Số lần đọc/download: 924 / 10
Cập nhật: 2017-05-09 22:20:55 +0700
Chương 8
C
húng đi ngược lên theo con suối, Theodore vừa nhảy ra nhảy vào những bụi cây vừa oạp oạp, cố ra vẻ càng giống chó càng tốt. Ngay trước khi chúng ra tới đường, Freddy bất thình lình dừng lại, nhìn xuống làn nước nơi một cái cùi bắp đang bập bềnh trôi theo dòng. “Coi kìa!” chú nói.
“Cái đó thì có gì vui?” Theodore nói.
“Trời ạ,” Freddy nói, “anh không thấy cái đó có ý nghĩa gì sao?
“Nó có nghĩa là đứa nào đó đã quăng một cái cùi bắp xuống nước.”
“Đúng, nhưng đứa nào?”
“Đứa nào!” con ếch bảo. “Sao tôi biết được? Mà có vấn đề gì chứ? Mấy ngày qua tôi thấy khối cùi bắp trôi xuống đây.”
“Rất vấn đề đấy,” Freddy nói. “Con suối này chảy thẳng từ Rừng Lớn xuống. Chắc chắn cái kẻ ném cùi bắp xuống dòng nước có là ai thì hắn cũng phải sống trong Rừng Lớn. Và nếu tôi đoán không sai thì đó chính là cái bắp ngô ăn trộm từ nhà băng.”
“À, hiểu rồi,” Theodore nói. “Thế cậu cho rằng thực sự là Kẻ Mặt Mịt đấy ăn trộm nhà băng?”
“Tôi không tin có Mặt Mịt,” Freddy nói.
“Tại cậu chưa từng gặp hắn thôi,” con ếch nói. “Chà, tôi cũng chưa bao giờ gặp Tổng thống Hoa Kỳ, nhưng tôi hoàn toàn tin là có ông ấy.”
“Tôi mong anh đừng có tranh cãi quá nhiều thế,” con heo nói. “Và lôi Tổng thống Hoa Kỳ vào đây thì được gì nào. Đi thôi. Chúng ta có thám hiểm Rừng Lớn hay không đây?”
Thế là chúng ngược theo dòng suối và băng qua đường, bước vào bầu thinh lặng âm u của Rừng Lớn. Theodore vừa phóng vừa sủa trong cây bụi, và mấy lần làm Freddy giật cả mình vì bất ngờ nhảy ra ở một chỗ hoàn toàn khác. Nhưng trong lớp cải trang, và với một khẩu súng thật khoác vai, con heo thấy mình không còn sợ như lần thăm rừng trước. Chú lầm lũi đi một cách táo tợn, và đã gây ra kha khá tiếng ồn, ấy thật ra là do không thể tránh được.
Xưa kia từng có một con đường mòn dẫn đến ngôi nhà ông Grimby, nhưng nay con đường ấy mọc đầy những cây con và những lùm quả mọng, đến nỗi không đi đường ấy khéo còn dễ hơn. Hai đứa đi xuyên qua đám cây mọc dọc theo con đường, và chẳng mấy chốc đã bắt đầu thấp thoáng nhìn ra cái mái nhà võng xuống cùng những bức tường sơn đã tróc từ lâu. Chúng rón rén tới gần, và từ phía sau những bụi cây lom lom ngó về phía ngôi nhà cũ đổ nát xiêu vẹo.
“Chẳng còn tới một cái cửa sổ nào nguyên vẹn,” Theodore thì thầm. “Tôi cá nếu một con chuột nhắt mà đi ngang qua mái, nó sẽ lọt thẳng xuống hầm rượu. Đúng cái kiểu cư ngụ của Mặt Mo... Mo... ý tôi Mặt Mịt.”
