Nguyên tác: Sharp Objects
Số lần đọc/download: 2485 / 74
Cập nhật: 2015-09-10 12:21:54 +0700
Chương 7
C
Ó LẦN TÔI ĐỨNG Ở MỘT GÓC ĐƯỜNG lạnh lẽo ở Chicago chờ đèn giao thông thì một người đàn ông mù lách cách tiến tới. Đây là ngã tư nào vậy, ông hỏi, và khi tôi không trả lời thì ông quay sang tôi và nói, Có ai ở đây không?
Tôi ở đây, tôi nói, và những từ ngữ đó tạo ra một cảm giác dễ chịu một cách dữ dội. Khi thấy hoảng loạn, tôi nói to chúng lên với chính mình. Tôi ở đây. Tôi thường không cảm nhận được mình là ai. Tôi cảm thấy như thể một cơn gió nóng lướt mạnh qua sẽ thổi bay con đường của tôi và tôi thì biến mất mãi mãi, không sót lại gì dù chỉ là một mảnh móng tay. Có những ngày, tôi thấy ý nghĩ này làm mình bình tĩnh; những ngày khác nó lại khiến tôi run sợ.
Cá nhân tôi nghĩ cảm giác về tình trạng không trọng lực của bản thân xuất phát từ thực tế tôi biết quá ít về quá khứ của mình - hay ít ra đó là điều bác sĩ tâm lý của tôi nghĩ vậy. Tôi đã nhanh chóng từ bỏ nỗ lực tìm hiểu bất kỳ điều gì về cha mình; khi tưởng tượng ra ông, nó cũng giống như hình tượng một “người cha” chung chung. Tôi không chịu nổi việc nghĩ về ông quá cụ thể, tưởng tượng ông đi mua sắm ở hàng tạp hóa hay uống một tách cà phê buổi sáng, về nhà với con cái. Liệu một ngày nào đó tôi có va vào cô gái nào đó giống mình không? Khi còn là một đứa bé, tôi đã đấu tranh cố tìm được những tương quan giữa cơ thể mẹ và tôi, vài liên kết nào đó chứng minh tôi là con của bà. Tôi quan sát, bà khi bà không nhìn thấy, trộm những bức ảnh chân dung ở phòng bà và cố thuyết phục mình tôi có đôi mắt giống bà. Hay có thể là thứ gì đó không phải ở trên khuôn mặt. Hình dáng bắp chân hay hõm cổ gì đó.
Bà không bao giờ kể cho tôi nghe bà đã gặp gỡ Alan thế nào. Những gì tôi biết về câu chuyện của họ là từ một người khác. Những câu hỏi không được khuyến khích, bị đánh đồng với tọc mạch. Tôi còn nhớ rõ mình đã sửng sốt thế nào khi nghe bạn cùng phòng cao đẳng nói chuyện với mẹ qua điện thoại: Những chi tiết vụn vặt, thiếu chọn lọc của cô ấy có vẻ suy đồi. Cô ấy đã kể những điều ngu ngốc, ví như đã quên rằng mình đã đăng kí lớp ra sao - hoàn toàn quên mất lẽ ra phải tham gia lớp Địa lý 101 ba ngày một tuần - và cô ấy nói điều đó với giọng điệu khoa trương như một đứa con nít trong khi tay đang vẽ vời một ngôi sao bằng bút sáp màu vàng.
Tôi nhớ cuối cùng đã được gặp mẹ cô, cách bà chạy vụt vào phòng của chúng tôi trong khi đặt rất nhiều câu hỏi, biết rất nhiều về tôi. Bà đưa Alison một túi nilon to có rất nhiều kim băng vì bà nghĩ cô ấy sẽ cần và khi họ đi ăn trưa, tôi ngạc nhiên khi thấy mình đã bật khóc. Cử chỉ - quá tự nhiên và tốt đẹp - đã đánh gục tôi. Có phải đó là điều mà những người mẹ hay làm, tự hỏi liệu bạn có cần kim băng không? Mẹ gọi cho tôi mỗi tháng một lần và luôn hỏi những câu y hệt nhau (điểm số, lớp học, những chi phí sắp tới.)
