A good book has no ending.

R.D. Cumming

 
 
 
 
 
Tác giả: Martin Cruz Smith
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
ác tòa nhà kiểu Gothic dưới thời Stalin không mang phong cách kiến trúc như một dạng tín ngưỡng cho lắm. Những yếu tố từ các kiệt tác của Hy Lạp, Pháp, Trung Hoa và Ý bị ném vào chiếc xe bò mọi rợ rồi được kéo tới Moscow và tới chính Người Kiến thiết Vĩ đại, người đã chồng cái nọ lên cái kia vào trong những tháp xi măng cùng những ngọn đuốc rực sáng, những tòa nhà chọc trời kỳ quái với những cửa sổ quái gở, những chiến hào bí ẩn và những tòa tháp cao chóng mặt dẫn tới tận mây xanh, mà vẫn có thêm những xoắn ốc vút lên được phủ đầy trên mình những ngôi sao đỏ thắm sáng bừng trong đêm như mắt của Người. Sau khi qua đời, những tác phẩm của Người giống sự ngượng nghịu hơn là uy hiếp, quá lớn để được chôn cùng Người, vậy nên chúng đứng mỗi cái ở một phần của thành phố, những ngôi đền nửa phong cách phương đông trầm tư, không được trừ tà nhưng vẫn được dùng. Ở quận Kievskaya, phía tây dòng sông là khách sạn Ukraina.
“Chẳng phải chỗ này rất tuyệt sao?” Pasha dang rộng cánh tay. Arkady nhìn từ tầng mười bốn của khách sạn Ukraina xuống đại lộ Kutuzovsky Prospekt, và phía bên kia dòng xe cộ ở Kutuzovsky tới những tòa nhà đầy vẻ sùng kính của khu tổ hợp dành cho những phóng viên ngoại giao và nước ngoài với sân trong và ki-ốt của cảnh sát ở trung tâm.
“Như Spy Smasher.” Pasha xem xét một dãy máy ghi âm, thùng các tông, bàn và võng. “Anh thật sự phát bóng đi được xa đấy, Arkady.”
Thật ra, chính Iamskoy là người đã chuyển căn cứ của cuộc điều tra, viện dẫn về sự thiếu không gian ở văn phòng của Arkady. Không nhắc gì đến ai là người đã ở căn phòng này trước kia, dù trên tường vẫn dán tấm áp phích có hình một chiêu đãi viên của hãng hàng không Dân chủ Đức. Ngay cả đến thám tử Fet cũng bị ấn tượng.
“Thám tử Pavlovich đang dẫn những khách du lịch người Đức và Golodkin mà anh nghi ngờ rằng có buôn tượng thờ. Tôi thạo các thứ tiếng Scandinavian*. Khi tôi tính tham gia hải quân, tôi nghĩ chúng có thể sẽ hữu ích,” Fet thổ lộ.
“Vậy ư? Arkady xoa cổ. Cả người anh đau nhừ từ trận đòn đêm trước, anh thành thật không thể gọi nó là một trận đánh lộn. Mò tìm một điếu thuốc cũng đau và đến cả nghĩ đến chuyện dính chặt lấy tai nghe cũng thấy đau. Nghiệp nhà binh của anh đã gồm có việc ngồi trong buồng vô tuyến phía anh em xã hội chủ nghĩa của Berlin và lắng nghe phát thanh của quân Đồng Minh. Không thể tưởng tượng ra có công việc nào buồn tẻ hơn được, nhưng hai viên thám tử của anh rõ ràng cũng chia sẻ cùng một niềm hân hoan tương tự. Sau tất cả, giờ đây họ đang ở trong một khách sạn xa xỉ, chân họ đang nghỉ ngơi trên một chiếc thảm thay vì nện đều trên vỉa hè. “Tôi sẽ lo người Anh và Pháp,” anh nói.
Điện thoại đổ chuông. Là Lyudin báo cáo về chiếc mũ của gã đã đánh nhừ tử vị trưởng thanh tra.
