Nguyên tác: Der Steppenwolf
Số lần đọc/download: 3187 / 164
Cập nhật: 2016-02-26 01:31:21 +0700
Dành Riêng Cho Những Người Điên
T
ôi mời được cô gái lạ lùng, xinh xắn mới quen ở quán Đại Bàng Đen đi ăn vào tối thứ Ba; tôi đã phải nỗ lực ghê gớm mới qua hết được thì giờ cho đến hôm đó. Cuối cùng, khi ngày thứ Ba ấy tới, tôi mới thấy rõ ràng mức độ quan trọng đến kinh hoàng trong quan hệ của mình với người thiếu nữ vô danh ấy. Tôi toàn nghĩ đến nàng, chờ đợi ở nàng đủ mọi thứ, sẵn sàng hy sinh và hiến dâng nàng tất cả, dù chẳng yêu nàng mảy may. Chỉ cần tưởng tượng nàng nuốt lời hoặc quên hẹn là thấy ngay mình sẽ lâm vào trạng huống nào: thế gian sẽ lại trống rỗng, ngày lại ngày sẽ u ám và chẳng đáng kể gì nữa, quanh tôi sẽ lại chỉ toàn sự vắng lặng và lịm chết đến rợn người; không còn lối nào thoát khỏi địa ngục câm nín này, ngoài lưỡi dao cạo. Trong đôi ba ngày ấy tôi chẳng ham hố gì hơn lưỡi dao cạo, nó không mảy may mất đi vẻ đáng sợ. Song chính đây mới là điều đáng ghét: tôi sợ ghê gớm, sợ đến đứng tim khi phải cứa cổ mình; tôi sợ chết với sức mạnh hoang dại, dai dẳng; tôi kháng cự và vùng lên, như thể tôi là kẻ khỏe khoắn nhất thế gian và cuộc đời tôi là cả một thiên đường. Tôi nhận biết hoàn cảnh của mình rõ rành rành, không chút mơ hồ, rằng chính sự căng thẳng khôn kham giữa sự không thể sống và sự không thể chết đã khiến người con gái vô danh ấy, cô vũ nữ nhỏ nhắn xinh đẹp ở quán Đại Bàng Đen ấy, trở thành quan trọng xiết bao đối với tôi. Nàng là khung cửa sổ tí hon, là lỗ hổng bé tẹo lung linh sáng nơi hang động sợ hãi tối om của tôi. Nàng là sự giải thoát, là con đường đưa tôi đến tự do. Nàng phải dạy tôi sống hoặc dạy tôi chết, nàng phải chạm bàn tay cương nghị và xinh xắn lên trái tim đông cứng của tôi, để nó hoặc bừng nở do tiếp cận sự sống, hoặc rã thành tro bụi. Từ đâu nàng có những sức mạnh ấy, từ đâu nàng có pháp thuật ấy, cái ý nghĩa sâu xa mà nàng có đối với tôi đã nảy nở từ những nguyên do bí ẩn nào, tôi chịu không nghĩ ra được; mà cũng chẳng có gì quan trọng, tôi không cần phải biết. Tôi chẳng quan tâm chút nào nữa đến tri thức hay nhận thức, vì tôi đã bị nhồi nhét chính những thứ ấy quá nhiều rồi; chính nó chứa đựng nỗi dằn vặt và nhục nhã ghê gớm, ê chề nhất của tôi, nó khiến tôi nhận ra và ý thức quá rõ về trạng huống của mình. Tôi thấy tên khốn nạn ấy, tên thô lỗ Sói Thảo Nguyên ấy, ngay trước mắt không khác một con ruồi sa lưới nhện, tôi nhìn số phận nó nhích dần tới giây phút quyết định như thế nào, thấy nó bất lực ra sao, còn con nhên đang sẵn sàng đớp nó và một bàn tay cứu vớt xuất hiện cũng ngay gần đấy như thế nào. Tôi có thể nói những điều sáng suốt và rành mạch nhất về các mối tương quan cùng nguyên do gây nên sự đau khổ, bệnh tâm hồn, chứng quỷ ám và loạn thần kinh của tôi, vì tôi thấu suốt cơ chế của chúng. Nhưng trí thức và hiểu biết không phải là điều tôi cần, khiến tôi khao khát đến tuyệt vọng nhường ấy, mà sự trải nghiệm, sự quyết định, cú hích và sức đẩy.
Tuy trong đôi ngày chờ đợi ấy tôi không hề nghi ngờ rằng cô bạn sẽ nuốt lời, song đến ngày cuối tôi rất hồi hộp và không còn dám chắc chắn nữa; trong đời, tôi chưa từng nóng lòng ngóng chờ ngày qua đi và chiều tối đến như thế. Nhưng trong sự căng thẳng và sốt ruột khiến tôi dường như không chịu đựng nổi thì đồng thời chúng lại có mặt rất hay: với kẻ đã vỡ mộng, từ lâu không đợi chờ gì nữa, không ham muốn gì nữa như tôi thì quả là tuyệt diệu, khi suốt ngày toàn đi tới đi lui vì bồn chồn, lo lắng, mong chờ day dứt, hình dung lúc gặp gỡ, chuyện trò, buổi tối này sẽ đưa tới đâu, rồi lo cạo râu, đóng bộ (đặc biệt chăm chút, sơ mi mới, ca vát mới, dây giày mới). Dù cô gái nhỏ nhắn thông minh và đầy bí ẩn này là ai, dù nàng quan hệ với tôi theo cách nào đi nữa, tôi cũng chẳng xem đó là quan trọng; tôi chỉ cần biết một điều: nàng có thật, phép lạ đã xảy ra khiến một lần nữa tôi tìm thấy một con người và hứng thú mới cho cuộc sống! Quan trọng là phép lạ kia cứ tiếp diễn, còn tôi phó thác mình cho lực hấp dẫn này và đi theo ngôi sao ấy!
Giây phút gặp lại nàng thật không thể nào quên! Lúc đó tôi đang ngồi tại một chiếc bàn con trong ngôi nhà hàng cũ kỹ nhưng ấm cúng ấy - trước đấy tôi đã gọi điện đặt chỗ, một việc không cần thiết - tìm hiểu thực đơn và cắm vào một ly nước hai đóa lan xinh xắn mua tặng cô bạn. Tôi phải chờ nàng khá lâu, nhưng biết chắc nàng sẽ đến nên không hồi hộp nữa. Và nàng đến kia rồi; nàng dừng lại trước chỗ treo áo, chỉ chào tôi bằng cái nhìn chăm chú, hơi xét nét từ đôi mắt xám nhạt. Tôi nghi ngại để ý xem gã chạy bàn cư xử với nàng thế nào. Không, đội ơn Chúa, gã không thân mật mà giữ đủ khoảng cách, lễ độ không chê trách được. Nhưng họ quen biết nhau sẵn rồi, nàng gọi gã là Emil.
Khi tôi tặng nàng hai bông lan, nàng cười thích thú.
"Anh thật dễ thương, Harry ạ. Anh muốn tặng quà cho em, đúng không, mà không rõ nên chọn món gì, được phép tặng em tới mức nào, có xúc phạm em chăng, nên anh mới mua lan; chỉ là hoa thôi, nhưng đắt lắm đấy. Em cám ơn anh. Có điều em muốn nói ngay với anh: em không muốn được anh tặng. Em sống nhờ vào đàn ông, nhưng không muốn sống dựa vào anh. Mà anh đã thay đổi thật thôi! Không nhận ra nữa đấy. Hôm trước trông anh như mới được cứu khỏi dây thòng lọng, nay đã ra dáng con người rồi. Anh có làm theo lệnh của em không đấy?"
"Lệnh gì cơ?"
"Anh mau quên thế à? Em muốn nói là anh nhảy Fostrott được chưa? Anh đã bảo chẳng ao ước gì hơn là nhận mệnh lệnh của em, anh không thích gì hơn là vâng lời em mà. Anh nhớ chứ?"
"À, có chứ và sẽ như vậy mà. Anh nói nghiêm túc đấy."
"Thế nhưng anh vẫn chưa học nhảy?"
"Nhanh thế được à, chỉ trong vài ngày ư?"
"Dĩ nhiên. Anh có thể học điệu Fox trong một giờ, điệu Boston trong hai giờ. Tango thì lâu hơn, song anh đâu cần."
"Nhưng bây giờ anh phải dứt khoát biết tên em!"
Nàng lặng lẽ nhìn tôi một lúc.
"Có thể anh đoán ra mà. Em sẽ rất vui nếu anh đoán được. Chú ý nhìn em thật kỹ vào! Chẳng lẽ anh không thấy đôi lúc em có nét mặt con trai sao? Bây giờ chẳng hạn?"
Đúng thế, khi nhìn kỹ khuôn mặt nàng, tôi phải công nhận nàng có lý, đó là một khuôn mặt con trai. Tôi đang ngẫm nghĩ thì gương mặt kia như liền trò chuyện cùng tôi, gợi tôi nhớ lại thời niên thiếu của mình và người bạn trai thuở ấy tên Hermann. Trong một thoàng nàng dường như biến hẳn thành cậu Hermann nọ.
"Nếu em là trai," tôi sửng sốt nói, "tên em phải là Hermann."
"Biết đâu đấy, có thể em là trai và chỉ cải trang thôi," nàng đùa.
"Em tên là Hermine 1 à?"
Nàng rạng rỡ gật đầu, vui mừng vì tôi đã đoán ra. Ngay lúc ấy nhà hàng bưng ra món xúp, chúng tôi liền bắt đầu ăn, nàng hào hứng như một đứa trẻ. Trong tất cả những điều nàng làm tôi thích và say mê thì điều tuyệt vời và độc đáo hơn cả là nàng có thể đột nhiên chuyển từ vẻ nghiêm trang cùng tột sang vẻ vui đùa ngộ nghĩnh nhất mực và ngược lại, rất tự nhiên chứ không cường điệu, cứ như một đứa bé giàu năng khiếu. Giờ đây nàng vui nhộn một lúc, trêu chọc tôi về chuyện Foxtrott, thậm chí còn thúc nhẹ chân tôi, hăm hở khen ngơi món ăn, nhận xét tôi đã chịu khó trong việc ăn mặc, nhưng chê vẫn còn nhiều thiếu sót.
Trong lúc ấy tôi hỏi nàng: "Em làm cách nào mà đột nhiên trông như con trai khiến anh đoán được tên em vậy?"
"Ơ, chính anh làm những chuyện ấy mà. Chàng học giả ơi, chẳng lẽ anh không hiểu rằng em khiến anh được hài lòng và em quan trọng đối với anh, bởi vì em là một loại gương soi cho anh, vì trong em có cái gì đó cho anh lời giải đáp và hiểu anh? Đúng ra mọi người đều nên là tấm gương soi cho nhau, đáp ứng nhau như thế, nhưng những kẻ kỳ quái như anh đích thị là kỳ quặc và dễ sa vào ma lực, khiến không thể nhìn thấy hay đọc được gì hết trong mắt kẻ khác, thành thử chẳng có gì liên quan tới họ nữa. Và khi một kẻ kỳ quái như thế đột nhiên lại gặp được một khuôn mặt thật sự chăm chú nhìn mình, cảm thấy nơi khuôn mặt ấy có chút gì như một lời đáp lại và mang nét thân thuộc, thì lúc đó dĩ nhiên hắn sẽ vui mừng."
"Em biết hết mọi thứ, Hermine ạ," tôi sửng sốt kêu lên. "Quả đúng y như em nói. Nhưng em vẫn khác anh hoàn toàn! Em chính là sự tương phản của anh; em có tất cả những gì anh thiếu."
"Anh thấy thế," nàng nói vắn tắt, "tốt thôi."
Giờ đây một áng mây nặng trĩu nghiêm trang lướt trên khuôn mặt nàng, đối với tôi nó quả thật giống như một tấm gương ảo thuật; đột nhiên trên cả khuôn mặt ấy chỉ còn nét nghiêm trang, chỉ còn nét bi thương, thăm thẳm như đôi mắt trống rỗng của một chiếc mặt nạ. Nàng chậm rãi thốt ra từng tiếng một, như miễn cưỡng:
"Anh này, chớ quên điều anh đã nói với em đấy! Anh đã bảo em phải sai khiến anh và anh sẽ vui sướng tuân theo mọi sai khiến của em. Anh chớ quên nhé! Harry thân mến ơi, anh phải biết rằng anh cảm thấy từ em như thế nào - khuôn mặt em cho anh lời giải đáp, cái gì đó trong em đáp ứng anh, khiến anh tin cậy - thì em cũng cảm thấy từ anh như thế. Hôm trước thấy anh bước vào quán Đại Bàng Đen, mệt mỏi và lơ đãng kinh khủng, em đã cảm thấy ngay: người này sẽ nghe lời mình đây, anh ta khát khao được mình sai khiến đây! Và em cũng sẽ làm, vì thế em đã bắt chuyện với anh và vì thế mình đã trở thành bạn bè."
Nàng nói rất mực nghiêm trang như thế, dưới sự thúc giục gay gắt như thế của tâm hồn, khiến tôi không kịp hiểu hết, nên đã tìm cách trấn an nàng và lái sang chuyện khác. Nàng nhíu mày không hài lòng, rồi nhìn tôi với vẻ chế ngự, lạnh lùng nói tiếp: "Anh phải giữ lời, cưng ạ; em bảo rồi đấy, bằng không anh sẽ ân hận. Anh sẽ nhận được nhiều mệnh lệnh của em và sẽ làm theo, những mệnh lệnh hay ho, thú vị và anh sẽ thích thú tuân lời cho mà xem. Và rốt cuộc anh cũng hoàn thành mệnh lệnh cuối cùng của em đấy, Harry ạ."
"Anh sẽ làm," tôi nhu nhược đáp. "Mệnh lệnh cuối cùng em giao cho anh là cái gì?" Tôi hỏi, nhưng đã linh cảm thấy rồi, có Chúa biết tại sao.
Nàng lắc đầu như thể run run vì giá lạnh và có vẻ như đang dần tỉnh từ sự trầm ngâm. Nàng nhìn tôi chăm chắm, rồi chợt trở nên ủ dột hơn.
"Không cho anh biết thì em mới là khôn ngoan. Nhưng Harry ơi, em không muốn khôn ngoan, lần này không. Em muốn điều gì đấy khác hẳn. Anh lắng nghe nhé! Anh nghe, rồi anh sẽ quên, sẽ cười, sẽ khóc vì điều em sắp nói. Cưng ơi, chú ý nhé! Em muốn cùng anh chơi trò sống và chết, ông anh thân mến ạ, và em muốn lật cho anh thấy các quân bài của em ngay trước khi mình chơi."
Khuôn mặt nàng mới đẹp sao, mới siêu phàm sao khi nàng nói điều ấy! Trong đôi mắt lạnh lùng và sáng kia bềnh bồng một nỗi buồn có ý thức; đôi mắt ấy dường như đã chịu đựng và chấp nhận mọi khổ đau mà người ta có thể hình dung. Nàng thốt ra thật khó khăn, ngọng nghịu, không khác người nói lúc khuôn mặt cứng đơ vì giá lạnh; nhưng giữa đôi môi và nơi khóe miệng nàng, ở sự nghịch ngợm của chót lưỡi hiếm khi hé lộ - trái ngược với ánh mắt và giọng nói - lại rào rạt nhục cảm ngọt ngào và những đòi hỏi thiết tha về lạc thú. Một lọn tóc ngắn lòa xòa trên vầng tráng phẳng phiu trầm lặng và từ đó, từ nơi góc trán vương lọn tóc ấy, làn sóng của vẻ nam tính, vẻ lưỡng tính ma thuật ở nàng thỉnh thoảng lại ùa tới như một làn hơi sinh động. Đầy sợ hãi, tôi lắng nghe nàng nói, nhưng nửa mê nửa tỉnh, như thể mụ mẫm.
"Anh thích em," nàng nói tiếp, "vì cái lý do em đã nói với anh; em đã phá vỡ nỗi cô đơn của anh, em đã níu được anh ngay trước cổng địa ngục và làm anh tỉnh lại. Nhưng em muốn nhiều hơn ở anh, thật nhiều. Em muốn làm cho anh say mê em. Không, đừng phản đối, để em nói đã! Anh rất thích em, em cảm thấy mà, và anh biết ơn em, nhưng không say mê. Em muốn làm cho anh say mê em, nghề của em mà; em sống nhờ làm được cho đàn ông say mê em. Nhưng chú ý này, em làm thế không phải vì thấy anh đáng mê đâu nhé. Em không mê anh đâu, Harry ạ, giống như anh đối với em thôi. Nhưng em cần anh, như anh cần em vậy. Anh cần em, lúc này đây, vì anh đang tuyệt vọng và cần được đẩy xuống nước cho tỉnh lại. Anh cần em để học khiêu vũ, học cười, học sống. Còn em cần anh, không phải hôm nay, sau này cơ, cũng cho việc gì đấy thật quan trọng và thật đẹp. Khi anh mê đắm em rồi, em sẽ trao cho anh mệnh lệnh cuối cùng, anh sẽ tuân lời và điều ấy sẽ tốt đẹp cho cả anh lẫn em."
Nàng nhẹ nâng một trong hai bông lan nâu tím, vân màu lục, cuối nhìn đăm đăm một lúc.
"Anh sẽ thấy chuyện ấy chẳng dễ dàng đâu, nhưng anh sẽ làm. Anh sẽ thực hiện mệnh lệnh của em và giết em. Thế đấy. Đừng hỏi thêm!"
Nàng nín lặng trong khi mắt vẫn không rời đóa lan, khuôn mặt dịu lại, như một nụ hoa nở bung dưới sức căng, và đột nhiên một nụ cười làm mê đắm rạng rỡ trên đôi môi, còn đôi mắt nàng vẫn đăm đăm nhìn một lúc như bị thôi miên. Đoạn nàng lắc cái đầu có những lọn tóc xoăn như một bé trai, hớp một ngụm nước, rồi sực nhớ ra chúng tôi đang dùng bữa, liền thích thú ăn uống ngon lành.
Tôi nghe rõ từng lời nói ghê gớm của nàng, thậm chí đoán được cả cái "mệnh lệnh cuối cùng" trước khi nàng nói ra, nên không kinh hoàng nữa về câu "Anh phải giết em." Với tôi thì mọi điều nàng nói đều rất thuyết phục và là tiền định, nên tôi chấp nhận chứ không phản bác, tuy nhiên tôi vẫn thấy mọi điều ấy không hoàn toàn thực tế và nghiêm túc, dù nàng nói ra với vẻ nghiêm chỉnh đáng sợ. Một phần tâm hồn tôi nuốt và tin từng lời nàng nói, phần kia gật gù trấn an và ghi nhận rằng hóa ra cô nàng Hermine thông minh, khỏe mạnh, vững vàng nhường ấy cũng có những tưởng tượng và trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Nàng vừa dứt lời, một tấm màn của huyền ảo và bất lực phủ lên toàn cảnh.
Tuy nhiên tôi lại không thể nhảy ngược trở về với cõi khả thể và cõi thực dễ dàng như Hermine đi trên dây.
"Nghĩa là anh sẽ có lần giết em?" tôi hỏi, vẫn chưa hết mơ màng, trong khi nàng đã lại cười và hăm hở cắt miếng thịt vịt.
"Dĩ nhiên," nàng gật đầu chiếu lệ, "nói thế đủ rồi, bây giờ là lúc mình ăn. Harry, làm ơn gọi cho em ít xa lát! Anh không thấy ngon miệng à? Em nghĩ trước hết anh phải học tất cả những gì mà đối với người khác là đương nhiên, thậm chí cả sự vui thú trong ăn uống. Cho nên cưng hãy nhìn nhé, đây là cái đùi vịt, khi ta lóc lớp thịt trắng ngon lành này khỏi xương thì đúng là một bữa tiệc, ta sẽ thấy thèm, tim ta sẽ căng thẳng và biết ơn như một kẻ si tình lần đầu được giúp người mình yêu cởi bỏ áo khoác 2. Anh hiểu chứ? Không à? Anh đúng là ngố như cừu! Chú ý nhé, em cho anh một miếng của chiếc đùi vịt ngon lành này, anh sẽ thấy. Nào, há miệng ra! Anh thật đáng ghét! Lạy Chúa, chàng còn liếc qua những người khác, xem họ có nhìn khi chàng ăn một miếng từ cái nĩa của tôi không! Đừng lo, hỡi cậu con trai hoang toàng, em sẽ không bêu rếu anh đâu. Nhưng nếu anh phải xin phép người khác mới dám vui thú thì anh đúng là một gã ngố đáng thương!"
Quang cảnh lúc này đây khiến khung cảnh trước đó càng trở nên như không có thật, không đáng tin, rằng mới vài phút trước thôi đôi mắt này còn nhìn trừng trừng, nặng nề và khủng khiếp. Hermine trong khung cảnh đó cũng như chính cuộc đời thôi: luôn chỉ là một khoảnh khắc, không bao giờ lường trước được. Giờ đây nàng đang ăn; đùi vịt và xa lát, bánh ngọt và rượu mùi được coi trọng, thành đối tượng của hân hoan và bình phẩm, của trò chuyện và tưởng tượng. Mỗi lần món cũ được dọn đi, món mới được bưng ra là bắt đầu một chương mới. Người đàn bà này, người đã thấu suốt tôi hoàn toàn, người dường như hiểu biết về cuộc đời hơn mọi nhà thông thái, lại như trẻ thơ chơi thật tuyệt vời trò chơi về cuộc đời trong khoảnh khắc ấy, khiến tôi chỉ đáng là học trò. Dù là thông tuệ cao vời hay thơ ngây nhất mực: ai biết cách sống khoảnh khắc ấy như thế, ai sống trong hiện tại như thế, ai ân cần và thân ái trân trọng từng bông hoa nhỏ trên đường, từng giá trị của khoảnh khắc chơi đùa nho nhỏ thì cuộc đời chẳng gây nổi thiệt hại gì cho họ. Và lẽ nào cô bé vui tươi đang ăn uống ngon lành kia với vẻ rất sành ẩm thực lại đồng thời là một kẻ mơ mộng, một kẻ loạn thần kinh ước ao được chết hoặc một kẻ tính toán chu đáo, mang trái tim lạnh lùng, cố ý làm tôi say mê và trở thành nô lệ của nàng? Không thể nào lại thế được. Không, nàng sống hết mình với khoảnh khắc của hiện tại, nên nàng mở lòng với mọi điều chợt nghĩ ra, dù vui hay chỉ thoáng qua như một thoáng rùng mình mơ hồ từ cõi xa xăm sâu thẳm của tâm hồn và cứ để mặc nó phát triển.
Cô nàng Hermine này, người mà hôm nay là lần thứ hai tôi gặp, đã biết hết tất cả về tôi và dường như tôi không thể giấu giếm nàng một điều gì. Có thể nàng không thấu hiểu hết được đời sống tinh thần của tôi; có thể nàng không theo nổi tôi trong quan hệ với âm nhạc, với Goethe, Novalis hay Baudelaire 3 - nhưng chính điều này cũng rất không chắc, có thể nàng chẳng gặp khó khăn gì. Mà dù đúng vậy chăng nữa thì "cuộc sống tinh thần" của tôi còn lại gì nào? Tất cả đều chẳng đã nát vụn và mất hết ý nghĩa rồi ư? Còn đối với những vấn đề khác của tôi, những chuyện riêng tư và những mong muốn của tôi, nàng sẽ hiểu được hết, tôi chắc chắn. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ nói với nàng về Sói Thảo Nguyên, về tập luận thuyết, về hết thảy mọi chuyện, những chuyện cho đến nay chỉ hiện hữu với riêng tôi và tôi chưa hề hé với ai một lời nào. Không thể cầm lòng được, tôi bắt đầu liền.
"Hermine này," tôi nói, "mới đây anh gặp một chuyện khá ly kỳ. Một kẻ không quen biết đưa anh một quyển sách mỏng, giống tập quảng cáo về chợ phiên, trong đó viết chính xác toàn bộ câu chuyện của anh và mọi thứ liên quan đến anh. Em thấy có lạ kỳ không?"
"Quyển ấy tên gì?" nàng hỏi qua quýt.
"Tên là Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên."
"Ồ, Sói Thảo Nguyên thì tuyệt quá! Và anh là con Sói Thảo Nguyên ấy à? Nó viết về anh?"
"Phải, chính anh đấy. Anh là một kẻ nửa người nửa sói, hoặc giả anh tưởng thế."
Nàng không đáp, nàng chăm chú nhìn vào mắt tôi, dò xét, ngó hai bàn tay tôi và trong một khoảnh khắc ánh mắt và khuôn mặt nàng trở lại vẻ nghiêm trang sâu lắng, cuồng nhiệt nhưng ảm đạm lúc nãy. Nếu tôi đoán không sai, thì nàng đang nghĩ không biết tôi có đủ là sói không để hoàn thành "mệnh lệnh cuối cùng" của nàng.
"Dĩ nhiên đó chỉ là một điều tưởng tượng của anh thôi," nàng nói, tươi tỉnh trở lại, "hoặc, nếu anh muốn, một bài thơ. Nhưng cũng có chút gì đấy thật. Bữa nay anh không là sói, nhưng hôm trước, khi bước vào trong quán, anh cứ như từ mặt trăng rơi xuống; lúc ấy anh quả có hơi giống mãnh thú, chính điều ấy đã làm em thích."
Nàng chợt ngừng, vì đột nhiên nảy ra một ý gì đấy, rồi nói tiếp như bị đụng chạm: "Những từ như 'mãnh thú' hay 'thú dữ' nghe mới ngớ ngẩn làm sao! Người ta không nên nói như thế về súc vật. Chúng thường gớm ghiếc thật đấy, nhưng vẫn hoàn hảo hơn con người nhiều."
"Thế nào là 'hoàn hảo'? Em muốn nói gì chứ?"
"Thế này nhé, anh cứ nhìn một con vật mà xem, con mèo, con chó, con chim hoặc thậm chí một trong những con to đẹp trong vườn thú, chẳng hạn con báo châu Mỹ hay con hươu cao cổ! Anh thấy là chúng đều hoàn hảo, không một con nào lúng túng hoặc không biết phải làm gì và phải cư xử thế nào. Chúng không muốn nịnh nọt anh, cũng không muốn làm anh thán phục. Chúng không đóng trò. Chúng thế nào thì chúng sống thế, như đá, như hoa hay như các tinh tú trên bầu trời. Anh hiểu chứ?"
Tôi hiểu.
"Phần lớn thú vật đều buồn bã," nàng nói tiếp. "Khi một con người quá buồn, không phải do đau răng hay mất tiền, mà vì có một lần nào đấy trong vòng một giờ y cảm thấy hết thảy cuộc đời mình là như thế nào, lúc ấy y mới thật sự buồn, lúc ấy trông y luôn hao hao một con thú - lúc ấy trông y thảm não lắm, nhưng hoàn hảo hơn, đẹp hơn lúc thường. Thế đấy, và anh, con Sói Thảo Nguyên, đã trông như thế đấy, khi em gặp anh lần đầu."
"Ờ, thế em nghĩ gì về tập sách miêu tả anh trong đó, hở Hermine?"
"Chậc, anh biết không, em không thích nghĩ ngợi hoài hoài. Mình sẽ nói về điều này một lần khác. Có thể lần nào đấy anh đưa nó cho em đọc. À không, nếu có lần nào đấy em nên đọc sách lại, hãy đưa em một trong những quyển sách do chính anh viết."
Nàng gọi cà phê, rồi có vẻ lơ đãng, mơ màng một lúc; đột nhiên nàng rạng rỡ như vừa ngẫm nghĩ ra điều gì.
"Này," nàng hớn hở reo lên, "em nghĩ ra rồi!"
"Chuyện gì thế?"
"Chuyện về điệu Foxtrott ấy, em nghĩ suốt từ nãy đến giờ. Cho em biết: anh có căn phòng nào mà thỉnh thoảng hai đứa mình khiêu vũ chừng một giờ được không? Nhỏ cũng được, chẳng sao, miễn không có ai ở ngay bên dưới, kẻo mỗi lần trần nhà rung chuyển sơ sơ họ lại lên làm toáng lên. Tốt, rất tốt! Vậy anh có thể học nhảy ở nhà được rồi."
"Ừ," tôi rụt rè, "càng tốt. Nhưng anh cứ tưởng phải có nhạc mới nhảy được."
"Dĩ nhiên cần chứ. Thế này nhé, anh sẽ mua nhạc; tối đa chỉ bằng tiền anh học một khóa nhảy có cô giáo hướng dẫn thôi. Anh tiết kiệm được tiền trả cô giáo, vì em sẽ tự đảm nhiệm vai trò ấy. Thế là lúc nào mình muốn nhạc cũng có, lại còn lời thêm cái máy quay đĩa."
"Máy quay đĩa à?"
"Đương nhiên. Anh sắm một cái nhỏ thôi và dăm đĩa hát nữa..."
"Tuyệt vời," tôi reo lên, "và nếu em dạy anh khiêu vũ thật sự thành công, em sẽ được chiếc máy quay đĩa này như tiền thù lao. Đồng ý?"
Tôi nói ra vẻ cương quyết, nhưng lòng lại không nghĩ thế. Tôi không thể hình dung nổi trong căn phòng làm việc của mình với đầy sách vở lại có một cái máy mà mình không chút thiện cảm, cả cái chuyện nhảy nhót tôi cũng có lắm điều bất ưng. Thỉnh thoảng, tôi nghĩ thế, tập tành cũng được, tuy tin chắc rằng mình đã quá già, gân cốt cũng đơ, không học nổi nữa. Mà với tôi thì dồn dập kiểu này là hối hả quá và tôi cảm thấy trong người mình nhất loạt chống lại, như tôi - một kẻ già nua sành âm nhạc vẫn phản đối máy quay đĩa, Jazz và nhạc khiêu vũ tân thời. Bây giờ trong thư phòng này, nơi suy nghĩ và trú ẩn của tôi, bên cạnh Novalis và Jean Paul lại vang lên cả những bản nhạc bán chạy của Mỹ, còn tôi phải nhảy múa nữa thì đó quả là một đòi hỏi quá đáng mà người ta không thể chờ đợi ở tôi. Nhưng đó không phải là đòi hỏi của một kẻ bất kỳ nào, mà của Hermine, và nàng có quyền ra lệnh. Tôi tuân lời. Dĩ nhiên tôi tuân lời.
Xế trưa hôm sau chúng tôi gặp nhau trong một quán cà phê. Khi tôi đến, nàng đã ngồi ở đấy, uống trà và mỉm cười đưa tôi xem một tờ báo nàng phát hiện có tên tôi. Đó là một trong những tờ báo phản động ở đất nước tôi, chuyên kích động hận thù, thỉnh thoảng lại loan truyền một bài phỉ báng tôi kịch liệt. Trong thời chiến, tôi là kẻ chống chiến tranh; khi chiến tranh kết thúc, thỉnh thoảng tôi lại kêu gọi sự trầm tĩnh, nhẫn nại, lòng nhân đạo và tự phê phán, chống lại sự kích động mang đầu óc dân tộc ngày một thêm gay gắt, ngu xuẩn và điên rồ. Giờ đây tờ báo đó cũng lại có một bài công kích kiểu ấy, viết tồi, nửa của biên tập, nửa kia góp nhặt từ những bài tương tự của báo giới có quan điểm gần gũi với y. Mọi người đều biết không ai viết lách kém cỏi như những kẻ bảo vệ các ý thức hệ đã già cỗi, không ai hành nghề thiếu trong sạch và cẩu thả đến thế. Hermine đã đọc bài báo ấy, nên biết rằng Harry Haller là một phần tử nguy hại, một tên vô Tổ quốc và tất nhiên Tổ quốc của y sẽ không thể nào ngóc đầu lên nổi, chừng nào những bọn người như thế, những tư tưởng như thế được dung túng và thanh niên được giáo dục những ý tưởng nhân đạo ủy mị thay vì dùng chiến tranh phục hận kẻ thù truyền kiếp 4.
"Phải anh đây không?" Hermine chỉ vào tên tôi, hỏi. "Chà, Harry ơi, vậy là anh có khá nhiều kẻ thù rồi đấy nhé. Anh bực mình không?"
Tôi đọc lướt vài hàng, toàn thứ quen thuộc; từ nhiều năm nay tôi đã quá quen đến thành chán ngấy từng lời phỉ báng sao chép vụng về kiểu ấy.
"Không," tôi đáp, "anh không bực mình, anh quá quen những thứ này rồi. Đã đôi lần anh nói lên suy nghĩ của mình, rằng mỗi dân tộc, thậm chí mỗi người, thay vì tự ru ngủ với những 'câu hỏi về lỗi lầm' nhuốm sự giả trá chính trị, cần tìm hiểu ngay chính dân tộc mình, bản thân mình để xem chính nó có lỗi tới đâu trong cuộc chiến tranh ấy cùng mọi thống khổ khác trên thế giới, do sai lầm, sơ suất và tập quán xấu xa; đó là phương cách duy nhất ngõ hầu tránh được cuộc chiến tranh sắp tới. Họ không tha thứ cho anh điều ấy, vì dĩ nhiên họ đều tự cho là vô tội: Hoàng đế, tướng tá, giới đại kỹ nghệ gia, các chính trị gia, các tờ báo - chẳng ai thấy mình có chút gì đáng trách, chẳng ai có lỗi lầm nào hết thảy! Người ta có thể nghĩ rằng thế gian này thật là tuyệt vời, chỉ phải cái có cả chục triệu người bị giết vùi thây trong lòng đất thôi. Và Hermine ơi, dù những bài báo phỉ báng kiểu này không thể khiến anh bực bội nữa, nhưng đôi khi quả có làm anh buồn rầu. Hai phần ba đồng bào anh đọc những loại báo này, sáng nào, tối nào cũng đọc những giọng điệu này, ngày nào họ cũng bị nhào nặn, hiệu triệu, kích động, biến thành bất mãn và căm hận; mục đích và cứu cánh của tất cả những việc này lại là chiến tranh, là cuộc chiến tranh sắp tới, hẳn sẽ kinh tởm hơn cuộc chiến tranh vừa qua. Tất cả những điều này đều rõ ràng và đơn giản, ai cũng có thể nhận thấy được, ai cũng có thể rút ra cùng một kết luận ấy sau chỉ một giờ suy ngẫm. Nhưng không ai muốn cả, không ai muốn ngăn ngừa cuộc chiến tranh sắp tới, không ai muốn tránh cho bản thân và con cái mình hàng triệu cuộc tàn sát sắp tới, nếu họ không thể trả một giá rẻ hơn. Để ra một giờ ngẫm nghĩ, quán chiếu mình một lúc và tự hỏi rằng chính mình đã tham gia và chịu trách nhiệm tới mức nào về sự hỗn loạn và độc ác trên thế gian này - em thấy đấy, chẳng ai muốn cả! Thành ra mọi chuyện sẽ cứ tiếp diễn như vậy và cuộc chiến tranh sắp tới đang ngày ngày được hàng nghìn, hàng vạn người hăm hở chuẩn bị. Từ khi nhận biết điều này, anh như bị tê liệt và tuyệt vọng; anh không còn 'Tổ quốc', không còn lý tưởng nữa, tất cả chỉ còn là vật trang trí cho những ngài đang chuẩn bị cuộc chém giết sắp tới. Ngẫm nghĩ, nói hoặc viết một điều gì nhân bản thì thật là vô nghĩa, đầu óc bận bịu với những tư tưởng tốt lanh thì thật là vô nghĩa - trong lúc hai, ba người làm những chuyện này thì ngày ngày có tới cả nghìn tờ báo, tạp chí, diễn văn, những buổi họp công khai hoặc bí mật, ra sức hướng tới điều ngược lại và chúng sẽ thành công."
Hermine lắng nghe với vẻ cảm thông.
"Vâng," nàng nói, "anh có lý đấy. Dĩ nhiên sẽ xảy ra cuộc chiến tranh mới, không cần đọc báo cũng biết. Tất nhiên người ta có thể vì thế mà buồn phiền, nhưng đâu được gì. Chẳng khác một người rầu rĩ vì nhất định sẽ có ngày phải chết, dù ông ta làm đủ cách nhằm cưỡng lại. Harry yêu quý ơi, cuộc chiến chống lại chết chóc luôn luôn là một hành động đẹp đẽ, cao quý, tuyệt vời và đáng kính, cuộc chiến chống lại chiến tranh cũng thế. Nhưng nó cũng luôn là một hành động hào hiệp viển vông vô vọng, kiểu Don Quichotte thôi."
"Điều đó có thể đúng," tôi gay gắt kêu lên, "nhưng viện ra những chân lý kiểu chẳng bao lâu nữa chúng ta đều phải chết để rồi làm ngơ trước mọi chuyện sẽ khiến cả cuộc sống trở thành tẻ nhạt và ngớ ngẩn. Vậy chúng ta nên quẳng hết mọi thứ, từ bỏ mọi suy nghĩ, mọi phấn đấu, mọi hanh động nhân đạo, để mặc cho tham vọng cùng tiền tái tiếp tục thống trị, ung dung uống bia chờ cuộc tổng động viên sắp tới ư?"
Ánh mắt Hermine nhìn tôi lúc ấy mới lạ lùng sao, một ánh mắt ranh mãnh, đầy thích thú, đầy giễu cợt và đầy cảm thông của tình bạn, đồng thời cũng rất nặng nề, am hiểu và hết sức nghiêm chỉnh!
"Anh đâu cần phải thế," nàng dịu dàng như một bà mẹ. "Không phải vì anh biết cuộc chiến đấu của mình chẳng đạt kết quả gì mà đời anh thành tẻ nhạt và ngớ ngẩn. Harry ơi, nó sẽ tẻ nhạt hơn nhiều, nếu anh tranh đấu cho điều gì đấy tốt đẹp và lý tưởng với ý nghĩ phải đạt cho bằng được. Lý tưởng là để đạt đến ư? Chẳng lẽ chúng ta, con người, sống để triệt bỏ cái chết ư? Không, chúng ta sống để hãi sợ nó, nhưng rồi lại yêu nó và chính vì nó mà thỉnh thoảng cuộc đời ngắn ngủi bừng lên được một giờ thật huy hoàng. Harry ơi, anh là một đứa trẻ con. Bây giờ hãy ngoan ngoãn đi với em; bữa nay mình có nhiều việc phải làm. Hôm nay em không bận tâm đến chiến tranh và báo chí nữa. Thế còn anh?"
Ờ không, cả tôi cũng không muốn bận tâm nữa.
Chúng tôi cùng đi - đây là lần đầu tiên chúng tôi đi với nhau trong phố - đến một cửa hàng nhạc cụ, ngắm nghía các máy quay đĩa, mở ra đóng vào, vặn dây cót 5 nghe thử, rồi khi tìm được một cái rất thích hợp, giá phải chăng, tôi muốn mua liền, nhưng Hermine chưa chịu ngay. Nàng bảo hãy thư thả, rồi tôi phải cùng với nàng vào một cửa hàng thứ hai, xem và nghe đủ mọi loại lớn nhỏ, từ đắt nhất đến rẻ nhất, lúc ấy nàng mới đồng ý quay lại tiệm đầu tiên để mua chiếc máy chúng tôi đã tìm thấy ở đó.