Freddy cũng chẳng thích bộ dạng ngôi nhà này cho lắm, nhưng chú nghĩ đến mẩu bìa trong túi áo.“Chẳng có Mặt Mịt nào đâu,” chú rắn rỏi nói và nắm chắc lấy khẩu súng, bước ra từ sau mấy bụi cây đi về phía ngôi nhà, “Đi nào.”
Không một tiếng động. Cửa trước mở, qua đó chúng nhìn thấy sảnh trước với những bức tường giấy treo lòng thòng thành từng dải tả tơi. Freddy bước lên những bậc cấp, nhìn những miếng ván vỡ mục của hàng hiên, và rồi lại đi xuống.
“Sợ khéo tôi lọt xuống mất,” chú nói, “mà lại mặc bộ đồ đẹp nhất chứ. Anh không nặng lắm, Theodore à. Hay anh vào thám thính một vòng xem thế nào.”
“Không phải tôi,” con ếch nói. “Đi đâu thì mình đi cùng nhau, Freddy!”
Thế là chúng rảo bộ quanh căn nhà. Cửa sau khóa, nhưng chúng thấy khóa cửa ra vào hầm rượu đã bị bung ra, và Freddy đặt súng xuống, nhấc cái nắp gỗ lên, bên dưới đó là một cầu thang ngắn với những bậc bằng đá dẫn vào trong bóng tối. Hai đứa ngó nhau.
“Tôi theo cậu,” Theodore nói một cách lịch sự. “Cậu là lãnh đạo trong cuộc thám hiểm này.”
“Xí,” Freddy nói. “Tôi là một thợ săn và anh là con chó của thợ săn. Chó thì phải vào và săn đuổi con mồi chứ.”
“Ồ, dĩ nhiên rồi,” con ếch nói. “Và ngộ nhỡ con mồi lại săn đuổi con ch... ch... chó thì sao?”
“Chà,” Freddy nói, “đó chỉ là một hầm rượu cũ. Mà chắc cũng chẳng có gì trong ấy. Bụi. Chai lọ cũ. Mớ áo khoác cũ của ai đó. Rồi lại bụi nữa. Tôi cho rằng chẳng khôn ngoan gì mà đi làm hỏng bộ đồ đẹp nhất của mình.”
“Tôi chẳng hiểu sao anh lại làm hỏng được,” Theodore nói, “trừ khi anh định lăn lê, lộn nhào trên sàn.”
Con ếch toét miệng cười với Freddy.
“Ồ... chà,” Freddy nói, “thôi, đi nào.” Và giữ cây súng trước bụng, chú bước xuống cầu thang.
Hầm rượu u ám và tăm tối. Trong đó có đủ mọi thứ Freddy trước đó đã kể ra mà vẫn còn khối thứ nữa: những thùng rượu, hòm xiểng cũ, cùng đồ đạc gãy hỏng. Hầm rượu hôi mùi mốc vì mưa dột từ mái nhỏ qua lớp sàn bên trên, và ở một hai chỗ, ván sàn đã bong mất, thế là chúng có thể nhìn thấy cả căn phòng bên trên. Hai đứa đang đứng dưới một trong vô vàn cái lỗ như thế thì Freddy nghe có tiếng gì đó di chuyển trên đầu.
“Lắng nghe!” chú thì thào. “Nghe như có cái gì đó bị kéo ngang qua sàn.”
“Gió, chắc thế,” Theodore nói. “Thổi qua một cái cửa chớp bị long ra.”
“Tôi nghĩ...” Freddy bắt đầu. Nhưng giả sử chú thực sự có ý nào trong đầu, hoặc có sắp nói điều gì đó thật hay thì con ếch cũng không bao giờ biết được, vì đúng lúc đó nhiều thứ bỗng xảy ra tới tấp.
Âm thanh trên đầu chúng vang lên lần nữa, và có cái gì đó vừa dài vừa đen vừa lượn sóng rơi xuyên qua cái lỗ, lọt xuống với một tiếng đạch, ngay giữa hai đứa. “Rắn!” Theodore óe lên, và nó thu luôn hai chân, bằng một cú nhảy ngoạn mục phóng xuyên qua cửa hầm rượu, bắn ra ngoài trời. Cùng lúc đó, Freddy rút súng ra và bắn.