“Chiếc mũ lưỡi trai này còn mới, sản xuất ở Nga, may bằng vải xéc, và nó có dính hai sợi tóc bạc. Phân tích protein của những sợi tóc cho thấy người đội mũ này là người da trắng, nam, nhóm máu O.
Sáp trên tóc có gốc lanolin, sản xuất ở nước ngoài. Bản đúc dấu giày của hắn từ công viên cho thấy phần ghi của nhà sản xuất còn chưa mòn trên những chiếc giày mới. Chúng tôi cũng có dấu giày của anh.”
“Mòn?”
“Trầm trọng luôn.”
Arkady cúp máy và nhìn xuống giày mình. Không chỉ gót bị mòn mà màu xanh lục ban đầu của da thuộc còn lộ ra dưới lớp xi đen.
“Thằng khốn!” gã đó nói khi Arkady cắn hắn. Người Mỹ nói kiểu đó. Một thằng khốn người Mỹ.
“Những cô gái Đức này,” Pasha nói khi anh đang nghe một cuộn băng ghi âm bằng tai nghe. “Các thư ký cho Ngân Hàng Xuất khẩu Đức. Sống ở khách sạn Rossiya và làm quen với đàn ông ở ngay sàn nhảy của khách sạn. Một gái mại dâm Nga, người mình, có thể sẽ bị ném ra khỏi Rossiya.”
Các băng ghi âm của chính Arkady có những lỗi nhỏ. Anh nghe lén những tràng đả kích của một nhà hoạt động vì tự do nói tiếng Pháp từ Chad, người đặt phòng ở khách sạn Peking. Người có thể sẽ là lãnh đạo quốc gia có ham muốn tình dục chỉ tương xứng với mức độ khó mà tìm được đối tác của hắn.
Yêu cầu lấy rất nhiều băng ghi âm và ghi chép chỉ nhằm hù dọa Pribluda. Những vật liệu dễ bị hỏng sẽ không được chuyển đến cũng không thành vấn dề, một người trong Bộ Tư lệnh KGB chỉ cần biết rằng sự thiêng liêng của những điều thiêng liêng (băng ghi âm và bản ghi chép, những bí mật của người khác kia mà chỉ người trong đó mới có thể chạm được vào) đang trong tay của tổ chức đối địch. Bất kỳ sự quá giới hạn nào cũng là quá giới hạn. Những thùng tài liệu có lẽ sẽ quay trở về và Arkady chắc rằng cùng với chúng là toàn bộ quá trình điều tra. Anh vẫn chưa nhắc đến việc gã đàn ông đã dần cho anh một trận có khả năng là người Mỹ, hay việc anh đã mang đầu của Người đẹp đến cho Andreev. Anh không thể chứng minh được điều một, và vẫn chưa có gì xảy ra với điều còn lại.
Anh nghe băng ghi âm một khách du lịch trong khi đọc ghi chép về người khác. Micro được đặt ở điện thoại của các phòng khách sạn, nên anh nghe thấy những cuộc điện thoại và trò chuyện giống nhau. Người Pháp luôn phàn nàn về đồ ăn, trong khi người Mỹ và Anh luôn phàn nàn về bồi bàn. Du lịch thật là quá khó chịu.
Trong bữa ăn trưa ở một quán ăn tự phục vụ ở bên ngoài tiền sảnh khách sạn, Arkady gọi tới trường Zoya. Cô nghe điện thoại.
“Anh muốn đến chỗ em và nói chuyện,” anh nói.
“Giờ là tháng trước ngày Quốc tế Lao động, anh biết nó thế nào rồi đấy,” Zoya trả lời.
“Anh có thể đón em sau khi tan trường.”
“Không!”
“Vậy khi nào?”
“Tôi không biết. Để sau đi, khi tôi biết tôi đang làm gì. Tôi phải đi đây.”
Trước khi cô cúp máy, anh nghe thấy tiếng Schmidt ở phía sau.