"Em thấy chưa," tôi nói, "lẽ ra mình không cần mất công đi tới đi lui như thế này."
"Anh nghĩ vậy à? Nhỡ đâu ngày mai mình lại tìm thấy cũng cái máy này ở tủ kính trưng bày của một cửa hàng khác, rẻ hơn hai mươi franc 6. Hơn nữa mua sắm thế mới vui, cái gì vui thì mình phải tận hưởng. Anh còn phải học nhiều."
Một người giao hàng mang giúp món chúng tôi vừa sắm này đi theo về căn hộ của tôi.
Hermine quan sát kỹ càng phòng khách của tôi, ngợi khen lò sưởi và chiếc đi văng; nàng ngồi thử mấy chiếc ghế, cầm lên vài quyển sách, dừng lại một lúc lâu trước tấm ảnh người yêu của tôi. Chúng tôi đặt chiếc máy quay đĩa trên nóc tủ, giữa những chồng sách. Và giờ đây bắt đầu bài học của tôi. Nàng cho chạy một điệu Foxtrott, biểu diễn vài bước, rồi nắm tay tôi, hướng dẫn. Tôi ngoan ngoãn bước theo, va vào mấy cái ghế; tôi làm theo lệnh nàng, nhưng không hiểu, nên đã giẫn lên chân nàng, đúng là vừa mẫn cán vừa vụng về. Sau bài thứ hai, nàng gieo người lên đi văng, cười rũ rượi như một đứa trẻ.
"Trời ạ, sao mà người anh cứng đơ thế! Anh hãy bước bình thường như đi dạo vậy! Không cần phải gồng! Em nghĩ anh đã nóng người rồi chứ gì? Vậy mình nghỉ năm phút! Anh thấy đấy, nếu rành rẽ thì khiêu vũ cũng đơn giản như suy nghĩ tôi, thậm chí dễ hơn nhiều. Giờ đây anh sẽ bớt nóng nảy khi thấy người ta không muốn tập thói quen ngẫm nghĩ, mà thích gọi ông Haller là một kẻ bán nước hơn và bình thản chờ cuộc chiến tranh sắp tới."
Một giờ sau nàng từ giã, cả quyết rằng lần tới tôi sẽ khá hơn. Tôi lại nghĩ khác, nên rất thất vọng về sự ngu dốt và vụng về của mình; tôi cho rằng trong một giờ này tôi chẳng học được gì sất và không tin lần tới sẽ khá hơn. Không, để khiêu vũ người ta phải sẵn có những khả năng mà tôi hoàn toàn thiếu: vui vẻ, tự nhiên, vô tư, hào hứng. Ờ thì, tôi đã nghĩ thế từ lâu rồi mà.
Nhưng xem kìa, lần thứ nhì quả thật có khá hơn, thậm chí tôi còn bắt đầu thấy thích thú nữa; cuối giờ học Hermine quả quyết tôi nhảy Foxtrott được rồi. Nhưng khi nàng suy diễn tiếp rằng ngày mai tôi phải tới một quán ăn để nhảy với nàng thì tôi hết cả hồn vía, cực lực phản đối. Nàng lạnh lùng nhắc nhở tôi đã thề tuân lệnh và hẹn tôi ngày mai tới dùng trà tại khách sạn Cung Thiên Bình.
Buổi tối ấy tôi ngồi ở nhà, muốn đọc sách mà không nổi. Tôi sợ ngày mai; tôi kinh hoàng khi nghĩ rằng mình, một kẻ kỳ quặc già nua, nhút nhát và nhạy cảm, không chỉ đến một trong những trà đình, đồng thời là vũ trường, tân thời và chán ngắt với nhạc Jazz, lại còn phải chứng tỏ mình là một vũ nam giữa những kẻ lạ hoắc, ngoài ra chẳng biết gì thêm. Tôi thú nhận đã tự cười thầm và xấu hổ, khi một mình quay máy đĩa rồi đôi chân đi vớ nhẹ nhàng tập lại những bước nhảy của bài Fox trong căn phòng im ắng.
Hôm sau có một ban nhạc nhỏ chơi tại khách sạn Cung Thiên Bình; người ta bưng trà và Whisky ra cho khách. Tôi tìm cách dụ khị Hermine, đặt bánh ngọt trước mặt nàng, đề nghị gọi một chai vang ngon, nhưng nàng không nhân nhượng.
"Bữa nay anh đến đây không phải để tiêu khiển. Mà đây là giờ học khiêu vũ."
Tôi phải nhảy với nàng hai, ba lần và trong lúc nghỉ giải lao nàng giới thiệu tôi với anh chàng thổi kèn saxophone, một thanh niên đẹp trai, da nâu, gốc Tây Ban Nha hay Nam Mỹ gì đấy, chơi được mọi nhạc cụ, nàng bảo thế, và nói được mọi thứ tiếng trên thế giới. Senõr 7 này có vẻ rất thân quen với Hermine; trước mặt y có hai cây kèn saxophone kích cỡ khác nhau mà y dùng thay đổi, trong lúc đôi mắt đen nhánh của y chăm chú thú vị ngắm nhìn người ta khiêu vũ. Tôi sửng sốt khi cảm thấy lòng mình có gì đấy như thể ghen tuông với tay nhạc công bảnh trai, vô hại này; không phải ghen vì yêu đương, bởi giữa tôi và Hermine làm gì có chuyện ấy, nhưng ghen về tình bạn của họ thì đúng hơn, vì tôi thấy y không thật xứng đáng với lòng quan tâm, sự đề cao khác thường, phải nói là ngưỡng mộ, mà nàng dành cho y. Mình phải làm quen với những hạng người kỳ quái, tôi bực bội nghĩ.
Rồi Hermine được mời nhảy hết bài này đến bài khác, còn tôi ngồi một mình bên ly trà, nghe nhạc, một loại nhạc xưa nay tôi không ưa nổi. Chúa ơi, tôi thầm nghĩ, thế là giờ đây tôi được hướng dẫn vào - và để trở thành quen thuộc - với một thế giới mà mình lạ lẫm, ghê tởm, khinh bỉ xiết bao và cho đến nay vẫn thận trọng lánh xa, thế giới của bọn la cà trác táng, thế giới của những cái bàn cẩm thạch bóng láng sao chép vụng về, của nhạc Jazz, của gái điếm thượng lưu, của đám lái thương lưu động! Tôi rầu rĩ nhấp trà, đăm đăm nhìn đám người thanh lịch nửa vời. Hai cô gái đẹp thu hút ánh mắt tôi, cả hai đều nhảy giỏi, tôi khâm phục và ganh tị dõi theo; bước nhảy của họ mới dẻo, đẹp, tươi và vững làm sao.
Rồi Hermine lại xuất hiện, không hài lòng về tôi. Nàng xỉ vả rằng tôi đến đây đâu phải để mang bộ mặt như thế và ngồi xụi lơ ở bàn uống trà, mà hãy vui lòng mạnh dạn khiêu vũ. Sao cơ, tôi không quen ai à? Cần gì. Chẳng lẽ không có cô gái nào làm tôi thích ư?
Tôi chỉ cho nàng cái cô đẹp nhất vừa đứng gần chúng tôi, thật dễ thương trong chiếc váy nhung xinh xắn, mái tóc vàng ngắn và dày, đôi cánh tay tròn lẳn rất đàn bà. Hermine dứt khoát đòi tôi phải tới mời cô nàng đó nhảy. Tôi tuyệt vọng phản đối.
"Anh không thể!" tôi khổ sở nói. "Ừ, phải chi anh là một gã xinh trai trẻ trung! Đằng này lại là một lão già ngu ngốc cứng đờ, không hề biết nhảy - cô ta sẽ cười anh trẹo quai hàm mất!"
Hermine khinh miệt nhìn tôi.
"Còn em cười anh thì dĩ nhiên anh mặc kệ chứ gì. Anh thật hèn! Ai lân la làm quen với đàn bà con gái cũng đều mạo hiểm, vì có thể bị cười; đó là cái giá phải trả. Harry ơi, hãy liều đi, cùng lắm thì anh chịu bị cười thôi - bằng không em hết tin rằng anh tuân lời em."
Nàng không nhân nhượng. Tôi bối rối đứng lên, bước tới chỗ cô gái xinh đẹp nọ, đúng lúc nhạc lại vừa trỗi lên.
"Đúng ra có người mời em bài này rồi," nàng nói và tò mò nhìn tôi với đôi mắt to linh lợi, "nhưng người bạn nhảy của em chừng như đã mọc rễ luôn nơi quầy rượu đàng kia. Nào, mời ông!"
Tôi ôm nàng, đi những bước đầu tiên, lòng còn đang ngạc nhiên vì không bị nàng từ chối, thì nàng đã nhận ra trình độ nhảy của tôi, liền đảm trách việc hướng dẫn. Nàng nhảy thật tuyệt vời, dìu tôi theo; trong giây lát tôi quên bẵng mọi chuyện mình phải làm cũng những quy tắc khi khiêu vũ, tôi cứ việc bơi theo, cảm thấy đôi hông căng, đôi đầu gối mềm mại nhanh nhẹn của nàng; tôi nhìn vào khuôn mặt trẻ trung, rạng rỡ của nàng, thú thật với nàng hôm nay là lần đầu tiên tôi khiêu vũ trong đời. Nàng mỉm cười, khuyến khích tôi, khôn ngoan đáp lại ánh mắt hân hoan cùng những lời tán tỉnh của tôi không phải bằng lời nói, mà qua những động tác nhẹ nhàng, khiến chúng tôi thêm gần gũi và say đắm. Tay phải tôi ôm chặt eo nàng, sung sướng và hăm hở theo những động tác của đôi chân, đôi tay, đôi vai nàng; tôi sửng sốt vì không một lần giẫm lên chân nàng, rồi khi tiếng nhạc chấm dứt, hai chúng tôi đứng lại, vỗ tay cho đến khi bản nhạc được chơi lại và một lần nữa tôi hăm hở, kính ngưỡng, say mê hoàn tất nghi thức.
Khi bài khiêu vũ chấm dứt, theo tôi là quá sớm, cô gái váy nhung ấy rút lui và Hermine - từ nãy vẫn nhìn chúng tôi - đột nhiên xuất hiện bên cạnh tôi.
"Anh thấy gì chưa?" nàng cười khen ngợi. "Anh phát hiện chân cẳng đàn bà không phải là chân bàn rồi chứ? Hoan hô! Anh nhảy Fox được rồi đấy, đội ơn Chúa, mai mình sẽ tập điệu Boston; ba tuần nữa sẽ có khiêu vũ hóa trang tại sảnh đường Địa Cầu."
Lúc đó nghỉ xả hơi, chúng tôi ngồi vào bàn; tay Pablo đẹp trai, trẻ trung, cái gã thổi kèn saxophone ấy, tới gật đầu chào rồi ngồi xuống cạnh Hermine. Xem ra y rất thân mật với nàng. Còn tôi, xin thú nhận, hoàn toàn chẳng chút thích thú trong lần đầu gặp gỡ này. Không thể chối cãi rằng y tốt mã, thân hình đẹp, bảnh trai, ngoài ra tôi chẳng phát hiện thêm điểm nào hơn người ở y. Về mặt thông thạo nhiều thứ tiếng thì y chẳng hề gặp khó khăn, vì y có nói năng gì đâu, ngoài những từ như không dám, cám ơn, đúng vậy, hẳn rồi, hallo và đại loại mà tất nhiên y có thể nói những từ ấy bằng nhiều thứ ngôn ngữ. Không, Senõr Pablo này chẳng nói năng gì sất và y, tay caballero 8 điển trai này, dường như cũng không suy nghĩ nhiều nữa cơ. Công việc của y là thổi kèn saxophone trong dàn nhạc Jazz và dường như y nhiệt thành say mê nghề ấy, nên đôi khi đang chơi nhạc y đột nhiên vỗ tay hoặc tự cho phép lớn tiếng bật ra như thể ca hát những âm thanh bày tỏ lòng hâm mộ: "Ô ô ô ô, ha ha, hallo!" Ngoài ra, rõ ràng y chẳng có nhiệm vụ gì khác trên thế gian này hơn là đẹp trai, làm cho phụ nữ hài lòng, đeo cổ cồn cùng ca vát kiểu mới nhất và mang thật nhiều nhẫn. Y giúp vui bằng cách ngồi vào bàn chúng tôi, mỉm cười với chúng tôi, nhìn đồng hồ đeo tay và vấn thuốc lá, việc mà y rất khéo. Đôi mắt đẹp sẫm màu của người Creole 9, mái tóc xoăn đen chẳng cho thấy y có được chút lãng mạn hay ưu tư hoặc suy nghĩ gì - nhìn gần thì tay á thánh đẹp trai có sức quyến rũ đặc biệt này chẳng qua chỉ là một thanh niên vui nhộn, hơi được nuông chiều, biết cách cư xử, thế thôi. Tôi nói với y về thứ nhạc cụ y đang sử dụng và về những âm điệu trong nhạc Jazz, để y biết là đang đụng phải một kẻ thưởng thức lão luyện và am hiểu về những chuyện liên quan đến âm nhạc. Nhưng y không đi vào những chuyện ấy; rồi trong lúc vì lịch sự tôi nói gì đấy với y, đúng ra với Hermine, như thể biện minh về mặt lý thuyết cho nhạc Jazz, y chỉ mỉm cười vô thưởng vô phạt, chẳng ăn nhập gì đến tôi cũng những nỗ lực của tôi, chừng như y hoàn toàn không biết rằng trước khi có nhạc Jazz và ngoài nó ra còn có vài ba thứ nhạc khác nữa. Y khả ái, khả ái và nhã nhặn, mỉm cười dễ thương từ đôi mắt to chẳng chứa đựng gì; nhưng giữa y và tôi dường như không có điều gì chung - chẳng điều gì quan trọng và thiêng liêng đối với tôi, chúng tôi sinh ra từ những vùng đất đối nghịch, ngôn ngữ không có được một từ giống nhau. (Nhưng về sau Hermine kể tôi nghe một điều khác thường. Nàng cho biết sau buổi trò chuyện này Pablo bảo nàng cần đối xử ân cần với tôi, vì tôi thật rất bất hạnh. Khi nàng hỏi y căn cứ vào đâu, y đáp: "Ông ấy là một con người khốn khổ. Cứ nhìn vào mắt ông ấy khắc rõ! Ông ấy không biết cười.")
Khi gã mắt đen này cáo biệt chúng tôi và nhạc lại trỗi lên, Hermine đứng dậy. "Harry, bây giờ anh lại có thể nhảy với em đấy. Hay anh không uốn nữa?"
Ngay cả với nàng giờ đây tôi nhảy cũng dễ dàng hơn, phóng khoáng và vui vẻ hơn, tuy không thật thoải mái và đắm say như với cô gái nọ. Hermine để tôi dịu đi, nàng theo bước chân tôi, mềm mại và nhẹ nhàng như một cánh hoa; rồi tôi cũng cảm thấy cả ở nàng những vẻ duyên dáng lúc sát lại gần, lúc rời xa, cả nàng cũng tỏa mùi hương đàn bà và tình yêu, cả lối khiêu vũ của nàng cũng trìu mến và tha thiết hát lên bài ca thanh nhã và quyến rũ của giới tính - thế mà tôi lại không thể hoàn toàn tự do, hân hoan đáp lại tất cả những điều ấy, không thể toàn tâm dâng hiên. Hermine quá gần gũi với tôi; nàng là bạn học, là em gái, nàng tương tự tôi, giống tôi và giống Hermann, người bạn thuở thiếu thời của tôi, kẻ say mê nhiệt thành, nhà thơ, bạn đồng hành sôi nổi trong những đeo đuổi về tình thần và những thái quá của tôi.
Sau đó, khi tôi nói với nàng những điều này, nàng bảo "Em biết, em biết rất rõ. Tuy em sẽ vẫn cứ làm cho anh phải lòng em, nhưng chuyện ấy chẳng vội gì. Trước hết mình là bạn, mình mong muốn trở thành bạn thân, vì mình đã chấp nhận nhau. Bây giờ mình muốn học hỏi lẫn nhau và cùng nhau chơi đùa. Em cho anh thấy cái sân khấu bé nhỏ của em, em dạy anh khiêu vũ, vui chơi một tí và ngớ ngẩn một tí, còn anh chỉ bảo cho em những tư tưởng và đôi chút kiến thức của anh."
"Chà, Hermine ơi, anh đâu có gì nhiều để chỉ bảo, em biết nhiều hơn anh chứ. Em là một người thật kỳ lạ đấy, cô bé ơi! Em hiểu anh trong mọi chuyện, em vượt xa anh. Anh có đáng kể gì với em không đấy? Anh không làm em nhàm chán sao?"
Nàng sa sầm nhìn xuống đất.
"Em không thích nghe anh nói thế đâu. Hãy nhớ lại buổi tối anh kiệt sức và tuyệt vọng trốn chạy đau khổ lẫn cô đơn, tình cờ gặp em, rồi thành bạn đồng hành của em! Theo anh nghĩ thì tại sao lúc ấy em có thể nhận biết và hiểu được anh chứ?"
"Tại sao thế, Hermine? Nói anh biết đi!"
"Vì em giống như anh. Vì em cũng cô đơn y hệt anh, em cũng không mấy yêu thương và coi trọng cuộc sống, không mấy coi trọng con người ta cùng bản thân em, giống như anh vậy. Bao giờ cũng có một vài kẻ đòi hỏi cuộc đời điều tối đa, chứ không thể chấp nhận sự ngu xuẩn và thô bạo của nó."
"Em ơi, em!" tôi kêu lên đầy kinh ngạc. "Bạn ơi, anh hiểu em, không ai hiểu em bằng anh. Thế mà em vẫn là một điều bí ẩn đối với anh. Em sẽ vượt qua cuộc đời dễ như bỡn, em biết trân trọng khác thường những điều nhỏ nhặt và những thú vui, em là một nghệ sĩ như thế đấy trong cuộc sống. Làm sao em có thể đau khổ vì nó? Làm sao em có thể tuyệt vọng được?"
"Em không tuyệt vọng, Harry ạ. Nhưng đau khổ vì cuộc sống thì có đấy, em kinh nghiệm chuyện đó mà. Anh ngạc nhiên rằng em không hạnh phúc, trong khi em biết nhảy nhót và rành rẽ những chuyện hời hợt của cuộc đời. Còn em, bạn ơi, em ngạc nhiên thấy anh thất vọng đến thế về cuộc đời, trong khi anh lại rất quen thuộc với những điều đẹp đẽ nhất, sâu xa nhất, trong tinh thần, nghệ thuật và tư tưởng! Chính vì thế mình đã thu hút lẫn nhau, chính vì thế mình là anh em. Em sẽ dạy anh khiêu vũ, vui chơi và cười đùa, nhưng vẫn không thỏa mản. Và anh sẽ dạy em suy nghĩ cùng hiểu biết, nhưng vẫn không thỏa mãn. Anh có biết rằng hai đứa mình là con của quỷ không?"
"Anh biết, đúng thế đấy. Quỷ là tinh thần, còn mình là những đứa con bất hạnh của nó. Mình rơi khỏi thiên nhiên, lơ lững giữa tầng không. Nhưng anh chợt nhớ ra điều này: trong tập Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên mà anh đã kể với em có nói rằng việc Harry tin hắn có một hoặc hai linh hồn, hắn được tạo ra từ một hoặc hai nhân cách chỉ là tưởng tượng của hắn thôi. Mọi người đều hình thành với mười, với cả trăm, cả nghìn linh hồn."
"Em rất thích điều này," Hermine kêu lên. "Chẳng hạn ở anh phần tâm linh đã phát triển rất cao, thành ra bù lại anh lạc hậu trên mọi nghệ thuật sống cỏn con. Nhà tư tưởng Harry đã trăm tuổi, còn gã vũ nam Harry chưa được nửa ngày tuổi. Bây giờ mình sẽ làm cho gã vũ nam này tiến xa hơn, cùng với lũ anh em cũng nhỏ bé, ngu muội và chưa trưởng thành như hắn."
Nàng mỉm cười nhìn tôi, rồi đổi giọng dịu dàng hỏi:
"Còn anh thích Maria thế nào?"
"Maria? Ai vậy?"
"Cô nàng anh vừa cùng nhảy đó. Một cô gái đẹp, rất đẹp. Nếu em không nhầm thì anh đã hơi phải lòng nàng rồi."
"Em biết cô ấy à?"
"Biết chứ, chúng em rất thân nhau mà. Anh mến nàng lắm phải không?"
"Anh mến cô ấy và rất mừng vì cô ấy đã khoan dung cho trình độ khiêu vũ của anh."
"A, nếu chỉ có thế thôi! Anh phải tán tỉnh nàng một chút, Harry ạ. Nàng rất xinh, nhảy giỏi, còn anh đã phải lòng nàng rồi. Em tin anh sẽ thành công."
"Ái chà, anh không tham vọng thế đâu."
"Anh hơi nói dối đấy nhé. Em được biết anh có đâu đấy trên thế gian này một người tình và xuân thu nhị kỳ mới gặp, để rồi cùng nàng cãi cọ. Anh đúng là rất đàng hoàng, nếu muốn trung thành với cô bạn lạ kỳ ấy, nhưng cho em được phép không tin lắm! Em hoàn toàn không tin rằng anh rất mực coi trọng tình yêu. Anh có thể như thế, anh có thể yêu theo kiểu lý tưởng của anh, nhiều như anh muốn; đó là chuyện của anh, em chẳng cần phải lo. Nhưng điều em phải quan tâm là giúp anh học thuần thục hơn chút ít những nghệ thuật và trò chơi nho nhỏ, nhẹ nhàng trong cuộc đời. Trong lĩnh vực này em là cô giáo của anh và sẽ giỏi hơn cô người tình lý tưởng của anh, anh cứ tin đi! Sói Thảo Nguyên ơi, lại đến lúc anh cần ngủ với một cô gái đẹp rồi đấy!"
"Hermine," tôi khổ sở kêu lên, "nhìn anh này, anh là một lão già!"
"Anh là một cậu bé. Anh đã quá lười không chịu học nhảy như thế nào để đến nỗi suýt quá muộn thì anh cũng quá lười học yêu đương như thế. Bạn ơi, yêu đương kiểu lý tưởng và bi thảm thì chắc chắn anh xuất sắc rồi, em không hề hoài nghi, mà xin bày tỏ lòng kính trọng! Giờ đây anh sẽ học cách yêu đương hơi bình thường và con người hơn. Bước đầu đã xong, chẳng bao lâu nữa em có thể để anh đi dự vũ hội được rồi. Trước hết anh còn phải học điệu Boston nữa, mai mình bắt đầu. Em sẽ đến vào lúc ba giờ. Nhân thể hỏi luôn, anh thấy nhạc ở đây thế nào?"
"Tuyệt."
"Anh thấy chưa, đó cũng là một tiến bộ anh học thêm được đấy. Trước đây anh không chịu nổi mọi thứ nhạc khiêu vũ và nhạc Jazz, anh thấy chúng không nghiêm trang và quá hời hợt. Bây giờ anh đã thấy ta chẳng cần phải coi trọng nó mà nó vẫn có thể rất dễ thương, rất hay. Nói thêm, nếu thiếu Pablo thì ban nhạc chẳng còn gĩ nữa. Anh ấy dẫn dắt nó, bơm nhiệt tình vào nó."
Cái máy quay đĩa đã làm vẩn đục bầu không khí khổ hạnh trong phòng làm việc của tôi như thế nào, những điệu khiêu vũ của Mỹ đã thâm nhập một cách lạc lõng vào thế giới âm nhạc mà tôi dày công chăm chút, đã gây khó chịu, thậm chí hủy hoại như thế nào, thì những điều mới mẻ, những điều đáng sợ, những điều gây tan rã cũng đã từ mọi phía lấn vào cuộc sống của tôi, cho đến nay vẫn được phân định rạch ròi và hết sức tách biệt. Tập luận thuyết về Sói Thảo Nguyên và Hermine đã có lý với thuyết về nghìn linh hồn, vì ngày ngày lại thêm vài linh hồn mới xuất hiện trong tôi, bên cạnh hết thảy những linh hồn cũ; chúng đưa yêu sách, gây náo loạn và nay tôi thấy cái ảo giác về nhân cách của mình rõ rành rành như một tấm hình ngay trước mắt. Tôi đã chỉ chú tâm đến dăm ba khả năng và kỹ xảo mà mình ngẫu nhiên có được chút tài, đã vẽ nên hình ảnh một tay Harry và đã sống cuộc đời của hắn, kẻ thật ra chẳng là gì khác hơn một chuyên gia được đào tạo rất lơ mơ về thơ văn, âm nhạc và triết lý 10 - còn tất cả những gì sót lại nơi cá nhân mình, cái đống hỗn mang những khả năng, bản năng, khát vọng tôi đều coi là phiền nhiễu và gán cho cái nhãn Sói Thảo Nguyên.
Tuy nhiên, sự thay đổi cách suy nghĩ này về ảo giác của tôi, sự xóa bỏ này về nhân cách của tôi hoàn toàn không phải một việc phiêu lưu thoải mái và thú vị; ngược lại nó thường vô cùng đau đớn, thường gần như khôn kham. Cái máy quay đĩa thường vang lên thật khủng khiếp ngay giữa môi trường này, nơi mọi thứ được bố trí hòa hợp với những thanh âm khác hẳn. Và đôi lúc, khi tôi nhảy điệu Onestep giữa những kẻ chơi bời trác táng và những kẻ khoe khoang bịp bợm thanh lịch trong một nhà hàng thời thượng, tôi cảm thấy như đã phản bội lại tất cả những gì từng là đáng trọng và thiêng liêng đối với mình trong đời. Giả dụ Hermine bỏ tôi lẻ loi chỉ tám ngày thôi, hẳn tôi sẽ ngay lập tức thoát khỏi những trò thử gian lao và lố bịch nhằm trở thành một kẻ ăn chơi phóng đãng. Nhưng Hermine lại luôn có mặt; tuy không phải ngày nào tôi cũng gặp nàng, nhưng nàng luôn theo dõi, hướng dẫn, giám sát, kiểm định tôi - nàng mỉm cười, vì đọc được cả những ý tưởng phản kháng dữ dội và trốn chạy trên gương mặt tôi.
Cùng với sự hủy hoại dần dần cái mà trước đây tôi gọi là nhân cách của mình, tôi cũng bắt đầu hiểu tại sao bất chấp mọi tuyệt vọng mình lại phải sợ chết khủng khiếp đến thế và bắt đầu nhận ra rằng ngay cả sự sợ hãi đến mức kinh tởm và hèn hạ này trước cái chết cũng là một phần sự hiện hữu trưởng giả, giả dối trước kia của tôi. Cái ông Haller này, cho đến nay là nhà văn có năng khiếu, kẻ am hiểu Mozart và Goethe, tác giả của những chiêm nghiệm đáng đọc về sự siêu hình của nghệ thuật, về thiên tư và sự bi thảm, về nhân loại, nhà ẩn cư sầu muộn trong căn phòng đầy sách vở của mình, đã buộc phải tự phê bình từng điểm một và chẳng điểm nào không thiếu sót. Cái ông Haller tài hoa và lôi cuốn này tuy đã rao giảng về lý trí và lòng nhân đạo, đã phản đối sự tàn bạo của chiến tranh, nhưng trong lúc thế giới chém giết lẫn nhau ông lại không chịu để bị lôi ra xử bắn nơi pháp trường, như đúng ra đó là hệ quả tất nhiên từ những tư tưởng của ông, mà lại tìm ra một giải pháp thích nghi nào đấy, đương nhiên hết sức đúng đắn và cao cả, song dẫu sao vẫn chỉ là nửa vời thôi. Ngoài ra, ông còn là kẻ thù của quyền lực và sự bóc lột, nhưng ông lại gửi ngân hàng nhiều cổ phiếu của các hãng kỹ nghệ và ông cứ việc tiêu pha số tiền lãi từ các cổ phiếu ấy mà chẳng hề thấy lương tâm cắn rứt. Mọi chuyện khác cũng đều như thế. Tuy Harry Haller đã giả trang tuyệt vời thành kẻ có lý tưởng, kẻ khinh miệt thế gian, thành kẻ ẩn xư âu sầu và nhà tiên tri phẫn nộ, nhưng thực chất hắn là một kẻ trưởng giả, coi lối sống như của Hermine là đáng chê trách, hắn bực dọc vì những đêm uổng phí trong quán ăn, về những đồng tiền hắn đã vung vít cũng chính ở đấy, hắn bị lương tâm cắn rứt nhưng lại hoàn toàn không khao khát sự giải thoát và toàn thiện, mà ngược lại vô cùng khao khát trở về với quãng đời thoải mái trước kia, khi những trò trí thức vặt vãnh của hắn còn khiến hắn thú vị và đem lại cho hắn vinh quang. Y hệt như vậy, những độc giả nhật báo bị hắn khinh miệt và nhạo báng cũng khao khát quay về với thời kỳ lý tưởng trước chiến tranh, vì như thế thoải mái hơn là học hỏi từ nhữn điều họ đang phải hứng chịu. Trời đánh thánh vật lão Haller này, hắn làm tôi muốn nôn mửa! Tuy thế tôi vẫn bám chặt lấy hắn hay đúng hơn bám vào cái mặt nạ đã rã rời của hắn, vào thói làm duyên làm dáng của hắn với trí tuệ, vào nỗi sợ hãi kiểu trưởng giả của hắn trước sự hỗn loạn và ngẫu nhiên (cái chết cũng thuộc vào đây), và tôi so sánh một cách giễu cợt và đầy đố kỵ tay Harry mới hình thành này, cái gã vụng về hơi nhút nhát và lố bịch của các phòng khiêu vũ, với hình ảnh lý tưởng giả dối trước kia của hắn, trên đấy hắn đã phát hiện - sau lần ở nhà ông giáo sư - chính mọi đặc điểm đáng căm ghét mà ngày đó tấm hình Goethe đã khiến hắn vô cùng bực bội. Chính hắn, tay Harry trước đây, từng y hệt một ông Goethe được lý tưởng háo kiểu trưởng giả như thế, một người hùng của trí tuệ như thế với ánh mắt rất mực quý tộc, sáng ngời - như được phết dầu láng - sự cao cả, đầu óc sắc sảo, lòng nhân đạo và gần như mủi lòng trước chính tâm hồn quý phái của mình! Quỷ thần ơi, hình ảnh đẹp đẽ này chẳng may đã lỗ chỗ thảm hại, cái ông Haller lý tưởng này đã bị hạ bệ thảm thương! Trông hắn cứ như một kẻ quyền cao chức trọng bị lũ cướp đường trấn lột sạch, còn mỗi cái quần te tua; lẽ ra hắn nên khôn ngoan học đóng vai kẻ lam lũ rách rưới, nhưng hắn lại cứ khoác mớ giẻ rách ấy như thể trên đó vẫn lủng lẳng huân chương và tiếp tục nức nở đòi lại phẩm cách đã mất.
Tôi thường hay gặp lại gã nhạc công Pablo nọ; chính vì Hermine quá mến y, thiết tha bầu bạn với y, nên tôi phải xét lại đánh giá của mình về y. Ấn tượng Pablo đã để lại trong tôi là một con số không xinh xắn, một gã đẹp trai nhỏ nhắn, kiêu căng đôi chút, một đứa trẻ vui nhộn và không gây phiền toái, hớn hở thổi chiếc kèn trompet ở chợ phiên, dễ bảo nếu biết cách phỉnh phờ hoặc dùng bánh kẹo. Nhưng Pablo không quan tâm đến nhận xét của tôi; y dửng dưng về chuyện ấy cũng như đối với những lý thuyết về âm nhạc của tôi. Y lịch sự và thân mật nghe tôi nói, thường xuyên mỉm cười, nhưng không bao giờ trả lời nghiêm túc. Mặc dù vậy, chừng như tôi đã khơi được sự chú ý của y, vì rõ ràng y cố hắng làm tôi vui lòng và tỏ ra thiện cảm với tôi. Có lần, khi tôi bực mình và gần như lỗ mãng tại một trong những buổi trò chuyện chẳng tới đâu ấy, y sửng sốt và buồn bã nhìn vào mặt tôi, nắm lấy bàn tay trái của tôi vuốt ve, rồi móc gì đấy từ một chiếc hộp nhỏ mạ vàng mời tôi hít, bảo rằng nó sẽ làm tôi dễ chịu. Tôi đưa mắt hỏi Hermine, nàng gật đầu nên tôi đã nhận và hít thử. Quả thật chỉ lát sau tôi liền thấy tỉnh táo và sinh động hơn, chắc hẳn trong thứ bột ấy có cocain. Hermine kể với tôi rằng Pablo có nhiều loại thuốc như thế này, nhận qua những lối bí mật; thỉnh thoảng y đem mời bạn bè; y là bậc thầy trong việc trộn và định liều lượng: thuốc để giảm đau, để ngủ, để tạo những giấc mơ đẹp, để tinh thần vui tươi và để kích động tình yêu.
Có lần tôi gặp y ngoài đường, trên bến cảng, y nhập bọn với tôi ngay, không dùng dằng. Rốt cuộc, lần ấy tôi đã khiến y chịu nói.
"Ông Pablo này," tôi nói trong lúc y đang nghịch với một cây ba toong mảnh dẻ màu đen ánh sắc bạc, "ông là bạn của Hermine, đấy chính là lý do khiến tôi chú ý đến ông. Nhưng phải nói rằng ông đã không tạo điều kiện dễ dàng để tôi cùng ông trò chuyện. Tôi đã nhiều lần thử nói với ông về âm nhạc - tôi muốn được nghe ý kiến, phản bác, nhận xét của ông; nhưng ông không thèm trả lời tôi dù chỉ một lời."
Y chân thành cười và lần này không tránh né mà bình thản đáp: "Thưa ông, theo ý tôi thì trò chuyện về âm nhạc chẳng có ý nghĩa gì. Tôi không bao giờ nói về âm nhạc. Thế thì tôi nên trả lời gì đây về những lời lẽ rất thông minh và xác đáng của ông? Mọi điều ông nói ra đều rất có lý. Nhưng ông thấy đấy, tôi là một nhạc công, không phải bậc trí giả và tôi tin rằng việc có lý trong âm nhạc chẳng có chút giá trị nào. Trong âm nhạc, việc có lý hay có khiếu thẩm mỹ hoặc có học vấn và đủ mọi thứ chẳng đáng kể gì."
"Ra thế. Nhưng như vậy cái gì mới đáng kể?"
"Phải chơi nhạc, ông Haller ạ, phải chơi thật nhiều, thật hết mình! Thế đấy, thưa Monsieur 11. Nếu trong đầu tôi chứa toàn bộ tác phẩm của Bach và Haydn và tôi có thể nói thao thao bao điều thông thái về chúng, thì cũng chẳng giúp ích được ai. Nhưng khi lôi cây kèn của mình ra, chơi liên miên một bài Shimmy, thì dù dở hoặc hay, nó chắc chắn vẫn làm cho người ta vui, nó thấm vào máu họ, khiến chân họ rậm rật. Chỉ điều đó mới đáng kể. Ông cứ nhìn thử một lần những khuôn mặt trong phòng khiêu vũ vào lúc tiếng nhạc trỗi lại sau một lúc nghỉ khá dài mà xem - ông sẽ thấy chúng tươi cười, thấy những cặp mắt sáng lên, những đôi chân rậm rật như thế nào! Chính vì điều ấy nên người ta chơi nhạc!"
"Hay lắm, ông Pablo ạ. Nhưng không phải chỉ có thứ nhạc nhục cảm, còn có nhạc cho tinh thần nữa. Không chỉ có loại nhạc được chơi trong khoảnh khắc này, mà còn thứ bất tử, nó tiếp tục sống, dù hiện không được chơi. Có thể một người nào đấy nằm cô đơn trên giường và gợi lại trong tâm trí mình một giai điệu của bài Điệu sáo mê hồn hay Khổ hình của Chúa theo lời kể của thánh Matthieu thì vẫn có âm nhạc, dù chẳng có ai thổi sáo hay kéo vĩ cầm."
"Đúng thế, thưa ông Haller. Cả bài Yearning và bài Valencia hằng đêm cũng được bao kẻ cô đơn và mơ mộng câm nín tái tạo; cả cô thư ký đánh máy đáng thương nhất trong văn phòng cũng có bài Onestep mới nhất trong đầu và gõ phím theo nhịp của bài ấy. Họ có lý, tất cả những con người cô đơn này; tôi không đố kỵ với họ về những thứ âm nhạc câm nín ấy, dù là Yearning hay Điệu sáo mê hồn hay Valencia! Nhưng những con người nọ lấy từ đâu ra thứ âm nhạc cô đơn, câm nín ấy của họ? Họ lấy từ chúng tôi, từ các nhạc công; đầu tiên nó phải được chơi, được nghe và thấm vào máu, trước khi ai đấy nằm ở nhà, ở trong phòng có thể nghĩ đến nó và mơ về nó."
"Đồng ý," tôi lạnh lùng nói. "Tuy nhiên không thể đặt Mozart ngang hàng với điệu Foxtrott mới nhất được. Việc ông chơi cho người ta loại nhạc siêu phàm và vĩnh cữu hoặc thứ rẻ tiền chỉ tồn tại ngày một ngày hai thật hoàn toàn không như nhau."
Thấy giọng nói của tôi bị kích động, Pablo liền tỏ ngay cái vẻ dễ thương nhất của mình, y trìu mến vuốt ve cánh tay tôi, giọng dịu dàng không tưởng tượng nổi.
"Chà, thưa ông, có thể ông hoàn toàn đúng trong chuyện thứ bậc. Tôi chẳng có gì phản đối, khi ông đặt Mozart ngang hàng với điệu Foxtrott mới nhất được. Việc ông chơi cho người ta loại nhạc siêu phàm và vĩnh cửu hoặc thứ rẻ tiền chỉ tồn tại ngày một ngày hai thật hoàn toàn không như nhau."
Thấy giọng nói của tôi bị kích động, Pablo liền tỏ ngay cái vẻ dễ thương nhất của mình, y trìu mến vuốt ve cánh tay tôi, giọng dịu dàng không tưởng tượng nổi.
"Chà, thưa ông, có thể ông hoàn toàn đúng trong chuyện thứ bậc. Tôi chẳng có gì phản đối, khi ông đặt Mozart, Haydn và bản Valencia vào những thứ bậc mà ông ưa thích! Với tôi điều đó hoàn toàn chẳng có gì quan trọng, tôi không có quyền quyết định về những thứ bậc ấy, tôi không được hỏi ý kiến về chuyện đó. Có lẽ một trăm năm nữa người ta vẫn chơi nhạc Mozart, còn bản Valencia có thể chỉ hai năm rồi thôi - tôi nghĩ chuyện này chúng ta có thể yên tâm phó thác cho Chúa; Người là đấng công minh, Người nắm trong tay hạn kỳ sống của hết thảy chúng ta, cả của mỗi bản Valse và mỗi bản Foxtrott nữa, chắc chắn Người sẽ có quyết định đúng. Về phần đám nhạc công chúng tôi, chúng tôi phản làm nhiệm vụ và công việc của mình: đó là phải chơi những gì hiện giờ người ta khao khát và phải chơi thật hay, thật đẹp và thật diễn cảm."
