 tháng 5, hệ thống chiến hào nói trên đã dài tổng cộng gần 400 cây số.
Sự xâm nhập của Việt Minh vào hướng tây bắc khiến việc tiếp tế cho các điểm tựa bảo vệ hướng này không thể tiến hành được. Mỗi ngày, chúng ta tiến hành một cách kiên cường các trận đánh để giải vây, nhưng đối phương lại gặm nhấm dần hệ thống phòng thủ của ta và buộc chúng ta phải thu hẹp đội hình lại.
Pháo phòng không của họ mỗi ngày càng tiến gần chúng ta hơn, làm cho việc thả dù trở nên càng lúc càng nguy hiểm. Pháo binh Việt Minh trực tiếp bắn thẳng vào ta với cự ly ngày càng gần. Các cuộc tấn công quấy rối của họ trở nên liên tục làm mất đi rất nhiều sinh mạng binh lính trong một lần đổi ca, liên lạc, tiếp tế và thu hồi đồ tiếp tế thả dù.
Việc thả dù tiểu đoàn dù thứ tư (tiểu đoàn 2 BEP) vào ngày 11 - 12.3 tạo điều kiện chiếm lại một điểm tựa ở mặt phía đông, nhờ vào một cuộc phản công diễn ra với nỗ lực hết sức phi thường.
Mặc dù do hoạt động mạnh mẽ của hệ thống phòng không Việt Minh và sự co cụm lại của cứ điểm, những số lượng hàng tiếp tế được thả dù đã lên đến trung bình 100 tấn mỗi ngày cùng với sự thả dù các toán quân không thuộc binh chủng dù (lính pháo binh và đặc biệt là nhân viên kỹ thuật).
Trong thời kỳ này, tình hình thương binh trở nên vô cùng nghiêm trọng, số thương binh vượt xa khả năng cứu chữa, mặc dù trước đó số lượng này được dự trù với một con số dự phòng rất lớn1 và sau đó được tăng thêm một cách tối đa. Chúng ta phải chịu đựng khó khăn rất lớn từ dự kiến không chuẩn xác này.
Trong những ngày cuối tháng tư, mưa đã biến chiến hào của ta thành các vũng bùn, làm sập một số hầm trú ẩn và làm tê liệt hoạt động của ta.
GIAI ĐOẠN THỨ NĂM là cuộc tổng tấn công trên tất cả các phòng tuyến và sự thất thủ của tập đoàn cứ điểm.
Các đường hào song song để làm bàn đạp xuất kích của đối phương áp sát phòng tuyến của ta. Các đơn vị của họ được bổ sung và có chi viện quan trọng để bù vào thiệt hại. Kho đạn dược của họ được tổ chức lại. Đối đầu với những đơn vị Việt Minh chỉ là những đơn vị bị suy yếu, hoàn toàn đuối sức về mặt thể chất. Pháo binh của ta một phần đã bị tiêu diệt và khả năng tiếp tế đạn rất hạn chế.
Ngày 1 tháng 5, Bộ Chỉ huy Việt Minh tung ra một cuộc tổng tấn công. Sau những trận đánh kéo dài suốt ngày, tất cả vùng ngoại vi của cụm trung tâm bị tràn ngập. Các cuộc phản công chỉ có thể chiếm lại một số vị trí nhỏ.
Bị đặt vào một tình thế phải lựa chọn, hoặc nhìn thấy trận đánh chấm dứt vì thiếu lương thực, hoặc kéo dài thêm vài ngày nhờ vào quân tiếp viện, theo yêu cầu của tướng Cogny tôi quyết định thả thêm từ ngày 2 tháng 5 một tiểu đoàn thứ năm (tiểu đoàn 1 BPC). Nhưng vì khó khăn càng lúc càng gia tăng - do sự thu hẹp các bãi đáp, chỉ phân nửa tiểu đoàn được thả xuống.
Một sự yên tĩnh tương đối đã diễn ra từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 5 và trong đêm 6 rạng ngày 7 tháng 5, toàn bộ tập đoàn cứ điểm bị tấn công khốc liệt ở khắp vòng chu vi. Những quả đấm chính được dồn về mặt phía đông. Cùng lúc, pháo được bắn với cường độ khủng khiếp vào “Isabelle”, nơi pháo binh ta gần như đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Vào rạng sáng, tình hình trở nên tuyệt vọng, các cuộc tấn công không suy giảm chút nào. Chúng được nối tiếp nhau liên tục cho đến phút cuối cùng. Cụm trung tâm của Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7 tháng 5 khoảng giữa 17 giờ và 19 gìờ. Không có sự đầu hàng cùng một lúc, nhưng các trận đánh đã dừng lại dần dần theo sự thất thủ của từng điểm tựa.
Lực lượng đồn trú tại “Isabelle” tìm cách mở đường máu khi màn đêm buông xuống1 nhưng thất bại. Việc liên lạc vô tuyến với lực lượng này chấm dứt vào lúc 2 giờ sáng ngày 8 tháng 5.
o O o
Chúng ta bị thiệt hại khoảng 16.000 người, trong đó có 1500 người chết, 4.000 người bị thương. Đó là quân số của 16 tiểu đoàn (có 7 tiểu đoàn nhảy dù), hai đơn vị pháo 105 ly cộng với một khẩu đội 155 ly, một phân đội xe tăng và các phân đội thuộc các binh chủng và đơn vị phục vụ khác2.
Rất khó xác định chính xác sự thiệt hại của đối phương. Một cuộc nghiên cứu chi tiết cho thấy ít nhất 20.000 người đã bị loại ra khỏi vòng chiến, trong đó có khoảng từ 8.000 đến 10.000 người chết. Những tin tức sau này cho phép ước tính từ 10.000 đến 12.000 người chết. Đó là những con số gần đúng với thực tế hơn, có khả năng cao hơn.
Về mặt số lượng, thiệt hại của Việt Minh cao hơn chúng ta rất nhiều. Về chất lượng quân lính thì thiệt hại của họ cũng không thua gì chúng ta. Nếu ta mất những đơn vị thiện chiến (lính Lê dương, Bắc Phi và nhảy dù) thì họ cũng bị mất một phần lớn các sư đoàn tinh nhuệ nhất (308-312) cùng những cán bộ tốt nhất.
HOẠT ĐỘNG KHÔNG QUÂN
Từ đầu tháng 11 năm 1953, hoạt động không quân đã nhắm đến mục đích chi viện cho Điện Biên Phủ. Nó được thực hiện với một cường độ gia tăng cho đến khi tập đoàn cứ điểm này sụp đổ. Nó còn được kéo dài cho đến đầu tháng 6 với nhiệm vụ chính là ngăn chặn Binh đoàn Tác chiến Việt Minh quay trở lại vùng châu thổ. Cùng lúc với việc tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, không quân phải tham gia những trận đánh trên các chiến tuyến khác: vùng châu thổ, Thượng, Trung, Hạ Lào, Tây Nguyên, vùng “Atlante”, Nam Bộ, Campuchia. Tuy nhiên từ tháng 11 đến tháng 5, không quân đã dành ưu tiên số một cho những hoạt động tại Điện Biên Phủ, ngoại trừ một giai đoạn ngắn khi vùng Thượng Lào bị uy hiếp do sự tiến quân của sư đoàn 308.
o O o
Phương tiện của lực lượng không quân tại Đông Dương như sau:
- Lực lượng vận tải vào giai đoạn đầu có 75 chiếc C.47 (Dakota), sau đó được tăng lên 100 chiếc từ ngày 1 tháng 2. Cùng với máy bay quân sự, còn có thêm 16 chiếc máy bay dân sự C.119 (Packets) do phi công thuộc đoàn “Cọp bay” của tướng Chenault1 điều khiển, cùng với nhiều máy bay dân sự đủ loại rút từ các đường bay nội địa tại Đông Dương cung ứng2.
- Lực lượng máy bay ném bom 3, vào lúc đầu có 48 chiếc B-26, 8 chiếc Privateers và 112 chiếc khu trục ném bom Hellcats, Beercats và Corsairs. Tất cả là 156 chiếc. Số lượng này tăng lên khi trận đánh diễn ra. Con số cuối cùng là 227 chiếc.
Từ những con số trên đây, ta phải loại ra những thiệt hại đủ loại gây ra trong các trận đánh đối với các lực lượng không quân ở Đông Dương (11 máy bay vận tải và 54 máy bay ném bom): Con số cuối cùng còn lại là 90 máy bay vận tải và 175 máy bay ném bom.
Gần như tất cả máy bay vận tải quân sự và máy bay “Packets” của Mỹ4 đều được sử dụng tại Điện Biên Phủ.
Việc vận chuyển đến các mặt trận khác được dành riêng cho máy bay dân sự5.
Còn về máy bay ném bom, hơn hai phần ba lực lượng này được đặt thường trực dưới quyền điều động của tướng Dechaux, phụ trách việc chi viện không quân cho Điện Biên Phủ. Một phần ba số máy bay được dùng để yểm trợ cho các mặt trận còn lại, gồm một phần lớn máy bay do đặc điểm hoặc điều kiện kỹ thuật của chúng, không cho phép được sử dụng tại chiến trường Điện Biên Phủ. Tuy vậy, bản tổng kết cho thấy do có một số máy bay phải được bảo trì6, nên số máy bay ném bom hằng ngày tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ không bao giờ vượt quá con số 75 đến 80 máy bay ném bom. Hơn nữa chúng không phát huy hết công suất tối đa do thiếu nhân viên phi hành đoàn và nhân viên bảo trì.
o O o
Nhiều sự câu thúc khác đã làm giảm sút hiệu quả của các lực lượng không quân hơn nữa.
Chỉ có các sân bay trong vùng châu thổ mới được trang bị một cách thích hợp. Do đó chỉ có chúng mới có thể làm căn cứ cho lực lượng không quân của ta hoạt động, ngoại trừ một vài chiếc được đặc cách bố trí tại các sân bay rất xấu ở vùng Vien Tiane và cánh đồng Chum. Thế nhưng sân bay ở vùng châu thổ lại không được chuẩn bị tốt để có thể chi viện cho Điện Biên Phủ những hoạt động không quân ở cường độ cao như những gì chúng ta phải tiến hành1.
Địa hình trên đường bay từ vùng châu thổ lên đến Điện Biên là địa hình cao và hỗn độn, buộc phi công phải bay ở tầm cao.
Thời tiết thường không được thuận lợi. Mưa phùn ở vùng châu thổ vào một số thời kỳ trong năm đã làm cho các chuyến bay đi và về trở nên khó khăn. Những đám mây nguy hiểm thường xuất hiện trên đường bay. Thỉnh thoảng một loại sương mù khô2 bao phủ lòng chảo Điện Biên Phủ. Hệ thống thông tin liên lạc không tốt của ta làm tăng thêm khó khăn.
Thế nhưng trở ngại chủ yếu phải vượt qua là khoảng cách. Khoảng cách này là 350 cây số. Nó có thể chấp nhận cho các trận đánh ngắn, và khi ta chiến đấu với một đối phương không được trang bị vũ khí phòng không hiện đại. Nhưng khoảng cách này là quá lớn đối với một trận đánh kéo dài, chống lại các mục tiêu được các hệ thống phòng không hữu hiệu bảo vệ.
Ngoài khó khăn về mặt kỹ thuật còn khó khăn về mặt chiến thuật do diễn biến của trận đánh trên bộ.
