Forever is not a word…rather a place where two lovers go when true love takes them there.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Martin Cruz Smith
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6
gười ta vốn không sinh ra đã là tội phạm mà mắc phải lỗi lầm qua những hoàn cảnh không may hay qua ảnh hưởng của những yếu tố tiêu cực. Mọi tội ác lớn hay nhỏ đều có thể được truy nguyên đến tính hám lợi hậu tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa vị kỷ, sự lười biếng, tính ăn bám, chứng nghiện rượu, định kiến tôn giáo và tính đồi bại di truyền.
Tên sát nhân Tsypin là một ví dụ, vốn là con của một kẻ giết người và một tay đầu cơ vàng, những kẻ mà cha ông là những tên giết người, trộm cắp và thầy tu. Anh ta đã được nuôi nấng thành một urka, tức một tội phạm chuyên nghiệp. Anh ta có hình xăm xanh của urka: rắn, rồng, tên của đủ loại người tình - nhiều đến mức chúng lộ ra từ dưới tay áo và cổ áo của anh ta. Có lần anh ta cho Arkady thấy hình xăm con gà trống màu đỏ trên dương vật của mình. May cho Tsypin, vụ giết đồng bọn của anh ta xảy ra trong thời kỳ chỉ có tội phạm quốc gia mới bị cho là đáng nhận án tử hình. Tsypin lãnh án mười năm tù. Trong trại, anh ta có thêm hai hình xăm nữa, “bị áp bức,” nằm ngang trán. Một lần nữa Tsypin lại gặp may. Việc tuyên truyền bằng “thể xác” chống Liên xô vẫn còn là một tội quốc gia cho đến một tuần trước khi anh ta xăm, nên hắn chỉ đơn giản là bị đắp thêm một ít da mông lên đầu và thêm năm năm tù. Phiên tòa này bị trì hoãn nhân kỷ niệm sinh nhật thứ một trăm của Lê-nin.
“Giờ thì tôi nhìn xa trông rộng,” anh ta nói với Arkady. “Tỷ lệ tội phạm tăng rồi lại giảm. Đám quan tòa nới lỏng rồi lại hủy hoại anh. Như mặt trăng và thủy triều vậy. Dù sao thì giờ tôi cũng có một vị trí ổn.”
Tyspin là thợ cơ khí. Nhưng anh ta thực sự kiếm tiền từ những tay lái xe tải. Tài xế sẽ đổ đầy bình xăng để chuyển hàng hóa đến vài ngôi làng ở nông thôn. Tuy nhiên, ở ngay ngoại thành Moscow, họ sẽ hút một chút xăng ra ngoài, bán chúng với giá rẻ cho Tsypin, chỉnh lại công tơ mét và đến cuối ngày, quay trở về kho cảng với câu chuyện hợp lý về đường xấu và đi nhầm đường. Và rồi, Tsypin lại bán chỗ xăng đó cho những chủ xe tư nhân. Nhà chức trách biết về những hoạt động của anh ta, nhưng có quá ít trạm xăng ở Moscow và áp lực đòi có thêm nơi cung cấp xăng từ các chủ xe tư nhân, những kẻ đầu cơ trục lợi như Tsypin trái lại được phép tiến hành một dịch vụ cần thiết cho xã hội.
“Điều cuối cùng mà mọi người muốn là một vụ trừng trị, và nếu tôi biết kẻ nào đã giết ba người trong công viên Gorky, tôi sẽ là người đầu tiên nói với anh. Thực ra, bất kỳ ai gây ra chuyện như thế cũng nên bị thiến. Chúng tôi cũng có tiêu chuẩn mà, anh biết đấy.”
Thêm nhiều tay giang hồ urka nữa kéo ghế ngồi tại văn phòng Arkady ở Novokuznetskaya, mỗi người đều lặp lại điệp khúc rằng chẳng ai điên đến mức bắn người trong công viên Gorky, và ở một góc độ khác thì không có ai mất tích cả. Người cuối cùng là Zharkov, một cựu quân nhân chuyên mua bán súng.