Không phải Freddy sợ rắn. Trên thực tế, một trong những bạn thân nhất của chú là một con rắn nước tên Homer sống dưới kia, bên dòng suối. Những ngày đầu mới vào nghề thám tử, Freddy đã nghĩ chỉ cần trườn được như rắn là chú có thể theo dấu cái kẻ mình đang theo dõi dễ hơn nhiều. Và thế là chú theo học những bài trườn từ Homer. Mãi mà chú chẳng tiến bộ được lên là mấy, và cuối cùng đã phải bỏ cuộc không học nữa; tuy vậy tình bạn vẫn tiếp tục, chú với Homer thường có những cuộc đi bộ dài với nhau - nếu có thể gọi là đi bộ vì thực ra rắn có chân đâu.
Nhưng Freddy thấy có vẻ như con rắn này đang tấn công Theodore bạn chú, và thế là chú cố bắn nó. Nhưng Freddy không rành cách bắn súng săn cho lắm. Bắn đâu phải chỉ ngắm vào mục tiêu rồi kéo cò. Bạn phải ấn báng súng thật chặt vào vai trước khi bắn, vì một khẩu súng săn sẽ giật lên như một con la, nếu bạn không giữ cho chặt, nó sẽ hất bạn ngã lăn ra. Đó chính là điều đã xảy ra với Freddy. Khẩu súng giật ngược lại và hất chú lộn nhào vào một đống hộp cũ; mớ hộp đổ ụp lên chú, cái hộp cuối cùng rơi xuống trúng ngay đầu Freddy, và mất một lúc chú không biết gì nữa.
Đó chính là điều đã xảy ra với Freddy.
Khi tỉnh dậy, Freddy thoạt tiên không biết mình đang ở đâu. Thế rồi chú thấy Theodore. Con ếch đã đợi một lúc rồi mới liều mạng quay lại vào hầm rượu, và tôi cho rằng nó quay lại như thế thì quả là can đảm. Nhưng Theodore là loại bạn bè khá trung thành. Nó đi vào và thấy Freddy nằm đó giữa đống hộp, thế là nó vội chạy ra ngoài kiếm chút nước. Nhưng nó chỉ tìm thấy có mỗi một nắp quả sồi chứa đầy nước mưa. Chừng đó nước chẳng tưới được bao nhiêu cho một gương mặt to như mặt Freddy, và sau khi đã té hết chỗ nước lên thân mình bạn, nó nhặt một sợi lông vũ nhỏ màu trắng nằm ngay gần đó và bắt đầu ngoáy vào mũi con heo. Chính điều ấy làm Freddy hồi tỉnh.
“Chuyện gì... chuyện gì xảy ra vậy?” chú hỏi.
“Tôi không biết,” Theodore nói. “Lúc đó tôi không có ở đây. Cậu bắn con rắn, tôi đoán thế.”
“Giờ tôi nhớ ra rồi,” Freddy nói. “Thế rồi căn nhà đổ lên tôi. Tôi không biết mình có bị thương nặng không.” Chú nhíu nhíu mũi. “Lạy Trời, ổn cả,” chú nói. Thế rồi vẩy vẩy tai. Tai cũng ổn. Rồi cố ngoáy ngoáy đuôi, nhưng không có gì xảy ra. “Theodore!” chú kêu lên. “Đuôi của tôi! Chắc là gãy rồi. Tôi không ngoáy nó được!”
“Cậu nằm đè lên nó,” con ếch nói.
“Ồ,” Freddy nói. Rồi rất từ từ, chú đứng lên. “Bộ đồ đẹp nhất của tôi!” chú buồn bã ngó xuống bộ quần áo. “Này, đợi một phút,” bất thình lình chú bảo. “Anh lấy đâu ra cái lông vũ này?”