Sự có mặt của một hệ thống phòng không hiệu quả trong lòng chảo Điện Biên Phủ và vùng chung quanh nó buộc phi công chúng ta phải vượt qua các hàng rào phòng không với mật độ dày đặc giống như mạng lưới phòng không dày đặc bảo vệ các khu vực nhạy cảm nhất tại chiến trường châu Âu vào cuối cuộc chiến 1939-1945.
Cứ điểm thu hẹp làm cho việc chi viện đường không ở cự ly ngắn trở nên khó khăn hơn.
Cuối cùng khoa học ngụy trang và khả năng phân tán mỏng lực lượng, khả năng thích ứng của Việt Minh, sự khéo léo trong việc phục hồi nhanh chóng những trục lộ bị đánh phá làm cho nhiệm vụ của các lực lượng không quân của chúng ta trở nên vô cùng phức tạp.
Vì vậy, do thiếu phương tiện cùng khó khăn khi tác chiến, không quân đã không đóng được vai trò quyết định trong bất cứ giai đoạn nào của trận đánh.
o O o
Cuộc tấn công vào hệ thống đường giao thông, từ đầu đến cuối trận đánh mang lại kết quả vô cùng thất vọng vì Việt Minh tổ chức tốt việc phục hồi đường xá bị cắt đứt và sửa chữa nhanh chóng những đoạn đường vừa bị tấn công. Chúng ta đã không thể ngăn được Binh đoàn Tác chiến của Việt Minh triển khai chung quanh Điện Biên Phủ. Tất cả những gì ta có thể làm được là làm chậm đi mà thôi. Chúng ta cũng không ngăn chặn được sự gia tăng một cách đều đặn khả năng chi viện của họ. Sự yếu kém về phương tiện của ta là nguyên do chính của thất bại này.
Việc chi viện hỏa lực cho lực lượng trên bộ cũng chỉ đạt được kết quả rất hạn chế.
Nguyên nhân chính là sự hoàn thiện của khả năng ngụy trang và bảo vệ của các đơn vị Việt Minh. Nhất là khẩu pháo, mục tiêu chủ yếu của lực lượng không quân, được che giấu sâu dưới các lớp bảo vệ rất dày, chỉ dỡ bỏ khi đang tác xạ, và chỉ có thể bị chế ngự bằng những quả bom to nhất đánh trúng trực tiếp1. Vì vậy, chúng ta không phá huỷ hoặc vô hiệu hóa được nó.
Hơn nữa để thực hiện nhiệm vụ chủ lực của mình là thả dù tiếp tế, không quân phải ưu tiên sử dụng hỏa lực của máy bay để bảo vệ máy bay vận tải chống hỏa lực phòng không dày đặc và đầy nguy hiểm2
Nhiệm vụ trinh sát và quan sát cũng có kết quả rất hạn chế do địa hình phức tạp, cây cối rậm rạp, điều kiện thời tiết, sự ngụy trang và nhất là hỏa lực phòng không dữ dội của đối phương.
Tuy nhiên chúng cũng đã cung cấp nhiều tin tức về hoạt động, việc bố trí các lực lượng của đối phương bao quanh cứ điểm. Chúng cũng cung cấp được những hình ảnh quan trọng (các trận địa pháo, hầm chiến đấu...) vô cùng cần thiết.
Nhưng không may là chúng đã không làm tốt vai trò chủ yếu là hướng dẫn hỏa lực của pháo binh và không quân.
Lực lượng vận tải đóng một vai trò chủ lực bằng cách đưa đến cứ điểm sự chi viện và đồ tiếp tế cần thiết. Số lượng hàng hóa hằng ngày mà máy bay vận tải mang đến tăng lên gấp đôi so với số lượng lúc ban đầu.
Lực lượng này đã hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện đặc biệt hết sức khó khăn. Một chuyến bay thả dù xuống Điện Biên Phủ như sau: sau một chặng hành trình vô số khó khăn (địa hình, thời tiết, thường là trong đêm tối), phi công phải “lượn một vòng chờ đợi, bay vào khu vực được hướng dẫn trước, theo một đường bay cố định, theo hướng không thay đổi, lượn vòng bắt buộc, ở một độ cao nhất định1”; có nghĩa là “bốn lần phải xuất hiện2 trước họng hỏa lực phòng không3 đối phương”. Thế nhưng, các phi hành đoàn lại thường xuyên thực hiện được ba chuyến mỗi ngày.
“Chúng ta đã có dịp chứng kiến nhiều cầu hàng không, nhất là những cầu hàng không nối với Miến Điện và Berlin, nhưng chưa bao giờ có một cầu hàng không nào lại dẫn đến một hỏa lực phòng không dày đặc đến như vậy” 4.
Việc các khu vực thả dù dần dần bị thu hẹp lại, và lực lượng đồn trú không có khả năng thu hồi thường xuyên vật phẩm tiếp tế được thả dù xuống, đã làm giảm đi hiệu quả của những nỗ lực rất anh hùng này. Tuy nhiên sự thiệt hại trong các lô hàng được thả dù xuống trong những ngày cuối của trận đánh không bao giờ vượt quá 30%, và sự thiệt hại trung bình là dưới 20%. Do đó có thể nói rằng chỉ một phần nhỏ đồ tiếp tế đã lọt vào tay của địch quân5.
Chính là nhờ vào không quân vận tải mà Điện Biên Phủ đã chống cự được đến 56 ngày, chúng ta phải có một sự tôn vinh đặc biệt về những đóng góp này.
Thiệt hại của không quân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ là 36 máy bay bị bắn rơi hoặc bị phá huỷ ngay trên mặt đất. 150 chiếc bị trúng đạn. Thiệt hại nhân mạng là 79 người chết hoặc mất tích (kể cả của không quân và lực lượng máy bay của hải quân).
VIỆC ĐIỀU HÀNH TRẬN ĐÁNH
Chiến dịch Điện Biên Phủ có thể được điều hành một cách khác hơn không? Ta có nên củng cố cứ điểm và kéo dài cuộc kháng cự một cách vô vọng như đã làm không? Ta có nên sơ tán sớm hơn không? Có thể giải vây nó bằng một hành động từ bên ngoài chăng? Có rất nhiều câu hỏi được đặt ra và việc trả lời cũng rất quan trọng.
Việc củng cố tập đoàn cứ điểm và kéo dài cuộc kháng cự
Việc “Béatrice” và “Gabrielle” thất thủ ngay từ ngày 15 tháng 3 đã gây ra một sự khủng hoảng hết sức nghiêm trọng. Trước hết là một sự khủng hoảng về mặt tinh thần, vì những người được giao trách nhiệm bất ngờ nhận ra rằng đối phương có một sức mạnh mà họ không đánh giá đúng dù chỉ ở mức độ Bộ Chỉ huy đã cảm thấy và cảnh báo cho họ từ ba tháng nay. Cú sốc về mặt tâm lý này đã làm cho nhiều người cảm thấy có một sự bất lực và nghi ngờ về khả năng kháng cự. Từ một sự tự tin quá đáng, người ta đột ngột chuyển sang một sự mất tin tưởng dẫn đến bi quan.
Và khủng hoảng cả về mặt chiến thuật. Sự sụp đổ một phần lực lượng của chúng ta, sự co cụm lại, hàng rào hỏa lực phòng không, và khả năng khống chế sân bay của pháo binh đối phương đã dự báo trước sự chết ngạt của tập đoàn cứ điểm, nếu nó không được chi viện từ bên ngoài, hoặc không có khả năng tự mình giải toả áp lực.
Do sự yếu kém của tiềm năng không lực ta, thời gian để tập hợp phương tiện cần thiết cho một cuộc hành quân giải vây dù ở quy mô nào cũng phải mất ít nhất là 15 ngày. Tuy nhiên có vẻ như chắc chắn rằng khả năng kháng cự của Điện Biên Phủ nếu không được củng cố sẽ không thể nào chống đỡ được trong khoảng thời gian như vậy.
Hơn nữa do đã dự kiến các cuộc tấn công của đối phương sẽ được mở lại, chúng ta cần thiết phải trấn an tinh thần của binh sĩ đồn trú tại tập đoàn cứ điểm này. Việc gửi các tiểu đoàn mới sẽ chứng tỏ cho họ thấy tình hình không phải là không có giải pháp, và cứ điểm sẽ không bị bỏ rơi1.
Do đó, ta quyết định tìm cách củng cố Điện Biên Phủ bằng cách thả dù ba tiểu đoàn để giúp đại tá De Castries nếu có khả năng thì tái chiếm lại các cụm cứ điểm đã bị mất hoặc ít nhất là giữ vững các phần còn lại.
Sau khi thả dù xuống ba tiểu đoàn đầu tiên, ta phải liên tục gửi lực lượng chi viện đến để thay thế sự thiệt hại. Để có thể giữ lại các tiểu đoàn nhảy dù chưa đưa vào trận đánh, dự trữ cho một cuộc hành quân giải cứu, lực lượng chi viện được hình thành từ các cá nhân riêng lẻ, trước hết là những người có bằng nhảy dù, sau đó là những người tình nguyện, chỉ được huấn luyện nhảy dù ngay trên mặt đất. Số lượng người tình nguyện vượt xa yêu cầu. Số lượng người cần thiết không tới 500 người và đã được thả dù xuống đấy, trong khi có tới 1800 người tình nguyện, trong đó có khoảng 800 người Pháp, 450 lính Lê Dương, 400 lính Bắc Phi và 150 người Việt. Trong số người này có người là thư ký văn phòng, tùy phái, những người đến hạn hồi hương nhưng vẫn xin gia hạn thời gian làm việc của họ tại Đông Dương.
Trong những ngày cuối cùng, khi cuộc hành quân giải vây không được thực hiện, vì các lý do tôi sẽ nói rõ thêm ở phần sau, một tiểu đoàn nhảy dù cuối cùng đã được thả xuống, để giúp sức cho tập đoàn cứ điểm cầm cự thêm vài ngày nữa1.
Người ta cũng đã hỏi tại sao, chúng ta lại dồn sức kéo dài sự kháng cự đến như vậy?
Sự việc câu hỏi đó được đặt ra - nhất là đôi khi lại do những nhà quân sự - đã thể hiện rõ sự xuống tinh thần của một số người Pháp. Trong quân đội có một vài truyền thống cao cả, mà việc bỏ quên đồng nghĩa với sự sụp đổ của quân đội đó. Chúng ta không thể đầu hàng khi chưa mất hết khả năng chiến đấu, là một trong những truyền thống đó. Những người lính phòng thủ Điện Biên Phủ, cho dù phải trả giá như thế nào, cũng phải giữ vững truyền thống này.
Cho dù chỉ có một lý do là bảo vệ danh dự của người lính, mà phải kéo dài cuộc kháng cự, tôi cũng sẽ không ngần ngại ra lệnh làm việc này, cho dù đây là một quyết định rất đau đớn. Nhưng cũng có những lý do cụ thể khác để phải làm như vậy.
Lý do thứ nhất, chính phủ không loại trừ khả năng ngay khi hội nghị Genève được mở ra, sẽ có một cuộc ngưng bắn ngay lập tức, hoặc do từ đề nghị của phía bên kia, từ một “cường quốc” trung lập hoặc ngay từ chúng ta. Nó có khả năng cứu được lực lượng đồn trú tại cứ điểm, và sự kháng cự này sẽ tạo điều kiện cho các nhà đàm phán của chúng ta có được một lá ách chủ bài trên tay. Chính là với sự thống nhất của chính phủ mà trận đánh đã được kéo dài đến mức tối đa, để mong đạt được hy vọng này.