“Dù sao thì giờ còn hàng nào có sẵn ở đây? Đồ Hồng Quân, vài cái súng lục Anh han gỉ, có thể là một hoặc hai khẩu súng ngắn Séc. Anh mà ra miền Đông, Siberi ấy, anh có thể tìm thấy một băng nhóm có hẳn một cây súng máy. Chứ không phải ở đây, chả có gì như anh mô tả cả. Phải lắm, ai sẽ bắn khẩu súng đó? Anh nói họ đã từng phục vụ trong quân ngũ sao? Đây không phải nước Mỹ. Nếu chúng ta đã từng trải qua bất kỳ cuộc chiến thật sự suốt ba mươi năm qua, thì hãy cho tôi biết đi. Họ chẳng có cơ hội bắn bất kỳ ai, ngoài ra, quá trình rèn luyện của họ đã bị quỷ tha ma bắt đi rồi. Thành thật mà nói, anh đang nói về một cuộc hành quyết có tổ chức, anh và tôi cùng biết chỉ có một tổ chức duy nhất được trang bị đầy đủ cho việc đó.”
Vào buổi chiều, Arkady liên tục gọi tới trường Zoya cho đến khi họ nói rằng cô đã ra chỗ câu lạc bộ điền kinh của Liên đoàn Giáo viên. Câu lạc bộ là một căn biệt thự cũ ở mũi đất của Novokuznetskaya, chỉ ngay phía bên kia điện Kremlin. Trong lúc tìm phòng thể dục của câu lạc bộ, anh bị lạc cho đến khi bước qua một cánh cửa và nhận ra mình đang ở một ban công nhỏ từng để dành cho các nhạc công. Anh nhìn xuống phía dưới nơi từng là phòng khiêu vũ. Những thiên thần cupid mờ nhòe trang trí trên trần cao vút. Sàn nhà được phủ những tấm nệm nhào lộn nhựa, bóng nhẫy và sực mùi mồ hôi. Zoya đang đu người trên những thanh xà cao thấp. Mái tóc vàng óng của cô được túm lại thành một búi, cô đeo băng đô trên cổ tay và đi tất ống bằng len. Khi cô lăn mình dưới thanh xà thấp, đôi chân cô choãi ra như cánh máy bay, cơ bắp ở lưng và thân dưới hằn lên dưới lớp quần áo nịt. Vận một bộ đồ nỉ, Schmidt khoanh tay quan sát cô từ phía những tấm nệm. Cô vươn tay tới thanh xà cao, lộn ngược về sau một vòng để đu xuống thanh xà thấp hơn, gầm lên chống đối tiếng kẽo kẹt của những thanh gỗ, vươn ngược mình lên bằng hai tay với những ngón chân hướng lên trần nhà rồi đảo ngược lại và lăn, chân sải ra, quay về với thanh xà cao. Cô không đủ giỏi để trở nên thanh nhã, những gì mà cô có là một dạng có đà hối hả, như dây quả lắc đồng hồ, cuộn quanh rồi lại rời ra quanh hai cực. Cô đu mình xuống từ những thanh xà và khi Schmidt đưa cả hai tay đỡ eo cô, Zoya quàng tay quanh người hắn.
Thật lãng mạn, Arkady nghĩ. Thay vì một gã chồng, ở đó nên có một bộ tứ đàn dây và ánh trăng. Natasha đã đúng - họ là để dành cho nhau.
Rời khỏi ban công, Arkady đóng mạnh cửa khiến nó kêu như súng nổ.
Anh lấy quần áo sạch từ căn hộ của mình và lên đường đến khách sạn Ukraina, mang theo cuốn Biên niên sử của hợp tác Mỹ - Nga trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại từ thư viện Lịch sử. Có lẽ KGB đã dỡ xuống những thùng các tông của họ khi anh đến nơi, Arkady nghĩ, và có lẽ Pribluda đang đợi. Viên thiếu tá có khi còn mào đầu bằng một câu nói đùa, thiết lập một mối quan hệ mới mẻ, hòa nhã hơn, có lẽ đang mô tả hiểu nhầm hiện tại của họ như thể chỉ đơn thuần mang tính thể chế. Kết cục, KGB không có gì phải lo sợ. Khi không có kẻ thù dù thật hay ảo, từ nội bộ hay bên ngoài, cả bộ máy KGB là vô nghĩa. Mặt khác, vai trò của cảnh sát và văn phòng công tố là để minh chứng rằng tất cả đều ổn. Nhiều năm sau đó, Arkady mường tượng, vụ giết ba người có lẽ sẽ được đem ra tranh cãi trên các tạp chí luật như sự Xung đột Mục đích giữa các Cơ quan tại công viên Gorky.