Khi còn bé, tôi không nhớ có bao giờ nói cho Adora biết màu sắc yêu thích của mình, hay tôi thích đặt tên con gái mình là gì khi lớn lên hay không. Tôi nghĩ thậm chí bà còn không biết món tôi thích ăn nhất, và tôi chắc chắn mình không bao giờ ào vào phòng bà lúc sớm tinh mơ, nức nở vì những cơn ác mộng. Tôi luôn thấy buồn cho đứa bé gái từng là tôi, vì tôi cho rằng chưa bao giờ bà từng an ủi mình. Bà chưa bao giờ nói yêu tôi, và tôi cũng không bao giờ vờ là bà có. Bà định hướng tôi. Bà cai quản tôi. Ồ, vâng, và một lần bà mua cho tôi kem dưỡng da với vitamin E.
Trong một khoảnh khắc nào đó tôi thuyết phục bản thân rằng sự xa cách của Adora là lớp bảo vệ khỏi tình trạng suy sụp sau chuyện của Marian. Nhưng sự thực là tôi nghĩ bà luôn có nhiều vấn đề với trẻ con hơn là bà từng thừa nhận. Tôi nghĩ, thực tế là, bà ghét chúng. Đó là sự ghen tức, bực dọc mà tôi có thể cảm nhận ngay lúc này, trong trí nhớ của mình. Ở điểm nào đó, bà thực sự thích ý nghĩ của một đứa con gái. Khi bà còn là một cô bé, tôi cá là suốt ngày bà tơ tưởng về việc trở thành mẹ, âu yếm và liếm láp con mình như một con mèo thích liếm sữa. Bà có ham muốn về con cái. Bà lao vào chúng. Thậm chí ngay cả tôi, ngoài chốn công cộng, là một đứa con được thương yêu. Một lần khi thời kỳ thương tiếc Marian của bà chấm dứt, bà lôi tôi đi khắp thị trấn, mỉm cười và trêu chọc tôi, cù vào người tôi khi bà nói chuyện với mọi người trên đường. Khi chúng tôi về nhà, bà lao thẳng về phòng như một câu nói chưa trọn vẹn, và tôi ngồi bên ngoài với khuôn mặt dán sát vào cánh cửa, tua đi tua lại ngày hôm đó trong đầu để tìm những bằng chứng tôi đã làm gì khiến bà không vui.
Trong tâm trí tôi có một ký ức bị mắc kẹt như một đám máu nhầy nhụa. Khi Marian mất được khoảng hai năm, và mẹ tôi có một đám bạn đến nhà ăn uống vào buổi chiểu. Một trong số họ mang theo một đứa trẻ. Nhiều giờ qua đi, đứa bé được nâng niu, hôn tới tấp với những đôi môi đỏ choét, quấn chặt trong tã rồi lại hôn hít không ngừng. Lẽ ra tôi phải ngồi đọc trong phòng nhưng lại đứng nhìn ở đầu cầu thang.
Cuối cùng đứa bé được chuyền đến mẹ tôi và bà ôm ghì lấy nó. Ôi, tuyệt vời làm sao khi lại được ôm một đứa trẻ! Adora đung đưa nó trên đầu gối, dẫn nó đi quanh phòng, thì thầm với nó và tôi từ trên cao nhìn xuống như một vị thánh bé nhỏ hằn học, mu bàn tay đặt lên mặt, tưởng tượng sẽ thế nào nếu áp má mình vào với hai má của mẹ tôi.
Khi những người phụ nữ khác đi vào bếp giúp dọn dẹp chén dĩa, có chuyện gì đó đã thay đổi. Tôi còn nhớ mẹ ở một mình trong phòng, nhìn chằm chằm vào đứa trẻ với vẻ gần như rất dâm đãng. Bà ấn mạnh môi mình lên bầu má phúng phính của đứa bé, ngoạm một miếng thịt vào giữa răng và cắn nó.