Tôi thở dài bỏ cuộc. Không tranh luận nổi với anh chàng này.
Có những khoảnh khắc cái cũ và cái mới, đau khổ và hứng thú, sợ hãi và hân hoan trộn lẫn với nhau rất kỳ lạ. Lúc thì tôi ở trên thiên đường, lúc dưới địa ngục, nhưng phần lớn ở cả hai nơi cùng lúc. Tay Harry cũ và gã Harry mới lúc thì cãi vã kịch liệt, lúc lại sống hòa thuận với nhau. Đôi khi tay Harry cũ như thể chết đứ đừ rồi, bị chôn rồi, đột nhiên sống lại, ra lệnh và hà hiếp, cái gì cũng tỏ ra biết hơn, còn gã Harry mới, nhỏ thó, non trẻ xấu hổ, lặng thinh, chịu bị dồn ép tới chân tường. Lúc khác gã Harry trẻ túm cổ tay Harry cũ, bóp thật chặt, lúc ấy hắn tha hồ rên rỉ, tha hồ hấp hối, tha hồ nghĩ tới con dao cạo.
Nhưng khổ đau và hạnh phúc thường nhận chìm tôi trong cùng một ngọn sóng. Một trong những khoảnh khắc ấy xảy ra ít ngày sau khi tôi thử khiêu vũ lần đầu tiên trước mọi người; buổi tối đó tôi bước vào phòng ngủ của mình và vừa kinh ngạc, vừa hoảng sợ, vừa hân hoan - nghĩa là không có tên gọi để diễn tả tâm trạng tôi lúc ấy - thấy cô nàng Maria xinh đẹp đang nằm trên giường tôi.
Trong tất cả những điều ngạc nhiên Hermine đến nay đã gây ra cho tôi, đây là điều mãnh liệt nhất. Vì tôi không nghi ngờ một phút giây nào rằng chính nàng đã gửi đến cho tôi con chim thiên đường này. Trái với lệ thường, chiều hôm ấy tôi không đi chơi với Hermine mà tới đại giáo đường nghe một buổi trình diễn thành công về thánh ca cổ - đó là một chuyến du ngoạn đẹp và buồn vào đời sống ngày trước của tôi, vào những cánh đồng thuở thanh xuân của tôi, vào những vùng của gã Harry lý tưởng. Trong không gian vòi vọi kiểu gô tích của giáo đường với khung trần hình vòm đẹp như lưới giăng đung đưa sống động mà ma quái dưới ánh sáng của vài ngọn nến lung linh, tôi nghe những khúc nhạc của Buxtehude, Pachelbel 12, Bach, Haydn, tôi lại đi trên những con đường dấu yêu xưa, lại nghe giọng hát du dương của người nữ ca sĩ chuyên nhạc Bach 13 mà thuở hai chúng tôi còn là bạn, tôi đã cùng nàng dự nhiều buổi trình diễn tuyệt vời. Tiếng nhạc xưa, phẩm cách và sự thiêng liêng vô hạn của nó đã gọi tôi nhớ đến mọi cảm giác hạnh phúc, phấn khởi và hăng say của tuổi trẻ; tôi buồn bã đắm mình ngồi trên bệ cao của khu hát kinh, trong một giờ làm người khách trong cái thế giới thiêng lêng, cao cả từng là quê hương của tôi ngày trước 14. Lúc nghe một bài song tấu của Haydn tôi đột nhiên ứa nước mắt; không chờ buổi hòa nhạc kết thúc, bỏ luôn cả ý định tái ngộ người nữ ca sĩ (ôi ngày trước, sau những buổi hòa nhạc thế này tôi đã từng sống biết bao buổi chiều rạng rỡ với các nghệ sĩ!), tôi đã len lén ra khỏi giáo đường, mệt mỏi bước đi trong đêm tối trên những con đường hẻm, mà đây đó sau những ô cửa sổ của các quán ăn có các ban nhạc Jazz chơi những giai điệu trong đời sống hiện thời của tôi. Ôi, cuộc đời tôi đã trở thành một mê lộ ảm đạm xiết bao!
Đêm ấy, tôi vừa đi vừa suy nghĩ miên man về mối quan hệ lạ lùng giữa tôi với âm nhạc và lại một lần nữa nghiệm ra rằng mối liên hệ vừa cảm động vừa tai hại với âm nhạc chính là số mệnh của toàn giới trí thức Đức. Mẫu quyền thống trị trong tinh thần người Đức, đó là sự gắn bó với thiên nhiên dưới dạng bá chủ của âm nhạc, điều chưa hề thấy ở một dân tộc nào khác. Những người trí thức chúng tôi thay vì dũng cảm chống lại điều đó và phục tình trí tuệ, Logos, thần ngôn, khiến người ta phải lắng nghe, hết thảy chúng tôi lại mơ tưởng đến một thứ ngôn ngữ không lời, nói được điều không thể nói, diễn tả được điều không thể diễn tả. Thay vì sử dụng hết lòng và trung thực phương tiện của mình, người trí thức Đức lại luôn phản kháng ngôn từ cùng lý trí, nhưng mê đắm âm nhạc. Người trí thức Đức đắm chìm trong nhạc, trong những kết cấu âm thanh thần thánh tuyệt vời, trong những cảm xúc và tâm trạng cực kỳ tao nhã - những thé không bao giờ được thú đẩy thành hiện thực - và xao lãng phần lớn bổn phận thật sự của mình. Tất cả giới trí thức chúng tôi lạc lõng, xa lạ và thù địch với thực tế, cho nên vai trò của tinh thần mới thảm hại đến thế ngay cả trong thực tại của nước Đức, trong lịch sử, trong chính trị và công luận của chúng tôi. À vâng, tôi thường suy đi ngẫm lại những ý tưởng này và đôi khi không phải không cảm thấy khát khao mãnh liệt được một lần cùng dựng xây thực tại, được một lần hành động nghiêm túc và có trách nhiệm, thay vì chỉ mãi bận rộn với tính thẩm mỹ và chuyện bán buôn thứ nghệ thuật thuộc tâm hồn. Nhưng lần nào nỗi khát khao ấy cũng đều kết thúc với ngao ngán, với sự cam chịu vận số rủi ro. Các ngài tướng tá và những nhà đại kỹ nghệ hoàn toàn có lý: đám "trí thức" chúng tôi chẳng làm nên trò trống gì, chỉ là một đám thông minh ba hoa, vô trách nhiệm, xa thực tế và không cần thiết. Quỷ thần ơi! Tôi lại nghĩ đến lưỡi dao cạo!
Cuối cùng, đầu óc đầy ắp những suy nghĩ như thế cùng dư âm của tiếng nhạc, lòng nặng trĩu u buồn cùng nỗi khát khao đến tuyệt vọng cuộc sống, thực tại, ý nghĩa và những điều đã mất không tìm lại được nữa, tôi trở về nhà, bước lên cầu thang, bật đèn phòng khách, cố đọc chút ít nhưng hoài công, nghĩ đến cuộc hò hẹn buộc tôi tối mai phải đến quán rượu Cécil uống Whisky và khiêu vũ, rồi cảm thấy oán hận và cay đắng không chỉ với bản thân mình mà cả Hermine nữa. Có thể nàng có hảo ý và chân thành, có thể nàng là một con người tuyệt vời, nhưng tốt hơn lẽ ra ngày nọ nàng cứ để mặc tôi chết quách, thay vì lôi kéo tôi vào cái thế giới ăn chơi hỗn độn, lạ lẫm, quay cuồng này và dìm tôi trong đó, nơi tôi sẽ mãi vẫn là một kẻ xa lạ và điều tốt đẹp nhất trong tôi sẽ cùng quẫn, lụi tàn!
Nên tôi đã rầu rĩ tắt đèn, rầu rĩ bước qua phòng ngủ, rầu rĩ bắt đầu cởi áo quần; chợt một mùi hương khác lạ khiến tôi ngờ vực, nó thoang thoảng mùi nước hoa; nhìn quanh tôi thấy cô nàng Maria xinh đẹp đang nằm trên giường của tôi, đôi mắt to màu xanh mỉm cười, vẻ hơi bồn chồn.
"Maria!," tôi kêu lên. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là bà chủ nhà, nếu biết chuyện, sẽ không cho tôi tiếp tục thuê căn hộ này nữa.
"Em đến đây," nàng nói khẽ. "Ông có giận em không?"
"Không, không. Tôi biết Hermine đã đưa cô chìa khóa. Thế đấy."
"Ồ, ông bực mình về chuyện ấy. Em đi vậy."
"Không đâu, Maria đẹp xinh ơi, ở lại đi! Có điều tối nay tôi rất buồn, hôm nay tôi không thể nào vui vẻ được, có thể mai chăng."
Tôi hơi cúi về phía nàng, nàng liền ôm lấy đầu tôi bằng đôi bàn tay to khỏe, ghì xuống và hôn tôi thật lâu. Rồi tôi ngồi xuống cạnh giường, nắm tay nàng, yêu cầu nàng nõi khẽ kẻo người ta nghe thấy; tôi cúi nhìn khuôn mặt đầy đặn xinh xắn, lạ lùng và kỳ diệu tựa một bông hoa to đang nằm đấy, trên chiếc gối của tôi. Nàng từ từ kéo bàn tay tôi tới đôi môi nàng, luồn nó xuống dưới chân và áp lên bộ ngực ấm, phập phồng.
"Anh đâu cần phải vui vẻ," nàng nói, "Hermine cho em biết rằng anh đang ưu phiền. Ai cũng hiểu mà. Anh có còn ưng em không, hở anh? Hôm trước, khi mình nhảy với nhau, anh si em lắm mà."
Tôi hôn lên mắt, môi, cổ và ngực nàng. Mới vừa rồi tôi còn nghĩ tới Hermine, cay đắng và trách móc. Giờ đây tôi ôm trong tay món quà của nàng mà lòng thầm biết ơn. Những mơn trớn của Maria không tổn hại gì đến thứ âm nhạc tuyệt vời tôi vừa nghe tối nay, chúng xứng đáng với thứ âm nhạc ấy và là sự thể hiện của nó. Tôi chậm rãi kéo tấm chăn khỏi thân thể mỹ miều, cho đến khi những nụ hôn của tôi tới với hai bàn chân nàng. Khi tôi nằm xuống bên nàng, khuôn mặt tựa đóa hoa của nàng mỉm cười với tôi đầy vẻ hiền lành và thông hiểu.
Đêm ấy, bên cạnh Maria, tôi ngủ không nhiều, nhưng thật sâu và ngon lành như một đứa trẻ. Giữa những lúc ngủ tôi nốc tràn tuổi thanh xuân tươi đẹp của nàng và qua trò chuyện thì thầm tôi biết được nhiều điều thú vị về cuộc đời nàng và Hermine. Tôi vốn chỉ biết đại khái về loại người và cuộc sống như của hai nàng; trước kia chỉ ở nhà hát tôi mới thỉnh thoảng gặp những mẫu đời tương tự, đàn bà lẫn đàn ông, nữa nghệ sĩ, nửa ăn chơi. Mãi bây giờ tôi mới được nhìn đôi chút vào cuộc sống kỳ quặc, ngây thơ lẫn hư hỏng khác thường này. Những cô gái ấy phần lớn nhà nghèo, như lại thừa thông minh và xinh xắn nên không cam tâm suốt đời kiếm ăn bằng chỉ một nghề với đồng lương ít ỏi và chẳng có gì vui, nên tất cả đều sống lúc bằng những công việc thất thường, lúc nhờ vẻ duyên dáng và sự dễ thương của họ. Thỉnh thoảng họ làm thư ký đánh máy vài ba tháng, lúc là nhân tình của những tay chơi giàu sụ, được tiền tiêu vặt và quà tặng, đôi khi được khoác áo lông, đi ô tô, ở khách sạn lớn, lúc khác lại ở trong những căn gác xép sát mái và có thể đi tới hôn nhân nếu trúng mối, nhưng nói chung họ không ham mấy. Một số người trong bọn họ chẳng ham hố gì tình yêu, mà chỉ miễn cưỡng hiến dâng sau khi đã mặc cả được giá cao nhất. Những người khác - trong số này có Maria, khát khao và giàu năng khiếu khác thường về tình yêu - phần lớn có kinh nghiệm với cả hai phái nam và nữ; họ sống chỉ cho tình yêu và bên cạnh những người bạn chính thức có trả tiền, họ còn nuôi dưỡng những quan hệ tình ái khác. Siêng năng và bận bịu, bồn chồn và nhẹ dạ, khôn ngoan nhưng không ý thức, những con bướm ấy sống cuộc đời vừa trẻ thơ vừa sành sõi, độc lập, không phải bạ ai họ cũng bán; họ chờ thời vận, say mê cuộc sống nhưng lại ít bám víu vào nó bằng kẻ trưởng giả, luôn luôn sẵn sàng theo một hoàng tử trong chuyện thần thoại về lâu đài của chàng và đương nhiên luôn ý thức mơ hồ về một kết cục gay go và buồn thảm.
Maria đã dạy tôi - trong buổi tối đầu tiên lạ kỳ ấy và những ngày sau - nhiều thứ, không chỉ những trò chơi thú vị mới và những cách thức đem lại thích thú cho giác quan, mà cả sự thông cảm mới, nhận thức mới và tình yêu mới. Thế giới của những vũ trường và chốn ăn chơi, những rạp chiếu phim, những quán rượu và những tiền sảnh ở các khách sạn, những nơi đối với tôi, kẻ ẩn cư và nhà thẩm mỹ, vẫn luôn còn là gì đấy thấp kém, bị cấm đoán và làm mất phẩm giá thì với Maria, Hermine và các cô bạn của họ đơn thuần là thế giới thôi, không tốt cũng chẳng xấu, không đánh ham muốn cũng chẳng đáng thù ghét; cuộc sống ngắn ngủi đầy khát vọng của họ bừng nở trong thế giới ấy, ở đấy họ cảm thấy quen thuộc và sành sõi. Họ thích một ly sâm banh hay một đĩa thịt nướng đặc biệt, giống những kẻ như chúng ta yêu quý một nhạc sĩ hoặc một nhà thơ, và họ cũng hết lời tán thưởng, mủi lòng cùng cảm động về một điệu nhảy ăn khách mới hoặc một bài hát tình cảm lâm ly của một ca sĩ nhạc Jazz giống như chúng ta đối với Nietzsche hoặc Hamsun 15. Maria kể với tôi về tay thổi kèn saxophone Pablo đẹp trai nọ và về một bài hát Mỹ thỉnh thoảng y hát cho họ nghe; nàng kể thật say sưa, đầy ngưỡng mộ và tha thiết khiến tôi xúc động và thương cảm hơn hẳn những trạng thái mê ly của một học giả cao cấp nào đấy bàn về sự thưởng thức những nghệ thuật cao quý được tuyển chọn. Tôi sẵn sàng tán thưởng theo, bất kể bài hát ấy như thế nào. Những lời trìu mến của Maria, ánh mắt khát khao bừng nở của nàng đã phá tan hoang thành trì mỹ học của tôi. Chắc chắn có vài ba nhạc phẩm hay đẹp, dăm nhạc phẩm chọn lọc hiếm hoi mà theo tôi không còn phải bàn cãi hay nghi ngờ gì nữa, đứng đầu là Mozart, nhưng đâu là giới hạn? Chẳng lẽ hết thảy chúng ta, những kẻ am hiểu và những nhà phê bình, thời trẻ không từng nồng nhiệt say mê những tác phẩm nghệ thuật cùng những nghệ sĩ mà nay dường như ta thấy là đáng hoài nghi và chướng tai, gai mắt? Chẳng lẽ chúng ta chưa từng cảm thấy như thế ở Liszt, Wagner 16 - thậm chí ở Beethoven, đối với nhiều người? Lẽ nào niềm xúc cảm bừng nở như trẻ thơ của Maria về bài hát nọ từ nước Mỹ lại không là một trải nghiệm về nghệ thuật cũng thuần khiết, hay ho, trác việt, vượt lên mọi hoài nghi giống như niềm thương cảm của một nhà giáo nào đấy về chàng Tristan 17 hoặc phút mê ly của một nhạc trưởng lúc điều khiển Bản giao hưởng số 9? Và chẳng lẽ điều này không phù hợp lạ lùng với những quan điểm của Pablo và xác nhận y có lý?
Dường như Maria cũng rất yêu gã Pablo điển trai này.
"Y đẹp trai thật đấy," tôi nói, "ngay cả anh cũng rất thích y. Nhưng Maria ơi, hãy cho anh biết làm cách nào em có thể đồng thời yêu cả anh nữa, một kẻ già nua chán ngắt, chẳng đẹp trai mà tóc đã đốm bạc, không biết thổi saxophone và hát tình ca bằng tiếng Anh?"
"Anh đừng nói vớ vẩn thế!" nàng trách. "Chuyện ấy hoàn toàn tự nhiên thôi. Em cũng thích anh vậy; anh cũng có gì đấy hay đẹp, đáng yêu và độc đáo chứ; anh chớ nên khác anh bây giờ. Đừng nói về những điều ấy và đòi được em giải thích. Thế này nhé, anh anh hôn cổ hoặc tai em, em liền cảm thấy anh thích em, rằng em làm anh hài lòng; anh có kiểu hôn hơi rụt rè, điều ấy bảo em rằng: anh ta thích cô đấy, anh ta biết ơn cô, vì cô xinh đẹp. Em rất thích, rất thích thế. Rồi với người đàn ông khác em lại ưa chính điều ngược lại, ưa kiểu hắn làm ra vẻ không thích gì em và hôn em như thể ban ân huệ."
Chúng tôi lại thiếp đi. Rồi tôi lại tỉnh giấc, thấy vẫn ôm choàng nàng, người đẹp của tôi, đóa hoa mỹ miều của tôi.
Tôi không ngớt suy nghĩ, lạ lùng thay, rằng bông hoa mỹ miều này dẫu sao vẫn là món quà Hermine tặng tôi! Hình bóng nàng luôn ẩn sau bông hoa ấy như sau một chiếc mặt nạ! Và trong lúc ấy tôi bỗng dưng nghĩ tới Erike, người tình khó tính xa xôi, người bạn đáng thương của tôi. Nàng xinh chẳng thua Maria, dù kém mơn mởn, phóng túng và thiếu những nghệ thuật yêu đương tuyệt vời nho nhỏ. Nàng đứng trước mặt tôi một lúc lâu như một bức tranh, rõ ràng và đau xót, được yêu thương và gắn bó sâu đậm với số phận của tôi, rồi lại chìm đi, trong giấc ngủ, trong lãng quên, trong chốn xa xăm nửa phần buồn tủi.
Và cứ thế, trong cái đêm xinh đẹp êm ái này bao hình ảnh của cuộc đời đã hiện về ngay trước mắt tôi, kẻ từ lâu từng sống đầy trống trải, nghèo nàn và không hình ảnh. Nay, được thần Ái tình khai mở, nguồn suối hình ảnh dồi dào từ thuở nào bỗng bừng phun; trong một khoảnh khắc trái tim tôi ngừng đập vì hân hoan và buồn bã, khi thấy phòng trưng bày hình ảnh của cuộc đời mình mới phong phú làm sao và tâm hồn Sói Thảo Nguyên khốn khổ đầy ắp đến mức nào các tinh tú cùng những chòm sao vĩnh cữu. Thời thơ ấu và mẹ tôi dịu dàng, rạng rỡ nhìn về phía tôi, như một rặng núi xa hút trầm mặc trong màu xanh thăm thẳm; bản đồng ca về những tình bạn của tôi ngân lên trong sáng và cương quyết, bắt đầu với cậu Hermann huyền thoại, người anh em tinh thần của Hermine; chân dung nhiều người đàn bà - những người tôi đã yêu, thèm khát, ngợi ca và đã cố công nhưng chỉ giành được một số ít - ngát thơm và thoát tục như những bông hoa biển ướt đẫm nở rộ vừa mới từ nước vươn lên, bập bềnh trôi tới. Cả vợ tôi cũng hiện ra - người vợ đã cùng tôi chung sống nhiều năm, đã dạy tôi về tình bạn, sự xung đột, nỗi ngao ngán, và tôi vẫn giữ trọn lòng tin cậy sắt son bất chấp mọi thiếu thốn trong cuộc sống, cho đến ngày tôi ngã bệnh cả về tâm hồn lẫn thể xác và nàng đột nhiên kịch liệt chối từ, rời bỏ tôi - và tôi nhận ra tôi đã yêu thương nàng biết mấy, đã tin tưởng nàng sâu xa biết mấy, nên sự bội tín của nàng mới gây cho tôi một vết thương đau xót trọn đời như thế.
Hết thảy những hình ảnh này - hàng trăm cái, có tên hoặc không - đều hiện về, vươn lên tươi mát và mới mẻ từ giếng khơi của cái đêm ân ái ấy và tôi hiểu lại điều mình đã lãng quên từ lâu trong thống khổ: những hình ảnh này là tài sản và giá trị của đời tôi, là những trải nghiệm tiếp tục tồn tại không thể hủy hoại, được đúc kết thành những ngôi sao mà tôi có thể quên, nhưng quyết không thể hủy diệt; hàng hàng lớp lớp những vì sao ấy là chuyện thần thoại của đời tôi, ánh sao lấp lánh là giá trị không thể hủy diệt về sự tồn tại của tôi. Đời tôi từng nhọc nhằn, sa chân lỡ bước và bất hạnh, dẫn đến sự khước từ và phủ nhận, nó chát vị muối của số phận cả loài người, nhưng nó giàu sang, kiêu hãnh và giàu sang, kể cả trong khốn khổ vẫn cứ là một cuộc đời vương giả. Dẫu cho đoạn đường ngắn ngủi dẫn tới diệt vong, sự diệt vong tuyệt đối, bị lãng phí thảm hại đến đâu đi nữa, thì cốt lõi của cuộc sống ấy vẫn là cao quý, cuộc sống ấy vẫn có diện mạo và nét độc đáo, nó không màng đến những điều nhỏ nhặt mà quan tâm tới những vì sao.
Từ đó đến nay cũng lâu rồi, có bao điều đã xảy ra và bao chuyện đã khác đi; tôi chỉ còn nhớ được vài chi tiết ít ỏi của đêm hôm ấy, dăm ba câu hai chúng tôi đã nói với nhau, vài ba cử chỉ và hành động rời rạc của sự âu yếm thiết tha, những giây phút tỉnh như sáo khi thức dậy từ giấc ngủ nặng nề mệt mỏi yêu đương. Nhưng chính đêm hôm ấy, lần đầu tiên kể từ ngày tôi sa sút, cuộc đời của chính tôi lại đã nhìn tôi bằng đôi mắt sáng ngời không thương xót, trong đó tôi lại nhận ra sự ngẫu nhiên chính là số phận, lại nhận ra đống hoang tàn của đời mình chính là những mảnh vụn thần thánh. Tâm hồn tôi hô hấp trở lại, mắt tôi lại nhìn và có những khoảnh khắc tôi say sưa linh cảm rằng tôi chỉ cần gom lại cái thế giới hình ảnh phân tán, chỉ cần nâng cuộc đời con Sói Thảo Nguyên Harry Haller của tôi toàn vẹn thành bức ảnh, để rồi tự mình bước vào trong thế giới hình ảnh và trở thành bất tử. Chẳng lẽ đó không phải là mục tiêu mà cuộc đời mỗi người nên thử hướng tới ư?
Sáng ra, khi Maria dùng điểm tâm với tôi xong, tôi len lén đưa nàng ra khỏi nhà. Trót lọt. Ngay hôm ấy tôi thuê cho nàng và tôi một căn phòng nhỏ trong khu phố gần bên, dành riêng để hai chúng tôi gặp gỡ.
Hermine, cô giáo dạy khiêu vũ của tôi, có mặt đúng theo bổn phận và tôi phải học nhảy điệu Boston. Nàng nghiêm khắc, không khoan nhượng và không cho tôi bỏ một giờ học nào, vì nàng đã quyết định tôi sẽ cùng nàng dự buổi khiêu vũ hóa trang sắp tới. Hermine yêu cầu tôi đưa tiền để mua đồ phục trang cho nàng, nhưng từ chối không tiết lộ chút gì về chuyện ấy. Tôi vẫn còn bị cấm đến thăm, thậm chí không được biết nàng hiện đang ở đâu.
Quãng thời gian trước buổi khiêu vũ hóa trang, khoảng ba tuần, thật là tuyệt vời. Đối với tôi, Maria dường như là người tình thật sự đầu tiên tôi từng có. Tôi luôn đòi hỏi ở những người đàn bà mình yêu một chút đầu óc và học vấn, mà không nhận thấy rằng ngay cả người phụ nữ trí thức nhất và tương đối có học nhất tôi từng yêu chẳng bao giờ đáp lại được cái Logos - thần ngôn - trong tôi, mà luôn ngược lại; tôi mang những vấn đề và suy tư của mình đến với những người đàn bà và dường như tôi không thể yêu lâu hơn một giờ người con gái nào chưa hề đọc qua một quyển sách, không hề biết đọc sách là gì và không phân biệt nổi Tschaikovsky với Beethoven. Maria thất học. Nàng không cần những thứ vòng vo, những thế giới thay thế này; mọi vấn đề của nàng đều nảy sinh trực tiếp từ các giác quan. Nghệ thuật và nhiệm vụ của nàng là cố tạo thật nhiều lạc thú nhục thể và tình yêu với những giác quan được phú thác, với vóc dáng đặc biệt, màu sắc, mái tóc, giọng nói, làn da, tính khí; nghệ thuật và nhiệm vụ của nàng là tìm kiếm và khơi dậy từ người tình câu trả lời, sự cảm nhận cùng sự đáp ứng sôi nổi, hoan lạc bằng mọi khả năng, mọi đường cong và từng biến đổi trên thân thể nàng. Ngay ở lần khiêu vũ đầu tiên đầy nhút nhát với nàng tôi đã cảm thấy điều ấy, đã đánh hơi thấy cái mùi hương của thứ nhục cảm tài tình, tuyệt vời, cực kỳ tinh tế và đã mê mệt vì nó. Đương nhiên cũng không phải ngẫu nhiên mà Hermine, con người rành hết mọi sự ấy, lại đưa Maria đến với tôi. Nàng thơm ngát tựa hoa hồng và hừng hực chẳng khác mùa hè.
Tôi không diễm phúc được làm người tình độc nhất của Maria hoặc được nàng ưu ái, mà chỉ là một trong nhiều người thôi. Nàng thường không có thì giờ cho tôi, đôi khi chỉ được một giờ lúc xế trưa, còn trọn đêm thì thật họa hoằn. Nàng không chịu nhận tiền của tôi, chắc chắn vì Hermine đã nhúng tay vào. Nhưng nàng sẵn lòng nhận quà, nên khi tôi tặng nàng chẳng hạn một cái ví da nho nhỏ màu đỏ bóng, tôi có thể nhét vào đấy vài ba đồng vàng. Nhân tiện nói thêm, vì cái ví này mà tôi đã bị nàng cười giễu khôn xiết! Nó đẹp thật đấy, nhưng là thứ hàng bán ế, hết mốt từ đời nào rồi. Tôi đã học được nhiều từ Maria trong những lĩnh vực mà cho đến lúc ấy tôi hiểu biết chẳng bao nhiêu, không khác chuyện tôi ít rành rẽ về bất cứ thứ ngôn ngữ nào của người Eskimo. Trước hết tôi học được rằng những đồ chơi nho nhỏ ấy, những món hàng xa xỉ theo thời ấy không chỉ là những thứ vặt vãnh được các nhà chế tạo và kinh doanh tham tiền sáng chế ra, ngược lại có lý do thích đáng; chúng đẹp, thiên hình vạn trạng, đúng là một thế giới nho nhỏ - hay một thế giới lớn thì đúng hơn - của những vật mà tất cả chỉ có mục đích duy nhất là phục vụ tình yêu, làm tinh tế các giác quan, làm hồi sinh cái thế giới đã chết chung quanh, ban cho nó một cách thần kỳ những dụng cụ mới cần cho tình yêu: từ son phấn và nước hoa đến giày nhảy, từ chiếc nhẫn đến hộp thuốc lá, từ khóa thắt lưng đến xắc tay. Xắc tay không đơn thuần là xắc tay, ví tiền không phải là ví tiền, hoa không phải hoa, quạt không phải là quạt, mà tất cả đều là những vật chất diễn cảm tình yêu, ma thuật, sự quyến rũ, là kẻ đưa tin, người buôn lậu, khí giới, tiếng hô xung trận.
Maria yêu ai thật sự, tôi thường ngẫm nghĩ về điều này. Tôi nghĩ nàng yêu gã Pablo trẻ tuổi chơi saxophone hơn cả, với đôi mắt đen mơ màng xa vắng và đôi bàn tay dài, xanh xao, quý phái, u sầu. Tôi cứ nghĩ rằng tay Pablo này lừ đừ, không hứng thú và thụ động trong chuyện yêu đương, nhưng Maria cả quyết rằng tuy phải mất thì giờ mới làm y hào hứng được, nhưng sau đó y sẽ hăm hở, dữ dội, đàn ông và đòi hỏi hơn bất kỳ một võ sĩ hay kỵ sĩ nào. Và thế là tôi biết được điều bí ẩn về người này người nọ, của tay nhạc công chơi Jazz, của người diễn viên, của một số đàn bà, của những cô gái và những người đàn ông trong môi trường của chúng tôi, biết đủ thứ chuyện bí mật, thấy được những mối liên kết và thù địch ngấm ngầm bên trong, dần dà tôi (kẻ vốn dĩ hoàn toàn xa lạ không chút liên quan với thế giới này) được tin cậy và được coi như người trong cuộc. Cả về Hermine tôi cũng biết được khối điều. Đặc biệt lúc này tôi thường hay gặp Pablo, người mà Maria mê đắm. Thỉnh thoảng nàng cũng cần đến những thứ thuốc bí mật của y; nàng luôn không quên cung cấp cho tôi những lạc thú này và Pablo luôn sốt sắng hết lòng phục vụ tôi. Một lần y chẳng quanh co nói thẳng với tôi: "Ông bất hạnh quá lắm, thế là không tốt, không nên thế. Tôi thật ái ngại. Ông hãy hút thử một sái thuốc phiện loại nhẹ đi." Nhận xét của tôi về con người vui vẻ, khôn ngoan, trẻ con nhưng khôn dò này thay đổi liên tục; chúng tôi trở thành bạn bè và không hiếm dịp tôi đã nhận chút ít những thứ thuốc của anh ta. Anh ta có vẻ thích thú thấy tôi mê đắm Maria. Một lần anh ta thết "tiệc" trong phòng riêng, trên gác xép một khách sạn ở ngoại ô. Phòng chỉ có một chiếc ghế, Maria và tôi phải ngồi trên giường. Anh mời chúng tôi một thứ rượu mùi tuyệt vời, đầy bí mật, pha trộn từ ba chai con. Rồi khi tôi trở nên quá mức hào hứng, anh ta long lanh ánh mắt đề nghị chúng tôi vui chơi một cuộc tình trác táng tay ba. Tôi cộc cằn từ chối vì không thể làm những chuyện như thế được, tuy nhiên tôi cũng đã liếc nhìn Maria xem thái độ nàng ra sao; tuy nàng tán thành ngay sự thoái thác của tôi, song tôi vẫn thấy đôi mắt nàng le lói và hiểu rằng nàng tiếc rẻ. Pablo thất vọng trước lời từ khước của tôi, nhưng không thấy bị xúc phạm. "Tiếc quá," anh ta nói, "Harry đắn đo quá nhiều về đạo đức. Đành vậy. Giá được thì sẽ vui đấy, rất vui! Nhưng tôi có thứ thay thế." Mỗi chúng tôi được hút vào hơi thuốc phiện rồi ngồi bất động, mở mắt, cả ba chúng tôi được sống cảnh tượng mà anh ta đã khêu gợi, trong lúc Maria run rẩy vì mê ly. Sau đó, khi tôi cảm thấy người hơi nôn nao, Pablo liền đặt tôi nằm lên giường, cho uống vài giọt thuốc và khi tôi nhắm mắt trong vài phút, tôi cảm thấy phớt trên mỗi mí mắt mình một cái hôn, nhẹ như hơi thở. Tôi đón nhận nó như thể đó là của Maria. Nhưng tôi biết rõ đó là của anh ta.
Một tối khác anh ta còn làm tôi kinh ngạc hơn nữa. Anh ta đến phòng tôi, bảo cần hai mươi franc và xin tôi số tiền ấy. Đổi lại, anh ta đề nghị tối ấy tôi sẽ thay anh ta vui thú với Maria.
"Pablo," tôi kinh hoàng nói, "anh không biết điều anh vừa nói rồi. Nhường người tình cho kẻ khác để lấy tiền thì đối với chúng ta đó là điều đáng phỉ nhổ nhất. Coi như tôi không nghe thấy điều anh vừa đề nghị, Pablo ạ."
Anh ta nhìn tôi vẻ thương hại. "Ông không muốn. Đượt thôi, ông Harry ạ. Ông chỉ toàn tự gây khó khăn cho mình thôi. Vậy đêm nay ông không ngủ với Maria, nếu ông thích thế hơn. Dẫu sao hãy cứ đưa tôi tiền, tôi sẽ hoàn lại. Tôi rất cần."
"Để làm gì?"
"Cho Agostino, ông biết cái cậu nho nhỏ chơi cây vĩ cầm thứ hai ấy. Cậu ta ốm đã tám ngày nay mà chẳng ai chăm sóc; cậu ta không một xu dính túi, còn tôi cũng hết nhẵn tiền rồi."
Vì tò mò và phần nào cũng để tự trừng phạt mình, tôi cùng đi với anh ta tới thăm Agostino; anh ta mang sữa và thuốc men đến căn phòng của cậu này trên gác xép, một căn phòng thật thảm hại; anh ta giũ chăn nệm, mở cửa cho thoáng khí và quấn thật gọn gàng, điệu nghệ quanh đầu kẻ bị sốt một miếng gạc; anh ta làm rất nhẹn, dịu dàng và thành thạo không khác một nữ y tá giỏi. Cũng tối hôm ấy tôi thấy anh ta chơi nhạc trong quán Đô Thị tới tận sáng.
Tôi thường trò chuyện với Hermine rất lâu và cụ thể về Maria, về hai bàn tay, đôi vai, hông nàng, về cách nàng cười, hôn và khiêu vũ.
"Nàng đã dạy anh cách này chưa?" có lần Hermine hỏi và diễn tả với tôi một kiểu hôn đặc biệt bằng lưỡi. Tôi yêu cầu nàng đích thân chỉ cho tôi, nhưng nàng nghiêm nghị từ chối. "Sau này hẵng hay," nàng nói, "bây giờ em vẫn chưa là người tình của anh mà."
Tôi hỏi do đâu Hermine biết nghệ thuật hôn cùng một số đặc điểm bí mật trong cuộc sống của Maria mà chỉ người tình của nàng mới rõ.
"Ô hay," nàng đáp, "chúng em là bạn bè mà. Bộ anh nghĩ chúng em giữ bí mật trước nhau à? Em ngủ quá thường ở nhà nàng và chơi đùa với nàng mà. Này, thế là anh đã vớ được một cô gái đẹp sành sỏi hơn nhiều người khác đấy nhé."
"Hermine này, anh nghĩ rằng em với Maria vẫn còn giấu nhau nhiều điều bí mật đấy. Hay em cũng đã nói với nàng hết mọi điều em biết về anh?"
"Không, đó là những chuyện khác mà có lẽ nàng sẽ không hiểu đâu. Maria đúng là tuyệt vời, anh may lắm đấy, nhưng giữa anh và em có những chuyện mà nàng chẳng có ý niệm gì. Em đã nói với nàng nhiều về anh, tất nhiên, nhiều hơn là có lẽ anh muốn lúc đó. Em phải quyến rũ nàng cho anh mà! Nhưng bạn ơi, Maria không đời nào và cũng chẳng có ai khác hiểu anh như em. Em cũng đã biết thêm đôi chút về anh từ nàng đấy nhé. Những gì Maria biết về anh thì em cũng được biết luôn. Em biết anh hầu như rất rõ, chẳng khác mình từng thường ngủ với nhau."
Lúc gặp lại Maria, tôi có cảm giác kỳ lạ và khó hiểu khi biết nàng cũng thương yêu Hermine như yêu tôi, nàng cũng vuốt ve, hôn hít, thưởng thức, xem xét chân tay, đầu tóc và da thịt Hermine hệt như nàng làm những điều ấy với tôi. Những liên hệ mới, những giao kết mới, những khả năng mới trong tình yêu và cuộc sống, gián tiếp và phức tạp, xuất hiện trước mắt tôi và tôi nghĩ đến một nghìn linh hồn đề cập trong Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, giữa lần quen biết Maria và vũ hội hóa trang, tôi gần như rất hạnh phúc, nhưng lại không hề có cảm giác đây là sự cứu rỗi, là niềm hạnh phúc đạt được rồi, mà cảm thấy rất rõ rằng tất cả chỉ là màn giáo đầu và chuẩn bị, mọi thứ cứ cuồng nhiệt xông tới, còn điều chính yếu tới sau.
Tôi học nhảy khá thành thạo rồi, nên thấy nay đã có thể tham dự buổi vũ hội mà mỗi ngày mỗi được bàn tán nhiều hơn ấy. Hermine có một điều bí mật, nàng quyết không tiết lộ với tôi rằng sẽ xuất hiện trong bộ phục trang nào. Tôi sẽ nhận ra nàng mà, nàng bảo, và nếu không thì nàng sẽ giúp tôi, nhưng tôi không được phép biết gì trước. Nàng cũng hoàn toàn chẳng tò mò về những dự tính hóa trang của tôi, còn tôi quyết định sẽ không hóa trang gì cả. Về phần Maria, khi tôi muốn mời nàng cùng đi dự, nàng bảo đã có một bạn nhảy rồi, luôn cả vé vào cửa cho buổi vũ hội nữa. Tôi hơi thất vọng, vì thấy sẽ phải đi một mình. Đó là vũ hội thanh lịch nhất của thành phố, hằng năm được Hội Nghệ sĩ tổ chức trong Sảnh đường Địa Cầu.
Những ngày này tôi ít gặp Hermine, nhưng hôm trước buổi vũ hội nàng tạt qua tôi một lúc - nàng đến để lấy chiếc vé tôi tìm giúp. Nàng hiền lành ngồi chuyện vãn với tôi; buổi trò chuyện này thật lạ lùng và đã gây cho tôi một ấn tượng sâu đậm.
"Bây giờ thì anh tươm lắm rồi," nàng nói, "khiêu vũ thật là hợp với anh. Ai không gặp anh trong bốn tuần qua hẳn sẽ không nhận ra anh đâu."
"Đúng vậy," tôi công nhận, "nhiều năm rồi anh mới lại kha khá như thế này. Tất cả là nhờ em đấy, Hermine ạ."
"Ô, thế không phải là nhờ cô nàng Maria xinh đẹp của anh à?"
"Không. Cả nàng cũng là món quà em đã tặng anh mà. Nàng thật tuyệt vời."