Theodore nói cái lông nằm ngay đấy đó thôi.
Freddy quả là một thám tử giỏi. Ấy là, nếu thấy vật gì, chú không chỉ nhìn vào vật ấy như bạn hay tôi vẫn nhìn và rồi quên mất. Chú sẽ nghĩ về vật ấy và tự hỏi nó có ý nghĩa gì. Và ngay bây giờ, nếu bạn nghĩ về một vật gì đó đủ lâu, bạn sẽ bắt đầu hiểu ra nhiều điều về nó. Freddy thấy rằng quả là kỳ dị khi kiếm được cái lông vũ này trong một hầm rượu, giữa một khoảnh rừng nơi không có con chim nào đến sống suốt bao năm nay. Mà đó lại không phải một cái lông vũ đã cũ hay lem luốc như thể đã nằm đó từ lâu. Cái lông vũ này mới và mịn tơ. Chú cho nó vào túi áo và đứng lên.
“Dù sao cậu cũng đã tóm được con rắn,” Theodore nói. “Ít nhất thì... thứ mà cậu nghĩ là như thế!” nó kêu lên. Bởi cái mà lúc nãy chúng nghĩ là một con rắn nay chẳng gì hơn là một đoạn ống cao su ngắn, bị xuyên thủng với một lỗ đạn.
Freddy ngó xuống cái vật ấy. “Thế này thì quá sức tôi rồi,” chú nói. “Một con rắn thì tôi còn hiểu được, chứ một mẩu dây cao su thì không thể tự nhảy qua một cái lỗ trên trần. Mà trên nó có cái gì kia?” Chú cúi xuống và nhặt lên một mẩu giấy con. “Coi chừng!” chú đọc. “Trong ngôi nhà này heo sẽ thành thịt heo. Tức mi đó! (Ký tên) Kẻ Mặt Mịt.”
“Ây, ra khỏi đây thôi,” Theodore nói.
“Đúng,” con heo lẩm bẩm. Anh nói chắc đúng. Để tôi lấy cái... Sao! Súng của tôi đâu rồi?”
Khẩu súng đã biến mất.
“Có lẽ dưới mấy cái hộp,” Freddy nói, và bắt đầu lôi đống hộp ra. “Anh thích đi thì cứ đi đi, Theodore, nhưng tôi thà đối mặt mười sáu Kẻ Mặt Mịt mắt hồng còn hơn đối mặt ông Bean, một khi ông ấy biết tôi mượn súng của ông ấy.”
Nhưng khẩu súng không có dưới đống hộp. Và mặc dù Freddy đã lùng sục kỹ càng, vẫn không thấy súng trong hầm kho.
“Hay nó bay ra ngoài cửa,” Theodore nói. “Coi, muộn rồi kìa. Không nhanh lên thì trời sẽ tối trước khi chúng ta ra khỏi Rừng Lớn. Tôi đi đây.”
Không còn gì để Freddy làm nữa. Một ông Bean giận dữ sẽ tệ hại hơn rất nhiều Kẻ Mặt Mịt, nhưng Rừng Lớn về đêm ngay bây giờ dường như còn tệ hơn cả hai thứ kia. Chắc chú phải quay lại vào ngày mai mà tìm khẩu súng thôi.
Lúc hai đứa ra được đường, trời quả thực bắt đầu ngả tối. Chúng ngồi xuống một phút và nghỉ ngơi, vì nãy giờ chúng chạy khá nhanh.
“Anh biết đấy, Theodore,” Freddy nói, “Từ lúc chúng ta vào ngôi nhà ấy, anh chưa hề nói lắp lấy một lần. Anh có cho rằng tại anh sợ quá mà thế không?”