Một lý do khác là sự cần thiết phải làm chậm lại một cách tối đa - nếu có thể là cho đến khi những trận mưa đầu xuân đổ xuống - thời điểm Binh đoàn Tác chiến Việt Minh, sau khi đã rảnh tay với sự thất thủ của Điện Biên Phủ, sẽ có thể quay lại tấn công vùng châu thổ. Đây là nhận định chính của tướng Cogny trong bức thư gửi cho tôi ngày 3 tháng 5. Ông đã yêu cầu tôi tiếp tục “cuộc kháng cự cho đến khi cạn kiệt hết các phương tiện... có được cho đến khi không còn một khả năng nào nữa” để kéo dài “việc cầm chân tại chỗ Binh đoàn Tác chiến Việt Minh”, việc ông cho là tối quan trọng trong việc bảo vệ vùng đồng bằng.
Việc di tản
Như đã nói ở phần trên, cứ điểm Điện Biên Phủ được hình thành để chặn đứng con đường tiến vào Thượng Lào của sư đoàn 316 tăng cường, nghĩa là để đối phó với một sư đoàn đầy đủ nhưng không được trang bị phương tiện nặng quan trọng.
Việc di tản là một việc có thể làm được vào đầu tháng 12 khi chúng ta nhận được tin tức về sự xuất hiện của tất cả hoặc một phần của các sư đoàn 308, 312 và sư đoàn nặng 351. Việc di tản chỉ có thể thực hiện trước ngày 10 tháng 12, vì sau ngày này, sư đoàn 316 đã tiến gần đến Điện Biên Phủ, vì vậy việc này không thể nào thực hiện được mà không chịu thiệt hại nặng nề.
Tuy nhiên vào thời điểm ngày 10 tháng 12, tin tức ta nhận được chỉ cho biết là có khoảng hai sư đoàn, không có gì xác nhận là toàn bộ các sư đoàn này đều tiến về Điện Biên Phủ. Một phần các lực lượng này có thể đang tiến về cánh đồng Chum, qua con đường Sầm Nưa. Mối hiểm họa đối với Điện Biên Phủ chưa được bộc lộ hết, những gì chúng ta biết vào thời điểm đó không thể biện minh cho một quyết định sơ tán.
Mặt khác việc sơ tán khỏi Điện Biên Phủ cũng đồng nghĩa với việc từ bỏ việc phòng thủ vùng Bắc Lào, bằng cách hoặc là chúng ta từ bỏ nó mà không chiến đấu hoặc là ta dời sự phòng thủ về Luang Prabang và Vien Tiane. Một giải pháp tôi đã giải thích ở phần trên là không thể nào có hiệu quả. Điều này có nghĩa là không thi hành nhiệm vụ. Đây chẳng khác nào là một sự rút chạy nhục nhã, mà uy tín của nước Pháp đã bị bỏ qua một bên, sẽ đưa đến những hậu quả không thể tính toán được. Và cuối cùng là trong bất cứ hoàn cảnh nào, rút lui cũng có nghĩa là mất đi từ hai đến ba tiểu đoàn cùng gần như toàn bộ các trang thiết bị1.
Chỉ vào cuối tháng 12, tính cách quan trọng của hiểm họa đe dọa Điện Biên Phủ mới lộ ra một cách rõ ràng. Nhưng ngay vào thời điểm này, có những đơn vị rất lớn của Việt Minh đã bao vây cứ điểm nên không thể nào nghĩ đến việc thoát ra bằng đường bộ, cũng không thể di tản bằng đường không2.
Hơn nữa sự chi viện của Trung Quốc, cho dù rất quan trọng, nhưng vẫn chưa được tiến hành với một cường độ lớn như thời điểm ngay trước chiến trận nổ ra, hoặc là khi nó đang xảy ra. Do đó vào thời điểm này, sự nguy hiểm chưa tới mức đủ biện minh cho việc rút bỏ một vị trí chiến lược chủ yếu còn được đánh giá có đủ cơ hội để tồn tại - để chấp nhận một sự rút lui mà hậu quả tất yếu của nó không thể nào lường hết được: những hậu quả chiến lược, chính trị và tinh thần thảm khốc, bỏ lại tất cả phương tiện chiến tranh và thiệt hại vô cùng lớn lao về nhân mạng1.
Tuy nhiên tôi cũng có cho nghiên cứu khả năng này, nhưng chỉ trong trường hợp tình hình của căn cứ trở nên vô cùng nguy hiểm. Ý kiến của tướng Cogny rất rõ ràng. Ông đã viết cho tôi như sau vào ngày 21 tháng giêng: “Tôi xin phép nhấn mạnh với ông là chúng ta phải bằng mọi cách giữ lại căn cứ Điện Biên Phủ”. Ông đã xác nhận lại quan điểm của ông trong công văn ngày 9 tháng 2, bằng việc yêu cầu tôi không nên làm ảnh hưởng đến tinh thần của lực lượng đồn trú “đang phấn khởi về viễn cảnh thắng lợi lớn trong phòng thủ” bằng việc dự kiến một sự rút lui. Vài tuần trước khi cuộc tấn công diễn ra, thậm chí ông còn đề nghị tôi “thực hiện một mẹo quân sự (tôi không còn nhớ) để kích địch quân tiến hành cuộc chiến.
Sự thật là cho đến ngày 15 tháng 3, có một sự tin tưởng hoàn toàn vào kết quả của trận đánh. Đó không chỉ là sự tin tưởng của các tướng Cogny và Dechaux, mà còn là của những người thi hành nhiệm vụ khác.
Vào ngày 4 tháng 3 trong một chuyến đi kiểm tra cuối cùng đến cứ điểm, trước khi diễn ra cuộc tấn công mà ta biết rõ không thể nào tránh được, tôi có làm việc với nhiều cấp chỉ huy, đơn vị và nhận thấy ở họ có một sự tự tin tuyệt đối. Trước khi rời cứ điểm, tôi có kéo tướng Cogny và đại tá De Castries ra riêng và yêu cầu họ phát biểu khách quan tất cả những gì họ suy nghĩ. Câu trả lời của đại tá De Castries: “Trận đánh sẽ rất ác liệt, nhưng chúng tôi có thể chống cự được nếu ông gửi chi viện cho tôi thêm hai hay ba tiểu đoàn” (tôi đã có gửi). Còn tướng Cogny trả lời tôi như sau: “Chúng ta đến đây để buộc Việt Minh phải đánh nhau”. (Đây là quan điểm của ông ấy chứ không phải của tôi). “Ta không nên làm một cái gì khiến họ có thể thay đổi ý định tấn công” 2.
Nhiệm vụ cố thủ với một tinh thần không lùi bước đã được xác lập. Ngay cả ngày nay, tôi cũng không thấy có một giải pháp nào khác.
Khi trận đánh đã diễn ra, sự rút lui sẽ kéo theo gần như là một sự tiêu diệt hoàn toàn lực lượng phòng thủ. Dĩ nhiên là việc này đã được dự kiến, được chuẩn bị trước với cái tên là cuộc hành quân “Albatros”. Đây là một sự chuẩn bị cho bước cuối cùng trong trường hợp một sự kháng cự kéo dài không còn khả thi. Tướng De Castries đã dự kiến tiến hành bằng chia ra thành ba nhóm rút lui riêng rẽ theo các ngả tây bắc, nam và đông nam. Thương binh cùng một vài đơn vị bảo vệ phải ở ngay tại chỗ, dưới quyền điều động trực tiếp của ông.
Đại tá Crévecoeur, Chỉ huy trưởng quân đội ở Lào, đã đưa quân về phía Điện Biên Phủ theo một chiến tuyến rất rộng gồm lực lượng chính quy và lính bản xứ có nhiệm vụ tiếp đón các lực lượng có thể đào thoát ra khỏi các cứ điểm. Việc hướng dẫn các đơn vị rút lui này bằng máy bay quan sát và thả dù tiếp tế cho họ cũng đã được tổ chức.
Trong đêm ngày 6 rạng 7 tháng 5, do cảm thấy sẽ bị đánh bại, tướng De Castries đã quyết định với sự thống nhất của tướng Cogny và tôi, mở một cuộc rút chạy vào đêm sau. Nhưng việc tăng tốc những cuộc tấn công của Việt Minh đã làm cho cụm phòng thủ trung tâm thất thủ vào chiều ngày 7 tháng 5.
Lực lượng phòng thủ tại cụm “Isabelle” tìm cách rút vào nhưng giờ đầu tiên của đêm 7 rạng 8 tháng 5. Họ đụng độ ngay với địch quân từ tứ phía đã phục sẵn và đã thất bại. Chỉ vài chục người đơn lẻ chạy được sang các vị trí của chúng ta ở Lào.
Phương án giải vây
Để giải vây cho Điện Biên Phủ, chúng ta có thể dự kiến hoặc một cuộc hành quân không quân ồ ạt, hoặc một cuộc hành quân trên bộ. Một cuộc hành quân giải vây thuần túy bằng không quân chỉ có thể làm được nếu ta có lực lượng không quân hết sức mạnh. Khả năng lực lượng không quân riêng của ta không cho phép chúng ta mở một cuộc hành quân như vậy. Chỉ có lực lượng không quân mạnh hơn nhiều lần mới có khả năng đạt được kết quả bằng cách tấn công vào các trục giao thông, pháo mặt đất và pháo phòng không địch.
Chính vì vậy, một cuộc tấn công ồ ạt của không lực Hoa Kỳ đã có lúc được dự kiến một cách nghiêm túc. Báo chí ở Pháp cũng như ở Mỹ nhiều lần nói đến sự gợi ý này. Tôi xin kể lại sự việc đó đã diễn ra như thế nào theo sự hiểu biết của tôi.
Đề nghị đó được xuất phát từ Washington vào ngày đầu tháng tư khi tướng Ely gửi khẩn cấp một sĩ quan trực tiếp đến gặp tôi với nhiệm vụ báo cho tôi biết ý kiến của Lầu Năm Góc. Theo đó thì Lầu Năm Góc cho rằng sự can thiệp trực tiếp của Trung Quốc có thể biện minh cho sự can thiệp của Mỹ. Là người ủng hộ cuộc can thiệp của Mỹ, Ngoại trưởng Mỹ, lúc đó là ông Foster Dulles, trong một phát biểu nảy lửa trước Ủy ban Ngoại giao Hạ Nghị Viện đã tố cáo tính chất can thiệp trực tiếp qua sự chi viện của Trung Quốc, nhất là qua sự hiện diện của binh lính Trung Quốc trong việc điều khiển hệ thống phòng không tại các trận địa chung quanh Điện Biên Phủ.
(Những lý lẽ của ông Foster Dulles hoàn toàn đúng với thực tế, đã được thể hiện như sau:
1. Một tướng của Trung Quốc có mặt tại Tổng hành dinh Quân đội Việt Minh chung quanh Điện Biên Phủ.
2. Dưới quyền ông là khoảng 20 chuyên gia kỹ thuật Trung Quốc cũng có mặt tại Bộ Chỉ huy này. Những chuyên gia khác cũng có mặt ở cấp sư đoàn.
3. Các đường dây điện thoại đặc biệt được các chuyên gia Trung Quốc lắp đặt và bảo trì. Những người điều hành đều là người Trung Quốc.