Buổi chiều dài dằng dặc, dù đã tới lúc Pasha và Fet mặc áo khoác và đội mũ để ra về. Arkady dừng làm việc để uống cà phê. Trong bóng tối, anh nhìn ra thêm hai tòa nhà chọc trời nữa của Người ở gần đó, Đại học Moscow về phía đông và Bộ Ngoại Giao ngay bên kia sông. Những ngôi sao đỏ thẫm nhấp nháy với nhau.
Chỉ còn một mình, anh nghe lại những cuốn băng ghi âm một lần nữa. Anh nghe thấy giọng nói quen thuộc đầu tiên. Đó là cuộn băng một bữa tiệc của người Mỹ vào ngày mười hai tháng Một ở khách sạn Rossiya. Giọng nói của một vị khách Nga, một người phụ nữ giận dữ:
“Chekhov, tất nhiên rồi. Luôn luôn có liên quan, vì thái độ chỉ trích giai cấp tiểu tư sản của ông ta, những cảm xúc Dân chủ thâm căn cố đế trong ông ta và niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh của người dân. Sự thật là, trong phim của Chekhov, bạn có thể cho các diễn viên sử dụng những chiếc mũ tươm tất thay vì khăn. Mỗi năm một lần, người ta muốn một bộ phim với những chiếc mũ tốt.”
Arkady nhận ra giọng của Irina Asanova, cô gái ở Mosfilm. Có một sự phản đối nhẹ nhàng từ phía những nữ diễn viên có mặt ở đó.
Những người tới muộn.
“Yevgeny, giờ anh mang tới cho tôi gì nào?”
Một cánh cửa đóng lại.
“Một lời chúc mừng năm mới muộn, John!”
“Găng tay! Thật chu đáo quá! Tôi sẽ mang chúng!.”
“Mang chúng vào đi, hãy trưng chúng ra. Ngày mai hãy đến chỗ tôi và tôi sẽ đưa anh một trăm đô để bán.”
Tên của người Mỹ đó là John Osborne. Phòng của anh ta ở khách sạn Rossiya nằm ngay gần quảng trường Đỏ, gần như là một phòng hạng sang. Nếu so với Rossiya thì khách sạn Ukraina chỉ là một cái ga tàu hỏa. Tiếng Nga của Osborne tốt và tinh tế một cách kỳ lạ. Nhưng Arkady muốn nghe cô gái kia nói một lần nữa.
Thêm nhiều giọng nói đổ dồn vào cuốn băng.
“... buổi biểu diễn ngoạn mục.”
“Vâng, tôi chiêu đãi cô ấy khi cả đoàn ballet tới New York. Để dành tặng cho tác phẩm nghệ thuật của cô ấy.”
“Với vũ đoàn Moiseyev?”
“Nguồn năng lượng tuyệt vời.”
Arkady nghe thêm nhiều lời chào mừng, nâng cốc mừng nền nghệ thuật Nga, những câu hỏi về gia đình Kenedy, không có gì hơn từ Irina Asanova. Anh cảm thấy hai mí mắt trĩu xuống, như thể anh là một vị khách vô hình bị chôn dưới những chiếc áo choàng ấm áp và tiếng vo ve của những ngôn từ loáng thoáng nghe được, những tiếng vang vọng đã từ bốn tháng trước của một căn phòng và những gương mặt anh chưa từng nhìn thấy. Tiếng lao xao của cuốn băng lôi kéo sự tập trung của anh trở lại.
Với khả năng Irina Asanova có thể sẽ nói lần nữa, Arkady lật mặt băng.
Vẫn buổi tiệc đó, một lúc sau. Osborne đang nói.