Con ếch toác miệng cười. “Tôi cho rằng tại tôi quên thôi,” nó nói. “Thực sự tôi không phải nói lắp, Freddy à. Khi còn là nòng nọc tôi cũng nói lắp chút đỉnh, nhưng tôi đã vượt qua được. Chỉ có điều tôi thấy việc ấy khá hữu dụng. Cậu biết đó, khi ai đấy hỏi cậu một câu hỏi, đôi khi cậu không thể nghĩ ra ngay lập tức câu trả lời. Nhưng nếu cậu bắt đầu kiểu như nói lắp hay cà lăm loanh quanh, cậu sẽ có thời gian để nghĩ ra một câu trả lời thực là hay.”
“Trời đất,” Freddy nói, “thực là một ý khôn ngoan. Có điều nếu ai cũng nói lắp cho đến khi nghĩ ra được điều mình muốn nói thì sẽ chẳng chuyện trò gì được mấy nữa.”
“Không thật,” Theodore nói, “nhưng đã chuyện trò thì ra chuyện trò. Đó là lý do tại sao tôi thích sống tuốt trong rừng này. Không phải nghe nói chuyện quá nhiều.”
“Thế thì anh giống ông Bean rồi,” Freddy nói. “Ông ấy hiếm khi nói cái gì. Ôi trời, sao tôi lại nghĩ đến ông Bean nhỉ? Tôi rất ghét phải nghĩ tới ông ấy sẽ nói gì khi thấy khẩu súng của ông bị mất.”
“Cậu vừa bảo ông ấy hiếm khi nói cái gì mà,” Theodore nhận xét.
“Tôi cho rằng đó mới là cái mà tôi sợ. Ông ấy sẽ không nói, thậm chí đến một roi khéo cũng không.”
“Chà, thế tôi không hiểu anh sợ cái gì.”
“Sợ điều ông ấy sẽ nghĩ,” Freddy nói. “Bất cứ lúc nào gặp ông ấy trong khu chuồng trại, ông ấy cũng sẽ nhìn tôi trách móc, và tôi sẽ biết ngay là ông ấy đang nghĩ, ‘Tao thất vọng vì mày, Freddy. Tao tưởng mày là một con heo trung thực.’ Anh biết đấy, Theodore, cái đấy còn đau hơn mọi đòn roi trên đời.”
“Không, tôi không hiểu,” con ếch nói. “Khi còn là một con nòng nọc tôi bị ăn roi khá nhiều, và đau lắm chứ. Có một cành súng ở cuối hồ, mỗi khi chúng tôi hư, ba tôi lại lôi chúng tôi ra đó, vắt chúng tôi ngang đầu gối ông mà phát vào mông. Chúng tôi có năm mươi đứa nên ông cũng khá bận bịu, thế là ông bỏ cuộc luôn. Ông nói ông phải phát mông nhiều quá đến nỗi xao lãng cả công việc, và chúng tôi phải cứ thế tiến bộ mà khỏi cần đòn roi. Sau đó tất cả chúng tôi hạnh phúc hơn biết là bao, và tức cười là chúng tôi lại ngoan hơn.”
Nhưng Freddy không nghe con ếch nói gì. Chú đã cởi áo khoác ngoài ra và đang phủi bụi cái áo bằng một nắm cỏ. Rồi chú mặc nó vào. “Chà,” chú bảo, “tôi nghĩ rằng tôi nên về nhà và đành chịu vậy thôi. Mai gặp anh, Theodore.”
Chú đi về dọc theo con suối. Giờ đây không còn súng, bọn thú vật cũng không núp chú nữa, và những con mà chú đi ngang đều nhìn chú tò mò nhưng không con nào nhận ra chú. Bất chợt Freddy nghĩ sẽ vui lắm nếu thử coi có ai trong đám bạn nhận ra mình không. Thế là khi thấy một đám nhỏ súc vật đang tụ tập ở góc chuồng bò, chú tiến về phía chúng.