4. Một số lượng rất lớn súng cao xạ 37 ly được bố trí quanh Điện Biên Phủ. Các xạ thủ đều là người Trung Quốc.
5. Để chi viện cho trận đánh, có đến khoảng 1000 xe tải tiếp tế mà một nửa đến đấy từ ngày 1 tháng 3. Toàn bộ do lái xe Trung Quốc điều khiển.
6. Tất cả những chi viện nói trên được cộng thêm vào lực lượng pháo binh, đạn dược và trang thiết bị do quân đội Trung Quốc cung cấp).
Do tướng Ely yêu cầu tôi trả lời khẩn cấp quan điểm của mình, tôi đã phát biểu là, một hành động quân sự ồ ạt của Không lực Hoa Kỳ, nếu được thực hiện một cách nhanh chóng thì có khả năng giải cứu được Điện Biên Phủ. Cả vị Tổng ủy Pháp, người được tôi thông báo về tin tức này và tôi đều không tin rằng cuộc can thiệp của Mỹ vào lãnh thổ Việt Nam sẽ có nguy cơ tạo ra một cuộc đối kháng toàn cầu. Cũng như ở Triều Tiên và Berlin vào thời kỳ xảy cuộc phong tỏa Berlin, Chủ nghĩa Cộng sản sẽ không thể nào vì một sự kiện như vậy mà phát động cuộc chiến tranh thế giới mà họ không hề muốn nổ ra vào giai đoạn đó.
Chỉ riêng sự có mặt của các xạ thủ Trung Quốc sử dụng súng cao xạ là sự thể hiện một cuộc can thiệp trực tiếp của Trung Quốc. Ngoài ra, tất cả những gì họ làm đều tương tự như những gì chúng ta nhận được từ người Mỹ. Tuy nhiên, chỉ riêng sự hiện diện rõ ràng này đủ để biện minh cho một cuộc can thiệp của Mỹ.
Chính phủ Pháp cho tôi biết là họ chia sẻ quan điểm này và họ yêu cầu sự can thiệp của Mỹ. Nhưng hình như chính phủ Pháp chỉ nói để nói thôi, chứ không nhấn mạnh đến việc này.
Một cuộc tấn công bằng không lực được nghiên cứu chi tiết ở Sài Gòn và cả ở Hà Nội với sự có mặt của các chỉ huy không lực Mỹ tại Thái Bình Dương. Trong thời gian chờ đợi họ được lệnh liên lạc với tôi. Họ dự kiến sử dụng 300 máy bay khu trục ném bom xuất phát từ tàu sân bay và 60 máy bay ném bom hạng nặng cất cánh từ Philippines1. Do sự yếu kém của cơ sở hạ tầng về Ra-đa của ta, nên không thể có chuyện sử dụng hỏa lực của không quân Mỹ đánh vào các trận địa pháo mặt đất và phòng không đối phương nằm cạnh cứ điểm Điện Biên Phủ, nhưng theo quan điểm của các tướng Mỹ thì sử dựng không quân đánh vào các đường tiếp tế và nhất là căn cứ Tuần Giáo là một điều khả thi và có khả năng rất hiệu quả2.
Nhưng lệnh tấn công đã không bao giờ được ban ra.
Như vẫn xảy ra ở phương Tây, việc bàn tính như vậy luôn bị rò rỉ tin tức. Các dân biểu ở cả Paris và Washington đều đã tỏ ra “xúc động” và có ý kiến can thiệp ngay với chính phủ3. Và lẽ tất nhiên báo chí cũng đã tiết lộ việc này.
Và sau nhiều sự do dự lâu dài - chỉ những do dự này cũng đủ làm cho cuộc hành quân mất đi tính hiệu quả của nó. Chính phủ Mỹ không dám đi theo con đường mà các cố vấn quân sự của họ đề xuất4.
Vào lúc này, người Mỹ phải che đậy sự tháo lui của mình. Để làm việc này, người Mỹ tuyên bố họ chỉ can thiệp khi nào các nước khác chấp nhận một hành động chung với họ. Thật ra đây cũng chỉ là một cái cớ thoái thác dựa vào sự không can thiệp của nước Anh. Nếu không có sự có mặt của nước Anh, thì không thể có một mặt trận thống nhất ở châu Á. Với lý lẽ đó, Mỹ đã yêu cầu sự nhất trí của nước Anh, nếu không thì chí ít cũng là sự tham gia một cách tượng trưng của nước này, và người ta đã vin vào cớ nước Anh từ chối - sự từ chối chắc chắn đã được biết trước - để không can thiệp nữa. Việc “đánh bài chuồn” của Anh và Mỹ đã gây ra ở Đông Dương một cú sốc nặng nề về mặt tinh thần - đối với dân chúng và quân đội ở đấy1.
Đây là bằng chứng cho thấy chúng ta phải chiến đấu một mình. Mỹ chỉ muốn nhận sự rủi ro rất hạn chế, chỉ gánh vác về mặt tài chính thôi. Chính sách này đã được khẳng định bằng một phát biểu trơ trẽn đến ngây ngô của Phó Tổng thống Nixon trong một bài diễn văn ở Cincinnati ngày 20 tháng tư: “Mục tiêu mà chính phủ Mỹ đặt ra là thi hành một chính sách để không phải đưa binh sĩ Mỹ đến chiến đấu ở Đông Dương hay bất cứ một nơi nào khác”. Người ta không thể nói một cái gì hay hơn những lời nói trên để biện minh cho sự thoái thác này! Còn nước Anh thì không muốn nhận một sự rủi ro nào cả. Điều này có nghĩa là họ muốn chúng ta làm “công chùa” cho họ trong việc bảo vệ quyền lợi của họ ở vùng Đông Nam châu Á.
Trước khi nghiên cứu khả năng những cuộc hành quân giải vây trên bộ, ta cũng nên nói qua về một giải pháp đôi lúc đã được xem là khả thi. Giải pháp này nhắm vào việc thả dù một số tiểu đoàn dù vào phía sau lưng các lực lượng bao vây của Việt Minh. Giải pháp này sau khi được nghiên cứu cho thấy là hoàn toàn không thể làm được. Tất cả mọi điều kiện đều không thuận lợi cho một cuộc hành quân như vậy: địa hình không cho phép nhảy dù ở một cự ly thích hợp và sự thiếu thốn của các đơn vị máy bay vận tải không cho phép chúng ta thả các đơn vị dù trong điều kiện có hiệu quả. Nếu chúng ta sử dụng vài tiểu đoàn dù ta đang có, thì chắc chắn chúng ta sẽ đưa chúng đến chỗ bị tiêu diệt mà không đạt được một kết quả gì.
Chỉ còn giải pháp giải vây bằng đường bộ. Một cuộc hành quân giải vây Điện Biên Phủ có thể được dự kiến, hoặc từ Bắc Lào hoặc từ vùng châu thổ Bắc Bộ.
Một cuộc hành quân lấy tên là “Condor” được chuẩn bị trước ở Lào từ tháng 12.1953. Nó bao gồm việc chuyển lực lượng của ta từ vùng Nậm U Thượng đến vùng Nga Na Son (cách Điện Biên Phủ 25 cây số), nơi có nhiều vùng đất có thể thả dù được, tuy không tốt lắm nhưng vẫn có thể thực hiện được. Ở đây lực lượng này sẽ được tăng cường một lực lượng nhảy dù quan trọng và tiến về Điện Biên Phủ để phá vỡ vòng vây. Một cuộc hành quân như thế này, tuy có rất nhiều khó khăn, chủ yếu là do địa hình phức tạp giữa Nga Na Son và Điện Biên Phủ, nhưng hoàn toàn khả thi.
Ngay ngày 15 tháng 3, quan tâm chính của tôi là tổ chức và phát động cuộc hành quân. Nhưng khả năng để làm việc này vấp phải sự thiếu thốn tiềm lực không quân của chúng ta, nhất là lực lượng máy bay vận tải. Thật vậy, với một cường độ không thể lường được của trận đánh, việc bổ sung quân trang và thiết bị của cứ điểm sau các trận đánh khủng khiếp ngày 13-14, đòi hỏi phải có một lượng phương tiện gấp đôi những gì tướng Cogny đã dự kiến (200 tấn đồ tiếp tế một ngày thay vì 96 tấn). Một sự chuyển tải như vậy đã thu hút hết số máy bay đang có.
Chỉ có thể vào đầu tháng 4, khi việc vận chuyển cho cứ điểm đã gần hoàn tất, thì cuộc hành quân “Condor” mới lại được tính đến.
Kết quả chờ đợi tùy thuộc vào lực lượng trên bộ sẽ được tung vào trận đánh. Để có một cuộc hành quân hiệu quả, phải cần đến từ 15 đến 20 tiểu đoàn. Tuy nhiên, để đảm bảo việc tiếp tế đều đặn cho Điện Biên Phủ, phương tiện không quân của chúng ta chỉ có thể hỗ trợ tối đa cho 7 tiểu đoàn. Một lực lượng như vậy không đủ để thực hiện một cuộc giải vây cho cứ điểm. Tất cả những gì chúng ta có thể làm được là buộc địch quân rút một phần nhỏ lực lượng bao vây và làm giảm sức ép của họ. Đây cũng chính là quan điểm của tướng Cogny, người không mặn mà với kế hoạch này.
Tuy vậy, vào ngày 6, ta quyết định thực hiện trong khoảng mười ngày một cuộc hành quân với sự tham gia của bốn tiểu đoàn xuất phát từ vùng Nậm U Thượng và ba tiểu đoàn nhảy dù nhảy xuống vùng lân cận Điện Biên Phủ1. Ngày 12 tháng 4, tướng Cogny đã yêu cầu hoãn lại cuộc hành quân này vì cần thiết phải tiếp tế cho cứ điểm. Ngày 15, ông xin hoãn lại một lần nữa cũng vì lý do này, cộng thêm với sự dè dặt vì phải rút thêm ba tiểu đoàn nhảy dù từ vùng châu thổ, nơi tình hình quân sự cũng rất khó khăn.
Từ ngày 15 tháng tư, sự gia tăng cường độ của các hoạt động không quân bên trên Điện Biên Phủ thu hút hết tất cả phương tiện có được cho nên cuộc hành quân “Condor” không thể nào thực hiện được.
Tuy vậy lực lượng của ta ở Lào đã tiến vào vùng được dùng làm xuất phát điểm cho cuộc hành quân này, để trong trường hợp có thể tiến hành cuộc hành quân hoặc ít nhất là làm một điểm tựa để đón các đơn vị từ Điện Biên Phủ rút ra nếu lực lượng cố thủ của chúng ta có thể làm được. Họ đã sẵn sàng vào thời điểm Điện Biên Phủ thất thủ để đón tiếp sự rút lui của lực lượng đồn trú tại cứ điểm này nếu cuộc hành quân “Albatros” được thực hiện.
Một cuộc hành quân giải vây, xuất phát từ vùng châu thổ chỉ có thể nhắm vào hệ thống giao thông của đối phương, vì cự ly giữa vùng châu thổ với Điện Biên Phủ quá lớn để có thể nghĩ đến việc tấn công lực lượng Việt Minh bao vây ở đấy. Ngày sau khi nắm được động thái của Binh đoàn Tác chiến Việt Minh, tôi đã chỉ thị cho tướng Cogny nghiên cứu đề xuất với tôi, bên cạnh phương tiện ta cần phải có, những hành động quân sự đánh vào sau lưng đối phương ta có thể làm được. Việc chặn đánh tuyến đường giao thông (Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn La, Tuần Giáo) được dự kiến vì tuyến đường trong đoạn Thái Nguyên và Yên Bái nằm trong tầm hoạt động của ta xuất phát từ vùng châu thổ.