“Xưởng thuộc da Gorky đã mang đến cho tôi những chiếc găng tay may sẵn. Mười năm trước, tôi đã cố nhập khẩu da thuộc - da bê mà tôi có thể bán rẻ hơn người Tây Ban Nha và Ý. May sao, tôi đã kiểm tra hàng hóa ở Leningrad. Tôi nhận được niêm mạc dạ dày. Lòng bò. Tôi lần theo dấu bưu điện tới người thu mua gia súc ở Alma Ata, vốn vận chuyển da bê của tôi tới Leningrad và súp lòng bò tới Vogvozdino trong cùng một ngày.”
Vogvozdino? Nhưng người Mỹ không biết về trại tù ở đó, Arkady nghĩ.
“Họ liên hệ với nhà chức trách ở Vogvozdino và bên kia nói rằng chuyến hàng đã đến nơi, được đem nấu súp và được chén nghiến ngấu rồi. Vì vậy người thu mua được minh oan. Tôi nhất định không lấy lòng bò được rồi, tất nhiên, người Nga sẽ chẳng ăn găng tay đâu. Tôi mất hai mươi ngàn đô và không bao giờ gọi súp ở bờ đông Moscow.”
Một bầu không khí im lặng căng thẳng theo sau một tràng cười căng thẳng. Arkady hút thuốc và nhận ra anh đã đặt ba que diêm trên bàn trước mặt mình.
“Tôi không hiểu được sao các người lại có lúc rời bỏ quê hương đến Mỹ. Vì tiền? Các người sẽ học được rằng, người Mỹ, dù họ có nhiều tiền đến mấy, thì rồi cuối cùng họ cũng tìm thấy thứ họ không thể mua được. Khi họ tìm thấy, họ nói, “Chúng ta không mua nổi nó, chúng ta quá nghèo để mua nó.” Không bao giờ nói là, “Chúng ta không đủ giàu.” Các người không muốn trở thành người Mỹ nghèo khổ phải không? Ở đây các người luôn giàu có.”
Hồ sơ của Osborne được in trên giấy mỏng, với dấu niêm phong chạm nổi màu đỏ của KGB:
John Dusen Osborne, công dân Mỹ, sinh ngày 16/5/1920 ở Tarrytown, New York, Mỹ. Không theo đảng nào. Chưa kết hôn. Nơi cư trú hiện tại, New York, N.Y. Lần đầu tới Liên bang Xô Viết năm 1942 tại Murmansk với đội cố vấn Cho mượn - Cho thuê. Cư trú ở Murmansk và Arkhangelsk từ 1942-44 theo sự bổ nhiệm của Ban Đối Ngoại Mỹ làm cố vấn giao thông, trong thời gian này đối tượng đã có những hoạt động phục vụ đáng kể trong nỗ lực chống chiến tranh Phát xít. Đối tượng này đã từ chức ở Ban Đối Ngoại vào năm 1948 trong giai đoạn cuồng cánh hữu và khởi nghiệp ngành xuất khẩu lông thú Nga tư nhân. Đối tượng đã bảo trợ cho nhiều sứ mệnh thiện nguyện, hoạt động trao đổi văn hóa và là khách thường niên của U.S.S.R*.
Trang tài liệu thứ hai đề cập đến các văn phòng của tập đoàn nhập khẩu lông thú Osborne, ở New York, Palm Springs, Paris và liệt kê những lần tới thăm Nga của Osborne trong năm năm qua. Chuyến đi gần đây nhất của anh ta là từ mùng hai tháng Một đến mùng hai tháng Hai. Có một ghi chú bằng bút chì đã bị gạch đi, nhưng Arkady có thể đọc được: “Liên hệ cá nhân: I. V. Mendel, Bộ Thương Mại.”
Trang thứ ba có ghi: “Xem tại: Sử liệu về Hợp tác Liên Xô - Mỹ trong cuộc Chiến Tranh Vệ Quốc Vĩ Đại, Pravda, 1967.”
Đồng thời: “Xem tại: Cục Một.”