"Nàng là người tình mà anh cần, Sói Thảo Nguyên ạ. Xinh đẹp, trẻ trung, tính tình dễ thương, rất mực khôn khéo trong chuyện yêu đương và không phải ngày nào cũng có được. Nếu anh không phải chia sẻ nàng với những kẻ khác, nếu đối với anh nàng không luôn chỉ là một người khách chợt đến chợt đi thì sẽ chẳng được như thế đâu."
Đúng, tôi cũng phải công nhận điều ấy.
"Thế là anh có đủ mọi thứ anh cần rồi, phải không?"
"Không đâu, Hermine ơi, không phải thế đâu. Anh đã có được một thứ tuyệt đẹp và mê ly, một niềm vui lớn, một niềm an ủi thân thương. Anh hầu như rất hạnh phúc..."
"Đấy! Vậy anh còn muốn gì thêm?"
"Anh muốn nhiều hơn nữa. Anh không hài lòng với việc được hạnh phúc. Anh sinh ra không phải cho chuyện ấy, đó không phải là số phận của anh. Số phận của anh ngược lại."
"Nghĩa là phải bất hạnh à? Chà, điều này anh từng có thừa rồi mà, hồi đó, khi anh không dám về nhà vì sợ con dao cạo ấy."
"Không phải vậy đâu, Hermine ơi, chuyện này khác. Hồi đó anh rất bất hạnh, đồng ý. Nhưng đó là một bất hạnh ngớ ngẩn, vô bổ."
"Sao thế?"
"Vì nếu không thì anh đã chẳng phải mang nỗi sợ này trước cái chết mà anh vẫn ước ao! Điều bất hạnh mà anh cần và khao khát có khác. Nó là thứ khiến anh đau khổ vì đam mê và chết trong hoan lạc. Đó mới chính là sự bất hạnh hoặc hạnh phúc anh chờ đợi."
"Em hiểu anh. Trong chuyện này mình là anh em. Nhưng điều gì khiến anh phản đối niềm hạnh phúc đã tìm thấy với Maria lúc này? Sao anh không hài lòng?"
"Anh chẳng có gì để phản đối hạnh phúc ấy; không đâu, anh yêu quý nó, anh biết ơn nó chứ. Nó thật rực rỡ như một ngày nắng đẹp trong một mùa hè mưa tầm tã. Nhưng anh cảm thấy nó không lâu bền. Cả thứ hạnh phúc này cũng vô bổ. Nó làm anh hài lòng đấy, nhưng sự hài lòng không phải là thực phẩm cho anh. Nó khiến Sói Thảo Nguyên buồn ngủ, làm con sói no cành. Nhưng đó không phải là thứ hạnh phúc để phải chết vì nó."
"Nghĩa là cần phải chết ư, Sói Thảo Nguyên?"
"Anh nghĩ rằng cần! Anh rất hài lòng với hạnh phúc của mình, anh còn có thể chịu đựng nổi nó lâu thêm nữa. Nhưng nếu thỉnh thoảng hạnh phúc cho anh được một giờ để anh thức tỉnh và có được khao khát, thì nỗi khát khao của anh hoàn toàn không hướng tới sự giữ gìn hạnh phúc này mãi mãi, mà hứng chịu lại đau khổ, nhưng đẹp và ít thảm hại hơn xưa. Anh thèm khát thứ đau khổ khiến anh sẵn sàng và vui lòng chết."
Hermine dịu dàng nhìn vào mắt tôi, một cái nhìn đột nhiên rất mực buồn bã. Ôi, đôi mắt tuyệt vời và đáng sợ! Nàng chậm rãi lựa từng lời, đắn đo sắp xếp rồi mới nói thật khẽ khiến tôi phải cố gắng mới nghe được.
"Hôm nay em muốn nói với anh đôi điều, đôi điều em đã biết từ lâu, cả anh cũng biết nữa, nhưng có thể anh chưa nói với chính anh thôi. Bây giờ em nói với anh những điều em biết về em, về anh và về số phận của chúng mình. Harry ơi, anh từng là một nghệ sĩ và nhà tư tưởng, một người đầy niềm vui và niềm tin, lúc nào cũng đi tìm sự vĩ đại và vĩnh cửu, không bao giờ hài lòng với điều tầm thường và đơn giản. Nhưng cuộc đời càng thức tỉnh anh, khiến anh thấu hiểu chính mình bao nhiêu thì tình trạng cùng quẫn của anh càng lớn bấy nhiêu, anh càng chìm sâu thêm, đến tận cổ, trong đau khổ, lo âu, tuyệt vọng; mọi điều trước đây anh thấy là đẹp đẽ, thiêng liêng và anh yêu quý, tôn sùng, mọi niềm tin trước đây của anh vào con người và về sứ mạng cao cả của chúng ta đều đã không thể giúp được anh, chúng đã trở nên vô dụng và nát vụn. Niềm tin của anh không tìm được không khí để thở nữa. Và chết ngộp thì thật đau khổ. Đúng thế không, Harry? Có phải đó là số phận của anh không?"
Tôi gật lấy gật để.
"Đầu óc anh sẵn mang một hình ảnh của cuộc đời, một niềm tin, một đòi hỏi; anh từng sẵn sàng hành động, hứng chịu đau khổ và hy sinh, nhưng rồi dần dà nhận thấy rằng thế giới không đòi hỏi ở anh hành động và hy sinh cùng những điều tương tự, rằng cuộc đời không phải là một thiên anh hùng ca với những vai người hùng và những vai này nọ, mà chỉ là một căn buồng tiện nghi trưởng giả, ở đấy người ta hoàn toàn hài lòng với chuyện ăn uống, cà phê cà pháo, đan vớ, chơi bài Ta rô và nghe nhạc từ radio. Còn ai thích lối sống khác, ai mang trong người chí khí anh hùng, yêu cái đẹp, tôn sùng những thi hào hay các bậc thánh thì người ấy là một kẻ dại khờ, một kỵ sĩ kiểu Don Quichotte. Đấy. Bạn ơi, em cũng từng như thế đấy! Em vốn là một cô gái nhiều năng khiếu, được sinh ra để sống theo một tấm gương cao cả, đặt cho mình những đòi hỏi lớn lao và hoàn thành những nhiệm vụ cao quý. Em có thể chọn cho mình một định mệnh to tát, thành vợ một ông vua, thành người tình một nhà cách mạng, em gái một thiên tài, mẹ một kẻ tuẫn đạo. Nhưng cuộc đời chỉ cho em thành một cô điếm thượng lưu với khiếu thẩm mỹ tàm tạm - chỉ điều này thôi cũng đủ làm em khó khăn rồi! Hoàn cảnh em như thế đấy. Em tuyệt vọng mất một lúc và tự trách mình trong thời gian khá lâu. Cuộc đời nhất định phải luôn luôn có lý, em nghĩ thế, thành thử khi cuộc đời nhạo báng những giấc mộng đẹp của em thì bởi vì chúng vớ vẩn và sai lầm. Nhưng trách móc cũng chẳng ích gì. Và vì mắt em tinh, tai em thính và cũng bởi em hơi tò mò, nên em mới quan sát thật kỹ cái gọi là cuộc đời, quan sát những người quen biết và hàng xóm của em, năm mươi con người cùng số phận, hoặc hơn nữa, và Harry ơi, em thấy rằng những giấc mơ của em là đúng đắn, nghìn lần đúng đắn, cũng như những giấc mở của anh vậy. Còn cuộc đời, thực tại mới nhầm lẫn. Việc một người đàn bà thuộc loại như em không tìm được chọn lựa nào khác hơn là gõ máy chữ, phục vụ một tay giỏi kiếm chác, rồi già đi thảm hại và vô nghĩa hoặc lấy một kẻ giỏi kiếm chác như thế vì tiền, hoặc thành một thứ gái điếm, điều ấy cũng đúng chẳng kém việc một người như anh, cô đơn và nhút nhát, phải tuyệt vọng chụp lấy lưỡi dao cạo. Có thể sự khốn khổ nơi em thiên về vật chất và đạo đức, còn ở anh nặng về tinh thần hơn, nhưng cũng là con đường ấy thôi. Anh cho rằng em không hiểu nổi việc anh sợ hãi điệu Foxtrott, việc anh chán ghét những quán rượu và những sàn nhảy, việc anh không ưa nhạc Jazz cùng mấy thứ vớ vẩn đó ư? Em hiểu quá đi chứ, hiểu luôn cả sự kinh tởm của anh trước chính trị, sự buồn phiền của anh về trò tào lao và bộ tịch vô trách nhiệm của các đảng phái, của báo chí, nỗi tuyệt vọng của anh về chiến tranh, về cuộc chiến vừa qua và sẽ đến, về cung cách ngày nay người ta suy nghĩ, đọc sách báo, xây dựng, soạn nhạc, cử hành lễ lạc, tiến hành giáo dục! Sói Thảo Nguyên ơi, anh có lý, có lý nghìn lần, thế nhưng anh vẫn tiêu vong. Anh đòi hỏi quá nhiều và quá ham muốn đôi với cái thế giới bình dị, thoải mái, dễ hài lòng hiện nay; nó tống anh ra, vì anh vượt trội hơn nó cả một kích cỡ. Ngày nay ai muốn sống và vui hưởng cuộc đời thì người ấy không thể giống như anh và em. Cái thế giới xinh đẹp này đây không phải là quê hương cho kẻ đòi hỏi âm nhạc thật sự thay vì tiếng ò e, hân hoan thay vì lạc thú, tâm hồn thay vì tiền bạc, lao động thật sự thay vì náo nhiệt, đam mê thật sự thay vì đùa nghịch..."
Nàng nhìn xuống sàn nhà, trầm ngâm.
"Hermine," tôi dịu dàng kêu, "em gái ơi, em nhìn đời rõ biết bao! Thế mà em đã dạy Foxtrott cho anh đấy! Nhưng em nghĩ gì khi bảo rằng những người như chúng ta, những người thừa một kích cỡ, không thể sống ở đây? Nguyên do tại đâu? Chỉ thời đại chúng ta ngày nay mới thế? Hay đã mãi vậy rồi?"
"Em không rõ. Vì danh dự của thế giới nên em muốn cho rằng chỉ thời đại chúng ta mới thế, rằng đó chỉ là một thứ bệnh, một bất hạnh nhất thời. Trong khi các nhà lãnh đạo chuẩn bị bền bỉ và hữu hiệu cho cuộc chiến tranh sắp tới thì lũ chúng ta nhảy nhót, kiếm tiền và ăn sô cô la - trong một thời đại như thế này thì quả thật thế giới phải làm ra vẻ rất thanh đạm. Hy vọng những thời đại trước kia khấm khá hơn và rồi mai đây sẽ lại tốt đẹp hơn, giàu sang hơn, phong phú hơn, tận hưởng hơn. Nhưng chúng mình cũng chẳng khá gì hơn. Có lẽ đã luôn như thế này rồi..."
"Luôn như ngày nay à? Luôn là một thế giới cho lũ chính trị gia, bọn gian thương, đám bồi bàn và bọn ăn chơi, còn chẳng có không khí cho con người sao?"
"Chà, điều này em không biết, không ai biết cả. Vả lại, biết hay không cũng vậy thôi. Nhưng bạn ơi, bây giờ em nghĩ tới người mà anh quý mến và thỉnh thoảng vẫn kể và đọc cả thư cho em nghe, em nghĩ đến Mozart. Chuyện của ông ta như thế nào? Hồi đó ai thống trị thế giới, hớt phần béo bở nhất, giữ vai trò quyết định và được chú ý: Mozart hay những kẻ vụ lợi, Mozart hay đám người tầm thường nông cạn? Ông ta đã chết và được chôn cất như thế nào 18? Đấy, em nghĩ, có lẽ nó đã và sẽ mãi luôn như thế. Còn cái trong trường học gọi là 'Lịch sử thế giới' mà ta phải thuộc lòng để nâng cao kiến thức, với những đấng anh hùng, những bậc thiên tài, những hành động và tình cảm vĩ đại - đó chỉ rặt là dối trá thôi, do mấy ông thầy nghĩ ra cho mục đích giáo dục, để lũ trẻ có chuyện làm trong những năm học đã được quy định 19. Lũ hèn mọn và tầm thường nắm giữ thời gian và thế giới, tiền tài và quyền lực, còn những người khác, những con người đích thực, lại chẳng có gì hết - ngoài cái chết; điều này đã luôn như thế và sẽ mãi như thế."
"Họ không có gì khác à?"
"Có chứ, sự vĩnh cửu."
"Em muốn nói tới danh tiếng và vinh quang nơi hậu thế?"
"Không đâu, Sói Thảo Nguyên thân mến ơi, không phải vinh quang - nó có giá trị gì chăng? Bộ anh tưởng mọi con người thật sự chân chính và hoàn hảo đều nổi tiếng và được hậu thế biết đến ư?"
"Không, dĩ nhiên không."
"Nghĩa là không phải vinh quang rồi nhé. Vinh quang chỉ có cho sự giáo dục thôi, nó là chuyện của các thầy giáo. Đó không phải là vinh quang, không đâu! Nhưng đấy là cái em gọi là sự vĩnh cửu. Những người sùng tín gọi đó là nước Chúa. Em tự nghĩ: hết thảy bọn người chúng ta, những kẻ đòi hỏi cao hơn, mang khát vọng, thừa một kích cỡ, có lẽ không thể nào sống được nếu ngoài thứ không khí của thế giới này ra chẳng có một thứ không khí nào khác để chúng ta thở, nếu ngoài thời gian không có thêm cả sự vĩnh hằng, và đó chính là vương quốc của sự đích thực. Nó bao gồm âm nhạc của Mozart và những bài thơ của các thi hào anh quý mến, nó gồm cả các vị thánh, những bậc đã làm nên phép lạ, đã hứng chịu sự tuẫn đạo và thành một tấm gương vĩ đại cho con người. Nhưng trong sự vĩnh cửu có cả hình ảnh của mỗi hành động chân chính, sức mạng của mỗi tình cảm thật sự, dù không ai biết, trông thấy, ghi chép lại và gìn giữ cho hậu thế. Trong sự vĩnh cửu không có hậu thế, mà chỉ có cùng thế hệ thôi."
"Em có lý," tôi nói.
"Những người sùng tín," nàng trầm ngâm nói tiếp, "biết rõ những điều này hơn cả. Vì thế họ đã dựng nên các vị thánh và cái mà họ gọi là 'Cộng đồng các thánh'. Các thánh chính là những con người đích thực, là các em của Đấng Cứu Thế. Suốt đời chúng ta tìm đến với họ, bằng mỗi việc thiện, mỗi ý tưởng dũng cảm, mỗi tình thương yêu. 'Cộng đồng các thánh' - xưa kia được các họa sĩ minh họa trong một bầu trời dát vàng, rực rỡ, tươi đẹp và đầy yên bình - không là gì khác hơn cái em vừa mới gọi là 'sự vĩnh cửu'. Đó là một vương quốc ở phía bên kia của thời gian và cái biểu hiện. Chúng ta thuộc về đó; nơi đó là quê hương của chúng ta, con tim chúng ta vươn tới đó, Sói Thảo Nguyên ơi, vì thế nên chúng ta khao khát chết. Ở đó anh sẽ lại tìm thấy Goethe, Novalis và Mozart của anh, còn em sẽ tìm thấy lại những vị thánh của em, thánh Christopher, thánh Philipp xứ Neri và tất cả các vị khác. Trước khi thành thánh, nhiều vị đã phạm tội ghê gớm lắm; cả tội lỗi cũng có thể là một con đường dẫn tới sự thánh thiện, cả tội lỗi và thói hư, tật xấu. Hẳn anh sẽ cười, nhưng em thường tự nghĩ có thể cả anh bạn Pablo của em cũng là một vị thánh đang ẩn mặt. Chao ôi, Harry ơi, chúng ta phải mò mẫm qua bao nhơ bẩn và phi lý đến thế để về nhà! Và chúng ta không có ai dẫn đường, chỉ lối; hướng đạo duy nhất của chúng ta là nỗi nhớ nhà."
Những lời cuối cùng này nàng lại nói thật khẽ; giờ đây căn phòng tĩnh lặng với vẻ yên bình, mặt trời đang lặn hắt ánh sáng lóng lánh lên những chứ dát vàng trên gáy nhiều quyển trong tủ sách của tôi. Tôi ôm mái đầu Hermine trong đôi tay, hôn lên trán nàng, áp má nàng vào má tôi, như thể anh em; chúng tôi đứng một lúc lâu như thế. Tôi ước ao cứ được mãi thế này và hôm nay không phải đi ra ngoài nữa. Song tối nay, đêm cuối cùng trước buổi đại vũ hội, Maria đã hứa dành cho tôi.
Nhưng trên đường tới gặp Maria tôi lại không nghĩ tới nàng, mà chỉ nghĩ đến những điều Hermine vừa nói. Tất cả những điều này, theo tôi, có lẽ không phải là ý tưởng của chính nàng, mà của tôi; nàng, người có khả năng nhìn thấu những điều vô hình, đã đọc được chúng, đã hấp thụ, rồi thuật lại với tôi, khiến chúng trở nên có hình dáng, thành mới lạ đối với tôi. Tôi đặc biệt biết ơn nàng đã nói ra ý tưởng về sự vĩnh cửu vào lúc ấy. Tôi cần nó, thiếu nó tôi không thể sống và cũng không thể chết. Hôm nay tôi được người bạn gái, đồng thời là cô giáo dạy tôi khiêu vũ, tặng lại cái thế giới bên kia thiêng liêng, phi thời gian, thế giới của giá trị vĩnh cửu, của thực thể thần thánh. Tôi phải nghĩ đến giấc mơ đã gặp Goethe, đến hình ảnh bậc trí giả già nua đã cười cợt quá mức, đã đùa bỡn tôi kiểu những người bất tử. Mãi lúc này tôi mới hiểu tiếng cười của Goethe, tiếng cười của những người bất tử. Nó không có đối tượng, tiếng cười này ấy mà, nó chỉ là ánh sáng, là sự sáng ngời; nó là cái còn sót lại khi một con người đích thực đã trải qua những đau khổ, tật xấu, lầm lạc, đam mê và ngộ nhận của con người, đi vào cõi vĩnh hằng, vào khoảng không của vũ trụ. Và "sự vĩnh cửu" không là gì khác hơn sự giải thoát của thời gian; có thể gọi đó là sự trở về với sự hồn nhiên của nó, sự chuyển hóa trở lại của nó vào không gian.
Tôi tìm Maria nơi chúng tôi thường hay ăn tối với nhau, nhưng nàng chưa đến. Tôi ngồi chờ nàng ở cái bàn đã được bày biện sẵn sàng trong cái quán im ắng ở ngoại ô, đầu óc vẫn còn vương vấn buổi trò chuyện với Hermine. Tôi thấy tất cả những ý tưởng xuất hiện đột ngột giữa nàng và tôi đều rất quen thuộc, đều đã biết từ lâu, được cấu thành từ thần thoại và thế giới hình ảnh của tôi, hoàn toàn của riêng tôi! Những con người bất tử đang sống trong khoảng không phi thời gian, trầm mặc, trở thành hình ảnh, quanh họ là sự vĩnh cửu kết tinh tựa ê te và sự trong sáng lạnh lẽo, rực rõ như trăng sao của cõi siêu trần ấy - từ đâu mà tất cả những điều đó lại quen thuộc với tôi đến thế? Tôi ngẫm nghĩ và chợt nhớ mấy đoạn trong bài Cassations 20 của Mozart, bài Das wohltemperierte Klavier 21 của Bach; tôi thấy dường như trong loại nhạc này đâu đâu cũng rạng ngời thứ ánh sáng mát mẻ lấp lánh sao trời và sự dao động của vĩnh cửu trong vắt tựa ê te. Phải, chính thế, chính âm nhạc này là thứ gì đấy tực như thời gian đông cứng lại thành không gian và một niềm hân hoan siêu phàm, tiếng cười thần thánh bất tuyệt, nhẹ vỗ đôi cách miên viễn bên trên nó. Chà, cụ Goethe già trong giấc mơ của tôi cũng rất hợp vào đấy! Và đột nhiên tôi nghe chung quanh vang dội tiếng cười khó hiểu kia, tôi nghe những người bất tử ấy cười. Tôi ngồi như bị hớp hồn và xuất thần moi túi áo vét tìm bút chì, tìm giấy. Thấy tấm bảng giá rượu vang trước mặt, tôi lật ngược nó lại, viết lên mặt kia những vần thơ mà mãi hôm sau tôi mới lại phát hiện trong túi áo. Những vần thơ ấy như sau:
NHỮNG NGƯỜI BẤT TỬ
Từ những lũng sâu nơi trần thế
Mãi bốc lên tới tận chúng ta nỗi khát khao mãnh liệt của cuộc đời,
Cảnh bần hàn cùng cực, cảnh thừa thãi mê cuồng,
Làn khói đẫm máu của hàng nghìn bữa ăn cuối cùng của đám tử tội,
Khoái lạc vật vã, dục vọng không cùng,
Những bàn tay của lũ sát nhân, những bàn tay của bọn cho vay cắt cổ,
những bàn tay chắp lại của kẻ nguyện cầu,
Bầy người bị nỗi sợ và dục vọng quất túi bụi
Chúng toát mùi thịt sống, nóng ẩm và thối rữa,
Chúng hít thở lạc thú và niềm hưng phấn man dại,
Chúng nhai nhau nghiến ngấu rồi lại ọe ra,
Chúng hoạch định những cuộc chiến tranh và bàn tính về mỹ thuật,
Chúng trang hoàng bằng cuồng vọng ngôi nhà chứa đang ngùn ngụt lửa,
Chúng ăn sống, nuốt tươi và phóng đãng
qua những trò vui chơi nơi chợ phiên huyên náo thế giới trẻ thơ của chúng
Nó vươn lên từ những làn sóng cho mỗi trẻ sơ sinh
Như nó từng rã thành cát bụi cho mỗi con người
Chúng ta, ngược lại, đã ngự
Trong giá băng rực rỡ sao trời trên Thượng giới 22
Chúng ta không cần biết đến tháng ngày, giờ khắc,
Không phân chia nam nữ, trẻ già.
Tội lỗi hay niềm lo nỗi sợ của các người.
Hành vi sát nhân hay lạc thú nhục dục của các người
Đối với chúng ta chỉ là cảnh tượng như các vầng dương đang luân chuyển,
Đối với chúng ta mỗi một ngày đều là ngày dài nhất.
Chúng ta nhìn xuống cảnh sống nhốn nháo của các người mà lặng lẽ gật gù,
Rồi lặng thinh ngẩng nhìn tinh tú vần xoay.
Chúng ta hít thở mùa đông của vũ trụ,
Làm bạn với thiên long,
Kiếp trường sinh của chúng ta lạnh lẽo và bất biến,
Tiếng cười vĩnh cửu của chúng ta lạnh lẽo và sáng rực ánh sao.
Rồi Maria đến. Sau bữa ăn vui vẻ tôi cùng nàng đi tới căn phòng nhỏ của chúng tôi. Tối hôm ấy nàng đẹp hơn, nồng nàn hơn, gắn bó hơn bao giờ hết và nàng cho tôi nếm những mơn trớn và đùa giỡn mà tôi cảm thấy đó là sự hiến dâng trọn vẹn.
"Maria," tôi nói, "bữa nay em hào phóng như một nữ thần. Nhưng chớ làm hai đứa mình thành dở sống dở chết nhé, vì mai là vũ hội hóa trang rồi. Mai em sẽ đi với người bạn nhảy thuộc loại nào? Bông hoa bé nhỏ yêu quý của anh ơi, anh sợ đó là một hoàng tử trong truyện thần thoại và em sẽ bị y bắt cóc, không bao giờ tìm được đường về với anh nữa. Đêm nay em yêu anh khác nào những kẻ yêu nhau tha thiết trước lúc chia tay, chia tay lần cuối."
Nàng áp sát môi vào tai tôi, thì thầm:
"Đừng nói thế, Harry ơi! Lần nào cũng đều có thể là lần cuối. Nếu Hermine lấy mất anh, anh sẽ không tới với em nữa. Có thể ngày mai nàng lấy mất anh rồi."
Tôi chưa bao giờ cảm nhận được cái cảm giác đặc biệt mãnh liệt của những ngày này, vừa ngọt ngào vừa cay đắng lạ kỳ, như vào cái đêm trước vũ hội. Điều tôi cảm thấy chính là hạnh phúc: sắc đẹp cùng sự dâng hiến của Maria; tôi tận hưởng, vuốt ve, hít thở hàng trăm thứ dục cảm thanh nhã và tinh tế mà mãi sau này, khi về già, tôi mới tìm hiểu; nó như tiếng róc rách trong một làn sóng đu đưa nhè nhẹ của sự thỏa mãn. Nhưng đó chỉ là lớp vỏ ngoài thôi, còn bên trong mới thật đầy ý nghĩa, căng thẳng, định mệnh; trong khi tôi trìu mến và dịu dàng bận rộn với những chuyện lặt vặt ngọt ngào và xúc động của tình yêu, như thể đang ngụp lặn trong hạnh phúc ấm áp thì lòng tôi cảm thấy định mệnh của mình đang cắm đầu cắm cổ lao tới trước, như con ngựa bị săn đuổi và đánh đập nên sợ hãi, phi về phía vực thẳm, về phía nó sẽ rơi xuống, đầy hãi sợ, đầy khao khát, đầy hiến dâng cho cái chết. Giống như không lâu trước đây tôi còn chống lại sự cẩu thả thoải mái của tình yêu thuần nhục cảm, cũng như từng cảm thấy sợ hãi trước sắc đẹp cười cợt sẵn sàng hiến dâng của Maria, giờ đây tôi cảm thấy sợ hãi trước cái chết - nhưng đó là sự sợ hãi do ý thức rằng chẳng mấy chốc nó sẽ trở thành dâng hiến và giải thoát.
Trong khi chúng tôi lặng lẽ đắm chìm trong những vui thú của tình yêu và thuộc về nhau hơn bao giờ hết thì tâm hồn tôi vĩnh biệt Maria, vĩnh biệt hết thảy những gì liên quan tới nàng và có ý nghĩa với tôi. Tôi đã học được ở nàng, một lần nữa trước khi kết thúc, sự phó thác mình cho trò chơi ngoài mặt của cuộc đời như một đứa trẻ, tìm kiếm những thú vui rất mực phù du, vừa trẻ thơ vừa thú vật trong sự hồn nhiên của giới tính - một trạng thái mà trong cuộc đời trước kia tôi chỉ biết như những ngoại lệ hiếm hoi, vì đối với tôi cuộc sống của giác quan và giới tính hầu như luôn có dư vị cay đắng của tội lỗi, cái hương vị ngọt ngào nhưng bồn chồn của thứ trái cấm mà một người trí thức phải cảnh giác. Nay Hermine cùng Maria đã cho tôi xem khu vườn này với tất cả sự tinh khiết vô tội của nó và tôi thầm biết ơn được là người khách của khu vườn ấy - nhưng sắp đến lúc tôi lại tiếp tục lên đường rồi. Trong khu vườn này quá đẹp và quá ấm. Số phận của tôi là tiếp tục cố đạt tột đỉnh cuộc sống, tiếp tục sám hối tội lỗi vô hạn của cuộc đời. Một cuộc sống dễ dàng, một tình yêu dễ dài, một cái chết nhẹ nhàng - những điều này hoàn toàn không phải cho tôi.
Qua những lời úp úp mở mở của hai nàng tôi đoán rằng người ta dự định sẽ có nhiều thú vui độc đáo và lắm trò trụy lạc tại buổi vũ hội ngày mai, hoặc tiếp sau đó. Có thể đấy sẽ là màn kết thúc, có thể Maria đã linh cảm đúng và đêm nay chúng tôi gần gũi nhau lần cuối, có thể ngày mai bắt đầu cuộc vận hành mới của định mệnh? Tâm hồn tôi chất chứa đầy khát khao nóng bỏng, đầy âu lo đến ngạt thở và tôi cuồng dại ghì chặt Maria, một lần nữa chạy qua mọi lối mòn và bụi rậm trong khu vườn của nàng với ánh mắt bừng bừng thèm khát, một lần nữa cắn vào quả ngọt của cây trái thiên đường.
Hôm sau tôi ngủ bù cho cái đêm thức suốt này. Sáng ra tôi đi xe tới chỗ tắm 23, rồi đi xe về nhà, mệt rã rời, kéo màn cho tối căn phòng ngủ; lúc thay quần áo tôi có thấy bài thơ trong túi, nhưng chẳng buồn xem mà lăn ngay ra giường, quên Maria, quên Hermine cùng buổi vũ hội hóa trang. Tôi ngủ vùi suốt ngày, chiều mới dậy; mãi lúc cạo râu mới sực nhớ chỉ một giờ nữa thôi buổi vũ hội sẽ bắt đầu và tôi phải lúc tìm một chiếc sơ mi trắng để mặc với áo đuôi tôm. Tôi vui vẻ đóng bộ rồi ra khỏi nhà, trước tiên để đi ăn tối.
Đây là buổi vũ hội hóa trang đầu tiên tôi tham dự. Xưa kia, thỉnh thoảng tôi cũng đến những dạ hội kiểu này, đôi khi thấy cũng hay hay, nhưng tôi không nhảy mà chỉ làm khán giả thôi, nên luôn thấy thật là khôi hài khi nghe người khác kể lể và mừng vui chờ đợi nó. Còn hôm nay buổi vũ hội cũng là một biến cố đối với tôi và tôi hân hoan chờ đón với tâm trạng căng thẳng và không phải không âu lo. Vì không dẫn theo bạn nhảy nữ nên tôi quyết định sẽ đến đó trễ, chính Hermine cũng đã khuyên như thế.
Dạo gần đây tôi hiếm khi tới quán Mũ Sắt, chốn ẩn dật của tôi ngày trước, nơi những người đàn ông chán nản ngồi cho qua buổi tối, nốc vang, đóng vai thanh niên độc thân; quán ấy không còn phù hợp với cuộc sống hiện giờ của tôi nữa. Song tối nay tôi lại bị kéo tới đó, hoàn toàn tự động. Trong tâm trạng hân hoan lẫn âu lo trước định mệnh và sự vĩnh biệt, cái tâm trạng đang chết ngự tâm hồn tôi lúc ấy, mọi chốn tôi đã dừng chân và mọi nơi ghi dấu hồi tưởng trong đời tôi đều ngời lên một lần nữa vẻ huy hoàng tươi đẹp đau đớn của quá khứ, và như thế có cả cái quán nhỏ mù khói thuốc lá, nơi gần đây tôi còn là một trong những khách hàng quen thuộc, nơi trước đây không lâu cái chất làm đê mê tầm thường của một chai vang nhẹ trong vùng cũng đã đủ để động viên tôi lại trở về được một đêm với cái giường cô quạnh của mình, để có thể chịu đựng thêm một ngày của cuộc sống. Từ ấy tôi đã thử những thứ thuốc khác, kích thích mạnh hơn, đã nuốt những chất độc ngọt ngào hơn. Tôi mỉm cười bước vào cái quán ngày trước ấy, được bà chủ đon đả và những người khách quen thuộc đang trầm mặc khẽ gật đầu chào đón. Bà giới thiệu món gà tơ quay rồi bưng cho tôi một con; vang Alsace màu tươi - loại còn non - được rót vào chiếc ly thủy tinh dày kịch kiểu nông thôn; những chiếc bàn gỗ sạch sẽ màu trắng và lớp ván ốp tường cũ kỹ màu vàng thân mật nhìn tôi. Trong lúc ăn uống, lòng tôi trào lên cảm giác của sự tàn phai cùng buổi tiệc chia ly, cái cảm giác ngọt ngào và đớn đau thầm kín của mối gắn bó tuy chưa hề tách rời hẳn, nhưng nay đã đủ chín muồi để chia ly với mọi nơi và mọi sự vật trong cuộc đời trước kia của tôi. Con người "hiện đại" gọi thế là đa cảm; y không còn yêu quý những sự vật này nữa, kể cả chiếc ô tô là thứ thiêng liêng nhất của y mà y hy vọng sớm có thể đổi sang một hiệu khác tốt hơn. Con người hiện đại này táo bạo và tự tin, tháo vát, khỏe mạnh, lạnh lùng và nghiêm ngặt, một mẫu người xuất sắc; y sẽ chứng tỏ điều này một cách phi thường trong cuộc chiến tranh sắp tới. Tôi chẳng màng gì mấy thứ ấy, tôi là người không hiện đại cũng chẳng lạc hậu, tôi đã thoát ra khỏi thời gian, tôi thôi thúc mình cận kề cái chết và quyết tâm vươn tới cái chết. Tôi chẳng còn chống đối gì sự đa cảm, ngược lại tôi mừng và biết ơn khi còn cảm thấy trong trái tim đã khô héo của mình chút gì đấy như thể cảm xúc. Cho nên tôi đã thả hồn mình vào những kỷ niệm với ngôi quán cũ kỹ này, vào nỗi quyến luyến của tôi với những chiếc ghế cũ kỹ cục mịch, thả hồn vào mùi khòi thuốc và rượu vang, vào một thoáng của thói quen, của hơi ấm, của một cái gì đấy giống như Tổ quốc mà tất cả những điều này đã tạo cho tôi. Tạ từ đi thôi, lòng tôi khẽ bảo. Tôi yêu cái ghế cứng ngắc này, cái ly nhà quê này, yêu vị trái cây mát lạnh của vang Alsace, yêu sự thân thiết giữa tôi với tất cả và với mỗi thứ trong căn phòng này, yêu gương mặt của những người mơ màng ngồi uống rượu, những kẻ thất vọng mà tôi từng là anh em của họ từ lâu. Những gì tôi cảm nhận ở đây chính là sự đa cảm trưởng giả, đượm chút hương vị lãng mạn lỗi thời của quán rượu thời tôi còn nhỏ, khi mà tửu lầu, rượu vang và thuốc lá vẫn còn là những món kỳ lạ và tuyệt vời, bị cấm đoán. Nhưng chẳng con sói thảo nguyên nào nhổm dậy, nhe nanh xé tan tính đa cảm của tôi ra thành từng mảnh. Tôi ngồi thanh thản ở đấy, nóng bừng bởi quá khứ, bởi tia sáng yếu ớt của một vì sao vừa tắt lịm.
Một người bán hàng rong bước vào quán mời hạt dẻ nướng, tôi mua một vốc. Một bà lão bán hoa bước vào, tôi mua vài bông cẩm chướng tặng bà chủ quán. Chỉ khi tôi định trả tiền mà tìm mãi không thấy cái túi áo khoác quen thuộc, mới sực nhớ mình đang mặc áo đuôi tôm. Vũ hội hóa trang! Hermine!
Nhưng hãy còn quá sớm, tôi lưỡng lự có nên tới Sảnh đường Địa Cầu ngay bây giờ chưa. Vả lại, tôi cảm thấy - như mọi lần vui chơi trong thời gian gần đây - lòng mình đầy phản kháng và ngần ngại, một mối ác cảm đối với việc vào trong những sảnh đường rộng lớn, đông nghẹt và quá ồn ào, một sự nhút nhát kiểu học trò trước những bầu không khí xa lạ, trước thế giới của những kẻ ăn chơi, trước cảnh khiêu vũ.
Tôi lững thững đi ngang một rạp xi nê, thấy đèn đuốc và những tấm quảng cáo màu mè khổng lồ sáng lóa; qua được vài bước tôi quay lại, vào rạp. Tôi có thể thoải mái ngồi yên ở đây trong bóng tối đến quãng mười một giờ. Theo anh chàng soát vé cầm đèn bấm dẫn đường, tôi bước cao bước thấp đi qua tấm màn cửa vào căn phòng âm u, tìm được một chỗ ngồi rồi bỗng dưng thấy mình ở ngay trong Cựu Ước. Đây là một trong những bộ phim trên danh nghĩa không phải để hốt bạc, lại được quay thật công phu và tốn kém vì những mục đích cao cả và thiêng liêng, nên thậm chí học trò còn được các ông thầy dạy giáo lý dẫn tới xem suất xế trưa. Phim diễn tả sự tích Moses 24 và dân Do Thái thời ở Ai Cập, với cơ man người, ngựa, lạc đà, dinh thự, sự huy hoàng của các Pharaon và nỗi thống khổ của dân Do Thái trong sa mạc nóng bỏng. Tôi thấy Moses - một Moses tuyệt đẹp trên sân khấu, tóc tai chải chuốt hao hao bắt chước Walt Whitman 25 - chốn cây gậy dài, bước chân như của thầm Wotan 26, sôi nổi và buồn bực đi qua sa mạc, dẫn đầu đám dân Do Thái. Tôi thấy ông cầu khẩn Chúa Trời nơi Biển Đỏ, rồi Biển Đỏ tẽ ra, để lộ một con đường, một cái khe giữa hai làn nước bị chặn lại tựa núi cao vòi vọi (các cậu học trò chịu lễ kiên tin 27 được ông linh mục dẫn xem bộ phim tôn giáo này sẽ tranh cãi dài dài việc các nhà quay phim dựng cảnh nọ bằng cách nào), tôi thấy nhà tiên tri băng qua biển trên con đường ấy cùng với đám dân hãi sợ, thấy chiến xa của Pharaon xuất hiện phía sau họ, thấy quân Ai Cập thảng thốt và lưỡng lự nơi bở biển, rồi táo bạo tiến theo, thấy hai núi nước ập vào nhau, vùi lấp Pharaon giáp trụ vàng rực rỡ cùng các chiến xa và binh lính của y, tôi không khỏi nhớ đến bài song ca bất hủ của Händel cho hai giọng trầm, ca ngợi thật tuyệt vời biến cố này. Tôi tiếp tục thấy Moses leo lên núi Sinai, một đấng anh hùng u sầu trên núi đá hoang vu ảm đạm và thấy Đức Jehova đã dùng bão tố, phong ba và sấm chớp truyền cho ông mười điều răn 28 như thế nào, trong khi dưới chân núi đám dân hèn hạ của ông dựng tượng con bê vàng và buông thả vào những trò tiêu khiển khá cuồng nhiệt. Tôi thật rất lạ lùng và không tin nổi đã cùng xem tất cả những chuyện này, những sự tích thiêng liêng cùng với các anh hùng và phép lạ - những sự tích mà thời thơ dại xưa kia đã hé mở cho chúng tôi trí tưởng tượng mơ hồ đầu tiên về một thế giới khác, một thế giới siêu phàm - tại nơi đây, trước đám khán giả trả tiền vào cửa để được xem với lòng đầy biết ơn và đang lặng lẽ nhai những ổ bánh mì con mang theo từ nhà. Đây quả là một tấm hình rời nho nhỏ xinh xắn từ đống hàng khổng lồ rẻ tiền và bán tống bán tháo văn hóa của thời đại này. Chúa ơi, để điều tồi tệ này đừng xảy ra thì tốt hơn lẽ ra ngày trước không chỉ người Ai Cập, mà cả người Do Thái và hết thảy mọi người khác cũng nên bị diệt vong luôn, chết bằng bạo lực và thích đáng, thay vì chết mòn ghê rợn như chúng ta ngày nay. Thế đấy!