Ở khách sạn Ukraina có những thùng các tông mới và những thùng cũ. Pasha và Fet đã đi ra ngoài. Pasha để lại một tờ giấy ghi rằng khía cạnh tượng thánh có lẽ là vô dụng nhưng anh ta có nghe một tay người Đức nói về chuyện gì đó khác. Arkady vò tờ giấy lại, búng nó vào sọt rác và thả quần áo sạch lên chiếc giường xếp.
Trời đang mưa, từng giọt lao vút xuống dòng sông băng, bốc hơi phủ mờ dòng giao thông ở đại lộ. Qua màn mưa, ở phía bên kia đại lộ, trong khu của người nước ngoài, một người đàn bà trong bộ váy dạ hội đứng sau một ô cửa sổ sáng đèn.
Người Mỹ à? Ngực Arkady nhói lên, ở chỗ mà kẻ đào tẩu trong công viên đã đánh anh hai ngày trước sưng đỏ và căng lên. Anh dập một điếu thuốc và châm thêm điếu nữa. Anh cảm thấy nhẹ nhõm lạ lùng, nhẹ nhõm về Zoya, về gia đình, trượt ra khỏi quỹ đạo đã từng là cuộc sống của anh, bỏ xa khỏi trọng lực.
Phía bên kia đại lộ, khung cửa sổ của người đàn bà đã tối om. Anh tự hỏi tại sao mình lại muốn ngủ với một người đàn bà anh chưa từng gặp, người mà gương mặt chỉ là một bóng mờ sau tấm kính ướt. Anh chưa bao giờ từng không chung thủy, thậm chí chẳng bao giờ mảy may nghĩ đến điều đó. Giờ thì anh muốn bất kỳ một người đàn bà nào. Nếu không thì là đánh ai đó. Chỉ cần tạo ra sự tiếp xúc, chủ yếu là thế.
Anh ép mình ngồi xuống và nghe cuộn băng tháng Một của nhà buôn - kẻ thách thức Osborne. Nếu anh có thể tạo bất kỳ một liên hệ nào giữa Công viên Gorky và thứ yêu thích của KGB, chắc hẳn rằng thiếu tá Pribluda sẽ nhảy vào. Chẳng có lý do nào để nghi ngờ Osborne ngoại trừ những liên hệ của tay người Mỹ này với Irina Asanova và gã buôn tượng thánh Golodkin. Nó cũng chỉ đơn thuần như một hôm đang băng qua cánh đồng, Arkady nghe thấy tiếng rít bên dưới một tảng đá. Ở dưới này có một con rắn, tiếng rít mách bảo. Tay buôn lông thú đã dành hết tháng Một và hai ngày đầu tháng Hai để đi đi về về giữa Moscow và cuộc đấu giá lông thú hàng năm ở Leningrad. Ở cả hai thành phố, hắn kết thân với những thành phần ưu tú của giới biên đạo múa và đạo diễn, vũ công và diễn viên, chứ không phải với hạng công dân xoàng xĩnh như những người được tìm thấy thi thể ở công viên Gorky.
Osborne: Anh nổi tiếng với vai trò đạo diễn phim chiến tranh. Anh yêu thích chiến tranh. Người Mỹ yêu thích chiến tranh. Có một tướng Mỹ đã nói “ Chiến tranh là thiên đường.”
Trong cuốn biên niên sử của hợp tác Mỹ-Nga trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, Arkady thấy Osborne được nhắc tới hai lần:
Trong cuộc bao vây, hầu hết người nước ngoài bỏ trống cảng. Có một người không làm thế là viên chức Ban Đối Ngoại Mỹ, người đã kề vai sát cánh với các đồng nghiệp Liên Xô để giảm thiểu mức thiệt hại về hàng hóa ở vũng tàu đậu. Trong suốt cuộc pháo kích dữ dội nhất, Tướng Mendel và Osborne có thể được nhìn thấy đang làm việc dưới làn đạn ở những vùng ngoại ô thành phố để giám sát việc tu sửa ngay lập tức các tuyến đường bị hư hại. Cái gọi là chính sách Vay mượn của Roosevelt đã gấp lên bốn lần: Để kéo dài cuộc chiến giữa kẻ xâm lược Phát xít và những người bảo vệ quê hương Liên Xô cho đến khi cả hai cạn kiệt máu, để trì hoãn việc mở Mặt trận Thứ hai trong lúc hắn ngã giá hòa bình với bè lũ Hitler, để đặt những người Liên Xô đang chiến đấu vào vòng nợ không ngừng và để tái lập quyền bá chủ của người Mỹ da trắng xuyên khắp thế giới. Là từng người dân Mỹ có tầm nhìn để nỗ lực vì một mối quan hệ toàn cầu mới.