Arkady nhớ về Mendel. Anh ta là một trong những con tôm hùm tự lột và béo lên mỗi mùa, đầu tiên là với tư cách giám sát viên “tái định cư” cho các phú nông, rồi ủy viên thời chiến cho khu vực Murmansk, tiếp theo là giám đốc bộ phận đánh lạc hướng thông tin cho KGB, và cuối cùng, móng vuốt của hắn lớn như lưới nạo vét, Phó bộ trưởng Bộ Thương Mại. Mendel đã chết năm ngoái, nhưng Osborne chắc hẳn là có nhiều bạn loại này hơn thế.
“Sự khiêm nhường chính là nét hấp dẫn của anh. Một người Nga luôn cảm thấy thấp kém trước bất kỳ ai ngoại trừ một người Ả Rập hay người Nga khác.”
Những tràng cười khúc khích của người Nga chứng minh cho luận điểm của Osborne. Chính giọng điệu từng trải đó đã cám dỗ họ. Dù sao thì, hắn là một người nước ngoài vô hại.
“Khi ở Nga, một người khôn ngoan sẽ tránh xa đàn bà đẹp, dân trí thức và người Do Thái. Hay nói một cách đơn giản hơn là bọn Do Thái.”
Một viên ngọc ác độc với một yếu tố cần thiết, Arkady thừa nhận: một chút sự thật.
Dù sao thì, đám khán giả đầy khoái chí của hắn đã sai. Ghi chú trong tài liệu, “Cục Một,” là chỉ Vụ Bắc Mỹ của KGB. Osborne không phải là đặc vụ, nếu có thì sẽ chẳng có cuộn băng nào có thể được chuyển tiếp. Ý của ghi chú đó là, Osborne chỉ đơn giản là hợp tác, người bảo trợ của nghệ thuật Nga và một kẻ chỉ điểm các nghệ sỹ Nga. Hẳn là họ đã tắm mình trong sự hiếu khách của hắn và thốt ra những phát biểu ở New York lại được lắng nghe ở Moscow. Arkady thấy nhẹ lòng khi giọng của Irina Asanova không còn xuất hiện thêm ở đoạn băng nữa.
Misha đã mời anh tới ăn tối. Trước khi đi, anh kiểm tra xem những thám tử của mình đang làm gì. Những cuộn băng Scandinavi của Fet được xếp ngăn nắp cạnh giấy ghi chú và hai chiếc bút chì được gọt nhọn hoắt. Bàn của Pasha là một đống bừa bộn. Arkady liếc qua đoạn ghi chép về cuộn băng nghe lén điện thoại của Golodkin của viên thám tử. Một cuộn băng ghi từ hôm qua khá kỳ lạ. Golodkin chỉ nói toàn tiếng Anh qua điện thoại trong khi người nào đó ở đầu dây bên kia chỉ nói toàn tiếng Nga:
G: Chào buổi sáng. Tôi là Feodor. Nhớ không, trong chuyến đi gần nhất của anh, chúng ta đang đi bảo tàng cùng nhau.
X: Vâng.
G: Tôi muốn chỉ cho anh xem bảo tàng hôm nay. Ngày hôm nay có tiện cho anh không?
X: Tôi xin lỗi, tôi rất bận. Có lẽ để năm sau đi.
G: Anh chắc chứ?
Đoạn tiếng Nga được ghi chép của một nhân vật chưa xác định được danh tính hoàn toàn là ngôn ngữ đời thường. Đó là vấn đề niềm tin, dẫu sao, không ai có thể thực sự nói tiếng Nga ngoài người Nga, và có vẻ như ý nghĩ rằng tay buôn chợ đen phải nói tiếng Anh trái ngược với bằng chứng. Golodkin đã nói chuyện với một người nước ngoài.
Arkady tìm thấy cuộn băng trùng với bản ghi chép và bật nó lên. Lần này, anh nghe thấy những gì anh đã đọc.
“Chào buổi sáng. Tôi là Feodor. Nhớ không, trong chuyến đi gần nhất của anh, chúng ta đang đi bảo tàng cùng nhau.”