Minx rõ ràng là đang khoác lác điều gì đó với bà Wiggins và hai con chó, Robert và Georgie. Freddy nghe cô nàng nói: “Ồ vâng, khi sống ở đó mỗi ngày tôi có hẳn nửa ký kem đựng trong một cái tô bạc. Đó là một căn nhà to tuyệt cú mèo - to hơn nhà ông Bean này nhiều - thực sự thì giống một cung điện hơn...” cô nàng dừng lại khi Freddy xuất hiện.
Freddy chạm nhẹ mũ một cách lịch sự. “Thứ lỗi cho tui,” chú nói, “lịu quí vị có thể vui lòng cho lão già này bít phải đám nhà Bean tốt bụng sống trong căn nhà đằng ki không?” Chú nói bằng giọng Ái Nhĩ Lan đặc sệt để cải trang giọng nói mình.
Đám súc vật, theo lệ, không thích để những kẻ lạ biết mình có thể nói năng, cho nên chúng không nói gì.
“Trời ơi,” Freddy nói, “tui đi một quãng đường xa bít là bao mới tới được chốn này để nhìn tận mắt mình những con vật bít nói. Tui nghe đồn chúng là một đìu kỳ dịu của thế giới này. Nhưng nếu tất cả chỉ là chiện do những kẻ vít báo thiu dệt nên và chẳng có sự thật nào trong đó thì quả một thất vọng đắng cay, quả là thế.” Và Freddy lôi ra một cái khăn tay cáu bẩn, đưa lên chùi mắt.
Với bà Wiggins thì việc này thật quá sức chịu đựng - bà vốn là một trong những con bò tốt bụng nhất từ xưa tới nay. “Trời ơi,” bà nói, “chúng tôi nói được mà. Đây, dừng lại đi, không ông cũng làm tôi khóc theo mất, và tin tôi đi, tôi mà đã khóc là khóc thật đấy!”
Freddy biết chuyện đó là thật. Khi bà Wiggins mà đã khóc thì tít tận Centerboro bạn vẫn có thể nghe tiếng bà, và gần như sẽ không cách gì làm bà nín được. Thế là chú bỏ cái khăn tay xuống. “Ồ, thưa bà,” chú hài lòng nói, “đúng quá rồi! Bà biết nói! Và lịu bà có thể nói vài từ cho tui mang theo về Ái Nhĩ Lan để kể với đám cháu chắt là tui đã được nghe những con vật bít nói dịu kỳ thế nào không?”
“Tôi từng sống ở Ái Nhĩ Lan, thưa ông,” Minx nói.
“Dòng họ O’Houlihan đấy,” Freddy nói. “Và tin nổi không? Một con mèo bít nói, đúng thế. A, cô còn là con mèo rất đẹp nữa chứ!” Và chú vỗ nhẹ lên đầu Minx.
“Tôi sống ở Dublin,” con mèo nói. “Trong một cái nhà cực to cực đẹp trên đường Gratton. Có bảy mươi cửa sổ, ở mỗi cửa sổ lại có một cái gối tơ để tôi ngồi.”
“Lịu tui có thô lỗ quá không níu hỏi căn nhà đó là của ai?” Freddy nói.
“Nó thuộc về ông Shaemus O’Toole.”
“Tui rành căn nhà đó lắm!” Freddy kêu lên. “So với đìn sản to đẹp của tui thì nó chỉ là một chòi gác bé tí. Cái đó để tui đem cho tụi cháu làm nhà đồ chơi.”
“Tôi nghĩ ông đang nói lầm nhà nào rồi,” Minx nói. “Căn nhà này có bảy mươi cửa sổ; nhà to...”
“Hẳn rồi, với một con mèo thì có vẻ to,” Freddy nói vẻ tử tế. “Có bảy mưi cửa sổ với gối với đủ mọi thứ. Nhưng nhà tui có tới ba trăm bốn mưi hai cửa sổ không kể tầng trên cùng, và ở mỗi cửa sổ có một bộ đi-văng mềm phủ nhung lông đỏ vìn xanh lá. Tự tui, tui thấy đó là một nơi đẹp đẽ xinh xắn.”