Một vài trang sau:
... một tốp phi công oanh tạc Phát xít xâm nhập vào đã bẫy nhóm vận tải được chỉ huy bởi Tướng Mendel và Osborne người Mỹ, họ đã chiến đấu bằng súng ngắn để thoát ra an toàn.
Arkady nhớ đến câu nói đùa của bố anh về tính hèn nhát thể xác của Mendel (“bĩnh ra quần, giày bóng lộn”). Nhưng với Osborne, Mendel là một vị anh hùng. Mendel đã chuyển sang Bộ Thương mại từ năm 1947, và chỉ một thời gian ngắn sau đó, Osborne nhận được giấy phép xuất khẩu lông thú.
Thám tử Fet bất ngờ ghé vào văn phòng. “Tôi nghĩ vì có anh ở đây, thanh tra ạ, tôi có thể nghe thêm nhiều cuộn băng nữa,” anh ta nói.
“Cũng khá muộn rồi. Ướt hết hả, Sergei?”
“Phải.” Fet phủ chiếc áo khoác khô của mình lên một chiếc ghế và ngồi xuống cạnh cái máy. Chúng ta thậm chí còn đang chẳng tế nhị đến thế, Arkady nghĩ. Người đàn ông trẻ tuổi đang tập trung vào việc cố gắng giữ thăng bằng cặp kính mắt trên chóp một chiếc mũi và đang cắm cúi phác họa với những chiếc bút chì đã được gọt nhọn. Rất có thể có một chiếc micro trong văn phòng và họ đã phát ngán với một gã đàn ông vừa nghe vừa đọc với chiếc tai nghe của mình và yêu cầu Fet tội nghiệp xông vào trận. Điều đó cho thấy sự lưu tâm thực thụ. Rất tốt.
Fet lưỡng lự.
“Gì thế, Sergei?” Sự suồng sã làm Fet không thoải mái. Tay thám tử di chuyển nhanh như một đầu máy xe lửa đang thu lấy hơi nước. “Cách tiếp cận này, thanh tra ạ...”
“Hết giờ làm rồi, cứ gọi tôi là đồng chí.”
“Cảm ơn anh, hướng tiếp cận này mà chúng ta đã chọn - tôi không thể không tự hỏi liệu nó có phải là hướng đúng hay không.”
“Tôi cũng thế. Chúng ta bắt đầu với ba xác chết, và lại đi chệch ra với những băng và ghi chép về những người vốn là khách quý. Chúng ta có thể đã hoàn toàn sai và tất cả chuyện này chỉ phí thì giờ. Đó có phải là những gì cậu đang nghĩ, Sergei?”
Fet nói như hết hơi. “Vâng, thưa trưởng thanh tra.”
“Xin hãy gọi tôi là đồng chí. Suy cho cùng, làm sao chúng ta có thể kết nối những người nước ngoài cộng tác này với vụ án khi ta còn chẳng biết nạn nhân là ai và họ thực sự bị giết vì cái gì?”
“Đó là những gì tôi đã nghĩ.”
“Tại sao không, chọn lọc một số nhân viên khu trượt băng, hay cả đống tên những người đã tới công viên Gorky mùa đông này thay vì người nước ngoài? Thế có phải tốt hơn không, cậu cũng nghĩ vậy chứ?”
“Có lẽ là không.”
“Cậu bị lưỡng lự, Sergei. Xin hãy nói cho tôi biết, bởi vì đó là đóng góp mang tính xây dựng. Nó chỉ rõ ra mục đích của chúng ta và dẫn tới sự thống nhất của nỗ lực.”
Ý nghĩ về sự mập mờ khiến Fet càng bực bội, vì thế Arkady chữa lại: “Không phải là lưỡng lự. Mà là nghĩ về hai hướng tiếp cận. Thế đã khá hơn chưa, Sergei?”
“Rồi.” Fet bắt đầu lại từ đầu: “Và tôi đã tự hỏi liệu anh có biết đến khía cạnh nào đó mà tôi không biết của cuộc điều tra để dẫn đến sự tập trung vào những ghi âm về An ninh Quốc gia này?”