“Vâng”
“Tôi muốn chỉ cho anh xem bảo tàng vào hôm nay. Ngày hôm nay có tiện cho anh không?”
“Tôi xin lỗi, tôi rất bận. Chắc để năm sau đi.”
“Anh chắc chứ?”
Cạch.
Arkady nhận ra giọng nói còn lại ngay lập tức vì anh đã nghe nó hàng giờ liền. Đó là Osborne. Tay người Mỹ này đã quay lại Moscow.
Gia đình Mikoyan có một căn hộ lớn - năm phòng trong đó có một phòng chứa hai chiếc đại dương cầm mà Misha được thừa kế cùng với căn hộ từ cha mẹ mình, những người từng biểu diễn tại Dàn nhạc Giao hưởng Phát thanh. Bộ sưu tập áp phích phim cách mạng của cha mẹ anh cùng với bản khắc gỗ nông thôn của Misha và Natasha trang trí cho những bức tường. Misha chỉ cho Arkady đến chỗ phòng tắm, một góc bị chiếm dụng bởi chiếc máy giặt mới với lớp tráng men trắng không tỳ vết.
“Đồ Siberi. Hàng cao cấp nhất. Một trăm năm mươi năm rúp. Bọn tôi đã đợi mười tháng để có nó.”
Một đoạn dây nối dẫn tới lỗ thoát nước, và một đường ống bị che lại một bên. Đây chính xác là thứ Zoya muốn.
“Bọn tôi có thể có hàng ZIV hay Riga trong vòng bốn tháng, nhưng cả hai muốn thứ tốt nhất.” Misha cầm tập san Thương Mại đang nằm trên bồn cầu lên, “Được đánh giá rất cao.”
“Và không hề tư sản một chút nào.” Có lẽ Schmidt có một cái trong nhà của hắn.
Misha lườm Arkady và đưa ly cho anh. Họ đang uống vodka cay nồng và đều đã hơi loạng choạng rồi. Misha kéo một mớ đồ lót ướt từ lồng giặt ra rồi nhồi chúng vào máy sấy.
“Tôi sẽ chỉ cho cậu xem!”
Anh ta vặn nút máy sấy. Với một tiếng gầm, chiếc máy bắt đầu rung. Tiếng gầm ngày càng lớn, như thể cả một chiếc máy bay đang cất cánh trong phòng tắm. Nước phun ra từ ống nước vào bồn tắm. Misha đứng dựa tường mơ màng.
“Tuyệt vời phải không?” Anh ta la lên.
“Rất nên thơ,” Arkady nói. “Thơ của Mayakovsky, những vần rất nên thơ.”
Chiếc máy dừng lại. Misha kiểm tra ổ cắm và nút vốn không hề xoay chuyển.
“Có chuyện gì à?”
Misha bao trọn Arkady và chiếc máy bằng một cái nhìn tóe lửa. Anh ta đập vào bên hông chiếc máy và nó bắt đầu rung một lần nữa.
“Đúng là máy giặt Nga.” Arkady nhớ có một động từ cổ có nghĩa là “quất roi người nông nô của mình”, nhấp một ngụm rượu, và tự hỏi, liệu có động từ mới nghĩa là: “quất roi máy móc của mình.”
Misha đứng chống nạnh. “Cái gì mới cũng phải có thời kỳ khởi chạy,” anh ta giải thích.
“Có thể đoán được là thế”
“Nó thực sự đang quay tròn.”
Rung lên thì đúng hơn. Misha đã nhét bốn chiếc quần lót vào máy sấy. Với tốc độ đó, Arkady ước tính, chuyển quần áo từ lồng giặt sang máy sấy rồi ra dây phơi công cộng, quần áo bẩn sẽ được giặt trong vòng... một tuần. Tuy nhiên, chiếc máy trong cơn cuồng nhiệt gần như nhấc mình lên khỏi sàn phòng tắm. Misha lùi lại một bước đầy lo lắng. Tiếng ồn đinh tai nhức óc. Ống thoát nước bật ra ngoài và nước bắn tung tóe lên tường.