Những ngại ngùng thầm kín, nỗi e ngại ngấm ngầm của tôi trước buổi khiêu vũ hóa trang không giảm đi sau cuốn phim và sự kích thích của nó, mà còn tăng thêm thật khó chịu và tôi đã phải nghĩ tới Hermine để cuối cùng tự thúc đẩy mình đi xe đến Sảnh đường Địa Cầu và vào trong đấy. Lúc ấy đã muộn rồi và buổi dạ vũ đã đến hồi náo nhiệt nhất từ lâu; tôi, tỉnh rượu và nhút nhát, chưa kịp cởi áo khoác, đã lọt ngay vào một đám người mang mặt nạ xô đẩy nhau dữ dội; họ thân mật thụi tôi, các cô gái đòi tôi dẫn đến quầy sâm banh, các anh hề vỗ mạng vai tôi, gọi tôi là bồ tèo. Tôi không tham gia mà vất vả luồn lách trong những căn phòng đầy ứ người tới chỗ gửi áo khoác. Khi được trao thẻ số, tôi hết sức cẩn thận cất vào túi áo, thầm nghĩ chắc lại sắp dùng đến nó, khi chán cảnh huyên náo này.
Vũ hội diễn ra trong khắp mọi phòng của tòa nhà lớn; sảnh đường nào cũng có khiêu vũ, cả dưới tầng hầm; mọi hành langvà cầu thang đều tràn ngập người hóa trang, khiêu vũ, âm nhạc, tiếng cười và cảnh đeo đuổi ve vãn. Tôi bối rối lách qua đám đông, từ chỗ ban nhạc da đen tới ban nhạc đồng quê, từ chính sảnh to rộng sáng choang đến các lối đi, cầu thang gỗ, các quầy rượu, những quầy thức ăn, tới những quầy rượu sâm banh. Các bức tường phần lớn treo những bức tranh vui nhộn và hoang dại của những họa sĩ rất trẻ. Nơi đây có đủ mọi hạng người, nghệ sĩ, nhà báo, học giả, doanh nhân và tất nhiên toàn giới ăn chơi của thành phố. Ở một trong các dàn nhạc có Mister 29 Pablo đang ngồi say sưa thổi chiếc kèn uốn cong của anh; khi nhận ra tôi, anh lớn tiếng chào như hát. Tôi bị đám đông xô đẩy hết vào phòng này tới phòng khác, hết lên cầu thang lại xuống cầu thang; một lối đi trong tầng hầm được các nghệ sĩ dàn cảnh thành địa ngục và ở đấy có một ban nhạc quỷ sứ chơi như hóa cuồng. Dần dần tôi bắt đầu chăm chú tìm Hermine và Maria. Nhiều phen tôi cố chen vào phòng chính, nhưng lần nào cũng nhầm đường hoặc bị đám đông cản lối. Tới nửa đêm vẫn chưa tìm thấy một ai, chưa khiêu vũ mà tôi đã nóng ran và chóng mặt; buông mình xuống chiếc ghế gần nhất, giữa những người lạ hoắc, tôi gọi rượu vang và nhận thấy những buổi lễ hội ồn ào thế này chẳng hợp tí nào với một kẻ già nua như mình. Tôi chán nản uống ly vang, đăm đăm nhìn những cánh tay và lưng trần của đám phụ nữ, nhìn những hình hài hóa trang hết sức kỳ quái lướt qua trước mặt, chịu bị họ xô đẩy và lặng lẽ từ chối dăm ba cô gái sà vào lòng tôi hay mời tôi nhảy. "Lão già bẳn tính," một cô đã kêu lên như thế và nàng có lý. Tôi quyết định uống rượu để có chút can đảm và hưng phấn, nhưng thấy vang thật nhạt nhẽo, không nuốt nổi ly thứ hai. Dần dà tôi cảm thấy Sói Thảo Nguyên đứng ngay sau lưng và thè lưỡi chế nhạo. Chẳng có chuyện gì không ổn cả, đây không phải là nơi thích hợp với tôi thôi. Tôi đến đây với tất cả thành tâm, nhưng ở đây tôi không thể vui vẻ được và đối với tôi thì sự hân hoan náo nhiệt, tiếng cười đùa cùng mọi ồn ào ầm ĩ chung quanh thật là ngớ ngẩn và gượng gạo.
Thành ra vào lúc một giờ sáng, tôi thất vọng và cáu kỉnh rón rén quay về quầy gửi áo, lấy áo choàng ra về. Đây là một thất bại, là sự trở lại với trạng thái sói thảo nguyên của tôi và Hermine sẽ không mảy may tha thứ. Nhưng tôi không thể làm khác được. Trên đường chen lấn vất vả qua đám đông xô đẩy tới quầy gửi áo tôi còn nhìn quanh một lần nữa thật kỹ, xem có thấy cô bạn nào không. Hoài công. Giờ đây tôi đứng ở quầy và người đàn ông sau quầy lễ phép chìa tay đón thẻ số của tôi. Tôi thọc tay vào túi áo vét - tấm thẻ không còn đó! Quỷ quái thật, lại thế nữa! Trong lúc buồn rầu đi qua các sảnh, trong lúc ngồi uống ly rượu vang nhạt nhẽo tôi đã nhiều lần thọc tay vào túi, chống lại ý định bỏ về và lần nào cũng đều thấy tấm thẻ dẹt tròn còn đó mà. Bây giờ nó biến mất tiêu. Mọi sự đều chống lại tôi.
"Mất thẻ à?" một con quỷ nhỏ bé màu đỏ và vàng đứng cạnh tôi hỏi the thé. "Đây, ông bạn, dùng cái của tôi vậy," và chìa ngay thẻ cho tôi. Trong lúc tôi như cái máy nhận tấm thẻ và lật qua lật lại trong những ngón tay thì anh chàng nhanh nhảu nọ đã biến mất.
Nhưng khi tôi đưa tấm thẻ nhỏ bằng giấy bồi, tròn như đồng bạc lên gần mắt để tìm số thì không thấy số mà thấy những chữ nhỏ nguệch ngoạc. Tôi yêu cầu người giữ áo chờ, rồi lại dưới chiếc đèn chùm gần đấy để đọc. Trên tấm thẻ nguệch ngoạc mấy chữ nhỏ xiêu vẹo thật khó đọc:
Đêm nay kể từ bốn giờ ở Hí viện ma thuật
- dành riêng cho những người điên -
Vào cửa trả bằng lý trí.
Không phải cho bất kỳ ai.
Hermine đang ở trong địa ngục.
Tựa một con rối bị vuột dây khỏi người điều khiển trong một khoảnh khắc, rồi hồi sinh sau một cái chết và hôn mê ngắn ngủi, lại tham dự vào trò vui, nhảy nhót và diễn xuất, tôi dẻo dai, trẻ trung và hăm hở - như được sợi dây ma thuật kéo giật - chạy ngược vào cảnh chen chúc ồn ào mà vừa mới đây tôi đã trốn chạy vì cảm thấy mệt mỏi, chán chường và già nua. Chưa kẻ phạm tội nào từng xông vào địa ngục vội vàng hơn. Vừa mới rồi đôi giày da bóng còn bó chặt tôi, bầu không khí sặc mùi nước hoa còn khiến tôi tởm lợm, nóng nực còn làm tôi mệt lử, giờ đây đôi bàn chân nhún nhảy của tôi nhanh nhẹn chạy theo nhịp của điệu Onestep qua mọi căn phòng về phía địa ngục; tôi cảm nhận được bầu không khí đầy quyến rũ, hơi ấm, tiếng nhạc ồn ào, màu sắc ngất ngây, hương thơm từ những bờ vai phụ nữ, cơn say của hàng trăm người, tiếng cười, nhịp của vũ điệu, vẻ rạng ngời của mọi cặp mắt khích động đu đưa và dìu đi. Một vũ nữ Tây Ban Nha lao vào vòng tay tôi: "Nhảy với em đi!" - "Không được," tôi nói, "tôi phải xuống địa ngục. Nhưng tôi rất muốn hôn em." Đôi môi đỏ dưới chiếc mặt nạ đáp lại nguyện vọng của tôi và chỉ khi hôn nàng tôi mới nhận ra đó là Maria. Tôi ghì chặt nàng, đôi môi đầy đặn của nàng nở tựa một đóa hoa hồng mùa hè đến độ. Và rồi chúng tôi khiêu vũ với nhau, môi vẫn áp môi, nhảy qua mặt Pablo; anh đang đắm đuối gục đầu trên cái kèn rền rĩ mơn trớn của mình, ánh mắt đẹp như mắt dã thú của anh rạng rỡ và hơi lơ đãng quấn chặt lấy chúng tôi. Vừa mới nhảy được hai mươi bước thì ngưng tiếng nhạc, tôi miễn cưỡng buông Maria khỏi vòng tay.
"Anh rất muốn nhảy với em lần nữa," tôi nói ngất ngây vì hơi ấm của nàng, "nhảy với anh vài bước, Maria nhé, anh say mê cánh tay tuyệt mỹ cuả em, cho anh được nắm thêm một lát nữa! Nhưng mà này, Hermine đã kêu gọi anh. Nàng đang ở địa ngục."
"Em đã đoán thế mà. Vĩnh biệt, Harry, em sẽ mãi nhớ anh."
Nàng giã biệt. Bông hồng mùa hè ấy đã đến độ và ngọt ngào hương thơm của vĩnh biệt, mùa thu và định mệnh.
Tôi tiếp tục chạy qua những hành lang dài đầy nghẹt người âu yếm túm tụm, xuống những bậc thang, vào địa ngục. Ở đây, những ngọn đèn tinh quái sáng chói chang trên những bức tường đen như hắc ín và ban nhạc quỷ sử đang chơi cuồng nhiệt. Một chàng trai tuấn nhã không đeo mặt nạ, trong áo đuôi tôm ngồi trên chiếc ghế cao nơi quầy rượu liếc nhìn tôi với ánh mắt giễu cợt. Tôi bị làn sóng người đang khiêu vũ ép sát vào tường - khoảng hai mươi cặp đang nhảy trong căn phòng rất chật chội này. Tôi hau háu và lo âu quan sát mọi người đàn bà; phần lớn họ còn mang mặt nạ, vài người mỉm cười với tôi, nhưng không có ai là Hermine. Chàng thanh niên tuấn nhã trên ghế cao giễu cợt nhìn về phía tôi. Lần nghỉ sắp tới nàng sẽ đến và gọi tôi, tôi thầm nghĩ. Màn khiêu vũ chấm dứt, mà chẳng ai tới cả. Tôi bước lại quầy rượu bị nhét và một xó của căn phòng nhỏ và thấp choẻn này. Tôi đứng cạnh ghế của chàng trai và gọi Whisky. Tôi vừa uống vừa nhìn nghiêng khuôn mặt của anh chàng. Nó quyến rũ và quen thuộc làm sao, cứ như một bức tranh từ thời rất xa xôi, quý giá nhờ lớp bụi êm đềm của quá khứ. A, đầu óc tôi chợt lóe lên: Đấy chính là Hermann, cậu bạn thời niên thiếu của tôi.
"Hermann!" tôi ngập ngừng.
Cậu ta mỉm cười. "Harry! Anh tìm ra em à?"
Hermine đấy! Tóc nàng chỉ chải hơi khác đi và trang điểm đôi chút, khuôn mặt thông minh của nàng trông xanh xao và lôi cuốn trên chiếc cổ áo đứng hợp thời trang, đôi bàn tay nhỏ nhắn lạ lùng lộ khỏi ống tay áo đuôi tôm màu đen rộng thùng thình và cổ tay áo sơ mi trắng, đôi bàn chân thanh tú lạ thường mang tất đàn ông bằng lụa trắng ló khỏi chiếc quần dài đen.
"Hermine ơi, em định là anh phải lòng em trong bộ phục trang này ư?"
"Cho đến lúc này," nàng gật đầu, "em mới chỉ khiến vài mệnh phụ phải lòng thôi. Nhưng bây giờ thì tới lượt anh. Mình hãy uống sâm banh trước đã."
Ngồi trên ghế cao, chúng tôi uống rượu trong khi ngay cạnh đấy cuộc khiêu vũ lại tiếp tục cùng tiếng đàn dây trỗi lên nóng bỏng. Chẳng mấy chốc tôi đã phải lòng Hermine, dù nàng chẳng có vẻ tốn chút công sức nào. Vì nàng vận nam trang nên tôi không thể cùng nàng khiêu vũ, không thể âu yếm hay ve vãn; nhưng trong lúc nàng có vẻ xa cách và dửng dưng trong bộ phục trang nam giới, nàng lại quấn riết lấy tôi bằng ánh mắt, lời nói, cử chỉ với tất cả nét quyến rũ của nữ tính. Dù chẳng hề chạm đến nàng, tôi vẫn đã bị bùa mê của nàng khuất phục, chính bùa mê này nằm trong vai nàng đóng, vai một người lưỡng tính. Vì nàng trò chuyện với tôi về Hermann và thời thơ ấu, của tôi và của nàng, về những năm tháng trước tuổi dậy thì, thời mà năng lực yêu đương non nớt không chỉ bao trùm hai nam nữ, mà hết thảy mọi thứ, cả giác quan lẫn tinh thần, nó phú cho mọi vật vẻ quyến rũ của tình yêu và khả năng biến hóa thần kỳ mà chỉ ở các thi sĩ và những kẻ được ân sủng thì khả năng này mới thỉnh thoảng vẫn còn tái hiện khi họ đã về già. Nàng đóng vai chàng thanh niên thật hoàn hảo, hút huốc, chuyện trò thoải mái và hóm hỉnh, hay giễu cợt đôi chút, nhưng trên đường tới với giác quan của tôi thì tất cả đều đượm nét thần ái tình eros, tất cả đều chuyển hóa thành sự cám dỗ đáng yêu.
Tôi cứ đinh ninh đã hiểu rất rõ Hermine rồi chứ, thế mà đêm nay nàng biểu lộ thật hoàn toàn mới mẻ làm sao! Nàng đã, nhẹ nhàng và không nhận ra được, quấn quanh tôi tấm lưới mà tôi hằng khao khát; Hermine - như nàng tiên cá - đã cho tôi uống chất độc ngọt ngào thật dễ dàng!
Chúng tôi ngồi trò chuyện và uống sâm banh. Chúng tôi, những kẻ thám hiểm phiêu lưu, vừa lang thang qua các sảnh vừa quan sát, chọn ra những cặp trai gái để lén nghe họ tình tự. Nàng chỉ cho tôi những người đàn bà, yêu cầu tôi khiêu vũ với họ; nàng cho tôi những cặp trai gái để lén nghe họ tình tự. Nàng chỉ cho tôi những người đàn bà, yêu cầu tôi khiêu vũ với họ; nàng cho tôi những lời khuyên về nghệt thuật quyến rũ để ứng dụng với người này, người kia. Chúng tôi đóng vai tình địch, cùng đeo đuổi một người đàn bà trong chốc lát, thay phiên khiêu vũ với nàng, tìm cách chinh phục nàng. Nhưng tất cả vẫn chỉ là trò chơi hóa trang, chỉ là đùa vui giữa hai chúng tôi, khiến chúng tôi gắn bó với nhau hơn, làm cho nhau rạo rực. Tất cả đều là chuyện thần tiên, tất cả đều thêm một kích thước mới, một ý nghĩa sâu hơn. Tất cả đều là trò đùa và biểu tượng. Chúng tôi thấy một thiếu phụ rất đẹp, trông hơi đau khổ và rầu rĩ.
Hermann nhảy với nàng, khiến nàng tươi tỉnh hẳn, đưa nàng đi uống sâm banh, rồi sau đó kể với tôi rằng đã chinh phục được nàng không trong tư cách đàn ông, mà đàn bà, với sự quyến rũ của Lesbos 30. Về phần tôi thì dần dà toàn thể ngôi nhà ồn ào đầy những căn phòng nhảy nhót vang động này, đám người mang mặt nạ hào hứng này đã trở thảnh một thiên đường điên cuồng tuyệt vời, hết bông hoa này đến bông hoa khác mời mọc tôi với hương thơm của nó, tôi đùa nghịch tìm từ quả này sang trái khác với những ngón tay tập tành của tôi, những con rắn cám dỗ nhìn tôi từ bóng tối của đám lá xanh, những bông sen lượn lờ như ma trên bùn đen, nhũng con chim phù thủy dụ dỗ trên nhánh cây, tuy vậy tất cả đều chỉ hướng tôi tới một mục tiêu khao khát, tất cả lại chồng chất lên tôi niềm hoài vọng tới điều duy nhất ấy. Có lần tôi hào hứng nhảy với một thiếu nữ lạ; tôi tán tỉnh, lôi kéo nàng vào sự cuồng nhiệt và ngất ngây, trong lúc chúng tôi bay bổng trong hư ảo, nàng chợt phá lên cười: "Người ta không nhận ra anh đâu nhé. Mới hồi chiều anh còn quá sức ngớ ngẩn và tẻ ngắt." Và tôi nhận ra nàng, người vài giờ trước đó đã gọi tôi là "lão già bẳn tính". Giờ đây nàng tưởng đã chiếm được tôi, nhưng lần khiêu vũ sau tôi đã nhảy và rạo rực với một cô gái khác. Tôi khiêu vũ không ngừng suốt hai giờ hoặc hơn nữa, điệu nào cũng nhảy, cả những điệu tôi chưa từng học. Hermann, chàng trai trẻ tươi cười, không ngớt xuất hiện bên cạnh tôi, gật đầu với tôi rồi mất dạng trong đám đông.
Trong đêm vũ hội này tôi được nếm trải điều mình chưa từng được biết trong năm mươi năm qua, dù mỗi cô gái mới lớn và mỗi sinh viên đều biết: đó là sự trải nghiêm về lễ hội, niềm vui sướng ngất ngây của những người dự lễ, sự hòa mình bí nhiệm của cá nhân trong tập thể, một Unio mystica 31 của niềm vui. Tôi đã thường nghe nói về nó - cô người làm nào cũng đều biết điều đó - và tôi đã thường thấy ánh mắt người kể chuyện sáng long lanh, nhưng tôi chỉ luôn mỉm cười nửa tự cao, nửa ganh tị. Tôi đã thấy cả trăm lần trong đời vẻ rạng rỡ nọ trong đôi mắt ngất ngây của một kẻ sung sướng mê ly đã thoát khỏi Cái Tôi, thấy nụ cười nọ và trạng thái đắm chìm hơi điên rồ của kẻ hòa mình vào cơn say của tập thể, đã thấy qua bao thí dụ cao quý và đê tiện, nơi những cậu tân binh và những chàng thủy thủ say mèm cũng như nơi những nhà nghệ sĩ lớn, chẳng hạn trong niềm say mê ở những buổi trình diễn trọng thể, điều này cũng chẳng kém nơi những người lính trẻ ra mặt trận và vừa mới đây tôi đã ngưỡng mộ, yêu quý, giễu cợt cùng ganh tị vẻ rạng rỡ và nụ cười này của con người hạnh phúc mê ly nơi anh bạn Pablo của tôi, khi anh say sưa trình tấu trong ban nhạc, đu người trên chiếc kèn saxophone hay hân hoan và xuất thân nhìn viên nhạc chơi đi chơi lại bài Yearning này nhiều lần mà vẫn cứ được yêu cầu, nó thấm đẫm chúng tôi và làm mọi người ngây ngất, khe khẽ hát theo giai điệu. Tôi nhảy không ngừng, với bất kỳ người đàn bà nào tôi bắt gặp, với những cô gái trẻ măng, với những thiếu phụ mơn mởn, với những nàng như mùa hè đến độ, với những bà quá lứa âu sầu: tôi say mê tất cả, cười nói, hạnh phúc, rạng rỡ. Và khi Pablo thấy tôi rạng rỡ như thế, tôi, người mà anh vốn luôn coi như một kẻ khốn khổ hết sức đáng thương, mắt anh tràn đầy hạnh phúc nhìn tôi, anh hào hứng đứng lên, rời khỏi chiếc ghế trong ban nhạc, thổi dữ dội vào chiếc kèn, rồi leo lên ghế, phồng má thổi, điên cuồng và hạnh phúc lắc lư người cùng nhạc cụ theo điệu bài Yearning; tôi và người bạn nhảy nữ gửi anh những chiếc hôn gió và cùng cất cao tiếng hát. A, giữa chừng tôi thầm nghĩ, dù chuyện gì sẽ xảy ra với tôi, tôi cũng mặc kệ, vì cả tôi cũng đã được một lần hạnh phúc, rạng rỡ, thoát khỏi chính mình; tôi là một đứa trẻ, một người anh em của Pablo.
Tôi mất đi ý niệm về thời gian, tôi không biết cảm giác ngây ngất này đã kéo dài bao nhiêu giờ hay bao nhiêu khoảnh khắc. Tôi cũng không để ý rằng vũ hội càng trở nên cuồng nhiệt thì lại càng thu hẹp vào phạm vi nhỏ hơn. Phần đông khách khứa đã ra về, các hành lang đã trở nên im ắng, nhiều ngọn đèn đã tắt, khoang cầu thang vắng tanh vắng ngắt, ở những căn phòng lầu trên các ban nhạc đã lần lượt im tiếng và ra về; chỉ trong phòng chính và dưới địa ngục là vẫn còn huyên náo, sự ngất ngây hỗn tạp của buổi lễ mỗi lúc một tăng. Vì tôi không được phép khiêu vũ với Hermine, trong vai chàng thanh niên, nên chúng tôi luôn chỉ thoáng gặp và chào nhau trong những lúc nghỉ và cuối cùng nàng biến khỏi tôi, không chỉ trong tầm mắt, mà cả trong ý nghĩ. Không còn ý nghĩ nào nữa. Tôi hòa tan và bị cuốn theo trong đám đông ngất ngây khiêu vũ, xúc động bởi hương thơm, âm thanh, tiếng thở dài, lời nói, được những đôi mắt lạ chào hỏi, khích lệ, được những khuôn mặt, những đôi môi, những cặp má, những cánh tay, những bộ ngực, những đầu gối lạ bao quanh, được âm nhạc xô tới xô lui như một làn sóng theo nhịp điệu.
Đột nhiên trong một khoảnh khắc hơi bừng tỉnh tôi thấy trong số những người khách cuối cùng còn ở lại - giờ đây đầy ứ trong những gian phòng cuối cùng còn vang tiếng nhạc - đột nhiên tôi thấy một pierrette 32 vận đồ đen mang mặt nạ sơn trắng, một thiếu nữ xinh đẹp tươi mát, người duy nhất mang mặt nạ, một hình ảnh mê ly tôi chưa hề thấy trong suốt đêm nay. Trong khi mọi người khác đều in dấu vết của giờ giấc khuya khoắt này: mặt mũi đỏ gay vì kích động, áo quần nhăn nhúm; cổ áo và ống tay nhàu nhĩ thì cô pierrette mặc đồ đen này đứng tươi mát và gọn ghẽ với khuôn mặt trắng trẻo dưới tấm mặt nạ, y phục không một nếp nhăn, cổ áo tinh tươm, cổ tay áo viền ren sạch bong và mái tóc không chút bù rối. Tôi bị cuốn hút về phía nàng, ôm lấy nàng, kéo nàng vào màn khiêu vũ. Cổ áo thơm tho của nàng làm cằm tôi nhột nhạt, tóc nàng phớt nhẹ má tôi; thân thể trẻ trung rắn chắc của nàng đám lại - dịu dàng và thân thiết hơn mọi cô bạn nhảy tối nay - những động tác của tôi, né tránh, khêu gợi và luôn dễ dàng buộc chúng có những va chạm mới. Và đột nhiên lúc tôi cúi xuống giữa màn khiêu vũ tìm môi nàng thì đôi môi ấy mỉm cười kiêu hãnh và rất quen thuộc; tôi nhận ra chiếc cằm cương nghị, sung sướng nhận ra đôi bờ vai, đôi khuỷu tay, đôi bàn tay. Đấy là Hermine, không phải Hermann nữa, đã thay y phục, tươi mát, xức chút nước hoa và thoa chút phấn. Môi chúng tôi cuồng dại gắn vào nhau, cả thân thể nàng cho đến đầu gối áp chặt vào tôi trong một khoảnh khắc, thèm khát và dâng hiến, rồi môi nàng rời khỏi môi tôi, nàng nhảy một cách giữ kẽ và lẩn tránh. Lúc ngưng tiếng nhạc, chúng tôi ôm nhau đứng tại chỗ, những cặp chung quanh khích động vỗ tay, giậm chân, la hét, thúc giục ban nhạc đã kiệt sức chơi lại bản Yearning. Và lúc này tất cả chúng tôi đột nhiên cảm thấy trời dần sáng, bình minh lờ mờ sau những tấm màn cửa, thấy niềm vui sướng sắp tàn, linh cảm sự mệt mỏi đang đến và phá lên cười, tuyệt vọng điên cuồng lao mình lần nữa vào điệu vũ, vào tiếng nhạc, vào làn ánh sáng đang tràn ngập, sôi sục bước theo nhịp, cặp này sát cặp kia, hân hoan cảm nhận lần nữa con sóng lớn đang dội xuống chúng tôi. Lần nhảy này Hermine thôi không kênh kiệu, giễu cợt và lạnh lùng nữa - nàng biết chẳng cần phải làm gì thêm để khiến tôi phải mê đắm. Tôi đã thuộc về nàng. Và nàng dâng hiến trong khiêu vũ, trong ánh mắt, trong môi hôn, trong nụ cười. Mọi người đàn bà của cái đêm đầy khích động này, mọi người đàn bà cùng tôi nhảy, mọi người được tôi gây rạo rực, mọi người đã gây rạo rực cho tôi, mọi người tôi ve vãn, mọi người tôi đã thèm khát ôm sát, mọi người tôi đã mê đắm nhìn theo đều tan chảy thành một người đàn bà duy nhất đang bừng nở trong vòng tay tôi.
Vũ điệu tân hôn này kéo dài thật lâu. Hai lần, ba lần tiếng nhạc yếu đi, các nhạc công thổi kèn hạ nhạc cụ xuống, người chơi dương cầm đứng lên. người kéo vĩ cầm chính lắc đầu cự tuyệt, song lần nào họ cũng lại được cổ vũ mãnh liệt bởi sự cuồng nhiệt của những người khiêu vũ cuối cùng, họ lại chơi lần nữa, nhanh hơn, cuồng dại hơn. Rồi - chúng tôi còn đang đứng ôm nhau thở dốc sau lần nhảy khao khát cuối cùng - nắp đàn dương cầm đóng sầm xuống, cánh tay chúng tôi buông thõng mệt mỏi giống như tay của những người thổi kèn và kéo vĩ cầm, còn người thổi sáo hấp háy mắt cất nhạc khí của mình vào bao, những cánh cửa mở tung, khí lạnh ùa vào, đám người phục vụ xuất hiện với những chiếc áo khoác và tiếp viên nơi quầy rượu tắt phụt đèn. họ tản ra tứ phía, dễ sợ như những bóng ma, những người mới rồi còn nhảy hết sức cuồng nhiệt giờ đây run rẩy rúc vào măng tô, kép cạp cổ áo. Hermine nhợt nhạt nhưng mỉm cười. Nàng chậm rãi đưa tay vuốt tóc ra sau, nách nàng lấp lánh trong ánh sáng, một vạt tối thật mảnh và vô cùng mềm mại trải dài Itừ đấy tới ngực áo và đối với tôi thì vạc tối phập phồng ấy, tựa một nụ cười, hợp nhất mọi vẻ quyến rũ của nàng, mọi trò chơi và năng lực của tấm thân xinh đẹp.
Chúng tôi, những người cuối cùng trong gian phòng, những người cuối cùng trong ngồi nhà, đứng nhìn nhau. Tôi nghe đâu đấy dưới kia tiếng một cánh cửa sập, một tấm kính vỡ, một tiếng khúc khích tan biến dần, lẫn tiếng ồn áo cáu kỉnh và hối hả của động cơ ô tôi quay bằng maniven 33.Đâu đấy, ở một nơi xa xăm và trên cao không thể xác định, tôi nghe vang lên tiếng cười, một tiếng cười trong trẻo và sảng khoái khác thường, nhưng lạ lẫm và ghê rợn, một tiếng cười như từ pha lê và nước đá, trong và rạng rỡ, nhưng lạnh lùng và nghiệt ngã. Tôi đã nghe tiếng cười lạ lùng này ở đâu? Không nhớ nữa.
Hai chúng tôi đứng nhìn nhau. Trong một khoảnh khắc tôi bừng tỉnh táo, cảm thấy cơn mệt mỏi rã rời từ sau ập tới, cảm thấy quần áo sũng mồ hôi, ẩm và ấm, bám vào người thật kinh tởm, nhìn đôi bàn tay đỏ và căng phồng mạch máu ló khỏi cổ tay áo nhàu nát, đẫm mồ hôi. Nhưng cảm giác này biến mất ngay, chỉ một cái nhìn của Hermine đủ xua tan nó. Trước ánh mắt nàng - dường như tâm hồn của chính tôi đang quan sát tôi từ đôi mắt đó - mọi thực tại đều đổ ụp, kể cả thực tại tôi thèm khát nàng về xác thịt. Chúng tôi đắm đuối nhìn nhau, tâm hồn bé nhỏ khốn khổ của tôi ngắm nhìn tôi.
"Anh sẵng sàng chưa?" Hermine hỏi và nụ cười của nàng biến mất, giống như vạt tối trên ngực nàng đã biến mất. Tiếng cười kỳ dị nọ cũng lịm dần trong những không gian xa lạ nơi xa xăm và cao vời vợi.
Tôi gật. Có chứ, tôi đã sẵn sàng rồi.
Bấy giờ Pablo xuất hiện nơi ngưỡng cửa; anh chàng nhạc công long lanh nhìn chúng tôi bằng đôi mắt tươi vui; đôi mắt ấy đúng ra phải là mắt thú, nhưng mắt thú luôn nghiêm trọng, còn mắt anh luôn mỉm cười và chính nụ cười ấy biến chúng thành mắt người. Anh vẫy chúng tôi với tất cả niềm nở nồng nhiệt. Anh khoác một chiếc vét, loại mặc trong nhà, bằng lụa sặc sỡ, cổ sơ mi đẫm mồ hôi ỉu xìu, khuôn mặt bơ phờ nhợt nhạt và tiều tụy hiện rõ khác thường trên ve áo khoác màu đỏ, nhưng đôi mắt đen nháy rạng rỡ của anh đã xáo tan ấn tượng này. Chúng cũng xóa luôn thực tại, cả chúng cũng có ma thuật,
Chúng tôi đi theo cái vẫy của anh; tới dưới cửa anh nói khẽ với tôi: "Ông anh Harry này, tôi mời ông anh dự một buổi tiêu khiển nho nhỏ. Chỉ những người điên mới được vào, trả bằng lý trí. Ông anh sẵn sàng chứ?" Tôi lại gật đầu.
Anh chàng này thật là thân ái! Anh dịu dàng và ân cần nắm cánh tay chúng tôi, Hermine bên phải, tôi bên trái, dẫn lên cầu thang vào một căn phòng nhỏ hình tròn có ánh sáng xanh xanh từ trên cao rọi xuống; căn phòng hầu như trống trơ, chẳng có gì khác ngoài một cái bàn tròn nhỏ và ba chiếc ghế bành mà chúng tôi ngồi.
Chúng tôi đang ở đâu? Tôi đang ngủ chăng? Tôi đang ở nhà chăng? Tôi đang ngồi lái xe chăng? Không, tôi đang ngồi trong căn phòng hình tròn có ánh sáng xanh xanh, trong một bầu không khí pha loãng, trong một lớp thực tại đã trở thành rất không kín. Sao Hermine lại xanh xao thế kia? Sao Pablo lại nói nhiều thế nhỉ? Không phải chính tôi đã khiến anh ta nói, chính tôi nói bằng miệng của anh ta ư? Không phải chỉ là tâm hồn tôi, con chim lạc lõng, cũng đang ngắm nhìn mình từ đôi mắt đen của anh ta, giống như đã nhìn từ đôi mắt xám của Hermine ư?
Anh bạn Pablo nhìn chúng tôi với tất cả sự thân ái hiền hậu lẫn hơi trịnh trọng và anh nói, nhiều và dài. Anh, người mà tôi chưa hề nghe nói năng mạc lạc, người không quan tâm đến tranh luận và các diễn đạt, người mà tôi không tin có nổi một suy nghĩ, giờ đây đang lên tiếng, trôi chảy và không sai sót với giọng nói ấm và hồn hậu.
"Các bạn, tôi mời các bạn tới dự một buổi tọa đàm mà từ lâu Harry hằng ao ước và mơ thấy. Cũng hơi muộn rồi và hẳn là tất cả chúng ta đều đã khá mệt. Thành thử trước hết chúng ta hãy ngồi đây nghỉ ngơi và giải lao một chút."
Anh lôi từ một hốc tường ba ly thủy tinh con và một chai nhỏ ngộ nghĩnh, một chiếc hộp con kỳ lạ bằng nhiều thứ gỗ màu, rót đầy ba ly rồi lấy từ hộp ba điếu thuốc dài, mảnh dẻ màu vàng, rút bật lửa từ túi áo vét lụa châm cho chúng tôi. Chúng tôi ngả người trên ghế bành, chậm rãi hút, khói đặc tựa khói nhang, và từ tốn nhấp từng ngụm nhỏ thứ chất lỏng ngọt hăng, mùi vị lạ lùng chưa từng biết; nó quả đã có tác dụng hồi sức và làm mê mẩn khôn xiết, cứ như ta được bơm đầy hơi và mất hết trọng lượng. Chúng tôi ngồi như thế, rít từng hơi ngắn, nghỉ ngơi, nhấp chất lỏng kia, cảm thấy nhẹ tênh và thư thái. Đồng thời Pablo hạ thấp giọng nói ấm áp của anh:
"Ông anh Harry thân mến, hôm nay tôi vui mừng được khoản đãi ông anh chút ít. Ông anh đã thường cảm thấy chán ngán đời sống của mình, ông anh đã ra sức từ bỏ chốn này, phải không ạ? Ông anh khao khát rời bỏ thời gian này, thế giới này, thực tại này và đi vào một thực tại khác thích hợp hơn với ông anh, đi vào một thế giới phi thời gian. Ông anh thân mến, hãy cứ làm đi, tôi yêu cầu ông anh đấy. Ông anh biết thừa cái thế giới khác ấy nằm ẩn ở nơi nào, cái thế giới mà ông anh đang tìm kiếm ấy là thế giới của chính tâm hồn ông anh. Cái thực tại khác mà ông anh đang khao khát ấy chỉ sống trong nội tâm của chính ông anh thôi. Tôi không thể tặng ông anh những gì chưa hiện hữu sẵn trong chính ông anh, tôi không thể mở cho ông anh phòng trưng bày tranh nào khác phòng trưng bày tranh của tâm hồn ông anh. Tôi không thể tặng ông anh gì hết thảy, ngoài cơ hội, sự kích thích, chìa khóa. Tôi giúp ông anh thấy được thế giới riêng của ông anh, chỉ có thế thôi."
Anh lại thọc tay vào túi áo vét lòe loẹt, rút ra một chiếc gương tròn.
"Ông anh xem: cho đến nay ông anh thấy mình như thế này đây!"
Anh đưa chiếc gương con lên trước mắt tôi (tôi chợ nhớ câu đồng dao: "Gương con, gương con trong tay ơi!" 34) và tôi thấy, mờ ảo, một hình ảnh đáng kinh hãi tự chuyển dịch, hối hả và lồng lộn trong chính nó: đó chính là tôi, Harry Haller, và bên trong Harry nà là Sói Thảo Nguyên, một con sói nhút nhát, đẹp mã, nhưng lạc đường, ánh mắt khiếp sợ, lúc hung dữ, lúc âm ỉ buồn và hình hài sói này không ngừng chuyển động qua Harry, tựa một nhánh sông khác màu cuồn cuộn đổ mù mịt vào dòng sông chính, rồi chúng đau khổ, cắn xé nhau vì dòng sông nào cũng đầy ắp thứ tham vọng không thỏa mãn nổi, đó là giành quyền tạo nên diện mạo chung cuộc. Đôi mắt đẹp nhút nhát của con sói mới định hình được một nửa và đang chuyển dịch kia buồn bã, buồn bã nhìn tôi.
"Ông anh đã nhìn thấy chính mình như thế đấy," Pablo dịu dàng lặp lại và cất gưong vào túi. Lòng đầy biết ơn, tôi nhắm mắt, nhấp rượu tiên.
"Bây giờ chúng ta đã nghỉ ngơi xong," Pablo nói, "đã bồi dưỡng và trò chuyện chút ít. Nếu các bạn không còn mệt nữa, tôi sẽ đưa các bạn tới chỗ trình diễn và chỉ cho các bạn thấy hí viện nhỏ bé của tôi. Các bạn đồng ý chứ?"
Chúng tôi đứng dậy, Pablo mỉm cười đi tới trước, mở một cái cửa, kéo qua bên một tấm màn và chúng tôi thấy mình đứng trong hành lang hình móng ngựa, chính giữa một hí viện, hai bên có lối đi uốn cong dẫn qua trước vô số cửa nhỏ vào các ngăn lô, nhiều không tưởng tượng nổi.
"Đây là hí viện của chúng ta," Pablo giải thích "một hí viện vui nhộn, hy vọng các bạn sẽ thấy được đủ mọi trò cười." Vừa nói anh vừa cười phá lên chỉ vài tiếng thôi, nhưng nó xuyên thấu tôi mãnh liệt; đó lại vẫn là tiếng cười trong trẻo, lạ lùng mà tôi từng nghe thấy trước đây từ trên cao.
"Tiểu hí viện của tôi có bao nhiêu cửa vào các ngăn lô, mười hay một trăm hay một nghìn, tùy các bạn muốn, và điều các bạn đang tìm kiếm chờ đợi các bạn sau mỗi cửa ấy. Các bạn thân mến, đây là một phòng trưng bày thú vị, nhưng như tình trạng ông anh bây giờ thì đi khắp mọi nơi chẳng ích lợi gì. Ông anh sẽ bị mù quáng và kìm hãm bởi cái mà ông anh quen gọi là nhân cách của mình. Chắc chắn ông anh đã đoán được từ lâu rằng việc khuất phục thời gian, việc giải thoát khỏi thực tại và nỗi khao khát, mà ông anh muốn gắn cho nó tên gì cũng được, không là gì khác hơn sự mong muốn trút bỏ cái gọi là nhân cách của ông anh. Nhân cách đó chính là nhà tù giam hãm ông anh đấy. Nên nếu ông anh cứ như thế này bước vào hí viện thì ông anh sẽ nhìn mọi sự với đôi mắt của Harry, mọi sự qua cập kính cũ của Sói Thảo Nguyên. Thành ra yêu cầu ông anh hãy gỡ bỏ cặp kính này và vui lòng gửi nhân cách rất mực tôn quý ấy ở quầy giữ quần áo; ông anh muốn có lại nó bất cứ lúc nào cũng được. Buổi dạ vũ thú vị ông anh đã trải qua, bản Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên, sau hết là chút chất kích thích mà chúng ta vừa chia sẻ, mong rằng đã chuẩn bị đủ cho ông anh rồi. Ông anh Harry, sau khi đã gỡ bỏ nhân cách tôn quý của mình thì mời ông anh sử dụng phần bên trái hí viện, còn Hermine phần bên phải. Vào trong rồi thì các bạn có thể tha hồ gặp nhau. Hermine, tạm thời cô vui lòng vào khuất sau tấm màn, tôi muốn hướng dẫn Harry trước đã."