“Sergei, tôi có lòng tin tuyệt đối vào cậu. Tôi cũng có lòng tin tuyệt đối vào sát nhân người Nga. Hắn giết người từ đam mê và kín đáo, nếu có thể. Đúng là đang xảy ra tình trạng thiếu nhà, nhưng khi tình trạng này được cải thiện sẽ còn có thêm nhiều vụ giết người kín đáo. Dù sao, liệu cậu có thể tưởng tượng ra một người Nga, một người con của Cách Mạng, nhử ba người đến để hành quyết một cách lạnh lùng công viên văn hóa quan trọng nhất Moscow? Cậu có hình dung nổi không, Sergei?”
“Tôi không hiểu lắm.”
“Cậu không thấy à, Sergei, có những yếu tố đùa cợt trong vụ giết người này?”
Fet thẳng người dậy một cách khiếp đảm. “Một trò đùa?”
“Nghĩ về nó đi, Sergei. Để tâm vào.”
Fet tìm cớ và bỏ đi vài phút sau đó.
Arkady quay lại với đám băng của Osborne, dùng tai nghe, quyết tâm nghe xong những cuộn băng tháng Một trước khi lên giường ngủ. Trong ánh sáng như ánh trăng của chiếc đèn bàn, anh đặt ba que diêm lên một mảnh giấy. Xung quanh những que diêm anh vẽ một đường viền khu đất trống.
Osborne:
“Nhưng anh không thể làm quyển Kẻ xa lạ của Camus cho độc giả Liên Xô xem được. Một người đàn ông lấy đi mạng sống của một người hoàn toàn xa lạ chẳng vì lý do gì ngoài sự buồn chán? Nó hoàn toàn giống kiểu phương Tây. Sự nhàn rỗi của tầng lớp trung lưu chắc hẳn sẽ dẫn đến sự buồn chán và giết người không động cơ. Cảnh sát thì quen với điều đó, nhưng tại nơi này trong một xã hội chủ nghĩa tiên tiến, không ai bị sự buồn chán làm cho đồi bại.”
“Thế còn quyển Tội ác và Hình phạt? Còn Raskolnikov thì sao?”
“Quan điểm riêng của tôi. Về tất cả những kẻ lang thang hiện sinh của ông ta, kể cả Raskolnikov cũng chỉ muốn được sờ tay lên vài đồng rúp. Có vẻ như anh sẽ tìm thấy một hành động vô động cơ ở đây như kiểu anh thấy một chú chim nhiệt đới ngoài cửa sổ nhà mình vậy. Sẽ có sự nhầm lẫn lớn. Kẻ sát hại Camus sẽ không bao giờ bị bắt ở đây.”
Đến tầm nửa đêm, anh nhớ ra tờ ghi chép của Pasha. Trên bàn của viên thám tử có một bản báo cáo được kẹp vào hồ sơ của một người quốc tịch Đức tên là Unmann. Arkady đọc liếc qua bằng đôi mắt ngái ngủ.
Hans Federick Unmann sinh năm 1932 tại Dresden, kết hôn năm mười tám tuổi, ly dị năm mười chín tuổi, bị đuổi khỏi Đoàn Thanh niên Cộng sản vì gây rối trật tự (cáo buộc hình sự vì tội hành hung đã được bỏ qua). Nhập ngũ vào năm 1952 và bị buộc tội tấn công những người bạo loạn bằng dùi cui trong cuộc náo loạn do phản động gây ra vào năm sau (cáo buộc tội ngộ sát đã được bỏ qua), và hoàn thành nghĩa vụ với tư cách một người bảo vệ tại chiến lũy Marienbad. Làm lái xe cho thư ký Ban Chấp hành Trung Ương Công đoàn trong vòng bốn năm. Được kết nạp lại vào Đảng vào năm 1963, tái hôn cùng năm đó và làm quản đốc tại một nhà máy quang học. Năm năm sau, bị khai trừ khỏi Đảng vì hành hung vợ. Tóm lại là một kẻ vũ phu. Unmann quay trở lại Đảng và bị trói buộc bởi Komsomol để duy trì kỷ luật giữa những sinh viên Đức tại Moscow. Ảnh chụp cho thấy hắn là một gã cao, gầy trơ xương với mái tóc vàng lơ thơ. Báo cáo của Pasha còn cho biết thêm rằng Golodkin đã cung cấp gái điếm cho Unmann cho đến khi tay người Đức này ngừng liên hệ vào tháng Một. Không thấy nhắc đến tượng thánh.