“Cái gì thế này?” Misha nhanh chóng nhồi một chiếc khăn tắm vào lỗ cống bằng một tay và tay kia vặn nút điều khiển. Khi chiếc nút bị long ra trong ngón tay mình, anh ta chuyển sang đạp chiếc máy đang né tránh những nỗ lực bản thân cho đến khi Arkady rút dây điện.
“Chết tiệt!” Misha đạp mục tiêu bất động của mình. “Chết tiệt. Mười tháng” - anh ta xoay Arkady vòng vòng - “mười tháng!”
Anh ta chộp lấy tập san Thương Mại và cố xé đôi nó ra. “Tôi sẽ cho lũ khốn đó thấy! Tôi không hiểu chúng được trả bao nhiêu tiền lương.”
“Anh định làm gì?”
“Tôi sẽ viết về chúng!” Misha ném tập san vào bồn tắm rồi ngay lập tức quỳ gối xuống, xé toạc trang xã luận. “Nhãn hiệu chất lượng quốc gia? Tao sẽ cho chúng mày thấy nhãn hiệu chất lượng.” Anh ta vò tờ giấy thành một nắm, ném vào bồn cầu, giật nước và reo lên đắc thắng.
“Giờ, làm thế nào anh biết được phải viết cho ai?”
“Suỵt!” Misha đưa ngón tay lên môi ra hiệu im lặng. Anh ta lấy lại ly rượu của mình. “Đừng để Natasha nghe thấy. Cô ấy chỉ vừa mới có được chiếc máy. Cứ làm như không có chuyện gì xảy ra cả.”
Natasha dọn bữa tối gồm chả thịt băm, rau củ muối, xúc xích và bánh mì trắng, cô hầu như không uống rượu vang nhưng ngồi trong trạng thái đầy mãn nguyện.
“Vì quan tài của anh, Arkady.” Misha nâng ly. “Cái sẽ được viền lụa đen thêu, có gối satin, tên và danh hiệu của anh trên đĩa vàng và tay cầm bằng bạc trên gỗ tuyết tùng một trăm tuổi mà tôi sẽ trồng vào buổi sáng.”
Anh ta uống, tự hài lòng với bản thân. “Hoặc là,” anh ta nói thêm, “tôi có thể đặt một chiếc từ Bộ Công nghiệp nhẹ. Thế cũng sẽ mất từng đó thời gian.”
“Tôi, xin lỗi vì bữa tối,” Natasha nói với Arkady. “Nếu bọn tôi có ai khác để đi mua sắm... anh biết đấy.”
“Cô ấy nghĩ anh sẽ dò hỏi cô ấy về Zoya. Bọn tôi từ chối xen vào giữa hai người,” Misha nói và quay về phía Natasha. “Em có gặp Zoya không? Cô ấy đã nói gì về Arkady?”
“Nếu chúng tôi có tủ lạnh lớn hơn” Natasha giải thích, “hoặc có ngăn đá.”
“Họ nói về tủ lạnh, rõ rồi,” Misha liếc mắt về phía Arkady. “Nhân tiện, cậu không tình cờ quen một tay thợ sửa máy sát nhân nào mang ơn cậu chứ?”
Natasha cắt miếng chả của mình ra thành nhiều miếng nhỏ. “Em có quen vài bác sĩ.” Cô mỉm cười.
Dao của cô dừng lại khi mắt cô cuối cùng cũng thấy nút điều khiển nằm cạnh đĩa của Misha.
“Một sự cố nhỏ, em yêu,” Misha nói “ Cái máy giặt đang không hoạt động hiệu quả cho lắm.”
“Không sao. Chúng ta vẫn có thể bày nó cho mọi người xem.”
Cô có vẻ thật sự hài lòng.
Án Mạng Ở Công Viên Gorky Án Mạng Ở Công Viên Gorky - Martin Cruz Smith Án Mạng Ở Công Viên Gorky