Hermine đi qua một tấm gương khổng lồ che kín bức tường sau từ sàn tới vòm trần, biến vào phía bên phải.
"Harry, thế là xong, bây giờ mời ông anh tới đây và nhớ vui lên nhiều lên nhé. Mục đích lần tổ chức này là để làm cho ông anh vui, để dạy ông anh cười - hy vọng ông anh tạo thuận lợi cho tôi trong chuyện này. Ông anh thấy thoải mái chứ? Có à? Ông anh không sợ hãi chứ? Thế là tốt, rất tốt. Bây giờ ông anh sẽ không sợ hãi mà rất mực hân hoan bước vào thế giới tưởng tượng của chúng ta, bằng cách tự mở đầu với một màn tự sát giả tưởng nho nhỏ, như tập quán đòi hỏi."
Anh lại móc chiếc gương con, chìa ra trước mặt tôi: Harry lại đang nhìn tôi - một Harry bối rối, lờ mờ, bên trong có hình dạng con sói đang lồng lộn chui qua hắn - một hình ảnh rất quen thuộc và đúng là không thiện cảm, thành ra nếu nó bị hủy diệt thì cũng chẳng khiến tôi lo ngại gì.
"Ông bạn thân mến, bây giờ ông bạn phải xóa sạch cái hình ảnh phản chiếu đã trở thành không cần thiết này, chứ chẳng cần làm gì nhiều nhặn hơn. Ông bạn chỉ cần, nếu tâm trạng mình cho phép, quan sát hình ảnh này với một nụ cười chân thật. Ông bạn đang ở đây, trong một ngôi trường dạy hài hước, ông bạn nên học cười. Mọi khôi hài cao quý đôi chút đều bắt đầu bằng việc không coi bản thân mình là quan trọng nữa."
Tôi đăm đăm nhìn vào tấm gương con, tấm gươn con trong tay, trong đó con sói - Harry dăng co giật. Trong tôi, sâu thẳm trong tôi, cũng co giật một khoảnh khắc, nhẹ thôi, nhưng dằn vặt, tựa niềm hoài vọng, tựa nổi nhớ quê hương, tựa sự ân hận. Rồi sự ức chế nhẹ nhàng này nhường chỗ cho một cảm giác mới, tương tự cảm giác khi ta được nhổ chiếc răng sâu khỏi hàm răng đã được gây tê bằng cocain, cảm giác được thở phào nhẹ nhõm, đồng thời sửng sốt vì chẳng thấy đau đớn gì, Cùng với cảm giác này là một tâm trạng hưng phấn và muốn phì cười mới mẻ, khiến tôi rộ lên một tiếng cười giải thoát.
Hình ảnh buồn rầu trong gương lóe lên rồi tắt ngấm, mặt tấm gương tròn nhỏ đột nhiên trở nên xám xịt, sần sùi và mờ đục như bị thiêu đốt. Pablo cười quẳng tấm gương đi, nó lăn trên sàn hành lang hun hút rồi biến mất dạng.
"Bạn cười hay lắm, Harry ạ," Pablo nói, "bạn sẽ còn học cười như những người bất tử nữa, Thế là cuối cùng bạn đã giết được Sói Thảo Nguyên rồi. Không thể giết nó bằng dao cạo được đâu. Nhớ phải để cho nó chết nhé! Bạn sẽ có thể rời khỏi cái thực tại ngớ ngẩn này ngay thôi. Lần tới gặp nhau mình sẽ cạn chén kết nghĩa đệ huynh. Bạn thân mến ơi, chưa bao giờ bạn làm tôi hài lòng như hôm nay. Và nếu bạn thấy bõ công thì chúng ta có thể cùng nhau triết lý và mạn đàm về Mozart, Gluck, Plato và Goethe nhiều như bạn muốn. Bây giờ bạn sẽ hiểu tại sao trước đây việc này không thể thực hiện được. Hy vọng bạn gặp may và hôm nay dứt khỏi con Sói Thảo Nguyên. Vì dĩ nhiên cuộc tự sát của bạn không phải là triệt để; chúng ta đang ở trong một hí viện ma thuật mà, ở đây chỉ có hình ảnh thôi, không có thực tại. Bạn hãy chọn cho mình những hình ảnh xinh đẹp vui tươi và chứng tỏ bạn thật sự không còn say mê cái nhân cách đáng ngờ của mình nữa! Tuy nhiên, nếu bạn thèm khát có lại nó, bạn chỉ cần nhìn vào tấm gương mà tôi sắp chỉ cho bạn. Nhưng bạn biết câu ngạn ngữ cổ này mà: "Thà một tấm gương con trong tay còn hơn hai tấm trên tường!" Ha ha! (Anh lại cười thật trong trẻo và đáng sợ) - Đấy, bây giờ chỉ còn phải hoàn thành một lễ nghi rất nhỏ và vui nhộn thôi. Bạn đã vất bỏ cặp kính nhân cách của mình rồi, bây giờ mời bạn lại đây nhìn vào một tấm gương đích thực! Nó sẽ khiến bạn thích thú."
Anh vừa cười, vừa làm những mơn trớn kỳ cục vừa xoay tôi đứng đối diện tấm gương khổng lồ trên tường. Tôi nhìn thấy mình trong đó.
Tôi thấy, trong một thoáng ngắn ngủi, gã Harry quen thuộc, chỉ khác là với khuôn mặt tươi cười, rạng rỡ, vui vẻ khác thường. Nhưng tôi vừa mới nhận ra hắn thì hình ảnh hắn đã vỡ vụn, một hình thứ hai tách khỏi hắn, hình thứ ba, thứ mười, thứ hai mươi và rồi tấm gương không lồ đầy những Harry hay những mảnh Harry, vô số Harry, mà mỗi cái tôi đều chỉ nhìn qua và nhận ra trong chớp nhoáng. Vài cái trong vô vàn hình ảnh Harry này cũng cỡ tuổi tôi, một số gài hơn, một số già khú đế, số khác trẻ măng, những thanh niên, những thiếu niên, những học trò, những nhóc con, những đứa bé. Những Harry năm mươi tuổi và hai mươi tuổi chạy nhảy tung tăng, những Harry ba mươi tuổi và năm tuổi, đạo mạ và vui nhộn, nghiêm trang và buồn cười, áo quần lịch sự và rách rưới, có cả trần truồng, hói trọc và tóc quăn dài, và tất cả đều là tôi; mỗi hình ảnh ấy đều được tôi nhìn và nhận ra nhanh như chớp, rồi biến mất, chúng chạy tứ tung, sang trái, sáng phải, vào sâu trong tấm gương, từ trong gương chạy ra. Một gã, một chàng trai trẻ trung thanh lịch, vừa cười vừa nhảy bổ vào Pablo, ôm choàng anh rồi cùng anh bỏ chạy. Và một cậu mà tôi đặc biệt thích, một cậu xinh xắn, duyên dáng, khoảng mười sáu hay mười bảy tuổi, chạy ào như chớp vào hành lang, đọc ngấu nghiến những câu viết trên mọi cánh cửa; tôi chạy theo; cậu dừng lại trước một cánh cửa, trên đó tôi đọc thấy dòng chữ
Mọi đàn bàm con gái đều là của bạn
Bỏ một đồng mark vào khe
Cậu bé dễ thương này nhảy phóc lên một cái, chui tọt đầu vào khe bỏ tiền rồi mất dạng sau cánh cửa.
Cả Pablo cũng biến mất, dường như cả tấm gương cũng biến mất luôn cùng với vô số hình ảnh Harry. Tôi cảm thấy giờ đây bị phó mặc cho chính mình cùng với hí viện, nên tò mò lân la hết cửa này sang cửa khác, đọc trên mỗi cánh cửa một câu viết, một cám dỗ, một lời hứa hẹn.
Hàng chữ:
Hãy tham dự cuộc săn thú vị!
Săn bằng ô tô
đã cám dỗ tôi. Tôi mở cánh cửa hẹp và bước vào. tức thì tôi bị cuốn vào một thế giới ồn ào và kích động. Những chiếc ô tô, có cái bọc thép, săn đuổi khách bộ hành trên đường phố, cán họ nát như tương hoặc ép bẹp gí vào những tường nhà. Tôi hiểu ngay: đó là cuộc chiến đấu giữa con người và máy móc, được chuẩn bị từ lâu, chờ đợi từ lâu, lo sợ từ lâu, nay cuối cùng đã bùng nổ. Ngổn ngang xác chết và những thây người nát bét, cả xác những chiếc xe bị đập phá, cong quep, cháy nham nhở; máy bay lượn vòng trên khung cảnh lộn xộn đáng sợ này, ngay cả chúng cũng bị súng săn và súng máy nã đạn từ những mái nhà và cửa sổ. Những tấm bích chương tuyệt đẹp đầy kích động tựa ngọn đuốc hừng hực, chữ thật to, treo cùng khắp mọi bức tường kêu gọi Nhà nước cuối cùng hãy bảo vệ con người chống lại máy móc, hãy đập chết bọn nhà giàu phì nộn, ăn mặc bảnh bao, thơm nức, bọn đã dùng máy móc vắt kiệt mỡ người khá, hãy phá tan những chiếc ô tô to ồn ào, gầm gừ, rền rĩ dữ dội của chúng, hãy đốt nhà máy của chúng, hãy don quang Trái Đất bị ô uế này và làm giảm số dân để cây cối lại mọc, để rừng rậm, bãi cỏ, đồng hoang, suối lạch và đầm lầy có thể tái sinh từ cái thế giới xi măng bụi bặm. Ngược lại, có những bích chương khác được vẽ thật đẹp, cách điệu hóa tuyệt vời, màu dịu, ít ngây ngô hơn, mang những hàng chữ thông minh ý nhị, cảnh báo một cách xúc động mọi kẻ sở hữu và mọi người có lý trí trước sự hỗn loạn có thể xảy ra của tình trạng vô chính phủ; chúng minh họa thật ấn tượng rằng có được trật tự, việc làm, sở hữu, văn hóa, pháp luật là cả một sự may mắn; chúng ca ngợi máy móc là phát minh mới nhất và cao siêu nhất của con người, nhờ máy móc mà con người sẽ trở thành thần thánh. Tôi trầm ngâm và thán phục đọc những tấm bích chương, những tấm màu đỏ và những tấm màu lục; giọng điệu hùng biện sôi nổi, logic áp chế của chúng cực kỳ tác động lên tôi: chúng có lý và tôi rất được thuyết phục lúc đứng trước tấm này hay tấm khác, nhưng cứ bị tiếng súng liên hồi khá giòn giã chung quanh quấy rầy không ít. Thế đấy, vấn đề chính đã sáng tỏ: đó là chiến tranh, một cuộc chiến tranh khốc liệt, cuồng nhiệt và hết sức khả ái, không phải vì Hoàng đế, nền Cộng hòa, biên cương, cờ quạt, màu sắc cùng những thứ bề ngoài và kệch cỡm, cơ bản vặt vãnh tương tự, mà một cuộc chiến trong đó ai thấy thiếu không khí để thở, thấy cuộc sống không còn thích hợp nữa, đều biểu lộ xác đáng sự bực bội của mình và nỗ lực dọn đường cho sự hủy diệt toàn thể cái văn minh bằng sắt thép này. Tôi thấy mọi đôi mắt đều rạng rỡ và chân thành toát ra vẻ thích thú được phá hủy, giết chóc; trong lòng tôi bừng nở những bông hoa dại đỏ, cao lớn, mập mạp và mơn mởn tười cười. Tôi vui vẻ tham gia chiến đấu.
Nhưng điều tuyệt vời hơn cả là Gustav, người bạn học tôi không gặp đã mấy chục năm nay, đột nhiên xuất hiện bên cạnh tôi; anh là người hiếu động nhất, khỏe nhất và liều lĩnh nhất trong số các bạn thời niên thiếu của tôi. Tim tôi rộn rã vui khi thấy anh lại nheo đôi mắt màu xanh nhạt với tôi. Anh vẫy và tôi hớn hở theo liền.
"Trời đất ơi, Gustav," tôi sung sướng kêu lên, "thế là lại được gặp cậu! Cậu đã trở thành ông gì rồi?"
Anh cười gằn, y như hồi nhỏ.
"Cái thằng! Cứ phải hỏi và tán dóc ngay à? Tớ trở thành giáo sư thần học rồi; đấy, nay cậu biết rồi nhé; nhưng may phước bây giờ không còn môn thần học nào nữa, mà chiến tranh. Nào!"
Anh bắn gục xuống đường người lái một chiếc xe con vừa mới phì phò chạy về phía chúng tôi; rồi vọt nhanh như vượn lên xe, phanh lại cho tôi đoạn chúng tôi phóng như điên qua những lằn và nhũng chiếc xe lật nhào, ra khỏi thành phố, về vùng ngoại ô.
"Cậu theo phe bọn chủ xí nghiệp à?" tôi hỏi bạn tôi.
"Chà chà, đó là vấn đề sở thích, ra tới ngoài kia mình sẽ tính. Ấy không, khoan đã, tớ lại muốn mình chọn phe kia hơn, dù về cơ bản đương nhiên như nhau thôi. Tớ là nhà thần học và ngày xưa tổ sư Luther 35 của tớ đã giúp đám vương hầu và bọn nhà giàu chống lại nông dân, bây giờ mình hãy sửa sai một chút. Xe này cà chớn quá, hy vọng nó chạy nổi vài cây số nữa!"
Như đứa con của trời cao, nhanh như gió, xe chúng tôi lọc cọc vọt đi nhiều dặm, lăn vào một vùng quê xanh mướt yên tĩnh, qua một bình nguyên rộng lớn rồi từ từ leo lên một rặng núi khổng lồ. Nơi đây chúng tôi dừng xe trên một con đường nhẵn nhụi, sáng loáng với những khúc quanh hiểm trở vòng vèo giữa sườn đá dốc đứng và một bức tường chắn thấp tè. Dưới kia là một hồ nước xanh lấp lánh.
"Vùng này đẹp thật," tôi nói.
"Rất đẹp. Mình có thể gọi nó là 'con đường của những trục xe' được, vì sẽ có nhiều loại trục xe bị gãy ở đây. Nhóc Harry, xem này!"
Một cây thông to sừng sững bên đường; chúng tôi thấy trên tán cây có thứ gì dựng bằng ván, như thể một chòi canh và chỗ quan sát. Gustav cười rạng rỡ nhìn tôi, ranh mãnh nháy đôi mắt xanh và hai chúng tôi vội vã ra khỏi xe, leo phóc lên cây, thở hổn hển náu minh trong cái chòi canh mà chúng tôi rất thích. Chúng tôi tìm thấy trong đó súng săn, súng lục và những thùng đạn. Chúng tôi vừa mới nghỉ ngơi được một tí và chuẩn bị cho cuộc s8n bắn thì đã nghe vang lên từ khúc quanh gần nhất tiếng còi khàn khàn và hống hách của một chiếc xe to sang trọng đang phóng ào ào trên con đường núi bóng loáng. Tay chúng tôi đã nâng sẵn súng săn. Căng thẳng tuyệt vời.
"Nhắm gã tài xế!" Gustav nhanh chóng ra lệnh, vừa lúc chiếc xe nặng nề chạy qua phí dưới chúng tôi. Tôi nhắm vào gã lái xe đội mũ lưỡi trai màu xanh và bóp cò. Người đàn ông ấy gục xuống, chiếc xe sẵn đã phóng tới, húc vào sườn đá, dội lại, giận dữ tông mạnh vào bờ tường thấp tựa một con tôm hùm to béo, lật ngược rồi lăn qua bức tường, rơi xuống vực với một tiếng nổ ngắn khe khẽ.
"Xong!" Gustav cười. "Tớ sẽ thầu tay tài xế chiếc xe tới."
Chưa gì đã thêm một chiếc xe khác chạy tới với ba hoặc bốn hành khác ngồi trong nhỏ thó trên ghế nệm; một chéo khăn màu xanh nhạt trên đầu người thiếu phụ bay thẳng tắp ra saul quả thật tôi thấy thương hại nó, biết đâu nó chẳng đang được ôm ấp khuôn mặt tươi cười kiều diễm nhất thế gian. Chúa ơi, một khi đã chơi trò thảo khấu, chúng tôi nên noi theo những tấm gương vĩ đại, không háo sát đối với đàn bà, con gái đẹp thì có lẽ đúng đắn và đáng khen hơn. Nhưng Gustav đã lấy cò. Người tài xế giãy lên rồi gục xuống, chiếc xe chồm lên vách đá thẳng đứng, dội lại, lật nhào xuống đường, chổng bốn bánh lên trời. Chúng tôi chờ, chẳng thấy gì nhúc nhích, mọi hành khách nằm im lìm dưới chiếc xe như trong một cáí bẫy. Nó vẫn còn kêu rì rì, lạch cạch, bốn bánh quay kỳ dị trong không khí; đột nhiên nó phát nổ dữ dội và bốc lửa sáng lóa.
"Một chiếc Ford," Gustav nói. "Mình phải chạy xuống đấy, dọn cho trống đường."
Chúng tôi leo xuống ngắm nghía cái đống đang cháy phừng phừng. Chẳng mấy chốc nó cháy rựi. Trong lúc đó chúng tôi dùng cây con làm đòn, bẩy nó sang một bên rồi qua vệ đường xuống vực, lát sau vẫn còn nghe tiếng các bụi cây gãy răng rắc. Lúc xe lăn, hai trong số những người chết văng xuống đường, y phục cháy sém. Áo vét của một người còn khá nguyên vẹn; tôi lục tìm trong các túi áo vét để may ra biết được ông ta là ai, thấy một cái cặp da đựng giấy với những danh thiếp. Tôi lấy một tấm, đọc hàng chữ trên đó: "Tat twam asi." 36
"Dí dỏm gớm" Gustav nói. "Nhưng thật ra bọn người bị mình giết tên gì cũng thế thôi. Họ đều là những con quỷ đáng thương như chúng ta, thì tên gọi nào đáng kể gì. Thế giới này phải bị phá hủy, cùng với cả chúng ta nữa. Dìm cái thế giới này xuống nước được mười phút hẳn sẽ là giải pháp nhẹ nhàng, êm ái nhất. Nào, bắt tay vào việc thôi!
Chúng tôi đẩy các xác chết xuống theo xe. Chưa gì đã lại thấy một chiếc xe nữa nhấn còi chạy tới. Chúng tôi đứng trên đường bắn ngay. Nó loạng choạng như người say rượu một đoạn nữa rồi lật nhào, nằm thở hồng hộc. Một người ngồi bất động trong xe, một thiếu nữ xinh xắn chui ra, hoàn toàn lành lặn, dù cô run lẩy bẩy và mặt mũi nhợt nhạt. Chúng tôi thân mật chào cô và ngỏ ý sẵn sàng giúp đỡ. Cô ấy quá khiếp hãi, không thốt nên lời, chỉ chòng chọc nhìn chúng tôi một lúc như bị loạn trí.
"Nào, trước hết mình xem ông già ra sao cái đã," Gustav nói rồi quay qua ông khách vẫn còn ngồi rịt trên chiếc ghế sau lưng người tài xế đã chết. Đó là một người đàn ông tóc ngắn, hoa râm, đôi mắt xám nhạt thông minh vẫn mở, song dường như đã bị thương nặng, ít nhất miệng đã ứa máu, cổ lệch đi và cứng đờ thật kỳ dị.
"Thưa ông, xin được giới thiệu tôi tên là Gustav. Chúng tôi đã tự phép bắn chết người tài xế của ông. Xin mạn phép hỏi chúng tôi hân hạnh được hầu chuyện cùng ai ạ?"
Đôi mắt nhỏ và xám của ông già lạnh lùng và buồn bã nhìn chúng tôi.
"Tôi là Loering, công tố viên tòa án phúc thẩm," ông chậm chạp nói. "Các ông không chỉ giết người tài xế đáng thương của tôi, mà cả tôi nữa; tôi cảm thấy sắp chết rồi. Vì sao các ông lại bắn chúng tôi?"
"Vì xe chạy quá nhanh."
"Chúng tôi chạy vận tốc bình thường."
"Điều ngay hôm qua là bình thường thì hôm nay không bình thường nữa, thưa ông công tố viên. Hôm nay chúng tôi quan niệm rằng mọí vận tốc mà một chiếc xe có thể chạy đều là quá nhanh. Bây giờ chúng tôi phá hủy xe ô tô, hết thảy, và cả những máy móc khác nữa."
"Cả súng săn của các ông?"
"Rồi sẽ đến lượt chúng, nếu chúng tôi còn đủ thời gian. Có thể ngày mai hay ngày kia tất cả chúng ta đều bị tiêu diệt. Ông biết rằng Trái Đất của chúng ta tràn ngập người đến mức kinh tởm mà. Đấy bây giờ nó sẽ lại có không khí để thở."
"Nghĩa là các ông bắn bừa bãi bất kỳ ai?"
"Tất nhiên. Đối với một số người thì chắc chắn điều ấy có thể là đáng phàn nàn. Chẳng hạn tôi sẽ lấy làm tiếc, nếu chuyện đó xảy ra với cô gái trẻ xinh đẹp này. Hẳn cô đây là ái nữ của ông?"
"Không, cô ấy là nữ tốc ký của tôi."
"Càng hay. Bây giờ mời ông xuống hoặc để chúng tôi kéo ra khỏi xe, vì nó sẽ bị phá hủy."
"Tôi thích bị phá hủy cùng với nó hơn."
"Tùy ý ông thôi. Xin phép được hỏi câu nữa! Ông là công tố viên. Tôi luôn không hiểu nổi làm sao người ta lại có thể trở thành công tố viên được. Ông sống nhờ vào việc ông buộc tội người khác, phần lớn là những kẻ khốn khổ, và kết án họ. Đúng thế không?"
"Đúng thế. Tôi làm nhiệm vụ của mình. Đó là chức trách của tôi. Giống như chức trách của đao phủ là hành quyết những kẻ bị tôi kết án. Chính các ông cũng nhận cùng chức trách ấy. Các ông cũng giết người vậy."
"Đúng. Chỉ khác là chúng tôi không giết vì nhiệm vụ, mà vì vui thú, hay đúng hơn: vì bất mãn, vì tuyệt vọng thế giới này. Vì thế việc giết người khiến chúng tôi thích thú đôi chút, Chẳng lẽ nó chưa từn làm ông vui thú?"
"Ông làm tôi chán ngáy. Ông vui lòng kết thúc công việc cùng mình đi thôi, Nếu ông không biết khái niệm nhiệm vụ...:
Ông ta im lặng và dẩu môi như thể muốn nhổ. Nhưng chỉ khạc ra được tí máu, dính ở cằm.
"Khoan đã!" Gustav lịch sự nói. "Đương nhiên tôi không biết khái niệm nhiệm vụ, không biết nữa. Trước đây, do chức trách nên tôi liên quan nhiều với nó, tôi vốn là giáo sư thần học mà. Ngoài ra từng là lính và đã tham gia chiến tranh. Cái đối với tôi dường như là bổn phận và cái tôi bị những kẻ quyền uy và cấp trên ra lệnh đều chẳng tốt lành gì, tôi luôn ao ước được làm ngược lại. Song cho dù tôi không còn biết khái niệm bổn phận đi nữa, tôi vẫn biết khái niệm tội lỗi - có thể hai khái niệm này là một thôi. Bởi tôi được một bà mẹ sinh ra nên tôi có tội, bị kết án phải sống, bắt buộc phải làm dân một đất nước, làm lính, giết người, đóng thuế để vũ trang quân đội. Giờ đây, trong giây phút này, lầm lỗi của đời sống lại khiến tôi một lần nữa phải giết người, như trong cuộc chiến tranh trước kia. Và lần này tôi không giết người với lòng ghê tởm nữa, tôi cam chịu tội lỗi; tôi hoàn toàn không phản đối gì việc thế giới ngu xuẩn, đầy nhóc này vỡ tan thành mảnh vụn, tôi còn muốn giúp sức vào nữa, và thích thú được tan rã theo."
Công tố viên gắng sức mỉm cười với đôi môi bết máu. Không thành công lắm, nhưng rõ ràng ông ta đã nỗ lục.
"Tốt lắm," ông ta nói. "Vậy thì chúng ta là đồng nghiệp. Thưa đồng nghiệp, ông vui lòng làm nhiệm vụ của mình đi thôi."
Trong lúc đó cô gái xinh xắn đã ngồi xuống vệ đường và ngất xỉu.
Đúng lúc ấy lại một chiếc xe ấn còi và phóng hết tốc độ tới. Chúng tôi kéo cô gái qua bên một chút rồi đứng nép người vào vách đá, mặc cho chiếc xe đang chạy tới húc vào xác chiếc xe cũ. Nó phanh gắt, lồng lên rồi dừng lại không suy suyển. Chúng tôi lẹ làng cầm súng săn chĩa vào những người mới.
"Xuống xe!" Gustav ra lệnh. "Giơ tay lên!"
Ba người đàn ông xuống xe, ngoan ngoãn giơ cao tay.
"Có ai trong các ông là thầy thuốc không?" Gustav hỏi.
Họ lắc đầu.
"Vậy các ông vui lòng thận trọng đưa ông đây ra khỏi xe, ông ấy bị thương nặng. Rồi lấy xe của các ông chở ông ấy tới thành phố gần nhất. Nào, làm đi!"
Chẳng mấy chốc ông già được đặt nàng trong chiếc xe kia; Gustav ra lệnh và họ phóng đi ngay.
Trong lúc đó cô tốc ký của chúng tôi đã hồi tỉnh và quan sát các diễn biến. Tôi thích thú vìa đã bắt được con mồi xinh đẹp này.
"Này cô," Gustav nói, "cô đã mất chủ rồi. Hy vọng ngoài việc đó ra ông ta không phải là gì thân thiết của cô. Bây giờ cô giúp việc cho tôi; hãy là một chiến hữu tốt của chúng tôi! Thế nhé, bây giờ khẩn trương lên một chút. Nơi đây sẽ mau chóng trở nên bất tiện. Cô biết leo không? Được à? Vậy cô leo đi, chúng tôi theo hai bên, hỗ trợ cô."
Ba chúng tôi leo, nhanh nhất có thể, lên chiếc chòi. Tới bên trên, cô thấy nôn nao, nhưng sau khi được uống Cognac, cô nhanh chóng hồi phục, đến độ nức nở khen cảnh trí trên hồ, trên núi và cho chúng tôi biết tên cô là Dora.
Ngay sau đó lại một chiếc xe trờ tới phía dưới kia; nó thận trọng lách qua chiếc xe bị lật, chứ không ngừng, rồi tăng tốc độ ngay.
"Đồ nhát gan!" Gustav cười, bắn người cầm lái.
Chiếc xe loạng choạng một chút, vọt đâm vào tường, xuyên qua nó rồi nghiêng lơ lửng trên vực thẳm,
"Dora," tôi nói, "cô biết sử dụng súng săn chứ?"
Cô không biết, nhưng chúng tôi chỉ cô cách nạp đạn. Mới đầu cô vụng về, làm xước chảy máu một ngón tay, gào lên khóc lên, đòi băng dán. Nhưng Gustav bảo rằng đang thời chiến và cô hãy chứng tỏ là một cô gái can trường, dũng cảm. Cô nín ngay.
"Nhưng rồi chúng ta sẽ ra sao?" cô hỏi.
"Tôi không biết," Gustav đáp. "Anh bạn Harry của tôi thích đàn bà đẹp lắm, anh ấy sẽ là bạn của cô."
"Nhưng người ta sẽ đưa cảnh sát và lính tráng tới đây, giết chết chúng ta."
"Không còn cảnh sát và những bọn đại loại như thế nữa. Chúng ta có thể chọn lựa, Dora ạ. Hoặc chúng ta bình thản ở trên này và bắn mọi chiếc xe chạy qua. Hoặc chúng ta tóm lấy một chiếc chạy đi và để bọn khác bắn chúng ta. Chọn cách nào thì cũng như nhau cả thôi. Tôi chọn ở lại đây."
Dưới kia lại một chiếc xe ấn còi lanh lảnh chạy lên. Nó bị diệt chóng vánh, nằm chổng bốn bánh lên trời.
"Lạ thật," tôi nói, "không ngờ bắn người lại có thể thú vị thế! Vậy mà trước kia tớ là kẻ chống chiến tranh!"
Gustav mỉm cười. "Đúng vậy, chẳng qua chỉ vì thế giới quá đông người. Hồi xưa người ta không nhận thấy thế đâu. Nhưng giờ đây, khi ai cũng không chỉ hít thở không khí mà còn muốn có cả ô tô nữa, người ta mời nhận ra. Dĩ nhiên điều chúng ta làm là không khôn ngoan; nó là trò nghịch ngợm, giống như chiến tranh là một trò nghịch ngợm ở mức độ gớm ghê. Rồi đây nhân loại sẽ có lúc phải học hạn chế sinh sản bằng phương cách hợp lý. Tạm thời mình phản ứng lại những tình trạng không thể chịu đựng nổi này bằng cách hơi thiếu khôn ngoan nhưng về cơ bản mình làm đúng: mình giảm bớt người."
"Phải," tôi nói, "việc chúng mình làm hhẳn là điên rồ thật, xong có lẽ đúng đắn và cần thiết. Thật chẳng hay ho chút nào, khi nhân loại quá lao tâm khổ tứ tìm cách dùng lý trí chỉnh đốn những việc mà nó hoàn toàn chưa vươn tới được. Rồi từ đó nảy ra những tư tưởng như của người Mỹ hay người Bôn-sê-vích cả hai tư tưởng này đều cực kỳ chín chắn, nhưng vì chúng quá đơn giản hóa đời sống, nên đâm ra chúng lại áp bức và bóc lột đời sống ghê gớm. Hình ảnh con người, xưa kia là một lý tưởng cao cả, nay đang trở thành một thứ sao chép vụng về. Chúng ta, những kẻ điên rồ, có thể sẽ làm nó trở thành cao quý lại."
Gustav cười đáp: "Nhóc ơi, cậu ăn nói khôn ngoan tuyệt vời; thật là thú vị và bổ ích được lắng nghe những lời thông tuệ này. Thậm chí có thể cậu khá có lý. Nhưng thôi, làm ơn nạp đạn vào khẩu súng săn của cậu đi, tớ thấy cậu hơi quá mơ mộng đấy. Bất cứ lúc nào cũng lại có thể có vài con hươu đực chạy lên đây, mình không thể bắn chết chúng bằng triết lý được, trong nòng súng phải sẵn đạn."
Một chiếc xe trờ tới, bị lật ngay, thế là đường tắc nghẽn. Một kẻ sống sót, một người đàn ông phì nộn tóc đỏ giận dữ vung tay vung chân bên những xác xe, hết trố mắt ngó xuống dưới, lại nhìn lên cao; khi phát hiện chỗ chúng tôi ẩn nấp, y vừa gầm gừ vừa chạy tới, chĩa súng lúc lên nã nhiều lần.
"Cút ngay không tôi bắn," Gustav hét xuống. Người đàn ông nhắm anh nã phát nữa. Chúng tôi liền bắn gục y bằng hai phát.
Thêm hai xe nữa bị chúng tôi bị bắn hạ. Con đường trở nên vắng lặng; dường như sự nguy hiểm của nó đã đồn xa. Chúng tôi được rảnh rang ngắm nhìn cảnh đẹp. Trong thung lũng phía bên kia hồ có một thị trấn nhỏ, khói đang bốc lên từ đó và chỉ lát sau chúng tôi thấy lửa lan từ mái nhà này sang mái nhà khác. Nghe cả tiếng súng nữa. Dora thổn tức, tôi vuốt nhẹ đôi má đẫm lệ của cô.
"Tất cả chúng ta phải chết sao?" cô hỏi. Không ai trả lời. Trong lúc đó một người bộ hành đi tới phía dưới kia, nhìn các xác xe, đi quanh hỉnh mũi ngửi, rồi cúi vào trong một chiếc, lôi ra một cái ô sặc sỡ, một xắc tay phụ nữ bằng da, một chai vang; rồi y bình thản ngồi trên bức tường, ăn gì đấy bọc giấy nhôm lấy từ xắc tay, nốc sạch rượu rồi kẹp ô dưới nách vui vẻ đi tiếp. Y thanh thản bước. Tôi bảo Gustav: "Cậu có thể bắn thủng đầu gã khả ái kia không? Lạy Chúa, tớ chịu!"
"Đâu ai đòi cậu bắn," bạn tôi lầu bầu. Nhưng chính anh cũng thấy không thoải mái trong lòng. Chỉ vừa mới nhìn thấy một con người cung cách vô hại, hiền hòa và như trẻ con, một người còn có thể sống hồn nhiên, thì mọi hành động đáng ca ngợi và cần thiết nhường ấy của chúng tôi đột nhiên dường như thành ngu xuẩn và ghê tởm. Mẹ kiếp, bao nhiêu máu đã đổ! Chúng tôi hổ thẹn. Nhưng trong chiến tranh thậm chí các viên tướng cũng đôi khi cảm thấy như thế đây.
"Chúng ta không nên ở đây lâu hơn nữa," Dora than thở, "mà nên xuống dưới kia; chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy gì đấy để ăn trong những chiếc xe. Mấy người không đói sao, hở các Bôn-sê-vích?"
Phía dưới, nơi thị trấn đang cháy kia tiếng chuông nhà thờ bắt đầu rền rĩ, náo động và đầy sợ hãi. Chúng tôi chuẩn bị leo xuống. Lúc giúp Dora leo qua lan can, tôi hôn đầu gối cô. Cô cười ré lên. Nhưng rồi những thanh gỗ bung ra và hai chúng tôi rơi vào khoảng không...
Tôi lại thấy mình đang ở trong hành lang hình móng ngựa, vẫn còn bị kích thích bởi trò phiêu lưu săn bắn vừa rồi. Và những hàng chữ lôi cuốn khắp nơi, trên hết thảy vô số cánh cửa:
Hóa thân thành thú vật và cây cỏ bất kỳ. 37
Kamasutram 38
Lớp cho người mới học: 42 cách ân ái khác nhau.
Tự sát đầy hoan lạc
Cười tới chết.
Bạn muốn tâm linh hóa
Minh triết phương Đông.
Ước chi tôi có nghìn cái lưỡi!
Dành riêng cho đàn ông.
Sự suy tàn của phương Tây
Giảm giá. Vẫn mãi dẫn đầu.
Bản chất của nghệ thuật
Sự chuyển hóa từ thời gian sang không gian nhờ âm nhạc.
Cười chảy nước mắt
Phòng hài hước.
Trò chơi của người ẩn dật
Thay thế hoàn toàn cho mọi sự quảng giao.
Những hàng chữ như thế này nhiều vô số kể. Một hàng viết:
Hướng dẫn tạo dựng nhân cách
Bảo đảm thành công.
Tôi thấy thật đáng chú ý, liền bước vào.
Một căn phòng tĩnh lặng, sáng lờ mờ chào đón tôi. Một người đàn ông ngồi bệt dưới đất phương Đông, trước mặt là một bàn cờ vua thật to. Thoạt nhìn, tôi tưởng đó là anh bạn Pablo, vì ông cũng khoác một chiếc áo vét lụa sặc sỡ tương tự và đôi mắt cũng đen và long lanh y hệt.
"Phải Pablo không?" tôi hỏi.
"Tôi chẳng là ai cả," ông thân mật giải thích. "Ở đây chúng ta không mang tên, ở đây chúng ta chẳng là ai hết thảy. tôi là người chơi cờ vua. Ông muốn học về sự tạo dựng nhân cách à?"
"Vâng, thưa ông."
"Vậy ông hãy vui lòng cho tôi sử dụng vài chục hình ảnh của ông đi."
"Hình ảnh của tôi ư...?"
"Những hình ảnh mà ông đã thấy, cái gọi là nhân cách của mình tan thành ấy. Không có hình ảnh thì tôi không thể nào chơi được."
Ông chìa ra trước mặt tôi một cái gương, tôi lại thấy trong đó cái cá nhân thống nhất của tôi vỡ tan thành nhiều Cái Tôi, dường như còn tăng hơn so với mới đây. Những hình ảnh này giờ đây nhỏ lắm, chỉ bé tựa quân cờ vua thông thường thôi. Với những ngón tay vững vàng và lặng lẽ người chơi cờ kia nhặt vài chục cái, đặt xuống sàn bên cạnh bàn cờ. Cùng lúc, ông ta nói đều đều như một người quen lặp lại một bài thuyết trình hay bài giảng:
"Ông không lạ gì cái quan niệm sai lầm, đưa đến bất hạnh rằng con người là một khối thống nhất trường tồn. Ông cũng biết rằng con người được cấu tạo từ một số linh hồn, từ rất nhiều bản ngã. Quan niệm về sự thống nhất bề ngoài của cá nhân phân tán ra thành nhiều hình dạng này bị coi là điên rồ; khoa học đặt cho nó cái tên 'chứng tâm thần phân liệt'. Tất nhiên khoa học có lý, bao lâu nó cho rằng không thể kiềm chế một đám đông không được lãnh đạo, không có một trật tự và phân nhóm nhất định. Ngược lại nó sai lầm khi quan niệm chỉ có thể có một trật tự duy nhất, liên kết vĩnh viễn cho nhiều Cái Tôi bị phân tán nhỏ. Nhầm lẫn này của khoa học đã gây ra một số hậu quả đáng tiếc; nó chỉ được mỗi một việc là giúp cho các thầy cô và các nhà giáo dục của Nhà nước thấy công việc của họ đon giản đi và khỏi cần suy nghĩ cùng thử nghiệm. Do sai lầm này mà nhiều người điên khùng bất trị được xem là 'bình thường', thậm chí là thành phần cao quý trong xã hội, và ngược lại những thiên tài bị coi là điên rồ. Vì thế chúng tôi bổ khuyết môn tâm hồn học thiếu sót của khoa học bằng khái niệm mà chúng tôi gọi là nghệ thuật tạo dựng. Chúng tôi sẽ chỉ vẽ cho người đã trải nghiệm sự phân tán Cái Tôi của họ rằng bất kỳ lúc nào họ cũng có thể sắp xếp lại những mảnh của Cái Tôi này theo bất kỳ trật tự nào và bằng cách như thế đạt được tính muôn hình vạn trạng của trò đời. Giống như nhà thơ sáng tạo nên vở kịch từ một nhúm nhân vật, chúng tôi không ngừng dựng nên từ các hình thù bị tách ra của Cái Tôi những nhóm mới, với những trò chơi và những căng thẳng mới, với những hoàn cảnh luôn luôn mới. Ông xem này!"