“Ồ,” Minx đáp, và đám súc vật kia nhìn cô nàng, nhe răng cười. Thế rồi cô nàng nói, “Chà, tôi không định nói đó là căn nhà đẹp nhất tôi từng ở.”
“Ồ, dĩ nhin, dĩ nhin,” Freddy đáp. “Một nơi tăm tối tí teo thế mà! Một con mèo đẹp cỡ cô phải sống ở nhìu nơi thực sự đẹp đẽ kìa. Nhìu nơi, chứ không ít hơn.”
“Tôi đang định kể về những nơi khác,” Minx nói, “về lâu đài của một ông hoàng tôi được sống qua ở Rome. Ở đó mỗi ngày tôi có hẳn nửa lít kem đựng trong một cái tô bạc.”
“Tui tin cô,” Freddy nói. “Chắc rồi, đám hoàng tộc đó là bọn bủn xỉn. Tui nhớ hồi tui ở Rome. Cung địn Parchesi mà tui ở là cung địn lớn nhất nước Ý. Thằng cháu nhỏ của tui có hai con mèo con, và tụi tui mua hẳn một trang trại sản xuất bơ sữa để cung cấp sữa cho chúng, và rồi một nhà máy kem làm kem đủ vị cho chúng. Mỗi sáng là giao đồ tươi ngon - hai mưi lăm thùng lớn bằng vàng sáng bóng, trong sân nhỏ, hai thùng kem, và hai mưi ba thùng kem đủ vị. Và một người đàn ông mặc đồ tướng quân làm việc múc sữa cho chúng.”
“Vậy... vậy hẳn phải thừa nhiều lắm,” Minx nói.
“Thừa nhìu,” Freddy đáp. “Thừa chứ. Nhưng khi nào thừa quá, tụi tui tổ chức một bữa tiệc. Cho mèo thôi. Tui từng thấy tám trăm con mèo ngồi dự đại ín trong đại sảnh cung địn, có đám ngừi hầu mặc lễ phục ống túm, đội tóc giả rắc phấn đi múc kem. Cảnh tượng thực là...”
“Tôi... tôi nghĩ quả là...,” Minx nói yếu ớt.
“Chắc rồi, kể tụi tui thêm vài nơi đẹp đẽ nữa cô từng sống qua nào, cô mèo xinh đẹp,” Freddy nói.
“Không, không,” Minx đáp. “Tôi nghĩ tôi sẽ không kể lúc này đâu.”
“Trong trường hợp đó,” Freddy nói, giở mũ ra, dẹp giọng Ái Nhĩ Lan qua một bên (nghe cũng chẳng hay ho gì), “tôi sẽ cảm ơn cô vì đã giúp mua vui và tôi về nhà đây.”
“Freddy!” bà Wiggins kêu lên. “Trời, cậu nghĩ ra cái trò này!”
“Xời!” Minx nói. “Tôi biết tỏng cậu ta ngay từ đầu!”
“Vâng, cô biết!” chó Georgie nói.
“Tôi biết mà!” con mèo lắp bắp. “Tôi phân biệt được người với heo chứ! Chứ gì nữa, hồi tôi sống ở Paris, có một con heo cải trang thành một...”
“Rồi, thật không đó?” Freddy cắt ngang, đội mũ lên lại và cúi xuống sát Minx. “Tui biết tay đó rất rõ. Y là anh rụt tui. Có phải y bận quân phục xanh nức bỉn với sọc trắng không?”
“Ồ, im đi,” Minx cáu kỉnh đáp. “Nếu cậu mà còn trêu tôi nữa, tôi sẽ không kể cậu nghe nữa.”
“Tốt,” Freddy đáp, giở mũ ra lại. “Đó chính là điều chúng tôi đều muốn. Thôi, chúc tất cả ngủ ngon.” Và chú lon ton bước khỏi.