Nhưng kinh nghiệm từ lâu cho thấy hệ thống tiếp tế của Việt Minh rất linh hoạt và có khả năng chuyển đổi phương án rất nhanh2. Để có thể ngăn chặn được lâu dài hệ thống giao thông này, chúng ta không chỉ phải “đóng chốt chặn” ngay trên trục giao thông mà còn phải khống chế cả một khu vực rộng lớn bằng những hoạt động thường xuyên xuất phát từ tâm điểm chốt quân. Việc này đòi hỏi chúng ta phải có rất nhiều phương tiện.
Hơn nữa, những nghiên cứu về các tuyến đường mà các dòng tiếp tế của Việt Minh sử dụng và khả năng chuyển đổi hướng của các tuyến đường này dẫn đến kết luận là, chỉ có những tuyến giao thông Tuyên Quang, Yên Bái là những mục tiêu đáng quan tâm. Hơn nữa Yên Bái còn nằm chặn ngang thung lũng sông Hồng đã từng được sử dụng và có thể được tái sử dụng một lần nữa, như một tuyến giao thông dự phòng.
Hành động hiệu quả duy nhất là một cuộc tiến công vào vùng Yên Bái-Tuyên Quang nhằm thiết lập một căn cứ hành quân ngăn chặn đường giao thông của đối phương; căn cứ này được nối liền với vùng châu thổ hoặc bằng một cầu hàng không hoặc bằng một hệ thống giao thông đường bộ.
Giải pháp thứ nhất không thể làm được vì nó đòi hỏi thiết lập trong vùng Yên Bái-Tuyên Quang một căn cứ không quân. Thế nhưng trong vùng này, không có khả năng tổ chức một căn cứ như vậy.
Còn về một giải pháp thuần túy đường bộ, phương tiện tướng Cogny đòi hỏi vượt xa những gì chúng ta có sẵn. Cho dù có giảm mạnh yêu cầu trong “bản kê” này - một việc làm hoàn toàn khả thi, khi toàn bộ Binh đoàn Tác chiến Việt Minh đang lâm chiến ở vùng núi - và cho dù phải huy động một sự tham gia nhiều hơn dự kiến của tướng Cogny của các lực lượng đóng tại vùng châu thổ, cũng là một việc có thể làm được, chúng ta vẫn phải tìm thêm một lực lượng từ ba đến bốn binh đội cơ động.
Thế nhưng các cuộc tấn công của Việt Minh vào vùng Trung - Nam Lào, vào Tây Nguyên cắm chân các lực lượng của chúng ta tại đấy và ngăn chặn mọi việc huy động các binh đội cơ động, cho dù chúng đóng ở đâu. Chúng ta không thể rút bớt lực lượng từ bất cứ chiến trường nào, thậm chí những đơn vị vừa mới thành lập cũng đã bị đưa hết vào cuộc chiến.
Trong những ngày cuối tháng tư, tướng Cogny trình bày với tôi tiếp theo sau một bản nghiên cứu mới cũng theo chỉ thị của tôi, một kế hoạch hành quân vào Phủ Doãn. Cho dù kế hoạch này đòi hỏi ít phương tiện hơn kế hoạch trước, nó vẫn vượt quá khả năng của chúng ta. Hơn nữa cuộc hành quân này có hiệu quả rất đáng nghi ngờ, một phần vì nó không thật sự ngăn cản tuyến đường giao thông của đối phương1, mặt khác, địch quân có khả năng đối phó lại bằng lực lượng rất mạnh. Cuối cùng, theo quan điểm của chính tướng Cogny, nó sẽ không đem lại kết quả trước ngày 20 tháng 5. Thế nhưng chúng ta có rất ít hy vọng là Điện Biên Phủ có thể kéo dài sự chống cự cho đến ngày này. (Trên thực tế, cứ điểm thất thủ vào ngày 7 tháng 5). Đứng ở vị trí hạn chế là tư lệnh các lực lượng ở Bắc Bộ, tướng Cogny nhấn mạnh phải tiến hành cuộc hành quân này. Để có phương tiện cần thiết, ông yêu cầu tôi trích ra từ các đơn vị trên toàn Đông Dương, trừ các đơn vị của ông ta. Sự huy động này sẽ kéo theo một thảm họa toàn diện, mà với tư cách là người chịu trách nhiệm chung, tôi không thể nào chấp nhận sự rủi ro ấy. Tôi không để bị lôi cuốn vào một cuộc mạo hiểm, chỉ có thể tạo ấn tượng mạnh nhưng sẽ gây ra những sự thiệt hại không cần thiết. Tôi đã không hối tiếc về quyết định này2. Nếu tôi chấp thuận thì có thể, Điện Biên Phủ không được giải cứu, mà chúng ta sẽ còn mất luôn Lào, Campuchia và nước Việt Nam tự do.
Đây là sự khác biệt duy nhất giữa tôi và tướng Cogny về việc điều hành trận Điện Biên Phủ, điều tôi đã có nói trong đoạn cuối phần trình bày về “tổ chức chỉ huy”.
CÁC NGUYÊN DO CỦA SỰ THẤT THỦ ĐIỆN BIÊN PHỦ
Chắc chắn đã có những nhận thức không đầy đủ những sai lầm trong khái niệm và tổ chức phòng thủ cũng như trong việc điều hành trận đánh.
Việc phân bổ lực lượng tại tập đoàn cứ điểm, giữa các cụm cứ điểm nằm bên ngoài cùng và cụm trung tâm là một điểm có thể gây tranh cãi.
Một số đơn vị chất lượng kém (nhất là các tiểu đoàn Thái) lẽ ra phải được thay thế bằng những đơn vị vũng vàng hơn rút từ vùng châu thổ.
Đã có một sự thái quá trong việc xây dựng công trình phòng thủ phụ, khiến các cứ điểm bị chia thành nhiều phần ngăn cách nhau gây trở ngại cho các cuộc phản công. Một số hệ thống hầm chiến dấu không được xây dựng đủ kiên cố, không chịu nổi hỏa lực của pháo binh và súng cối nặng.
Việc sử dụng lực lượng dự trữ là một điều gây tranh cãi.
Việc chuẩn bị chiến đấu chống lại pháo binh và hỏa lực phòng không đối phương không đầy đủ, do sự lạc quan quá đáng của các chuyên viên kỹ thuật, do đánh giá đối phương qua cách nhìn của họ nên đã đánh giá quá thấp khả năng của đối phương.
Ở một số lĩnh vực, Bộ Chỉ huy ở Hà Nội đã không có được một sự chỉ đạo kiên quyết đối với Bộ Chỉ huy tập đoàn cứ điểm.
Cuối cùng là sự phối hợp hành động giữa lực lượng trên bộ và trên không đã không được thực hiện tốt ở các cơ quan tham mưu tại Hà Nội. Họ không thực sự “cùng sống” với trận đánh
Thiếu sót và sai lầm nói trên một phần là trách nhiệm của Ban Chỉ huy tập đoàn cứ điểm, một phần của Bộ Chỉ huy Không quân, nhưng chủ yếu là của Bộ Chỉ huy lực lượng trên bộ tại Bắc Bộ, được phân công chuẩn bị và điều hành trận đánh. Với tư cách là Tổng tư lệnh quân đội tại Đông Dương, tôi phải chịu trách nhiệm trên toàn cục.
Cho dù các thiếu sót và sai lầm đó có nghiêm trọng đến mức độ nào, chúng cũng không vượt qua những sự không hoàn thiện tất yếu của mọi chiến dịch quân sự, và chỉ có một ảnh hưởng không lớn đến kết cục của trận đánh.
Nguyên nhân sâu xa của sự sụp đổ Điện Biện Phủ nằm ở những nơi khác.
Nguyên đo đầu tiên là sự thiếu phương tiện. Lực lượng trên bộ của chúng ta không đủ. Chúng ta thiếu từ sáu đến tám binh đội cơ động để có thể tiến hành một cuộc hành quân giải vây có hiệu quả. Ở đây ta phải trả giá cho những gì ta đã để cho lực lượng Việt Minh qua mặt trong việc xây dựng một Binh đoàn Tác chiến trong quá khứ.
Chất lượng chiến đấu của các lực lượng chúng ta không bù đắp được sự yếu kém về quân số. Chúng ta chiến đấu với một khung chỉ huy quá kém. Đa số các sĩ quan và hạ sĩ quan không thông thạo việc chỉ huy. Còn binh lính thì được huấn luyện rất sơ sài. Tỷ lệ người Việt Nam quá cao, ngay cả trong các tiểu đoàn giỏi nhất. Sự giảm sút chất lượng tác chiến của quân đội, nhất là của bộ binh đã lộ rõ qua sự ác liệt của các trận đánh. Và cũng ở đây, ta lại phải trả giá cho những sai lầm tích tụ trong quá khứ, chính là ý muốn tiến hành chiến đấu với ít chi phí nhất.
Phương tiện về không quân lại càng thiếu thốn hơn nữa, nên những yêu cầu xin tăng cường của tôi trên lĩnh vực này đã không được thỏa mãn, hoặc là được thực hiện một cách quá trễ. Nếu những tăng cường trên đây được thỏa mãn đúng lúc chúng ta sẽ có điều kiện tốt hơn nhiều cho trận đánh. Nếu không cản được, thì ít nhất ta cũng có thể làm chậm trễ việc đưa vào sử dụng và bảo trì các trang thiết bị chiến tranh của đối phương. Trên thực tế sự chi viện này được thực hiện một cách ngẫu hứng, không theo một kế hoạch nào, do đó đã chẳng có tác dụng gì cả. Hơn nữa, khi có sự chi viện ồ ạt của Trung Quốc, chúng ta cần đến một lực lượng không quân mạnh hơn mười lần, mới có thể hành động một cách có hiệu quả được. Chỉ nước Mỹ mới có khả năng cung cấp các yêu cầu này, và chúng ta cũng thấy yêu cầu của ta đã được họ giải quyết như thế nào rồi.
Sự gia tăng ồ ạt viện trợ từ Trung Quốc là một nguyên do khác của thất bại Điện Biên Phủ. Đây là loại hình chiến tranh hoàn toàn mới ở Đông Dương mà chúng ta phải đối phó, làm cho ta hoàn toàn bị bất ngờ. Cái bất ngờ về sức mạnh huỷ diệt của pháo binh và súng cối, tạo ra một cú sốc cho binh lính ta chưa được chuẩn bị sẵn sàng về mặt tinh thần. Cũng như vào năm 1940, lực lượng chiến đấu của chúng ta đã bị máy bay Stukas của phát xít Đức ghì chặt xuống đất, binh lính của chúng ta tại Điện Biên Phủ đã bị thua sút trong một thời gian về mặt tinh thần. Họ phản ứng nhanh nhưng đã quá trễ để ngăn chặn sự sụp đổ, hoặc để có thể tái chiếm những điểm chính đã bị mất; sự thất thủ của những cứ điểm này đã có ảnh hưởng đến toàn bộ cục diện về sau của trận đánh.
Pháo binh của ta đã bị tước mất phương tiện quan sát trận địa vì hỏa lực phòng không của đối phương và bị mất phương hướng hoạt động vì pháo mặt đất của họ. Được sử dụng theo phương pháp mà pháo binh ta không được chuẩn bị trước để đối phó nên đã bất ngờ nhận ra rằng ta hoàn toàn bất lực và không còn là yếu tố đem lại ưu thế trên chiến trường Đông Dương từ trước cho đến nay.