Đứa trẻ khóc thét lên. Vết cắn phai đi khi Adora vỗ về đứa bé, và nói với những người phụ nữ khác là em bé chỉ quấy thôi. Tôi chạy vào phòng Marian và chui vào chăn.
Quay lại quán Footh’s để uống vài ly sau vụ mẹ tôi và gia đình Nash. Tôi nốc khá nhiều nhưng không đến mức say xỉn, tôi tự lập luận với mình như thế. Tôi chỉ cần một cốc nhỏ. Tôi thích hình dung rượu như chất lỏng bôi trơn - một lớp bảo vệ khỏi những suy nghĩ sắc bén trong đầu. Người đứng trong quầy bar là một gã mặt tròn, học dưới tôi hai lớp, mà tôi nhớ chắc tên là Barry nhưng lại không đủ tự tin để gọi gã với cái tên đó. Gã thì thầm, “Mừng trở lại,” trong khi rót vào ly Big Mouth của tôi hai phần ba rượu bourbon với một ít coca phía trên. “Trên nhà,” gã nói với người đang giũ khăn. “Ở đây chúng tôi không tính tiền những phụ nữ xinh đẹp.” Cổ gã ửng đỏ và vờ như mình có công việc đột xuất ở phía bên kia quầy bar.
Tôi đi ngang đường Neeho Drive khi quay lại căn nhà. Đó là con đường mà vài người bạn tôi đang sinh sống, tách khỏi thị trấn và càng gần nhà Adora thì sự sang trọng càng tăng lên. Tôi thấy căn nhà cũ của Katie Lacey, một căn biệt thự mỏng manh mà cha mẹ cô đã cho xây khi chúng tôi lên mười - sau khi họ phá nát căn nhà cũ kiểu Victorian thành từng mảnh nhỏ.
Ở dãy nhà phía trước tôi, một bé gái trên chiếc xe golf trang trí những hình dán bông hoa đây đó. Con bé thắt bím kiểu cách hết sức phức tạp như những cô gái Thụy Sĩ vẫn thường thấy trên hộp ca cao. Amma. Con bé lợi dụng chuyến viếng thăm gia đình Nash của Adora để trốn đi - những đứa con gái đi dạo một mình trong rừng là một hành động rất kỳ quặc ở Wind Gap kể từ khi Natalie bị giết.
Thay vì tiếp tục đi về nhà, con bé quay lại và tiến thẳng về phía đông, nghĩa là hướng đến những căn nhà hộp cũ kĩ và trang trại nuôi heo. Tôi rẽ ở góc đường và theo dấu con bé chậm đến mức xe suýt bị chết máy.
Đoạn đường có con dốc khá thoải mái cho Amma và chiếc xe lướt đi nhanh đến mức những bím tóc của con bé bay ra sau lưng. Trong vòng mười phút, chúng tôi đã vào vùng nông thôn. Đám cỏ cao màu vàng và đám bò buồn chán. Những kho thóc tựa những ông già. Tôi tắt máy xe vài phút để Amma có thể chạy trước ít lâu và bám theo với khoảng cách khá xa chỉ để nhác thấy bóng nó. Tôi lần theo dấu con bé về phía những nông trang cũ và con đường có hàng cây óc chó, được trấn giữ bởi một thằng nhóc cầm điếu thuốc lá thảnh thơi kiểu diễn viên điện ảnh. Không khí sặc mùi phân và nước bọt và tôi biết mình đang đi đâu. Mười phút nữa và khu vực nuôi lợn xuất hiện, một dãy nhà dài và phản quang như hàng đinh ghim. Tiếng kêu la khiến tai tôi đổ mồ hôi. Như tiếng rít của cái máy bơm giếng rỉ sét. Mũi tôi nồng sực lên vô thức và nước mắt bắt đầu ràn rụa. Nếu từng đến gần một khu vực chăn nuôi gia súc thì bạn sẽ hiểu ý tôi. Mùi không còn giống như nước hay không khí; nó là một chất rắn. Như thể bạn phải khoét một lỗ trong đám mùi đó cho dễ thở hơn. Nhưng không thể.