Bằng những ngón tay khôn ngoan và lặng lẽ, ông nhặt những hình ảnh của tôi, tất cả những hình ảnh già lão, thanh niên, trẻ con, đàn bà, tất cả những hình ảnh vui tươi và rầu rĩ, khỏe mạnh và mảnh mai, linh lợi và vụng về, nhanh chóng xếp chúng trên bàn cờ thành ván cờ, trong dó chúng lập tức hình thành những phe nhóm, những gia đình, thành những trò chơi và những ẩu đả, thành những thân hữu và những kình địch, thành một thế giới nhỏ. Trước đôi mắt hân hoan của tôi, ông cho cái thế giới tí hon sinh động và rất thứ tự ấy hoạt động, chơi đùa và ẩu đả, thành lập liên minh và giao chiến, ve vãn, cưới hỏi, sinh con đẻ cái; đó quả thật là một vở kịch với đông đảo nhân vật, cảm động và hồi hộp.
Rồi ông, một nghệ sĩ cầu toàn, với dáng điệu vui vẻ, nhẹ nhàng gạt đổ các quân cờ, gom thành đống rồi trầm ngâm xếp cũng từ những quân cờ ấy một ván mới hoàn toàn, với những phe nhóm mới, những tương quan và liên hệ chằng chịt mới. Ván thứ hai này tương tự ván đầu: cũng thế giới ấy, tạo từ cùng chất liệu ấy, nhưng không khí toát ra khác, nhịp độ thay đổi, chủ đề được nhấn mạnh khác, hoàn cảnh dựng lên khác.
Và bằng cách ấy người công trình sư thông minh đã dựng từ những hình ảnh, mỗi cái là một phần của chính tôi, hết ván cờ này đến ván cờ khác. Những bàn cờ này hao hao nhau, rõ ràng tất cả thuộc về cùng một thế giới, gắn bó với cùng một nguồn gốc, nhưng lại hoàn toàn mói.
"Đấy là nghệ thuật sống," ông nói như giảng bài. "Từ nay ông có thể tha hồ tự tiếp tục tạo dựng và làm sinh động ván cờ của cuộc đời ông, nó phức tạp hay phong phú là do ông quyết định. Tựa như sự điên rồ, trong một ý nghĩa cao, là khởi điểm của mọi sự thông tuệ, chứng tâm thần phân liệt là khởi điểm của mọi nghệ thuật, mọi tưởng tượng. Thậm chí các học giả cũng đã phần nào nhìn nhận điều này, như ta có thể tra cứu trong quyển Của ông hoàng Wunderhom 39 chẳng hạn, một tác phẩm thú vị, ở đấy công trình gian lao và cần cù của một học giả được cao thượng hóa nhờ sự cộng tác thiên tài của một số nghệ sĩ điên rồ bị nhốt trong các bệnh viện tâm thần. Đây, ông hãy cất những hình ảnh bé nhỏ này của ông đi, ván cờ sẽ còn thường làm cho ông vui thích. Cái quân cờ hôm nay lớn ngồng thành lão ba bị trong bàn cờ khiến ông mất vui, ngày mai sẽ bị ông giáng xuống thành một quân cờ phụ vô hai. Còn quân cờ bé bỏng đáng yêu khốn khổ dường như suốt một lúc lâu chỉ toàn gặp rủi ro và bất hạnh sẽ được ông cho làm công chúa trong ván sắp tới. Thưa ông, tôi chúc ông nhiều vui thú."
Tôi cúi rạp người tỏ lòng biết ơn trước bậc kỳ thủ tài ba này, rồi cất quân cờ vào túi và rút lui qua khung cửa hẹp.
Thật ra tôi định sẽ lập tức ngồi bệt xuống hành lang, chơi hàng giờ liền, chơi liên miên với những quân cờ này; nhưng vừa bước trở lại lối đi hình móng ngựa sáng choang của hí viện thì những dòng lưu chuyển mới, mạnh hơn tôi, đã kéo tôi đi. Một tấm bích chương sáng lóa trước mắt tôi:
Chuyện diệu kỳ trong việc huấn luyện sói thảo nguyên
Hàng chữ này dấy trong lòng tôi nhiều loại cảm giác; mọi sự sợ hãi và kiềm chế trở về từ cuộc đời đã qua của tôi và từ thực tại bị chối bỏ đã siết chặt trái tim tôi ghê gớm. Tôi mở cửa với bàn tay run rẩy rồi bước vào một gian hàng chợ phiên; tôi thấy ở đó dựng lên một tấm lưới sắt ngăn cách tôi với sân khấu bài trí sơ sài. Tôi thấy trên sân khấu một người dạy thú đang lớn tiếng có vẻ huênh hoang. Dù gã mang bộ ria to tướng, tay cuồn cuộn cơ bắp và y phục gánh xiếc đỏm dáng, trông gã giống tôi một cách xảo quyệt và hết sức đáng ghét. Gã đàn ông lực lưỡng này nắm dây dắt, như dắt chó, một con sói cao lớn, xinh đẹp, nhưng gầy đét, ánh mắt nô lệ nhút nhát, trông thật thảm hại! Rồi tôi coi, kinh tởm mà hồi hộp, ghét mà lại thích thú ngầm, gã dạy thú tàn bạo này trình diễn con vật dữ và quý, nhưng lại tuân phục hết sức nhục nhã, qua một loạt ngón nghề và những màn giật gân.
Dẫu sao người đàn ông này, gã song sinh khốn kiếp méo mó của tôi, đã thuần dưỡng được con sói của gã thật tuyệt vời. Con sói chăm chú tuân theo mọi mệnh lệnh, phản ứng hệt như chó trước mỗi tiếng gọi và tiếng roi vun vút; nó quỳ xuống, giả chết, ngồi bệt như người, ngoan ngoãn ngậm một ổ bánh mì, một quả trứng, một miếng thịt, một chiếc giỏi con, thậm chí dùng mõm ngậm cây roi gã kia đánh rơi, lại còn khúm núm ve vẩy đuôi trông chịu hết nổi. Đoạn người ta dẫn đến trước mặt nó một con thỏ, rồi một con cừu trắng; tuy sói ta nhe răng và nhỏ dãi run rẩy thèm khát, nhưng không hề động chạm đến con nào, mà tuân lệnh điệu nghệ phóng qua hai con vật đang khiếp đảm co rúm trên sàn, đúng thế, nó còn nằm xuống giữa thỏ và cừu quàng chân trước qua chúng, thành một hình ảnh gia đình đầy xúc động. Cùng lúc nó quỵ lụy ăn một phong sô cô la từ tay gã dạy thú. Quả là một cực hình khi chứng kiến con sói này học được cách chối bỏ bản tính của nó đến mức không tưởng tượng nổi và tôi đã kinh hoàng đến tóc tai dựng đứng.
Dẫu sao, trong phần thứ hai của buổi trình diễn, khán giả khích động đã được đền bù cho cực hình nọ, cũng như cho chính con sói. Bởi sau màn trình diễn thuần dưỡng thú vô cùng điệu nghệ kia và sau khi gã dạy thú mỉm nụ cười dễ thương, đắc thắng nghiêng người trên nhóm cừu và sói chào khán giả thì các vai diễn liền được hoán đổi. Gã dạy thú giống hệt Harry đột nhiên khom thấp, đặt roi xuống trước chân sói, rồi bắt đầu run rẩy, rúm người trông thảm hại y như con sói hồi nãy. Còn sói ta vừa cười vừa liếm mép, mọi gượng gạo và giả trá biến mất sạch. mắt nó rực sáng, thân thể nó trở nên rắn chấc và sinh động trong vẻ hoang dại vừa giành lại được.
Và bây giờ sói ta ra lệnh, con người phải vâng lời. Người quỳ gối theo mệnh lệnh, giả làm sói, thè dài lưỡi, dùng răng vàng cắn xé áo quần trên thân thể. Tùy theo con thú dạy người kia ra lệnh mà gã đi hay bò hoặc ngồi bệt xuống, giả chết, để sói cưỡi lên lưng và nhặt roi cho nó. Hệt như con chó đầy năng khiếu, gã tham gia với trí tưởng tượng phong phú mọi sự sỉ nhục và trò đồi bại. Một cô gái xinh lên sân khấu, lại gần gã người được thuần dưỡng vuốt cằm gã, cọ má vào má gã, song gã vẫn cứ đứng trên hai chân lẫn hai tay, vẫn làm con thú, lúc lắc cúi đầu, nhe răng với cô, cuối cùng đầy đe dọa hệt như sói, khiến cô gái phải bỏ chạy. Người ta để sô cô la trước mặt gã, nhưng gã chỉ khinh thị đánh hơi rồi đẩy ra. Sau cùng, hai con cừu trắng và thỏ đốm mập mạp lại được mang ra; gã người sáng dạ kia liền trổ hết tài ba đóng vai sói, với đầy hứng thú. Ngón tay gã bấu, răng gã ngoạm vào hai con thú bé bỏng đang ré lên, rứt da thịt chúng, vừa cưỡi vừa nhai sống, hăm hở uống máu nóng của chúng, mắt gã nhắm nghiền đầy khoái lạc.
Tôi kinh hoàng chạy ra ngoài. Hí viện ma thuật này, tôi đã thấy, không phải thiên đường thuần túy; ẩn dưới bộ mặt mỹ miều của nó là hết thảy địa ngục. Chúa ơi, ngay cả ở đây cũng không có giải thoát ư?
Tôi chạy tới chạy lui, đầy khiếp hãi, cảm thấy trong miệng tanh mùi máu và mùi sô cô la, mùi này kinh tởm y như mùi kia; khao khát thoát khỏi làn sóng ô trọc này nên tôi không ngớt nỗ lực để lòng mình có được những hình ảnh thân mật hơn, dễ chịu hơn. "Các bạn ơi, đừng có những giọng điệu ấy!" 40, tôi thầm nhủ và kinh hoàng nhớ lại những hình ảnh ghê tởm nơi mặt trận mà lúc chiến tranh người ta thỉnh thoảng được thấy, những xác người chồng chất quấn vào nhau, mặt nạ phòng hơi ngạt đã biến mặt họ thành những mặt quỷ cười trâng tráo. Ngày đó, tôi - một kẻ yêu thương đồng loại và có khuynh hướng phản chiến - đã ngu xuẩn và con nít biết bao, khi kinh hoàng trước những hình ảnh ấy! Nay tôi hiểu rằng không người huấn luyện thú nào, không viên bộ trưởng nào, không viên tướng nào, không kẻ điên rồ nào lại có thể ấp ủ trong đầu óc y những ý tưởng và hình ảnh kinh tởm, điên rồ và độc ác, thô bạo và ngu xuẩn mà bản thân tôi chưa từng có.
Thở dài nhẹ nhõm, tôi nhớ lại hàng chữ mà lúc mới bước chân vào hí viện đã trông thấy gã thiếu niên bảnh bao nọ cắm đầu cắm cổ chạy theo:
Mọi đàn bà, con gái đều là của bạn
và thấy rằng thật ra rốt cuộc chẳng có gì đáng ham muốn bằng điều ấy. Vui mừng vì đã lại thoát khỏi cái thế giới sói đáng nguyền rủa, tôi bước vào ngăn lô ấy.
Nơi đây, lạ kỳ thay - thật hoang đường đồng thời lại quá thân quen, khiến tôì rùng mình - mùi hương thuở thanh xuân, bầu không khí thời thơ ấu và trai trẻ của tôi, hắt ngược vào tôi và trong tim tôi lại cuồn cuộn dòng máu ngày xa xưa ấy. Nhưng điều tôi vừa mới làm, vừa mới suy nghĩ, và tôi vừa mới là gì, tất cả những điều ấy đều chìm lắng sau lưng tôi và tôi trẻ trung trở lại. Mới một giờ trước đây, mới khoảnh khắc trước đây tôi ngỡ mình biết khá rõ tình yêu, ham muốn, kháo khát là gì, nhưng đó là thứ tình yêu và kháo khát của một người đàn ông già. Giờ đây tôi đã trẻ trung trở lại và những gì tôi cảm thấy trong lòng mình - dòng lửa sôi sục đang cuồn cuộn chảy, nỗi nhớ nhung cuồng nhiệt đang lôi kéo, nỗi đam mê được thả lỏng như làn gió ấm tháng Ba - tất cả đều trẻ trung, mới mẻ và chân thật. Ôi, giờ đây ngọn lửa ngày trước bị lãng quên nay lại bùng cháy, những thanh âm ngày trước lại nghe mơ hồ rồi to dần, máu tôi đang bừng bừng nở hoa, tâm hồn tôi đang la hét và hát ca! Tôi là một thiếu niên, đâu chừng mười lăm hay mười sáu tuổi, đầu óc chỉ toàn những tiếng Latin với Hy Lạp cùng những câu thơ diễm tuyệt, tâm trí đầy những nỗ lực và tham vọng, toàn mơ những giấc mơ nghệ sĩ; nhưng sâu xa hơn, mãnh liệt hơn và đáng sợ hơn tất cả những ngọn lửa đang bừng cháy này là ngọn lửa của tình yêu, sự đói khát tình dục, sự dự cảm mỏi mòn của khoái lạc đang thiêu đốt và giày vò tôi.
Tôi đang đứng trên một trong những ngọn đồi cao nơi thành phố quê hương bé nhỏ của tôi. Trời thơm mùi gió ấm tháng Ba và những bông đổng thảo đầu mùa; dòng sông và các cửa sổ ngôi nhà của cha mẹ tôi dưới thành phố hắt nắng lên lấp loáng; màu sắc, thanh âm và hương thơm của tất cả mọi vật sao nồng nàn ngất ngây đến thế, mới mẻ và thấm đẫm sự tạo dựng đến thế, sâu đậm và rực rỡ đến thế, phấp phới trong nắng xuân siêu thực và rạng rỡ đến thế, giống như tôi đã nhìn thế giới trong những giờ phút viên mãn, đầy thi hứng thời mới lớn xa xưa. Tôi đứng trên đồi, gió lùa qua mái tóc dài, chìm đắm trong khao khát yêu đương mơ mộng; tay lơ đễnh ngắt một lá non nhú trên bụi cây vừa chớm trở lại xanh tươi, đưa lên nhìn và ngửi (chỉ mới ngửi mùi này thôi mà mọi chuyện ngày xưa đã lại ập về nóng bỏng trong tôi), rồi nghịch ngợm ngậm và nhấm chiếc lá non xanh lục ấy bằng đôi môi vẫn chưa từng hôn người con gái nào. Vị thơm nồng đắng khiến tôi đột nhiên thấu rõ điều mình đang trải nghiệm, rằng mọi chuyện đang trở lại đây rồi. Tôi sống lại một giờ của năm cuối cùng thời niên thiếu; vào một xế trưa Chủ nhật đầu xuân tôi gặp Rosa Kreisler trên con đường đi dạo đơn độc của tôi; tôi đã nhút nhát biết bao khi chào nàng và say đắm yêu nàng.
Ngày đó người con gái xinh xinh ấy một mình mơ mộng lên đồi nhưng chưa nhận ra tôi; lòng đầy thấp thỏm tôi thấy nàng tới gần, thấy mái tóc nàng tết thành bím dày, song hai bên má vẫn còn những lọn tóc xõa đùa trong gió. Tôi thấy, lần đầu tiên trong đời, cô bé mới xinh làm sao, gió vờn mái tóc mềm mại của nàng đẹp cứ như mơ, chiếc áo xanh mỏng thả chùng trên đôi chân trẻ trung của nàng mới duyên dáng và gợi khao khát làm sao; khi tôi trông thấy người con gái ấy, toàn thể mối linh cảm chết người về tình yêu đã tràn ngập tôi, mối linh cảm về đàn bà, mối linh cảm gây bàng hoàng về nhưng khả năng to lớn và những hứa hẹn, những vui suớng không tên, những bối rối, âu lo và đau khổ, sự giải thoát sâu sắc và tội lỗi thâm sâu, giống như vị đắng thơm tho của chiếc lá non nhai nát đã tẩm đẫm tôi hết thảy hân hoan ngọt ngào thấp thỏm và nỗi xao xuyến của mùa xuân. Ôi, vị đắng mùa xuân mới rát bỏng trên lưỡi tôi làm sao! Ôi, làn gió lùa qua những lọn tóc mơn man đôi má tươi hồng của nàng! Rồi khi đã đến gần tôi, nàng ngước lên, nhận ra tôi, nàng thoáng đỏ mặt một lúc và quay nhìn chỗ khác; rồi tôi ngả chiếc mũ đội vào buổi lễ kiên tín chào, Rosa trấn tĩnh lại ngay, mỉm nụ cười hơi có vẻ mệnh phụ chào lại, rồi ngẩng cao đầu, chậm rãi bước tiếp tự tin và kiêu hãnh, trong lúc tôi thầm gửi theo cả nghìn ước mơ, lời thỉnh cầu và lòng ngưỡng mộ quấn quýt quanh nàng.
Chuyện ngày ấy như thế đấy, vào một Chủ nhật cách đây ba mươi lăm năm và trong khoảnh khắc này tất cả mọi cảnh tượng ngày đó đã lại quay về: ngọn đồi và thành phố, gió tháng Ba và mùi chồi lá, Rosa và mái tóc nâu của nàng, niềm khao khát như ngọn triều dâng và nỗi lo âu nghẹt thở nhưng ngọt ngào. Tất cả vẫn như ngày xưa và dường như trong đời tôi không còn yêu ai như đã yêu Rosa ngày ấy. Nhưng lần này, tôi được dịp đón chào nàng khác lần trước. Thấy nàng đỏ mặt, cố che giấu thẹn thùng khi nhận ra tôi, tôi biết ngay nàng mến thương tôi và đối với nàng lần gặp gỡ này có tầm quan trọng giống như đối với tôi. Nên thay vì lại trịnh trọng ngả mũ đứng chờ nàng đi qua, lần này bất chấp sợ hãi và ngại ngùng, tôi đã làm điều mà dòng máu của tôi đòi hỏi, tôi gọi: "Rosa! May quá, em đã đến, cô bé đẹp xinh của anh ơi. Anh yêu em quá chừng." Có lẽ như vậy là không thật văn hoa trong những điều có thể nói ra lúc ấy, nhưng cần gì văn hoa ở đây, thế là đủ lắm rồi. Rosa không làm ra vẻ mệnh phụ và cũng không đi tiếp, mà dừng lại đăm đăm nhìn tôi, mặt đỏ bừng hơn và nói: "Chào anh Harry, có thật anh thương em không?" Rồi đôi mắt nâu của nàng rạng rỡ trên khuôn mặt rắn rỏi và tôi cảm thảy cả quãng đời cùng những mối tình đã qua của tôi đều sai lầm, rắc rối và đầy những bất hạnh đáng tiếc kể từ giây phút tôi để vuột mất Rosa vào Chủ nhật ấy. Nhưng giờ đây lỗi lầm nọ đã chuộc xong, mọi chuyện đã trở nên khác hẳn, mọi chuyện đã trở nên tốt đẹp.
Chúng tôi nắm tay nhau, sóng vai chậm rãi bước tiếp, hạnh phúc khôn tả, cực kỳ bối rối, không biết nói gì, làm gì; để bớt lúng túng chúng tôi liền rảo bước và chạy nhanh hơn, cho đến lúc thở không ra hơi phải dừng lại, tay vẫn trong tay. Chúng tôi vẫn còn trẻ con, không biết rõ nên làm gì với nhau; Chủ nhật ấy tuy chưa dám trao nhau nụ hôn đầu, nhưng chúng tôi vô cùng hạnh phúc. Chúng tôi đứng thở, chúng tôi ngồi xuống cỏ và tôi vuốt ve bàn tay nàng, còn bàn tay kia của nàng thẹn thùng vuốt tóc tôi; rồi chúng tôi lại đứng lên, đo xem ai cao ai thấp; thật ra tôi cao hơn nàng quãng một đốt ngón tay, nhưng tôi không nhận, mà cả quyết hai đứa cao bằng nhau, rằng Chúa Trời yêu quý đã dành hai đứa cho nhau và sau này chúng tôi sẽ nên vợ nên chồng. Chợt Rosa bảo nàng ngửi thấy mùi hoa đổng thảo và chúng tôi quỳ trên lớp cỏ mùa xuân lúp xúp, tìm được vài bông cuống ngắn, tặng nhau; khi trời trở lạnh và nắng chếch trên sườn đá, Rosa bảo nàng phải về, hai đứa buồn não nuột, vì tôi không dám đi cùng với nàng, nhưng nay chúng tôi đã có chung một bí mật và đó là điều quý báu nhất. Tôi nán lại trên núi, ngửi bông đổng thảo của Rosa, rồi nằm sấp trên một khe đá, nhìn xuống thành phố dưới thung 1ũng sốt ruột ngóng chờ bóng dáng nhỏ bé thân yêu hiện ra ở đấy, đi ngang bờ giếng và chạy qua cầu. Lúc ấy tôi biết nàng đã về tới nhà và đi qua hết phòng này sang phòng khác, còn tôi nằm tận trên này, xa nàng, nhưng từ tôi đến với nàng có một sợi dây gắn bó, một dòng lưu chuyển và lất phất một bí mật nhỏ nhoi.
Suốt mùa xuân ấy chúng tôi đã gặp lại nhau, lúc chỗ này, khi chỗ nọ, trên sườn núi đá, bên những hàng giậu và khi hoa tử đinh hương chớm nở, chúng tôi rụt rè trao nhau nụ hôn đầu. Lũ trẻ chúng tôi chỉ có thể cho nhau rất ít thôi và nụ hôn ấy chưa cuồng nhiệt và trọn vẹn; tôi chỉ dám nhẹ nhàng vuốt ve những lọn tóc lòa xòa quanh tai nàng. Nhưng tất cả tình yêu và hạnh phúc mà chúng tôi có thể có được của chúng tôi; và với mỗi ve vuốt thẹn thùng, với mỗi lời yêu đương non nớt, với mỗi đợi chờ khắc khoải chúng tôi đều học được một hạnh phúc mới, chúng tôi đều leo được một nấc nho nhỏ trên chiếc thang tình yêu.
Tôi đã sống lại, bắt đầu với Rosa và những bông hoa đổng thảo, suốt cả cuộc đời tình ái của mình một lần nữa như thế, dưới những vì sao may mắn hơn. Rosa khuất dạng thì Irmgard xuất hiện và vầng dương trở nên nóng bỏng hơn, sao trời ngất ngây hơn, nhưng cả Rosa lẫn Irmgard đều không trở thành của tôi; tôi phải leo từng bậc, phải nếm trải nhiều, học hỏi nhiều, phải mất Irmgard lẫn cả Anna nữa. Tôi lại yêu từng cô gái tôi đã yêu thuở thanh xuân, nhưng nay tôi đủ khả năng truyền cảm hứng tình yêu cho từng người, tặng gì đấy cho từng người và nhận gì đấy của từng người, Những khao khát, những ước mơ và những khả năng trước kia chỉ sống trong tưởng tượng của tôi nay thành hiện thực và được trải nghiệm. Ôi, hết thảy những bông hoa xinh đẹp của ta, Ida và Lore, hết thảy những người ngày trước ta đã từng yêu suốt một mùa hè. một tháng, một ngày!
Tôi hiểu rằng giờ đây tôi là gã trai xinh tươi sôi nổi kia, cái gã hồi nãy tôi thấy hăm hở lao mình vào cánh cửa tình yêu, giờ đây tôi đang tận hưởng cái phần ấy của mình - cái phần chỉ đáng một phần mười, một phần nghìn bản chất và cuộc đời tôi - và để nó phát triển, vô tư lự trước mọi hình ảnh khác của Cái Tôi bản ngã, thanh thản trước nhà tư tưởng, không bị Sói Thảo Nguyên dằn vặt, kbị các nhà thơ, những kẻ huyễn tưởng và các bậc đạo đức gièm xiểm. Không, giờ đây tôi không là gì khác hơn một kẻ đang yêu, không thở hít hạnh phúc và đau khổ nào khác hơn hạnh phúc và đau khổ của ái tình. Irmgard đã dạy tôi khiêu vũ, Ida đã dạy tôi hôn và cô nàng xinh đẹp nhất, Emma, là người đầu tiên đã cho tôi hôn đôi vú nâu nâu của nàng và nhấp chén hoan lạc trong một buổi chiều thu, dưới tán lá cây dư lất phất.
Tôi đã trải nghiệm nhiều thứ trong h1i viện con con của Pablo và không thể diễn tả nổi lấy một phần nghìn. Tất cả những thiếu nữ tôi từng yêu nay đều là của tôi; mỗi người ban phát cho tôi điều chỉ riêng họ có để ban phát, còn tôi ban phát cho mỗi người điều chỉ riêng họ biết đón nhận từ tôi. Tôi đã được nếm nhiều tình yêu, nhiều hạnh phúc, nhiều hoan lạc, lẫn nhiều rối rắm và đau khổ; vào giờ phút mơ mộng này mọi mối tình dang dở của đời tôi đều bừng nở tuyệt diệu trong khu vườn tôi, những đóa hoa mảnh dẻ trinh bạch, những đóa hoa màu lửa sặc sỡ, những bông hoa thẫm mau tàn, hoan lạc bừng bừng, mộng mơ thầm kín, sầu muộn cháy bỏng, chết chóc kinh hoàng, tái sinh rạng rỡ. Tôi gặp những người đàn bà ta chỉ có thể chinh phục chớp nhoáng và ào ạt, ở những người khác ta được diễm phúc đeo đuổi lâu dài và thận trọng; mỗi góc tối nhập nhoạng của đời tôi - nơi xưa kia, dẫu chỉ trong một phút thôi, giọng nói của giới tính đã kêu gọi tôi, một ánh mắt đàn bà đã thiêu đốt tôi, một thoáng da con gái nõn nà đã khêu gợi tôi - lại hiện ra và tôi bắt lại được mọi điều từng bỏ lỡ. Người đàn bà nào cũng đều đã trở thành của tôi, mỗi nàng theo cách riêng của mình. Ở đấy có mặt người đàn bà với đôi mắt nâu sẫm lạ thường dưới mái tóc màu vàng sáng mà ngày trước tôi từng đứng cạnh suốt mười lăm phút bên cửa sổ trong hành lang một chuyến tàu tốc hành và sau đó nàng đã nhiều lần hiện ra trong những giấc mơ của tôi; nàng không nói một lời, nhưng đã dạy tôi những ngón yêu đương đáng sợ, chết người, không lường nổi. Và cô gái Trung Hoa mỡ màng, lặng lẽ, nụ cười đờ đẫn ở cảng Marseilles, với mái tóc mượt đen nhánh và đôi mắt ướt rượt, cả nàng cũng biết những điều kỳ lạ. Mỗi nàng đều có bí mật riêng, thơm mùi mảnh đất quê hương riêng; họ hôn, cười kiểu riêng, bẽn lẽn kiểu riêng, sỗ sàng kiểu riếng. Họ đến rồi đi, dòng đời đưa họ đến với tôi, cuốn tôi lại với họ, kéo tôi xa họ, như trẻ con bơi đùa trong dòng chảy của giới tính, đầy quyến rũ. đầy hỉểm nguy, đầy bất ngờ. Và tôi kinh ngạc thấy đời mình - đời sói thảo nguyên có vẻ khốn khổ và khô khan của tôi - lại giàu yêu đương say đắm, giàu cơ hội và giàu sự hấp dẫn biết bao. Tôi đã bỏ lỡ và trốn chạy hầu như tất cả, đã sa sầy vì chúng, đã vội vã quên chúng, nhưng chúng được tồn trữ hết cả nơi đây, đẩy đủ, hàng trăm cái. Và giờ đây tôi trông thấy chúng, đắm mình với chúng, đề chúng tha hồ muốn làm gì tùy ý, tôi chìm vào địa ngục chạng vạng tươi vui của chúng. Cả sự cám dỗ mà Pablo đã đề nghị với tôi ngày nọ cũng đã trở lại cùng những cám dỗ khác, trước nữa, mà mà bấy giờ tôi không thật hiểu được lấy một lần, những trò chơi kỳ quái tay ba. tay tư, chúng mỉm cười kéo tôi vào màn luân vũ của chúng. Nhiều chuyện đã xảy ra, nhiều trò đã được chơi, không diễn tả nổi bằng lời.
Từ trong cái dòng vô tận của những cám dỗ, tật xấu, vướng mắc ấy tôi lại trồi lên, kín đáo, lặng lẽ, sẵn sàng, hiểu biết đầy đủ, sáng suốt, từng trải, đủ chín chắn cho Hermine. Nàng - khuôn mặt cuối cùng trong truyện thần thoại với cả nghìn nhân vật của tôi, cái tên cuối cùng trong loạt tên dài vô tận - xuất hiện, cùng lúc tôi sực tỉnh và chấm dứt chuyện tình ái hoang đường của mình, vì tôi không muốn gặp lại nàng ở đây trong cảnh tranh tối, tranh sáng của một tấm gương ảo thuật; không chỉ quân cờ nọ trên bàn cờ của tôi mới thuộc về nàng, mà toàn bộ gã Harry. A, bây giờ tôi sẽ biến đổi ván cờ của mình để tất cả đều tập trung vào nàng và trở thành hiện thực.
Dòng lưu chuyển đã đẩy tôi dạt vào đất liền, tôi lại đứng trong hành lang im ắng trước các ngăn lô của hí viện. Làm gì bây giờ đây? Tôi đưa tay nắn các quân cờ trong túi, nhưng lại bỏ ngay ý định này. Quanh tôi là thế giới vô tận của các cánh cửa, của các hàng chữ, của những tấm gương ma thuật. Tôi thờ ơ đọc hàng chữ gần nhất:
Làm cách nào giết người bằng tình yêu
mà rùng mình. Một hình ảnh vụt lóe lên gợi tôi nhớ lại trong tích tắc: chúng tôi đang ngồi trong nhà hàng, đột nhiên Hermine ngừng ăn uống, đắm chìm vào một cuộc trò chuyện bì hiểm; ánh mắt nàng cực kỳ nghiêm trang, khi bảo rằng nàng sẽ chỉ làm cho tôi sya mê để được giết bởi tay tôi. Một con sóng dữ của lo sợ và bóng tối tràn ngập hồn tôi, đột nhiên mọi sự lại thể hiện trước mặt tôi, đột nhiên tôi lại cảm thấy trong thâm tâm sự khổn quẫn và định mệnh. Tôi tuyệt vọng thọc tay vào túi áo móc quân cờ, để làm chút trò ảo thuật và sắp xếp lại trật tự trên bàn cờ của mình. Nhưng trong túi không còn quân cờ nào nữa. Thay vì quân cờ, tôi rút ra một con dao. Sợ hết vía, tôi chạy xuyên hành lang, qua các cánh cửa, rồi đột nhiên đứng trước tấm gương khổng lồ nọ, nhìn vào đấy. Trong gương có một con sói khổng lồ xinh đẹp, cao cỡ tôi, nó đứng im, đôi mắt lo lắng ánh lên vẻ rụt rè. Nó bừng bừng, nhấp nháy nhìn tôi, khẽ cười khiến hai mép hơi hở ra một lúc, lộ cái lưỡi đỏ lòm.
Pablo đâu rồi? Hermine đâu rồi? Cái gã thông thái giỏi tán huyên thuyên về tạo dựng nhân cách đâu rồi?
Tôi nhìn vào gương lần nữa. Hóa ra tôi vừa mới điên. Bây giờ chẳng thấy con sói nào đứng sau tấm gương cao, đảo lưỡi trong mõm cả. Trong gương chỉ có tôi, chỉ có Harry đang đứng, mặt mũi thê lương, bị mọi trò chơi bỏ rơi, mệt mỏi vì những thói hư tật xấu, nhợt nhạt một cách gớm ghiếc, nhưng dẫu sao vẫn là một con người, dẫu sao vẫn là ai đấy mà ta có thể trò chuyện được.
"Harry," tôi nói, "mi làm gì trong đấy thế?"
"Chẳng làm gì hết," gã trong gương đáp, "ta chờ đợi thôi. Ta chờ cái chết."
"Thế thì cái chết đang ở đâu?" tôi hỏi.
"Nó đang đến kìa," gã đáp. Và tôi nghe thấy từ những căn phòng trống trơ bên trong hí viện vang lên một điệu nhạc, tuyệt vời nhưng khủng khiếp, từ vở Don Juan 41, một điệu nhạc đệm cho sự xuất hiện của người khách nhẫn tâm. Những thanh âm lạnh như băng vang dội qua ngôi nhà ma quái; chúng đến từ cõi bên kia, cõi của những người bất tử.
"Mozart!" tôi thầm nghĩ và bằng cách đó thành kính khẩn cầu những hình ảnh thân yêu nhất và cáo quý nhất trong đời sống nội tâm của tôi.
Sau lưng tôi liền vang lêm một tiếng cười rộ, trong trẻo và lạnh giá, đến từ thế giới bên kia, một thế giới mà nhân gian chưa hề nghe nói tới, được những người từng hứng chịu khổ đau và tính hài hước của thần thánh tạo nên. Tôi quay ngoắt lại, toàn thân thể đông cứng và lâng lâng hạnh phúc bởi tiếng cười này. Mozart đang đi tới, ông vừa cười vừa đi qua trước mặt tôi, thản nhiên thong thả tiến lại một trong những cửa ngăn lộ, mở ra, bước vào và tôi hau háu đi theo ông, vị thần thời thanh xuân của tôi, đối tượng trọn đời của tình yêu và lòng ngưỡng mộ của tôi. Điệu nhạc vẫn tiếp tục ngân vang. Mozart đứng lại bao lơn ngăn lô; chẳng thấy chút gí của hí viện, bóng tối đã ngập tràn không gian mênh mông.
"Ông thấy đấy," Mozart nói, "không có kèn saxophone bản nhạc này nghe cũng vẫn được. Tôi không có ý chê thứ nhạc cụ tuyệt vời ấy đâu nhé."
"Chúng ta đang ở đâu vậy ạ?" tôi hỏi.
"Chúng ta đang ở hồi cuối của vở Don Giovanni, Leporello đã quỳ xuống rồi. Một màn tuyệt diệu, cả âm nhạc nghe cũng hay ho, thế đấy. Tuy nó vẫn còn chứa đựng bao thứ rất con người, nhưng từ đó người ta vẫn cảm nhận được cõi bên kia, cái tiếng cười ấy mà-nhỉ?"
"Đó là thứ âm nhạc vĩ đại cuối cùng đã được sáng tác," tôi trịnh trọng nói như một nhà giáo. "Tất nhiên, còn có Schubert, còn có Hugo Wolf và tôi cũng không được phép quên Chopin 42 xuất sắc đáng thương. Cụ nhăn mặt, à vâng, thưa Maestro 43, có cả Beethoven nữa, ông ấy cũng tuyệt vời chứ. Nhưng tất cả những âm nhạc này, dù hay đến mấy, cũng hàm chứa gì đấy chưa thật hoàn hảo, hàm chứa sự bắt đầu tàn lụi. Sau vở Don Giovanni, chẳng còn ai tạo ra nổi một tác phẩm hoàn hảo như khuôn đúc nữa."
"Ông chẳng nên quá nhọc công khen ngợi," Mozart cười đầy giễu cợt. "Hẳn ông cũng là nhạc sĩ? Chà, tôi đã giải nghệ, đã về vườn rồi. Chỉ thỉnh thoảng xem họ sinh hoạt cho vui thôi."
Ông giơ cao hai tay như đang điều khiển dàn nhạc; đâu đấy trên bầu trời có mặt trăng hay một vì sao mờ xuất hiện; tôi nhìn qua bao lơn xuống không gian thăm thẳm, giăng bủa mây mù, mờ mờ núi non sông biển, bên dưới chúng tôi mênh mông một đồng bằng tựa sa mạc. Chúng tôi thấy trong đồng bằng ấy một ông già dáng dấp khả kính, râu dài, mặt mũi u sầu dẫn đầu một đoàn khổng lồ độ vài vạn dặm đàn ông y phục màu đen. Ông ta trông ủ đột và tuyệt vọng. Mozart bảo tôi:
"Ông nhìn kìa, Brashms đấy. Ông ta cố tìm kiếm sự giải thoát, nhưng còn phải chờ khá lâu nữa."
Mozart cho tôi biết rằng hết thảy hàng nghìn kẻ vận đồ đen kia, theo phán quyết của thần thánh, đều là những người đã chơi những nốt nhạc thừa trong các nhạc phổ liên hiệp của Brahms.
"Quá nhiều hòa âm, qua phung phí chất liệu," Mozart gật đầu.
Ngay sau đó chúng tôi thấy Richard Wagner dẫn đầu một đạo quân đông không kém và cảm thấy ông đã bị họ trì kéo ra sao, vì chính ông cũng mệt nhọc lê những bược chân của kẻ đầy cam chịu.
"Thời tôi còn trẻ," tôi buồn bã nhận xét, "hai nhạc sĩ này được xem là tương phản nhất."
Mozart cười.
"Phải, xưa nay đều thế cả. Nhìn từ một khoảng cách nào đấy, sẽ thấy rằng những tương phản này luôn trở nên giống nhau hơn. Vả chăng, việc hòa âm thừa thãi này không phải là lỗi của cá nhân Wagner hay Brahms, mà một nhầm lẫn của thời đại họ."
"Sao ạ? Và vì vậy mà nay họa phải chuộc tội nặng đến thế ư?" tôi lớn tiếng kết án.
"Tất nhiên. Đó là thứ tự theo đúng thủ tục mà. Chỉ sau khi họ trả hết món nợ của thời đại họ rồi thì mới biết cá nhân họ còn nợ bao nhiều và có đáng phải trả hay không."
"Nhưng cả hai người này đâu thể chịu trách nhiệm về chuyện đó được!"
"Tất nhiên là không. Họ cũng đâu chịu trách nhiệm về chuyện ông Adam ăn quả táo, thế nhưng họ vẫn cứ phải chuộc tội 44."
"Khủng khiếp quá."
"Đương nhiên, cuộc đời luôn khủng khiếp mà. Chúng ta không thể làm gì khác, nhưng vẫn cứ phải chịu trách nhiệm. Người ta sinh ra là đã mang sẵn tội lỗi rồi. Nếu ông không biết điều này thì hẳn ông đã được học thứ giáo lý kỳ quái."
Tôi chán chường quá. Tôi nhìn thấy chính tôi, một kẻ hành hương mệt lả, lê lết qua sa mạc của thế giới bên kia, vác đầy những quyển sách vô dụng mình đã viết, những bài luận thuyết, những chuyện đăng báo nhiều ký, theo sau là đội quân sắp chữ đã lên khuôn những thứ ấy và đội quân độc giả, những người đã phải nuốt hết thảy mọi thứ này. Chúa ơi! Ngoài ra còn Adam với quả táo và đủ mọi tội tổ tông khác nữa. Phải chuộc tội hết, nghĩa là tôi sẽ phải ở trong luyện ngục đời đời kiếp kiếp; chỉ sau đó mới nảy sinh câu hỏi không biết phía sau tất cả những điều này có còn chút gì cá nhân, chút gì riêng tư chăng, hay mọi việc tôi làm cùng các hậu quả của chúng chỉ như bọt nước rỗng tuếch trên biển cả, là trò đùa vô nghĩa trong dòng sự kiện.