Tâm trạng bị bất ngờ này cũng có thể được nhận thấy trong các lực lượng không quân bất thình lình phải đối phó với một hỏa lực phòng không mạnh không thể ngờ được; chúng ta bị buộc phải giải quyết nhanh những vấn đề mới phát sinh như phải thả dù ở độ cao và phải chiến đấu để hộ tống việc thả dù. Phải mất một thời gian mới có thể thích ứng về mặt tri thức và vật chất cho công việc mới mẻ này. Hiệu quả của không quân, đã yếu kém vì thiếu thốn phương tiện tác chiến, lại càng bị sút giảm thêm nữa.
Vậy là tại Điện Biên Phủ, có xảy ra sự bất ngờ, nhưng sự bất ngờ này không phải do lỗi của các cơ quan tình báo quân đội tại Đông Dương. Các cơ quan này đã hoạt động một cách đúng đắn trong khả năng của họ. Nhưng khả năng đó có các giới hạn: gần như họ không biết được tất cả những gì xảy ra ở Trung Quốc, đây là công việc của các cơ quan khác. Họ cũng không biết gì về ý định của Việt Minh, trừ những gì sắp diễn ra.
Việc không biết rõ hoạt động của đối phương là một việc bình thường nếu nó được cân bằng từ phía bên kia khi họ cũng không biết rõ gì về hoạt động của chúng ta. Nhưng không may, sự thật không phải như vậy, vì tin tức của ta được chính báo chí của ta cung cấp và vì cả một thác “Niagara” các tin tức rò rỉ ngay từ cấp chính phủ ở Pháp.
Mặc dù vậy, chúng ta luôn luôn biết được tin tức chính xác về những gì đang xảy ra bên phía đối phương, hoặc tất cả những gì sẽ xảv ra trong khoảng thời gian vài tuần. Cái ta không thể biết được là chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai xa.
Trong điều kiện như vậy, đã trở thành một định luật trong các cuộc chiến tranh, việc chuẩn bị cho trận đánh tại Điện Biên Phủ đã được vạch ra trên cơ sở sự cảm nhận về “đối thủ tương lai” mà chúng ta sẽ phải đối mặt. Sức mạnh của đối thủ này được ước tính bằng cách nhân lên trong một phạm vi ta thấy hợp lý, những gì ta biết về “đối thủ hiện tại” có nghĩa là sức mạnh của Việt Minh vào tháng 11.1953. Khi xây một cây cầu 10 tấn, người ta phải dự kiến mức độ an toàn lên đến 15 hoặc 20 tấn nhưng không bao giờ mức độ này lên đến 100 hay 150 tấn. Đây là công việc ta đã làm. Nếu sức mạnh của đối phương chỉ được nhân lên gấp hai hay ba lần, chúng ta phải chịu đựng một sự khủng hoảng, vì nó đã vượt quá khả năng của những phương tiện ta đang có. Thế nhưng, sức mạnh của Việt Minh đã được nhân lên một hệ số lớn hơn rất nhiều, trong nhiều lĩnh vực: khả năng vận chuyển và sửa chữa các tuyến giao thông vận tải, hỏa lực của pháo binh mặt đất và phòng không.
Chính trong lĩnh vực phòng không chúng ta đã gặp một sự bất ngờ nghiêm trọng nhất. Chúng ta biết rất rõ về sự có mặt của một lực lượng pháo mặt đất và pháo phòng không Việt Minh, sự quan trọng của nó, và những loại đạn dược nó có. Chúng ta đã dự kiến số lượng pháo mặt đất và phòng không cùng các loại đạn dược sẽ được gia tăng một cách mạnh mẽ, dự đoán sự tăng lên của các số lượng này trong một giới hạn nhất định. Điều bất ngờ là giới hạn này đã bị vượt qua quá xa.
Người ta nói: “Chỉ huy có nghĩa là biết dự kiến trước”. Đúng vậy, nhưng nếu người chỉ huy chỉ dự kiến những điều tồi tệ nhất thì người ấy sẽ không dám làm gì cả. Mà trong chiến tranh không hành động thì sớm muộn sẽ gặp nguy hiểm hơn là hành động.
Nếu điều tồi tệ nhất đã diễn ra, nếu những dự kiến của chúng ta đã hoàn toàn bị đảo lộn là tại vì chính phủ không tham khảo ý kiến của Bộ Chỉ huy mà lao vào guồng máy tai hại của hội nghị Genève. Quyết định thiếu suy nghĩ của chính phủ họp hội nghị đúng vào thời điểm mà ván bài quân sự của chúng ta đang được chơi và không còn có thể điều chỉnh được nữa, làm thay đổi tất cả dữ kiện của bài toán.
Năm ngoái, Bộ Chỉ huy Việt Minh đã không muốn đưa Binh đoàn Tác chiến của họ vào một cuộc tấn công kéo dài tại Nà Sản và cánh đồng Chum.
Nếu không có hội nghị Genève, họ sẽ không dám mạo hiểm tung Binh đoàn Tác chiến của họ vào chỗ nguy hiểm để tìm kiếm một thắng lợi không rõ ràng. Chưa bao giờ họ chịu lao vào những điều kiện khó khăn như vậy để tiếp tục cuộc chiến. Và từ trước tới nay cũng chưa bao giờ họ nhận được từ Trung Quốc sự viện trợ lớn như vậy, đã từng bị Trung Quốc từ chối vì lo ngại bị lôi cuốn vào một sự đối đầu tổng lực.
Chính hội nghị Genève tạo cơ hội cho Việt Minh đạt được một nền hòa bình nhanh chóng và thắng lợi. Vì vậy họ đã vận dụng hết những sức mạnh tinh thần và chấp nhận mọi sự rủi ro để nắm chắc cơ may quá sức mong đợi này bằng một thắng lợi vang dội.
Chính hội nghị Genève là nguyên do thúc đẩy Trung Quốc viện trợ ồ ạt cho Việt Minh nhằm tạo tư thế thuận lợi cho các nhà thương thuyết của họ. Sự viện trợ ồ ạt này đã làm cho phương tiện chiến tranh của ta bất ngờ bị đối phương qua mặt ở địa điểm quyết định của cuộc chiến.
Ngày quyết định mở hội nghị Genève cũng là ngày định đoạt số phận của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
NHỮNG HẬU QUẢ CỦA TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ
Trong vòng 56 ngày đêm chiến đấu không khoan nhượng binh lính trên bộ của ta tại Điện Biên Phủ chứng tỏ cho thế giới thấy chúng ta vẫn còn giữ được những phẩm chất chiến đấu của những chiến sĩ tiền bối đã từng chiến đấu tại Camerone, Sidi Brahm và Verdun. Trong vòng 56 ngày, các chiến sĩ lái máy bay của cả không quân và hải quân, chiến đấu hết mình trong thời tiết xấu, bay ngang qua các hàng rào lửa dày đặc và đầy nguy hiểm. Tính anh hùng này cũng không thua gì các chiến hữu của họ trong lục quân.
Đối với tất cả các chiến sĩ nói trên, báo chí Pháp và nước ngoài đã dành cho họ một lòng cảm phục không giới hạn. Một tờ báo đã viết: “Một lực lượng khác dưới quyền chỉ huy của những tư lệnh khác đã đầu hàng lâu rồi”. Một tờ khác: “Không thể tìm thấy ở một nơi nào khác trong các chiến lệ một trường hợp kháng cự lâu dài đến như vậy của một lực lượng phòng thủ với quân số ít ỏi trên một địa thế trần trụi và không có một chút hy vọng nào để có thể rút lui. Đây là một chiến tích thật độc đáo”. Tờ New York Times viết: “Đây là một trận đánh đến hơi thở cuối cùng theo truyền thống anh hùng của nước Pháp. Đây là một trận đánh mà con người ở đấy đã thể hiện sự gan dạ của mình và đã làm sống lại sự tin tưởng của chúng ta vào nước Pháp, vào tinh thần không thể bị khuất phục của con người”.
Một trang mới về sự vinh quang vừa được viết trong lịch sử quân đội của chúng ta.
Trong một thời gian ngắn nó đã khôi phục tinh thần quốc gia của người Pháp bị hao mòn từ lâu. Lẽ ra một chính phủ xứng đáng với chức danh đó đã có thể tận dụng được sự bừng tỉnh này.
Các chiến sĩ ở Điện Biên Phủ không chỉ góp phần cứu vãn danh dự cho nước Pháp. Họ đã bảo vệ nước Lào trước một cuộc xâm lược. Họ đã ngăn không cho phần lớn các lực lượng cơ động của Việt Minh tiến về vùng châu thổ, Trung và Nam Bộ Đông Dương. Họ ngăn cản Việt Minh giành được chiến thắng trên một chiến trường có tính cách sống còn và quan trọng hơn Điện Biên Phủ, một điều họ rất cần tại Genève. Hơn nữa, những binh lính này đã gây cho đối phương những thiệt hại đến nỗi không còn khả năng quay trở lại chiến trường trong vòng nhiều tháng.
Lực lượng đồn trú đã hoàn thành nhiệm vụ của họ. Họ đã ghi tên vào truyền thống của những cứ điểm phòng thủ lớn của mọi thời đại có nhiệm vụ vinh quang là ngăn cản hướng tiến quân chủ yếu của địch quân, vô hiệu hóa một lực lượng đối phương lớn hơn rất nhiều ngay tại vòng rào phòng thủ.
Trong lịch sử, rất nhiều cứ điểm phòng thủ đã phải thất thủ.
Mayence, năm 1793, do 22.000 quân của Kléber phòng thủ đã thất thủ sau khi làm tê liệt 45.000 quân Áo Phổ trong vòng 4 tháng.
Plevna, năm 1877, do 35.000 quân Thổ Nhĩ Kỳ cố thủ, đã phải đầu hàng sau khi chặn đường tiến quân của quân Nga vào vùng Balkans trong vòng 5 tháng. Cuối cùng quân Nga đã chiếm được sau khi mất 44.000 người.
Vào năm 1914, tướng Léman đã chỉ huy việc phòng thủ thành Liège, cuối cùng cũng phải thất thủ sau mười ngày chiến đấu chống những lực lượng lớn hơn rất nhiều. Nhưng việc cố thủ này đã tạo điều kiện cho quân đội Bỉ có thể rút lui trong trật tự.
Sébastopol, vào năm 1942, thất thủ sau khi đã làm chậm lại trong vòng một tháng chiến dịch mùa hè của quân Đức đang muốn tiến về Stalingrad. Do đã “hoàn thành nhiệm vụ”, nên không một vụ thất thủ nào tại các địa danh trên bị xem là một thảm họa để phải kết thúc cuộc chiến tranh.
Nhưng cuộc chiến Đông Dương không như những cuộc chiến tranh khác. Đây là một cuộc chiến tranh mà đất nước không thấy có quyền lợi quốc gia, dân chúng đã quá mệt mỏi, và người ta cũng để cho họ nghĩ là nó không còn một ý nghĩa nào cả. Đây là một cuộc chiến mà số đông các chính trị gia chỉ muốn tìm cớ để kết thúc nó.
Do đó, những hậu quả của sự thất thủ Điện Biên Phủ đã được dự báo trước là sẽ nghiêm trọng hơn nhiều so với ý nghĩa về mặt quân sự của thất bại này.