Amma len qua những cánh cổng của trang trại. Gã đàn ông đứng ở chốt canh vẫy tay với nó. Tôi gặp khó khăn hơn cho đến khi nói ra từ ma thuật: Adora.
“Đúng rồi. Adora có một cô con gái đã lớn. Tôi nhớ rồi,” một người đàn ông già nói. Thẻ tên của ông ta là Jose. Tôi cố nhìn xem ông có mất ngón tay nào không. Người Mexico không làm những công việc tạm bợ này trừ khi họ mắc nợ. Đó là cách thức khu vực này hoạt động: Người Mexico làm những việc tệ nhất, nguy hiểm nhất, và người da trắng vẫn cứ phàn nàn.
Amma dừng xe cạnh thùng hàng và phủi bụi trên người mình. Và rồi, với một con đường đi thẳng đến đó, con bé băng qua lò mổ, qua dãy heo đang bị trói, những cái mũi màu hồng ẩm ướt nhăn lại giữa luồng khí đang thổi phần phật, và hướng đến khu nhà chăm sóc được xây bằng kim loại. Hầu hết lợn nái được thụ tinh hết lần này đến lần lần khác, hết lứa này đến lứa khác, đến khi cơ thể chúng rệu rã và bị đưa đi giết thịt. Nhưng khi vẫn còn có ích, người ta vẫn còn chăm sóc chúng - cột chúng nằm nghiêng trong chuồng đẻ, chân giang ra, vú phơi ra. Lợn là chủng loài thật sự thông minh, có ý thức xã hội, việc thúc ép dây chuyền sinh sản như thế này khiến đám lợn được chăm sóc chỉ muốn chết. Và, ngay khi kiệt quệ, chúng sẽ được chết.
Ngay cả ý nghĩ thực hiện việc này cũng làm tôi ghê tởm. Nhưng cảnh tượng này sẽ thật sự tác động đến bạn, khiến bạn cảm thấy ít con người hơn. Như thể đứng nhìn một cuộc hãm hiếp và không phản ứng gì cả. Tôi thấy Amma ở góc xa của khu nhà, ở một góc chuồng đẻ bằng kim loại. Vài người đàn ông đang kéo một đàn lợn nái gào thét ra khỏi chuồng, ném một đàn khác vào. Tôi dịch ra xa khu chuồng để có thể đứng sau Amma mà không bị phát hiện. Con lợn nằm nghiêng, gần như hôn mê, bụng nó lòi ra giữa những thanh chắn kim loại, những cái vú đỏ, máu tuôn trào như những ngón tay. Một trong những người đàn ông xoa dầu vào cái đang chảy máu, khều khều nó và cười khúc khích. Họ không hề chú ý Amma, như thể chuyện con bé xuất hiện ở đây là rất bình thường. Con bé nháy mắt với một tên khi họ thả con lợn cái khác vào chuồng đẻ và bắt đầu lứa mới.
Đám lợn con trong chuồng di chuyển thành đàn qua con lợn cái như đàn kiến bâu vào miếng thạch rau câu. Những chiếc vú nẩy ra vào đám mõm lợn, đung đưa như mảnh cao su. Mắt con lợn nái đảo tròn trong đầu nó. Amma ngồi khoanh chân và bị hút hồn, nó nhìn rất chăm chú. Sau năm phút ở nguyên tư thế đó, bây giờ nó mỉm cười và tỏ ra lúng túng. Tôi phải rời khỏi đây. Tôi bước đi, ban đầu thì chầm chậm, rồi dần thì lết ra phía xe hơi. Cửa đóng, đài bật ầm ĩ, rượu bourbon sưởi ấm cuống họng và tôi lái ra xa khỏi đám mùi và âm thanh. Và đứa trẻ đó.