Thấy tôi đờ mặt, Mozart cười ồ. Rồi ông vừa nhảy cẫng lên, hai chân đập vào nhau như một nốt nhạc láy, vừa quát: "Ê, nhóc con, á khẩu rồi a, nghẹt thở rồi à? Chú mày đang nghĩ đến độc giả, đến lũ xỏ lá, đến đám giả trá? đến bọn sắp chữ, đến bọn dị giáo thú dữ, đến bọn xúc xiểm khốn nạn, đến bọn mài gươm hại bạn? Thật khôi hài, chú mày cóc có tài, chỉ bốc phét, miệng cứ luôn quang quác! Chú mày đùa nhảm nhí, chú mày châm chọc, nhưng chú mày chỉ là thằng ngốc. Chúa đã ban lệnh, chú mày sẽ bị quỷ trừng phạt, vì chú mày viết lách dở òm, toàn ba đía, ba sám, chỉ 'đạo văn' là nhất!"
Thật quá đáng! Cơn giận dữ khiến tôi quên phắt u sầu. Tôi chụp bím tóc của Mozart, ông ta bắn tung lên trời, bím tóc cứ dài thêm, dài thêm, tựa đuôi sao chổi và tôi bị xoay tít trong vũ trụ. Mẹ kiếp, thế giới này lạnh khiếp! Những người bất tử này chịu nổi một bầu không khí giá lạnh và loãng ghê gớm. Nhưng bầu không khí lạnh giá này thật thú vị, tôi còn cảm thấy như thế trong khoảnh khắc ngắn ngủi nọ, trước khi bất tỉnh. Một niềm hân hoan, một ham muốn giá băng, sắc buốt, ngời như thép xuyên qua tôi, tôi khao khát cười, cũng trong trẻo, dữ dội và siêu phàm như Mozart đã cười. Nhưng rồi tôi ngộp thở và ngất đi.
Tôi hồi tỉnh, hoang mang và mệt lả. Làn ánh sáng trắng nơi hành lang phản chiếu trên mặt sàn bóng láng. Tôi không, tôi chưa ở giữa những người bất tử. Tôi vẫn còn ở thế giới bên này, thế giời của những điều bí ẩn, khổ đau, những sói thảo nguyên, những rối rắm đầy dằn vặt. Đây không phải là nơi đất lành, là chốn dung thân được. Phải chấm dứt! Harry đang đứng đối diện tôi trong tấm gương lớn sát tường. Hắn trông không được vui, chẳng khác buổi tối nọ bao nhiêu, sau chuyến viếng thăm ông giáo sư và ghé quán Đại Bàng Đen nhìn người ta khiêu vũ. Nhưng chuyện này qua lâu lắm rồi, đã nhiều năm, nhiều thế kỷ. Harry đã già đi; hắn đã học khiêu vũ, đã đến coi Hí viện ma thuật, đã nghe Mozart cười, đã không còn sợ những buổi khiêu vũ, những người đàn bà, những con dao nữa. Được trải đời đôi ba thế kỷ thì một kẻ tầm thường cũng thành chín chắn. Tôi ngắm nhìn Harry trong gương thật lâu: tôi vẫn còn biết rõ hắn mà, hắn vẫn hao hao giống gã Harry mười lăm tuổi đã gặp Rosa trên sườn núi đá vào ngày Chủ Nhật tháng Ba và đã ngả chiếc mũi đội nhân dịp lễ kiên tín để chào nàng. Thế nhưng từ đó hắn đã già đi vài trăm tuổi, đã theo đòi âm nhạc cùng triết lý rồi chán ngấy, đã nhậu vang Alsace trong quán Mũ Sắt và bàn luận với những học giả hồn hậu về Krishna, đã yêu Erika và Maria, đã thành bạn trai của Hermine, đã nã đạn vào ô tô và đã ngủ với cô gái Trung Hoa mỡ màng, đã gặp được Goethe với Mozart, đã xé toạc nhiều lỗ hổng trong tấm lưới thời gian và thực tại ảo mà hắn còn bị giam hãm trong đó. Dù đã mất những quân cờ xinh xinh, nhưng hắn vẫn còn một con dao sắc trong túi áo. Tiến lên, hỡi Harry già nua, hỡi lão già mệt mỏi!
Mẹ kiếp! Cuộc đời mới cay đắng làm sao! Tôi nhổ nước bọt vào Harry trong gương, tôi đạp vào hắn và giẫm nát hắn. Tôi chậm chạp bước qua hành lang vang vọng âm thanh, chăm chú nhìn những cánh cửa đã hứa hẹn biết bao điều thú vị: không cánh cửa nào còn mang một hàng chữ! Tôi chậm rãi bước qua cả trăm cánh cửa của Hí viện ma thuật. Không phải tối nay tôi đã dự một dạ vũ hóa trang sao? Từ đó đến nay đã trăm năm trôi qua rồi. Chẳng bao lâu sẽ chẳng còn năm với tháng nữa. Nhưng hãy còn chút việc cần làm. Hermine vẫn đang đợi. Sẽ là một đám cưới kỳ quái. Tôi bơi bừa đi trong một làn sóng u sầu, bị cuốn trong cơn sóng buồn thảm, tôi, một kẻ nô lệ, một con sói thảo nguyên. Bố khỉ!
Tôi dừng lại trước cánh cửa cuối cùng. Cơn sóng u sầu đã lôi tôi đến đấy. Ôi Rosa, ôi thời thanh xuân xa hút, ôi Goethe và Mozart!
Tôi mở cửa. Cảnh tượng phía sau đơn giản mà đẹp đẽ. Tôi thấy hai người lõa lồ nằm trên thảm, Hermine đẹp gái và Pablo điển trai, kề bên nhau, mê mệt ngủ, kiệt sức sau trò ân ái, thứ trò chơi dường như không thể làm thỏa mãn nhưng lại khiến nhanh chóng chán chê. Đẹp, những con người rất đẹp, hình ảnh thật đẹp, những thân thể tuyệt vời. Dưới ngực trái Hermine có một vệt tròn, mới rành rành, bầm tím, dấu Pablo cắn yêu với hàm răng đẹp lóng lánh. Tôi thọc dao vào ngay vết cắn, lút tới cán. Máu tuôn trên làn da trắng mịn của Hermine. Lẽ ra tôi đã hôn sạch vệt máu ấy, nếu mọi sự trước đó khác đôi chút. Giờ đây tôi đã không làm như thế; tôi chỉ nhìn máu chảy, nhìn mắt nàng mở ea một lúc, đầy đau đớn, đá đỗi kinh ngạc. Sao nàng kinh ngạc nhỉ?" tôi tự hỏi. Rồi tôi nghĩ phải vuốt mắt cho nàng. Nhưng chúng đã tự khép lại rồi. Thế là xong. Nàng chỉ hơi nghiêng người qua một bên; tôi thấy từ nách đến ngực nàng chập chờn một vệt tối mềm mại như muốn nhắc tôi nhớ lại chuyện gì đấy. Quên mất rồi! Rồi nàng nằm im lìm.
Tôi ngắm nhìn nàng thật lâu. Cuối cùng tôi rùng mình như vừa thức giấc và dợm bỏ đi. Đún lúc ấy tôi thấy Pablo ưỡn người, mở mắt, duỗi chân tay, thấy anh cúi xuống cô gái xinh đẹp đã chết và mỉm cười. Anh chàng này chẳng bao giờ nghiêm trang nổi, tôi nghĩ, chuyện gì cũng khiến anh cười được. Pablo khẽ khàng lật một góc thảm, phủ kín ngực Hermine, để không còn thấy vết thương nữa, rồi đi êm như ru ra khỏi ngăn lô. Anh ta đi đâu? Hết cả bọn họ đã bỏ rơi tôi ư? Tôi nán lại, một mình với người chết được che đậy sơ sài, người tôi từng yêu và ganh tị. Lọn tóc xoăn kiểu con trai lòa xòa trên vầng trán tái nhợt của nàng, đôi môi đỏ chót hé mở trên khuôn mặt trắng bệch, tóc nàng thoang thoảng thơm và hơi để lộ vành tai nho nhỏ, xinh xinh, óng ánh.
Giờ đây nàng đã toại nguyện. Tôi đã giết người mình yêu, trước khi nàng hoàn toàn là của tôi. Tôi đã làm điều không tưởng tượng nổi và giờ đây tôi quỳ, mắt trừng trừng nhìn và không rõ điều mình đã làm ấy có ý nghĩ gì, không hề biết nó tốt và đúng đắn hay ngược lại. Gã chơi cờ khôn ngoan nọ sẽ nói gì về chuyện này, Pablo sẽ nói gì về chuyện này? Tôi hoàn toàn không biết, tôi không thể nghĩ ngợi gì. Đôi môi tô son càng lúc càng rực đỏ trên khuôn mặt đã tàn sinh khí. Cả cuộc đời tôi giống như thế, chút hạnh phúc cỏn con và tình yêu của tôi cũng giống đôi môi khô cứng này: một chút màu hồng tô trên mặt người chết.
Và từ khuôn mặt chết chóc ấy, từ đôi bờ vai chết chóc ấy, từ đôi cánh tay nõn nà chết chóc tỏa ra, len lén, một cơn rùng mình, một sự hoang vu và quạnh quẽ của mùa đông, một cơn giá buốt dần dần, khiến hai bàn tay và môi tôi từ từ cứng đời. Tôi đã dập tắt mặt trời rồi ư? Tôi đã giết chết trái tim của mọi cuộc sống rồi ư? Khí lạnh chết người của vũ trụ đã ập vào rồi ư?
Tôi rùng mình nhìn trân trối vầng trán đã lạnh như băng, nhìn lọn tóc cứng đờ, nhìn sắc lóng lánh lạnh lẽo nhợt nhạt của vành tai. Giá lạnh từ chúng tỏa ra làm chết người được nhưng vẫn đẹp: nó ngân vang, nó rung động tuyệt vời, nó là âm nhạc!
Há không phải ngày trước, thuở xa xôi, tôi từng có lần cảm thấy sự ớn lạnh đồng thời có gì đấy như thể hạnh phúc này ư? Há không phải tôi đã từng có lần nghe thấy điệu nhạc này ư? Đúng, ở Mozart, nơi những người bất tử.
Tôi sực nhớ những vần thơ đã tìm thấy ở đâu đấy, thuở xa xôi ngày trước:
Chúng ta, ngược lại, đã ngự
Trong giá băng rực rỡ sao trời trên Thượng giới,
Chúng ta không cần biết đến tháng ngày, giờ giấc
Không phân chia nam nữ, trẻ già...
Kiếp trường sinh của chúng ta lạnh lẽo và bất biến,
Tiếng cười vĩnh cửu của chúng ta lạnh lẽo và sáng rực ánh sao...
Đúng lúc ấy cửa ngăn lô vụt mở và Mozart - nhìn mãi tôi mới nhận ra ông - bước vào, không bím tóc, không quần ống lửng với giày cài móc khoen, mà ăn vận tân thời 45. Ông ngồi xuống sát cạnh tôi, suýt nữa tôi đã đưa tay cản, để ông khỏi bị vấy máu đang từ ngực Hermine rỉ xuống sàn. Ông ngồi xuống, chăm chú mầy mò vài thứ mày móc cùng dụng cụ nhỏ nhỏ lăn lóc ở đấy. Rất nghiêm túc, ông chỉnh chỗ này, vặn ốc chỗ nọ và tôi thán phục nhìn những ngón tay nhanh nhẹn, khéo léo của ông, những ngón tay mà tôi ao ước được một lần nhìn thấy lướt trên phím dương cầm. Tôi tư lự nhìn ông làm việc, đúng ra không phải tư lự, mà mơ màng và đắm chìm khi nhìn đôi bàn tay thon thả, khôn khéo của ông, cảm thấy lòng ấm lại do sự gần gủi của ông, song cũng lo lo thế nào đấy. Còn thật sự ông đang làm gì, đang vặn ốc cho cái gì và thao tác gì tôi chẳng hề để ý tới.
Nhưng rồi tôi thấy đó là một cái radio mà ông đã lắp ráp và cho chạy. Ông gắn loa vào rồi nói: "Quý vị đang nghe đài Munich, bản Converto grosso in F-Dur 46 của Händel."
Quả thật, trước sự sửng sốt và kinh hoàng khôn tả của tôi, cái loa bằng thiếc liền ọe ngay ra thứ hổ lốn dãi với bã kẹo cao su, mà những sở hữu chủ máy hát cùng những người thuê dài hạn 47 radio đồng lòng gọi đó là âm nhạc - và quả thật ta nhận ra đằng sau đống bầy nhầy bẩn thỉu và khọt khẹt đó, tựa như đằng sau lớp bụi dày cộm, ẩn tàng một bức tranh cổ quý giá, cái cấu trúc cao nhã của âm nhạc thần thánh, cái kết cấu có vương giả, cái hơi thở bao la mát mẻ, cái âm thanh tròn đầy của tiếng đàn dây.
"Chúa ơi," tôi hốt hoảng kêu lớn, "cụ làm gì thế, hở cụ Mozart?" Chẳng lẽ cụ thật sự bắt chính cụ và tôi phải chịu đựng thứ tồi tệ này ư? Chẳng lẽ cụ thật sự định tống cho chúng tôi cái máy ghê tởm này, thứ thành công rực rỡ, thứ vũ khí mới nhất đầy chiến thắng của thời đại chúng tôi trong cuộc chiến đấu hủy diệt nghệ thuật? Tới mức ấy rồi sao, thưa cụ Mozart?"
Ôi chao, con người kỳ dị ấy cười, tiếng cười lạnh lẽo và ma quái làm sao, nó câm lặng nhưng hủy hoại tất cả! Ông vừa siết con ốc chết bầm, chỉnh lại loa thiếc, vừa thú vị quan sát nỗi thống khổ của tôi. Ông vừa cười vừa để thứ âm nhạc quái đản, không hồn và nhiễm độc ấy tiếp tục tuôn chảy vào phòng, vừa cười vừa trả lời tôi.
"Ông hàng xóm ơi, đừng thống thiết thế! Nhân tiện xin hỏi ông có để ý đến nhịp điệu chậm dần của khúc nhạc này không? Một ngẫu hứng, nhỉ? Đúng thế, và bây giờ ông, một người nôn nóng, hãy cứ để những ý tưởng của nhịp điệu chậm dần này thấm vào mình xem - ông nghe những âm trầm chứ? chúng gầm gào như thần thánh - và ông hãy để ngẫu hứng này của lão già Händel thấm vào trái tim bất ổn của ông, cho nó bình thản lại! Đừng thống thiết và giễu cợt, mà hãy nghe đi, ông bạn đáng thương ơi; phía sau tấm màn quả thật ngu xuẩn hết chỗ nói của cái máy lố lăng này có bóng dáng xa xôi của thứ âm nhạc thần thánh ấy thấp thoáng bước dạo qua! Hãy lắng nghe và ông sẽ học được chút gì đấy. Hãy lưu ý xem cái ống điên rồ phát ra thứ âm thanh này dường như đang làm cái việc ngu xuẩn nhất, vô dụng nhất và không thể chấp nhận nhất thế gian như thế nào; nó ngu xuẩn và thô lỗ phóng bừa thứ âm nhạc được chơi ở đâu đây, lại còn bị bóp méo thảm hại nữa chứ, vào một gian phòng chẳng liên quan gì với nó - tuy thế nó vẫn không hủy diệt nổi cái hồn nguyên thủy của âm nhạc, mà chỉ càng lộ rõ nó đã được nặn ra vô duyên nhạt nhẽo với kỹ thuật nghèo nàn! Hãy lắng nghe này, ông bạn, nó có ích cho ông đấy! Dỏng tai lên nào! Thế. Và bây giờ ông không chỉ nghe một Händel, tuy bị bóp méo thô bạo qua radio mà vẫn rất thần thánh. Thưa ông bạn qúy, ông đồng thời nghe và thấy một biểu tượng tuyệt vời của toàn thể sự tồn tại. Khi lắng nghe radio, ông nghe và thấy cuộc chiến đấu không ngừng từ nguyên thủy cho đến nay giữa ý tưởng và hiện tuợng, giữa vĩnh cửu và thời gian, giữa thần thánh và con người. Hệt như thế, thưa ông bạn, chiếc radio truyền tùy tiện thứ âm nhạc tuyệt diệu của thế gian suốt mười phút vào những không gian rất không thích hợp, vào những phòng trưởng giả và những gác xép, vào giữa những người đặt mua dài hạn đang tán gẫu, ăn nhậu, ngáp dài và đang ngủ, cũng giống như radio tước mất của âm nhạc vẻ đẹp nhục cảm; nó làm hồng, làm trầy trụa và làm nhơ bẩn âm nhạc, nhưng vẫn không giết nổi hoàn toàn cái hồn của âm nhạc - hệt như cuộc đời, cái gọi là thực tại, phung phí trò chơi hình ảnh tuyệt vời của thế giới ảnh đảo điên hỗn loạn, nó để cho bản nhạc của Händel được tiếp nối bằng một bài thuyết trình về cách thức lập bản kết toán mập mờ trong một xí nghiệp bậc trung, nó biến thành âm thanh tuyệt vời của dàn nhạc thành một đống tạp âm bầy nhầy; nó nhét kỹ thuật của nó, sự năng nổ của nó, nhu cầu tự nhiên đáng tởm cùng sự hợm hĩnh của nó vào mọi nơi mọi chỗ giữa ý tưởng và thực tại, giữa dàn nhạc và cái tai. Cả cuộc đời là như thế đấy, chú bé ơi, hãy mặc xác nó và nếu chúng ta không phải là lũ lừa thì nên cười thêm vào. Những người thuộc loại ông hoàn toàn không có quyền phê phán radio hay cuộc sống. Tốt hơn ông hãy học lắng nghe trước đã! Hãy học có thái độ nghiêm trang với những gì đáng nghiêm trang và cười vào những thứ còn lại! Hay ông bạn đã hành xử tốt hơn, khôn ngoan hơn, ý vị hơn? Không đâu, Monsieur Harry, ông đã không làm thế. Ông đã biến từ cuộc đời ông thành một chuyện bệnh hoạn kinh tởm, biến năng khiếu của ông thành nỗi bát hạnh. Và theo tôi thấy, ông chẳng biết làm gì khác với một cô gái xinh đẹp như thế kia, mê hồn như thế kia hơn là đâm vào thân thể nàng và hủy diệt nàng! Ông cho như thế là đúng sao?"
"Đúng à?" Ồ, không!" tôi tuyệt vọng kêu lên. "Lạy Chúa, mọi chuyện đều sai, đều quá ngu xuẩn và tồi tệ! Tôi là đồ súc sinh, thưa cụ Mozart, một con vật ngu xuẩn ác độc, bệnh hoạn và băng hoại; cụ nghìn lần có lý. Nhưng về chuyện xảy đến với cô này thì chính nàng đã muốn thế mà, tôi chỉ hoàn thành ý nguyện của nàng thôi."
Mozart cười không thành tiếng, những đã bày tỏ hảo ý qua việc tắt chiếc radio.
Bỗng dưng chính tôi cũng thấy lời biện hộ của mình, mà mới đây tôi còn tin tưởng hết lòng, là quá đỗi ngu xuẩn. Lần ấy - tôi sực nhớ lại - khi Hermine nói về thời gian và sự vĩnh cửu, tôi đã tức khắc sẵn sàng coi những suy nghĩ của nàng là phản ánh những suy nghĩ của chính tôi. Nhưng tôi lại đương nhiên chấp nhận ý tưởng Hermine để tôi giết là ngẫu hứng và ước nguyện độc đáo của nàng, chứ chẳng mảy may do ảnh hưởng của tôi. Nhưng tại sao ngày ấy không những tôi chỉ chấp nhận và tin cái ý tưởng kinh khủng và kỳ quặc này mà thậm chí còn đoán trước? Phải chăng vì nó đúng là ý tưởng của chính tôi? Và tại sao tôi lại giết Hermine đúng lúc bắt gặp nàng nằm lõa lồ trong tay kẻ khác? Tiếng cười lặng lẽ của Mozart vang lên nghe toàn trí và đầy giễu cợt.
"Ông Harry ơi," Mozart nói, "ông quả là thích bông đùa. Chẳng lẽ cô gái xinh đẹp này thật sự không mong muốn gì khác ở ông ngoài một nhát dao? Ông thử thuyết phục người khác tin xem nào! Ấy, ít ra thì ông cũng đã đâm đích đáng, cô bé đáng thương ấy chết đứ đừ rồi. Có lẽ đã đến lúc ông nên làm cho chính mình được rõ về những hậu quả từ việc nịnh đầm của ông đối với cô gái này. Hay ông muốn tránh né?"
"Không," tôi kêu lớn. "Cụ chẳng hiểu gì hết ư? Tôi mà lại thèm tránh né hậu quả à! Tôi không khao khát gì hơn là được chuộc tội, chuộc tội, chuộc tội, được kê đầu dưới máy chém để bị trừng phát và hủy diệt."
Mozart nhìn tôi với vẻ giễu cợt không chịu nổi.
"Ông lúc nào cũng thống thiết! Nhưng Harry ơi, hông sẽ học được hài hước ngay thôi mà. Chỉ thức hài hước lúc cùng quẫn mới đáng gọi là hài hước và trong trường hợp cần thiết ông sẽ được chọc nó ngay dưới máy chém. Ông sẵn sàng chưa? Rồi à? Tốt, vậy ông hãy tới gặp công tố viên va2hu71ng chịu hết thảy bộ máy khô khan của các pháp quan, cho tới lúc đầu ông bị chặt một cách lạnh lùng vào buổi sáng sớm trong nhà giam. Ông sẵn sàng chấp nhận chứ?"
Một hàng chữ đột nhiên lóe lên trước mắt tôi:
Cuộc hành quyết Harry
và tôi gật đầu đồng ý. Một cái sân trơ trụi giữa bốn bức tường với những khung cửa sổ nhỏ rào lưới, một cỗ máy chém dựng nghiêm chỉnh, khoảng chục ông mặc áo pháp quan và áo khoác, còn tôi lại run đứng chính giữa, trong bầu không khí ảm đạm của buổi sáng tinh mơ, tim thắt lại vì nỗi kinh hoàng thảm hại, nhưng sẵn sàng và chấp nhận. Tôi bước tới trược theo lệnh, quỳ xuống theo lệnh. Công tố viên ngả mũ, hắng giọng, mọi người kia hắng giọng theo. Ông ta giở một tờ giấy, loại dành cho những dịp trang trọng, giơ lên đọc:
"Thưa quý vị, đứng trước quý vị là bị cáo Harry Haller, can tội cố ý lạm dụng Hí viện ma thuật của chúng ta. Haller không những chỉ xúc phạm nghệ thuật cao quý qua việc lẫn lộn phòng trưng bày tranh ảnh đẹp đẽ của chúng ta với cái gọi là thực tại và đã đâm chết hình ảnh phản chiếu của một thiếu nữ bằng hình ảnh phản chiếu của mọt con dao, mà hắn còn không chút khôi hài định dùng hí viện của chúng ta làm một thứ máy móc để tự sát. Căn cứ theo đó chúng ta kết án Haller hình phạt phải sống đời đời và bị tước quyền vào hí viện của chúng ta trong thời hạn mười hai giờ. Bị cáo cũng không được miễn trừ hình phạt bị một lần cười nhạo. Xin mời quý vị bắt giọng: một - hai - ba!"
Tiếng "ba" vừa dứt, mọi kẻ hiện diện đều đồng thanh rống lên một tràng cười hoàn mỹ, một điệp khúc cười oang oang, một tràng cười khủng khiếp của thế giới bên kia, mà con người ta không thể chịu đựng nổi.
Khi tôi hồi tỉnh, Mozart vẫn đang ngồi cạnh tôi như trước; ông vỗ vai tôi và bảo: "Ông đã nghe bản án của ông rồi đấy. Thành ra ông sẽ phải quen dẫn với việc tiếp tục nghe âm nhạc phát từ radio của đời sống. Sẽ tốt cho ông thôi. Ông bạn ngốc nghếch thân mến ơi, ông kém cỏi khác thường, nhưng dần dà ông bạn cũng sẽ phải hiểu ra người ta đòi hỏi gì từ ông bạn. Ông cần học cười, người ta đòi hỏi ở ông bạn điều đó. Ông bạn cần hiểu được tính hài hước của cuộc đời, tính hài hước giả tạo của cuộc đời này. Tất nhiên ông bạn đã sẵn sàng với mọi thứ trên thế gian này nhưng riêng với điều người ta đòi hòi ở ông bạn thì ông bạn chưa sẵn sàng! Ông bạn sẵn sàng đâm chết đàn bà con gái, ông bạn sẵn sàng trang trọng chịu hành quyết, hẳn ông bạn cũng sẵn sàng chịu sống khổ hạnh và tự hành xác suốt trăm năm. Hay là không?"
"Có chứ ạ, sẵn sàng với tất cả lòng thành," tôi kêu lên thống khổ.
"Hẳn rồi! Ông đúng là người hào hiệp, sẵn sàng tham gia mọi trò ngốc nghếch, khô khan như trấu, mọi trò thống thiết và vô duyên! Không có tôi rồi đấy, tôi chẳng chút động lòng trước cái trò hối lỗi lãng mạn của ông. Ông muốn bị xử tử hình mà, muốn bị chặt đầu mà; ông đúng là mất trí! Vì cái lý tưởng ngu ngốc này mà ông sẽ còn phạm thêm mười lần ngộ sát nữa đấy. Ông muốn chết, chứ không muốn sống, ông thật hèn nhát. Bố khỉ, nhưng ông phải sống cơ! Nếu ông bị kết án hình phạt nặng nhất hẳn cũng đáng đời thôi."
"Thưa, hình phạt gì vậy ạ?"
"Chẳng hạn chúng tôi có thể làm cô gái này sống lại rồi gả cho ông."
"Không được, tôi không chịu đâu. Như thế sẽ gây ra tai họa."
"Cứ như thể những gì ông đã gây ra chưa đủ là tai họa! Nhưng bây giờ cần chấm dứt sự thống thiết và những vụ ngộ sát. Đã đến lúc ông cần tỉnh táo rồi đấy! Ông cần phải sống và cần học cười. Ông cần tập lắng nghe thứ âm nhạc khốn kiếp từ radio, trân trọng cái hồn ẩn sau âm nhạc ấy, tập cười cái điều ngớ ngẩn trong đó. Chỉ thế thôi, không đòi hỏi nhiều hơn ở ông."
Tôi khẽ hỏi qua hàn răng nghiến chặt: "Còn nếu tôi từ chối? Nếu tôi không cho cụ, thưa cụ Mozart, quyền quyết định về Sói Thảo Nguyên và can thiệp vào số phận của nó?"
"Thế thì," Mozart bình thản đáp, "tôi sẽ đề nghị ông bạn hút thêm một trong các điếu thuốc xinh xắn của tôi." Lúc ông nói và phù phép từ túi áo ra một điếu thuốc mời tôi, đột nhiên ông không còn là Mozart nữa, mà là anh bạn Pablo đang nồng nàn nhìn tôi với đôi mắt sẫm đẹp kỳ lạ; anh giống người đã dạy tôi chơi cờ vua như anh em sinh đôi.
"Pablo!" tôi giật mình kêu lên. "Pablo, chúng mình đang ở đâu đây?"
Pablo đưa điếu thuốc và mồi lửa cho tôi.
"Chúng mình," anh mỉm cười, "đang ở trong Hí viện ma thuật của tôi và nếu bạn muốn học nhảy điệu Tango hay trở thành tướng soái hoặc trò chuyện với Đại dế Alexandre thì lần tới xin để bạn mặc tình sử dụng. Nhưng Harry ơi, tôi phải nói điều này: bạn đã làm tôi hơi thất vọng. Trong chuyện này bạn đã không kiểm soát nổi mình một cách quá đáng, bạn đã xâm phạm tính hài hước của hí viện nhỏ bé của tôi, đã gây nên chuyện tệ hại, đã đâm loạn xạ, vấy bẩn thế giới hình ảnh xinh đẹp của chúng tôi với những vết nhơ thực tại. Vậy là không tốt. Hy vọng ít ra bạn đã làm thế vì ghen tuông, khi thấy Hermine và tôi nằm kia. Đáng tiếc bạn đã không biết cách sử dụng quân cờ này - tôi cứ đinh ninh bạn đã học trò chơi này kha khá rồi chứ. Thôi được, lần tới sẽ khá hơn."
Anh nắm lấy Hermine - trong những ngón tay anh, nàng tức thì biến thành nhỏ xíu như một quân cờ - và bỏ vào chính cái túi áo mà hồi nãy anh vừa mới rút thuốc là mời tôi.
Làn khói thuốc nặng và ngọt tỏa mùi thơm dễ chịu. Tôi cảm thấy như bị xói mòn và sẵn sàng ngủ vùi suốt cả năm dài.
Ô, tôi thấu hiểu tất cả, thấu hiểu Pablo, thấu hiểu Mozart, tôi nghe tiếng cười khủng khiếp của ông đâu đó phía sau, tôi biết hết thảy trăm nghìn quân của ván cờ đời trong túi áo mình, băn khoăn phỏng đoán ý nghĩa của nó, sẵn sàng bắt đầu ván cờ lần nữa, nếm những thống khổ của nó lần nữa, rùng mình trước sự phi lý của nó lần nữa, trải qua địa ngục trong nội tâm mình lần nữa và thường nữa.
Sẽ có lần tôi chơi ván cờ thành thạo hơn. Sẽ có lần tôi học được cười. Pablo đang chờ đợi tôi. Mozart đang chờ đợi tôi.
Chú thích
1.Hermine là tên nữ giới, 'được dẫn' từ tên Hermann của nam giới. Ở châu Âu không hiếm những tên tương tự (chẳng hạn Pauline dẫn từ Paul, Jeanne dẫn từ Jean...). Bằng cách đặt tên như thế cho cô gái điếm - dẫn từ tên của chính tác giả - Hermann Hesse ngầm qua nhân vật này nói lên khía cạnh phóng đãng, đam mê dục lạc của chính mình.
2."Giúp(...)cởi bỏ áo khoác" chỉ là đỡ lấy chiếc áo khoác khi người phụ nữ mình quen biết nói chung(chứ không riêng người yêu) cởi ra. Đây là phép lịch sự thông thường của đàn ông sống ở phương Tây (chứ không riêng của đàn ông phương Tây).
3.Baudelaire (1821 - 1867): nhà thơ Pháp.
4.Suốt nhiều thế kỷ, Đức và Pháp coi nhau là "kẻ thù truyền kiếp", cho đến tận Thế chiến II.
5.Máy hát đĩa ngày xưa có một tay quay để lên dây cót.
6.Franc: ở đây là tiền Thụy Sĩ. Tại quán Đại Bàng Đen, Hermine xin Harry vài mark (tiền Đức).
7.Senõr (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên tác): ông.
8.Caballero (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên tác): con người hào hoa.
9.Con cháu những người lai Âu - Phi ở Trung và Nam Mỹ.
10.Năm 16 tuổi Hesse đã đi học nghề; kiến thức ông có được là do tự học.
11.Monsieur (tiếng Pháp trong nguyên tác): ông.
12.Buxtehude và Pachelbel: hai nhạc sĩ Đức ở thế kỷ 17.
13.Một nữ ca sĩ Hungary.
14.Hesse từng là chủng sinh trong tu viện Tin lành ở Maulbronn trong nửa năm, từ cuối 1891 đến đầu 1892.
15.Knut Hamsun (1859-1952): nhà văn Na Uy.
16.Franz von Liszt (1811-1886): nhạc sĩ Đức - Hung. Richard Wagner (1813-1883): nhạc sĩ Đức.
17.Tristan: nhân vật trong một chuyện tình của sử thi Đức.
18.Khi chết, thi hài Mozart bị vùi lấp trong một ngôi mộ tập thể ở Vienne.
19.Năm 1925, Hesse viết trong "Sơ yếu lý lịch": "Tuy trong môn học thú vị mà các thầy gọi là Lịch sử thế giới chúng tôi được dạy rằng thế giới luôn luôn được cai trị, lèo lái, thay đổi bởi những con người đặt ra luật lệ riêng của họ và đoạn tuyệt với những luật lệ kế thừa của quá khứ, rằng họ là những bậc đáng kính ngưỡng, nhưng khổ nỗi điều này cũng dối trá như hết thảy môn học nọ, vì khi có ai trong chúng tôi - thành tâm hay không - dám to gan phản kháng bất kỳ một điều cấm đoán nào, hoặc chỉ phản đối một thói quen hay một mốt ngu xuẩn, người đó sẽ chẳng được khen ngợi hay được coi là tấm gương cho chúng tôi, mà còn bị trừng phạt, nhạo báng và bị sức mạnh áp đảo hèn nhát của quý thầy đè bẹp gí."
20.Những tổ khúc ngắn của Mozart.
21.Klavier: tên gọi chung mọi loại đàn có bàn phím để gõ lên bộ dây - chẳng hạn đàn piano (vì thế trong tiếng Đức Klavier thường được hiểu là dương cầm) - Theo Wikipedia, Das wohltemperierte Klavier (tên tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt là Tuyển tập phức điệu bình quân luật) là một tập hợp những "khúc nhạc dạo đầu" (prelude) và những "fuga" (fugue) hay "tấu khúc" do Johann Sebastian Bach soạn vào những năm 1722 và 1740-1742 cho các loại đàn nói trên.
22.Thượng giới: một nghĩa của Äther (Ête), nơi Ánh sáng và các thần linh ngự trị (theo thần thoại Hy Lạp).
23.Ở châu Âu, nhiều ngôi nhà xây vào đầu thế kỷ 20, hoặc trước nữa, không có buồng tắm. Người dân phải sử dụng các nhà tắm công cộng của thành phố.
24.Moses: theo Cựu Ước, hơn 1000 năm trước Công nguyên, ông được Chúa Trời giao sứ mạng giải thoát dân Chúa (dân Do Thái) khỏi ách nô lệ ở Ai Cập, đưa họ vượt bao trở ngại - như Biển Đỏ và sa mạc Sinai - trong cuộc hành trình gian khổ kéo dài "40 năm" về miền Đất Hứa.
25.Walt Whitman (1819-1892): nhà thơ Mỹ nổi tiếng.
26.Wotan: còn gọi là Wodan hay Odin, một vị thần của tộc German.
27.Còn gọi là "lễ thêm sức", tiếp nhận các thiếu niên đạo Tin Lành đạt đủ trình độ cơ bản về giáo lý làm thành viên chính thức của họ đạo.
28.Mười điều răn này trở thành luật đạo Do Thái.
29.Tiếng Anh trong nguyên bản.
30.Ám chỉ quan hệ đồng tính nữ (Lesbos là tên một đảo ở Hy Lạp; tương truyền vào thế kỷ 6 trước Công Nguyên nhà thơ nữ Hy Lạp nổi tiếng Sappho ở trên đảo này và đã có quan hệ luyến ái với những phụ nữ hâm mộ bà.
31.Tiếng Latin trong nguyên tác: sự hợp nhất huyền bí.
32.Pierrette (tiếng Pháp trong nguyên tác): nữ diễn viên kịch câm.
33.Thời bấy giờ, để khởi động ô tô người ta phải quay một thanh maniven (tay quay)
34.Mượn ý câu "Gương con, gương con trên tường ơi, ai là người xinh đẹp nhất nước?" trong truyện "Bạch Tuyết" (Truyện cổ anh em Grimm).
35.Martin Luther (1483 - 1546), tu sĩ người Đức dòng Augustin. Ngày 31.10.1517m ông đã dán bố cáo trên cổng nhà thờ chính tòa ở Wittenberg lên án 95 năm tệ nạn của Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã thời bấy giờ (như bán chức sắc mọi cấp thuộc hàng giáo phẩm, bán giấy xá tội để được lên Thiên đường...) kêu gọi Nhà thờ cải cách, được đông đảo nông dân Đức nồng nhiệt hưởng ứng. Nhưng khi nông dân Đức nổi loạn chống lại giới lãnh chúa quý tộc và Nhà thờ, họ không được Luther ủng hộ, vì ông không cổ súy cách mạng! Song, những tư tưởng cải cách của Luther đã đưa đến sự ra đời của một tôn giáo mới: đạo Tin Lành.
36.Tiếng Phạn, "Đó chính là bạn đấy." Theo Áo nghĩa thư - sách chú giải ý nghĩa uyên áo Kinh Vệ Đà của đạo Bà La Môn - câu này có nghĩa: cái thân tính, cái Tuyệt đối ở ngay trong tâm của chúng ta.
37.Mutabor (tiếng Latin): tôi sẽ được hóa thân.
38.Kamasutram (hay Kamasutra): cổ thư Ấn Độ, khoảng thế kỷ 2 và 5, dạy nghệ thuật ái ân.
39.Hesse chơi chữ, đặt ra cái tên Prinz Wunderhorn (Ông hoàng Sừng nhiệm mầu) để giễu cợt một quyển sách xuất bản năm 1922 của nhà tâm lý học Prinzhorn (Ông hoàng Sừng!).
40.Trước sự kiện không ít văn nghẹ sĩ và trí thức Đức (và Áo) đã hân hoan khi Thế chiến I bùng nổ vào tháng Tám năm 1914, tháng Mười một cùng năm Hesse đã gửi đăng trên một tờ báo Thụy Sĩ bài luận văn "Các bạn ơi, đừng nói những giọng điệu ấy" (O Freunde, nicht diese Töne!" kêu gọi giới trí thức Đức hãy vượt ra khỏi chủ nghĩa dân tộc và yêu nước hẹp hòi, vì "Tình thương cao cả hơn thù hận, cảm thông cao cả hơn giận dữ, hòa bình cao quý hơn chiến tranh." Hesse liền bị báo chí Đức mạt sát, thậm chí chụp mũ "phản quốc" và không ít bạn bè xa lánh, khiến phải lấy bút hiệu Emil Sinclair cho quyển Demian (1919) nổi tiếng của mình. Thời Quốc xã, nhiều tác phẩm của ông bị cấm ở Đức và Áo (sau khi nước này bị sáp nhập vào Đức).
41.Don Juan (hay Don Giovanni): vở nhạc kịch nổi tiếng của Mozart.
42.Schubert, Wolf, Chopin, Brahms, Wagner: một số nhạc sĩ cổ điển Đức, Áo, Ba Lan.
43.Maestro (tiếng Ý trong nguyên bản): Thầy - thường được dùng khi tỏ ý kính trọng hoặc đùa vui.
44.Trong Cựu ước: theo sách Sáng thế thì tổ tiên loài người là Adam và Eva bị quỷ dụ dỗ, đã cãi lời căn dặn của Chúa Trời, ăn trái cấm nên con cháu đời đời mang tội tổ tông ngay từ lúc lọt lòng và bị liên đới trừng phạt.
45.Vào thế kỷ 18, 19 đàn ông quý tộc, thượng lưu châu Âu có mốt đội tóc giả tết bím như đuôi sam, ống quần chỉ dài qua đầu gối khoảng mười phân, thắt chẽn, vớ dài và đi giày cài móc khoen (chỉ đàn ông bình dân mới mặc quần ống dài như ngày nay).
46.Bản concerto âm Fa trưởng cho nhiều nhạc cụ độc tấu và cho cả dàn nhạc.
47.Có lẽ ngay từ thời đó người dân phương Tây đã phải trả tiền cho Đài phát thanh mới được nghe radio.