Có một cuộn băng ở trong máy của Pasha. Arkady cắm giắc tai nghe của Pasha và bật máy lên. Anh tự hỏi vì sao Unmann lại đột ngột ngắt liên lạc với Golodkin, và sao lại vào tháng Một?
Tiếng Đức của Arkady không còn tốt như hồi ở trong quân ngũ, nhưng nó đủ cho việc giải mã những đe dọa thẳng thừng về mặt thể chất mà Unmann đã dùng để giữ những sinh viên của mình trong giới hạn. Từ giọng nói của họ, các sinh viên Đức đã đủ sợ hãi. Ồ, Unmann có một công việc tuyệt vời. Mỗi ngày một hoặc hai đứa nhóc sợ hãi, và hầu hết thời gian còn lại để gọi là cho có. Hắn buôn lậu máy ảnh và ống nhòm từ Đức, có thể còn đe dọa buộc tụi sinh viên cũng làm thế cho hắn. Dĩ nhiên là chẳng có tượng thánh nào cả, chỉ có những những vị khách đến từ phương Tây là muốn tượng thánh của Nga.
Rồi Arkady nghe đoạn băng về một người gọi điện thoại bảo Unmann đến gặp hắn “ở chỗ thường lệ”. Một ngày sau đó, cũng chính người đó bảo Unmann ra ngoài khu Bolshoi. Ngày tiếp theo là “chỗ thường lệ,” và hai ngày sau đó lại là một chỗ khác. Không có một cái tên nào được dùng đến, không có cuộc trò chuyện thực sự nào diễn ra, và những cuộc nói chuyện nào đó cũng bằng tiếng Đức. Mất một lúc lâu để Arkady tự thuyết phục mình rằng người bạn nặc danh kia là Osborne với Unmann không bao giờ xuất hiện trong những cuộn băng của Osborne. Osborne gọi Unmann, không bao giờ có chuyện ngược lại, và Osborne hiển nhiên là chỉ gọi từ các trạm điện thoại công cộng. Và rồi có khi sẽ có một ngữ điệu sai trong giọng nói của người gọi điện thoại nặc danh, Arkady sẽ nghĩ sự nhận diện của mình là điên rồ.
Anh bố trí hai máy casset và lắng nghe băng của Osborne với Unman luân phiên. Anh bày ra cả một gạt tàn chồng chất thành chóp đầu lọc thuốc lá. Giờ nó là vấn đề của sự kiên nhẫn.
Lúc rạng sáng, sau bảy tiếng nghe băng, Arkady đi ra ngoài khách sạn và làm cho mình tỉnh táo lại. Quanh khu đỗ xe taxi, những hàng rào kêu răng rắc trong gió. Khi hít không khí vào, anh nghe thấy một tiếng động khác, một tiếng động nhịp nhàng phía xa xa trên đầu. Các công nhân đang gõ lên các bức tường chân mái của khách sạn Ukraina để tìm những âm thanh lệch lạc do gạch lâu ngày bị long vào mùa đông.
Quay trở lại phòng, anh bắt đầu bật những cuộn băng tháng Hai của Unmann. Vào ngày mùng hai tháng Hai, ngày mà Osborne rời Moscow đi Leningrad, người đàn ông nặc danh gọi điện thoại.
“Chuyến bay bị hoãn lại.”
“Nó bị hoãn lại à?”
“Mọi chuyện đều ổn. Anh lo lắng quá rồi.”
“Anh thì chẳng bao giờ lo chắc?”
“Thư giãn đi Hans”
“Tôi không thích thế.”
“Cũng hơi muộn để thích hay không thích bất kỳ cái gì rồi.”
“Mọi người đều biết về những đám Tupolev mới đó.”
“Một vụ tai nạn? Anh nghĩ chỉ có người Đức mới xây được thứ gì sao.”
“Thậm chí một vụ trì hoãn. Khi anh đến Leningrad...”
“Tôi đã từng đến Leningrad. Tôi đã từng ở đó với những người Đức, mọi chuyện sẽ ổn thôi.”
Arkady đánh một giấc dài một tiếng đồng hồ.
Án Mạng Ở Công Viên Gorky Án Mạng Ở Công Viên Gorky - Martin Cruz Smith Án Mạng Ở Công Viên Gorky