Chú thích
1. Nói chuyện với Hiệp hội người Pháp ở Đông Dương, ông Paul Reynaud - một người đóng vai trò chủ yếu trong chính phủ, đã nói: “Hiệp ước với nước Lào tạo điều kiện có giải pháp đi đến sự chuyển biến cần thiết cho khối Liên hiệp Pháp”.
1. Số lượng các phương tiện này lớn hơn rất nhiều so với số lượng cần thiết để phòng thủ Điện Biên Phủ.
2. Trận đánh trên vùng châu thổ đã diễn ra rất ác liệt (xem chương VI) Đã nhiều lần tướng Cogny cho thấy những lo lắng rất nghiêm trọng trong cách giải quyết các vấn đề, thậm chí ông dự kiến phải bỏ luôn Hà Nội. Trận đánh ở vùng Trung Lào cũng không dễ hơn. Nếu một trong hai trận đánh nói trên được tiến hành với một tỷ lệ quân số bất lợi hơn nữa (bên Việt Minh có quân số vượt trội từ 15 đến 20 tiểu đoàn), chắc chắn là chúng ta sẽ thất trận. Nhờ vậy Việt Minh sẽ tìm được một thắng lợi vang dội ở nơi khác Điện Biên Phủ, theo yêu cầu của hội nghị Genève đối với họ.
1. Khi chiến dịch Điện Biên Phủ đang diễn ra, tướng Giáp trả lời cuộc phỏng vấn của một nhà báo Cộng sản Ý như sau: “Khi chiếm Điện Biên Phủ địch thủ không những có mục tiêu trước mắt là hình thành một cứ điểm tiến công chống lại nước Việt Nam từ vùng Tây Bắc, mà còn có một mục đích sâu xa khác, mục đích này được Bộ Tham mưu Mỹ rất quan tâm là, biến nó thành một trong những căn cứ không quân quan trọng ở vùng Đông Nam châu Á”. Và ông đã chỉ cho nhà báo này xem vị trí của Điện Biên Phủ, là tâm của một vòng tròn có bán kính kéo dài đến tận miền Nam Trung Quốc, Miến Điện và Thái Lan. Sau đó, trong cuộc phỏng vấn của một tuần báo Cộng sản Pháp, ông đã nói: “Điện Biên Phủ là một điểm chiến lược rất quan trọng... Quân đội Viễn chinh Pháp đã đến đây đề phòng thủ đất Lào và tái chiếm vùng Tây Bắc Việt Nam. Nếu hoàn tất kế hoạch này, địch quân sẽ có một căn cứ không quân và lục quân đè nặng sức ép lên phía sau lưng chúng tôi, buộc chúng tôi phải tản ra trong vùng giữa châu thổ và Điện Biên Phủ”.
1. Sự phản bác duy nhất đối với việc lựa chọn chiến trường Điện Biên Phủ là của tướng Fay, Tham mưu trưởng Không quân, khi ông tới thăm cụm cứ điểm tháng 2 năm 1954. Sự phản bác này không có tính chất chiến thuật hay chiến lược. Tướng Fay chỉ lo ngại sân bay sẽ không sử dụng được vào mùa mưa. Một cuộc điều tra cho thấy trong quá khứ, chưa một lần nào đường băng bị đóng cửa nhiều hơn hai hay ba ngày. Thế nhưng, sự nâng cấp (làm kênh thoát nước) đã làm giảm sự rủi ro. Những diễn biến về sau chứng minh sự lo lắng của tướng Fay là không có cơ sở, vì các máy bay đã đáp xuống được Điện Biên Phủ một cách không khó khăn để di tản thương binh đến tận cuối tháng 5.
2. Trong một diễn văn đọc tại Caen ngày 25 tháng 6 năm 1955, ông J. Laniel cho rằng Điện Biên Phủ đã “làm cho chính phủ phải lo lắng”. Nhưng tôi không hề được biết chút gì về “sự lo lắng” của ông ta. Trong lời khai nhận vụ án “rò rỉ thông tin”, ông Jacquet cũng tuyên bố ông ta đã cảm thấy “lo sợ”. Thật khó hiểu, là Bộ trưởng phụ trách xây dựng nền quốc phòng nhưng ông không nói gì với tôi về nỗi “lo sợ” ấy.
1. Từ đây những máy bay hiện đại có thể bay đến gần như tất cả các nơi ở vùng Đông Nam châu Á. Người Nhật xây dựng một căn cứ quan trọng ở đây nhằm vào mục đích này.
2. Đây là khoảng cách những điểm tập kết hàng chi viện của Trung Quốc trong vùng biên giới.
3. Một dân biểu được xem như là một chuyên gia về Đông Dương đã tuyên bố với Quốc hội rằng điều kiện để chiến đấu trong vùng cánh đồng của Luang Prabang tốt hơn ở lòng chảo Điện Biên Phủ. Nhưng “cánh đồng” Luang Prabang dễ bị tấn công và nhỏ hơn lòng chảo Điện Biên Phủ từ bốn đến năm lần.
4. Trong một cuộc phỏng vấn tướng Giáp dành cho ông Merry Bromberger, được đăng tải trên tờ Paris Presse vào đẩu tháng 6 năm 1956, người ta đã ghi nhận những nhận xét sau đây của ông về kế hoạch hành quân đến Điện Biên Phủ: “Người ta cho rằng đây là một cuộc hành quân ngu ngốc. Thật ra nó đã được nghiên cứu rất kỹ”. “Hoả lực pháo binh và không quân của các ông có thể đánh vào tất cả mọi ngõ ngách và sườn núi”. “Chúng tôi phải đình chỉ cuộc tiến công vào đất Lào”.
1. Vào tháng 6, tướng Cogny viết cho tôi: “...Ngay khi ngài nhận chức chỉ huy, tôi đã đề nghị sơ tán khỏi Nà Sản... Tôi cũng thông báo cho ngài biết quan điểm của tôi: căn cứ Không - Lục quân tại Điên Biên Phủ hơn hẳn tại Nà Sản. Do tình hình biến đổi tại vùng xứ Thái và sau khi đã suy nghĩ kỹ, tôi thấy phải nhắc lại đề nghị này dưới một hình thức hoàn chỉnh hơn...” và trong một đoạn sau đó, tướng Cogny đánh giá Điện Biên Phủ là “chiếc chìa khóa của vùng Bắc Lào”.
2. Theo đề nghị của tướng Gilles, Tư lệnh các lực lượng không vận phụ trách cuộc hành quân này, tôi đã quyết định để lại Điện Biên Phủ ba tiểu đoàn nhảy dù, để dự trữ cho các cuộc phản công. Nhiệm vụ này chỉ có thể được giao cho những đơn vị bộ binh tinh nhuệ - các tiểu đoàn dù có thể đảm trách nó một cách rất tốt.
1. Người ta nghĩ Việt Minh chỉ có thể huy động được tối đa khoảng 20.000 dân công trên vùng Thượng du vì những khó khăn về mặt lương thực và phương tiện đi lại.
2. Trong các cuộc phỏng vấn tháng 4 và 5 năm 1956 dành cho ông Jean Farran (Paris Match) và ông Merry Bromberger (Paris-Presse), tướng Giáp có trình bày một bức tranh khá hấp dẫn về công tác hậu cần của Việt Minh. Ông cho biết kết quả đạt được là do sự nỗ lực của dân chúng đóng góp cho quân đội. Chúng ta không thể nào không nhìn nhận cố gắng phi thường này và bái phục những hiệu quả mà Bộ Chỉ huy quân đội và Chính phủ Việt Minh đã làm được. Tuy nhiên nếu không có sự chi viện ồ ạt của Trung Quốc thì khó làm được chuyện này.
3. Đúng như ta nhận định, địa thế của Điện Biên Phủ gần biên giới Trung Quốc (80 km) không tạo một sự thuận lợi nào cho Việt Minh. Những chi viện có tính chất quyết định của Trung Quốc không đến từ vùng biên giới sát với căn cứ Điện Biên Phủ.
1. Sự hiện diện của một nhóm công tác Trung Quốc, hoặc có thể là một nhóm công tác liên hợp Nga - Trung Quốc được ghi nhận vào thời kỳ này trong các chiến tuyến của Việt Minh. Hình như họ đã khuyên nên huỷ bỏ lệnh tấn công này.
1. Cứ điểm Điện Biên Phủ đã chặn ngang con đường đi lại duy nhất. Con đường hậu cần của Việt Minh phải đi vòng lòng chảo Điện Biên, băng qua những con đường rất khó đi cho các đoàn dân công.
2. Việc sơ tán vào lúc đó là không thể làm được, trái với một ý kiến quả quyết như vậy.
1. Một đơn vị hỏa lực tương đương về mặt lý thuyết với một lượng đạn sử dụng cho một ngày chiến đấu trung bình.
1. Sự tính toán này được thực hiện dựa trên kinh nghiệm rút ra ở Nà Sản.
2. Khác với những gì đã được xác nhận, việc Bộ Chỉ huy Không quân phản đối sự áp đặt gánh nặng lên vai quân chủng không quân là không đúng. Họ chỉ có phản ứng khi trách nhiệm trở nên quá nặng do chiều hướng phát triển không lường trước được của trận đánh.
3. Chỉ huy trưởng pháo binh tại cứ điểm, Chỉ huy trưởng pháo binh tại Bắc Bộ, Tư lệnh pháo binh tại Đông Dương và bản thân tướng Cogny là một sĩ quan pháo binh.
4. Việc nghiên cứu về hỏa lực phòng không của đối phương được thực hiện với sự hợp tác của các sĩ quan Mỹ. Họ là những chuyên gia về lĩnh vực này và có kinh nghiệm về loại pháo 37 ly phòng không của Nga được sử dụng trong chiến tranh Triều Tiên.
1. Các tiểu đoàn Thái, dù khả năng chiến đấu không được tốt lắm, vẫn được giữ lại tại Điện Biên Phủ để tham gia các hoạt động bên ngoài cứ điểm (trinh sát, tuần tiễu, liên lạc) nhờ vào sự hiểu biết của họ về địa hình vùng đất này. Vào thời điểm chúng ta biết chắc chắn cuộc tấn công sẽ diễn ra, đại tá De Castries đã nhiều lần yêu cầu tướng Cogny thay thế những tiểu đoàn này bằng những tiểu đoàn thiện chiến hơn rút từ vùng châu thổ. Tôi thống nhất với ý kiến thay quân này nhưng cho đến ngày cuộc tấn công diễn ra, nó vẫn không được thực hiện.
1. Khả năng cứu chữa thương binh của Điện Biên Phủ được tính toán trên cơ sở số liệu ở Nà Sản (có cùng một quân số là 12.000 người), nhân lên gấp 3,5 lần. Từ ngày 13 tháng 3 đến 7 tháng 5, 3.000 thương binh đã được chuyển cho các đội phẫu thuật. Đã có 1.000 trường hợp giải phẫu. Tỷ lệ bệnh binh chết trong các khu điều trị của cứ điểm là 12 %. Số người chết cho đến ngày 7 tháng 5 là khoảng 1500 người, rất nhiều thương binh đã chết sau đó khi bị bắt làm tù binh.
1. Cuộc hành quân “Albatross” (xem phần sau).
2. Tính theo tỷ lệ của tất cả quân số hiện diện tại Đông Dương, thì chúng ta thiệt hại thấp hơn 5%.
1. Một bản hợp đồng có tính chất tư nhân đã được ký với ông ta.
2. Việc sử dụng máy bay dân sự để bổ sung vào việc thiếu máy bay quân sự là một việc làm thường xuyên ở Đông Dương trong lĩnh vực vận tải và liên lạc.
3. Lực lượng này gồm cả máy bay của không quân và hải quân Pháp.
4. Các máy bay vận tải tư nhân Mỹ gần như ngưng hẳn hoạt động của họ khi hỏa lực phòng không của đối phương trở nên quá mạnh. Việc này hoàn toàn phù hợp với điều kiện ghi trong hợp đồng, nhưng thường là những phi công này đã dũng cảm bất chấp các quy đinh ghi trong hợp đồng để bay chỉ viện cho cứ điểm.
5. Do có nhiều nguy hiểm nên không thể can thiệp vào Điện Biên Phủ được.
6. Một tỷ lệ bắt buộc rất cao, vì tính khó khăn của các chuyến bay, thiệt hại do pháo phòng không gây ra và việc thiếu nhân viên bảo trì.
1. Tôi đã nói đến ở phần trước tại sao các cơ sở hạ tầng ở phía tây dãy Trường Sơn không được phát triển đầy đủ.
2. Hiện tượng do thời tiết nóng, thường xảy ra ở vùng núi.
1. Việc sử dụng bom Napalm được thử nghiệm một cách rộng rãi tùy theo khả năng cho phép của các phương tiện, nhưng chúng chỉ đạt được kết quả rất hạn chế vì sự rậm rạp của cây cối.
2. Việc bảo vệ máy bay vận tải được thực hiện bằng cách vừa tấn công một cách có hệ thống các khẩu đội cao xạ 37 ly, vừa hộ tống các máy bay vận tải nói trên ở cự ly gần, bằng sự vô hiệu hóa tạm thời hỏa lực tự động của Việt Minh (12,71y và 7,51y) được bố trí rất nhiều chung quanh các bãi thả dù.
1. Trích từ các bài viết của tướng Lauzin - Tư lệnh không quân ở Đông Dương, trong tạp chí Les Ailes (Những cánh bay).
2. Mỗi chuyến bay phải lượn bốn vòng mới có thể thả hết lô hàng nó mang theo.
3. Trích từ các bài viết của tướng Lauzin - Tư lệnh không quân ở Đông Dương, trong tạp chí Les Ailes (Những cánh bay).
4. Trích từ các bài viết của tướng Lauzin - Tư lệnh không quân ở Đông Dương, trong tạp chí Les Ailes (Những cánh bay).
5. Khi trận đánh bắt đầu, chúng ta dự trữ sẵn số lượng dù để có thể tiếp tế cho cứ điểm trong vòng 3 tuần. Đây là số lượng dự trữ ta đánh giá là nhiều hơn yêu cầu cần thiết nếu căn cứ trên ước tính ban đầu về thời gian kéo dài của trận đánh. Nhưng ngay khi trận đánh đi vào chiều hướng dữ dội hơn và có vẻ sẽ kéo dài hơn dự kiến, chúng tôi yêu cầu phái bộ Mỹ chi viện số dù cần thiết từ Nhật Bản. Chúng ta không gặp một trở ngại nào cả về yêu cầu này. Tuy nhiên ta lại phải đối phó một cách bất ngờ với yêu cầu cần có các “thiết bị làm cho dù rời chậm” để có thể thả dù hàng hóa ở độ cao vì hỏa lực phòng không của đối phương. Chúng ta chỉ dự trữ một ít thiết bị cần thiết này. Tuy nhiên chúng ta có thể sản xuất chúng ngay tại Đông Dương. Chúng ta không sợ thiếu loại thiết bị này, nhưng chất lượng là điều ta cần cố gắng nhiều hơn.
1. Quyết định này đã được sự đồng ý của tướng Ely, Tổng tham mưu trưởng qua một bức điện tín.
1. Việc nhảy dù xuống Điện Biện Phủ của những người “lính nhảy dù” này, cho dù là người có bằng hay những người tình nguyện chưa được huấn luyện, thì đó là một hành động đầy tính anh hùng mà chúng ta phải tôn kính, thán phục. Chỉ một nhà báo có những suy nghĩ không tốt mới mô tả họ là “những người mặt mày tái xanh, không còn khả năng phản ứng gì” và bị xem như những “anh hùng bị bỏ rơi, không thể làm gì hơn là phải lao vào chỗ chết”. Mặc dù tôi có rất nhiều nỗ lực, nhưng tôi không thể nào được phép của chính phủ để đưa nhân vật này ra trước tòa án quân sự - là một điều rất cần thiết khi có sự vi phạm luật báo chí, mà theo toà án quân sự thì chỉ trong một bài báo ông này đã phạm tới sáu tội danh.
1. Ngay trước khi có sự xuất hiện của sư đoàn 316, Việt Minh đã có đủ lực lượng chung quanh Điện Biên Phủ (trung đoàn chính quy 148 và một số tiểu đoàn địa phương) để có thể gây thiệt hại to lớn cho các đơn vị bảo vệ các chuyến bay cuối cùng rút đi, khi họ phải rút theo đường rừng ngang qua vùng rừng rậm Bắc Lào.
2. Khi sư đoàn 308 tiến vào đất Lào, chúng ta cũng không thoát ra được Trong thời gian này, việc bao vây tập đoàn cứ điểm vẫn được hai sư đoàn khác thực hiện. Họ đã chốt chặt trong các hầm chiến đấu, ngăn chặn mọi lối ra.
1. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 4.1956, dành cho ông Jean Ferran, Tổng biên tập báo Paris Match, tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu quan điểm của ông là việc sơ tán khỏi Điện Biên Phủ ngang qua rừng rậm miền Thượng Lào là một việc không thể làm được đối với các đơn vị như quân đội ta.
2. Các trích đoạn sau từ những bài báo của ông Robert Guillain, đặc phái viên của báo Le Monde ở Đông Dương, đã thể hiện tinh thần rất cao của những người cố thủ tại Điện Biên Phủ và tinh thần rất lạc quan của Bộ Tham mưu tại Hà Nội.
- Ngày 13 tháng 2 (viết từ Điện Biên Phủ): “Nhử cho Việt Minh kéo xuống Lòng chảo!” Đó là mơ ước của đại tá De Castries, Tư lệnh quân đội và tất cả Bộ Tham mưu của ông. Nếu họ kéo xuống đây, họ sẽ bị chúng ta tiêu diệt. Cuộc đụng độ sẽ rất khốc liệt nhưng ta sẽ chặn được họ. Và cuối cùng chúng ta sẽ có được cái ta luôn luôn thiếu: một mục tiêu, một mục tiêu dày đặc để ta có thể “nện dùi cui”.
- Ngày 15 tháng 3 năm 1954 (viết từ Hà Nội): “Khi tấn công Điện Biên Phủ, phải chăng địch quân đã phạm một sai lầm vô cùng to lớn? Họ đã hành động vì lý do chính trị nhiều hơn quân sự, hoặc thậm chí họ hành động theo lệnh của Bắc Kinh và Mátxcơva chăng? Đây là hướng của những sự suy nghĩ nóng bỏng về một diễn biến hấp dẫn, và kết quả sẽ rất có thể có một ảnh hưởng đối với cục diện chiến tranh ở Đông Dương. Cơ quan tình báo của chúng ta đã hoạt động một cách tuyệt vời. Đối phương đã để lộ các kế hoạch của họ qua những sự chuẩn bị ở cường độ cao và vội vã. Đối với quân đội của chúng ta, sau ba tháng chờ đợi, đây là sự chấm dứt một chuỗi thời gian dài nằm bất động, tinh thần của chúng ta rất là tuyệt vời”.
1. Điều kiện về cơ sở hạ tầng của chúng ta không cho phép không lực Mỹ sử dụng các sân bay có được tại Đông Dương.
2. Việc sử dụng bom nguyên tử không bao giờ được đặt ra.
3. Ông Christian Pineau, sau này là Bộ trưởng Ngoại giao, đóng một vai trò rất nổi bật trong vấn đề này. Ông đi công du ở Mỹ với những lý do không có liên hệ gì đến việc điều hành cuộc chiến Đông Dương cả. Can thiệp vào một vấn đề không liên hệ gì đến ông, và là vấn đề mà có thể ông không được biết gì, đứng vào vị trí đối chọi với lập trường của chính phủ Pháp, ông không ngần ngại phát biểu công khai chống bất cứ cuộc can thiệp nào của quân đội Mỹ vào cuộc chiến này.
4. Có vẻ như trong số cố vấn quân sự, một số người (trong đó có tướng Ridway) cuối cùng đã chống lại cuộc hành quân này.
1. Vào tháng giêng năm 1956, tạp chí Mỹ “Life” cho phổ biến cuộc phỏng vấn ông Foster Dulles, qua đó ngài Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã nói - một cách hơi mập mờ về kế hoạch can thiệp vào Điện Biên Phủ. Ông nói như sau: “Phe Cộng sản được thông báo rằng nếu Trung Quốc tiếp tục can thiệp một cách trắng trợn sau những hành động như vậy thì các căn cứ của họ ở miền Nam Trung Quốc sẽ bị không lực Hoa Kỳ tiêu diệt”. Tôi chưa hề biết được các sự tiếp xúc như thế của họ với phía Trung Quốc. Tôi cũng chưa bao giờ nghe nói một cuộc can thiệp bằng bom nguyên tử hoặc một cuộc tấn công nào đó vào lãnh thổ Trung Quốc. Mặt khác, ông Dulles còn xác nhận thêm trong cuộc phỏng vấn: “Quyết định của Hoa Kỳ tiếp cứu châu Á bằng một hành động chung với các quốc gia, bằng cách gửi vào vùng biển Đông các tàu sân bay mang theo bom nguyên tử đã củng cố vị trí của nước Pháp tại Genève, và cứu được Nam Việt Nam, Lào, Campuchia đang trong tình trạng chắc chắn rơi vào tay Cộng sản”. Tất cả những gì xảy ra trong thực tế đều ngược lại với các lời nói này. Sự bịp bợm của người Mỹ và bước lùi tiếp theo đó của họ đã hoàn toàn làm đảo lộn tư thế của các cường quốc phương Tây.
1. Những đơn vị sẽ phải được ném xuống bằng những đơn vị nhỏ liên tiếp nhau xuống “bãi nhảy” rất thô sơ, do những đơn vị từ Nậm U tiến đến chiếm giữ.
2. Hệ thống tiếp tế này được tổ chức như sau: Tuyến đường của Việt Minh được chia theo từng cung từ 30 đến 50 km. Một số lượng không cố định các xe tải con thoi hoạt động bên trong từng cung đường. Tại ranh giới của các cung, là những ranh giới hình thành do địa hình tự nhiên, họ tổ chức những cuộc chuyển tải. Nếu một cung bị cắt đứt trong một khoảng thời gian dài, hệ thống tiếp tế được thay thế ngay bằng các đoàn dân công. Các đoàn này đi theo các con đường vòng tránh chướng ngại để chuyển hàng đến ranh giới cung đường tiếp vận kế tiếp.
1. Đây là một sự lập lại của cuộc hành quân “Lorraine” (tháng 11.1951) đã tiến được đến mục tiêu nhưng không mang lại một kết quả nào cả.
2. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ông Jean Farran, Tổng biên tập báo Paris Match vào tháng 4 năm 1956, tướng Giáp phát biểu ý kiến của ông là, một cuộc tấn công chúng ta phát động từ vùng châu thổ sẽ không có cơ may thành công với lực lượng ta có. Để bảo vệ quan điểm của mình, ông đã ám chỉ đến thất bại của cuộc hành quân “Lorraine” vào những năm trước đó.