Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Chương 4
I
amskoy nói, “Công việc của anh, vốn dĩ vẫn luôn là một hình mẫu. Chuyện khám phá ra việc làm răng của nạn nhân, đến nhanh như thế, đúng là một quả bom. Tôi đã lập tức lệnh cho các bộ phận của An ninh Quốc Gia mở một cuộc điều tra triệt để. Cuộc điều tra này đã diễn ra suốt dịp cuối tuần khi anh đang ở xa thành phố - và liên quan tới bản đánh giá hàng ngàn người ngoại quốc cư trú và những đặc vụ người nước ngoài được biết đến trong khoảng thời kỳ năm năm gần đây trong hệ thống máy tính. Kết quả tổng hợp lại cho thấy không một cá nhân nào gần giống với mô tả về nạn nhân. Quan điểm của các nhà phân tích là chúng ta vẫn đang giải quyết vụ việc của một công dân Liên Xô được chữa răng kiểu đặc biệt này khi anh ta tới Mỹ, hay được chữa bởi một nha sỹ châu Âu được đào tạo tại đó. Bởi tất cả những người nước ngoài có khả năng là nạn nhân đều đã được suy xét, tôi buộc phải đồng tình với quan điểm này.”
Công tố viên trình bày với sự sốt sắng và chân thành. Brezhnev được trời phú cho phong cách đó: một sự thấu tình đạt lý thẳng thắn và không màu mè đã được coi trọng đến mức mà quyền lực của nó là không thể chối cãi và chẳng có lý nào mà cãi vã cả, cãi vã, trên thực tế, sẽ là một sự phản bội đối với bầu không khí của sự thấu tình đạt lý và sự dàn xếp thật rộng lượng.
“Arkady Vasilevich ạ, tôi đang trong tình thế phải quyết định xem liệu lúc này với tư cách một công tố viên, tôi cần giữ vững quan điểm KGB phải thừa nhận trách nhiệm về vụ điều tra này hay đồng ý cho anh tiếp tục công việc anh đang làm tốt. Có một vấn đề nhỏ là nếu dính líu yếu tố nước ngoài thì khá phiền phức. Rõ ràng, có khả năng việc điều tra của anh sẽ bị cắt ngắn. Trong trường hợp đó, tại sao không yêu cầu họ bắt đầu việc thẩm tra ngay?”
Iamskoy ngừng lại một chút như thể ông ta đang cân nhắc về câu hỏi.
“Dù sao thì, có nhiều thứ hơn thế dính líu tới vụ này. Đáng ra đã chẳng có gì để thắc mắc, MVD có thể đã điều tra người Nga hoặc những người giống người nước ngoài, trong cùng một nhóm không có sự phân biệt nào, không xét xử công khai, bắt họ và tuyên án họ mà không có chút xíu đếm xỉa gì đến tính hợp pháp chủ nghĩa xã hội. Anh biết tôi đang nói đến cái gì đấy - Beria và bè lũ của hắn. Đó quả thật là sự lộng hành bởi một cơ số người, nhưng chúng ta không thể trở mặt được. Đại hội Đảng lần thứ XX đã lôi những vụ lộng hành này ra trước ánh sáng và mở một cuộc cải cách mà chúng ta đang thực hiện. Lực lượng cảnh sát MVD giờ đây chỉ được giới hạn nghiêm ngặt với những vấn đề tội phạm trong nước. KGB, tương tự như thế, cũng chỉ giới hạn trong xử lý những vấn đề an ninh quốc gia. Vai trò của công tố viên trong việc giám sát và bảo vệ quyền của công dân đã được củng cố thêm, và sự độc lập của các điều tra viên đã được khớp nối lại. Tính pháp lý xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên sự phân chia quyền lực để không một công dân Liên Xô nào có thể một lần nữa bị tước đi quyền công dân đầy đủ của mình trong một phiên tòa công khai. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu tôi tước vụ việc khỏi tay một điều tra viên và giao nó cho KGB? Đó là một bước lùi. Nạn nhân vụ này có thể là người Nga. Chẳng phải anh ta có chỗ chữa răng khác, mối hàn răng hàm thép, mà rõ ràng là của Nga?
Hai nạn nhân còn lại là người Nga, không còn nghi ngờ gì nữa. Thủ phạm của tội ác này và rất nhiều dạng người bị động chạm bởi cuộc điều tra này là người Nga. Tuy nhiên, ở đây tôi có thể đang - một cách không có bằng cứ gì - làm mập mờ chuyện cải cách và mang quyền lực riêng biệt của hai đội quân của luật pháp vào sự mơ hồ lẫn lộn. Vậy nhiệm vụ bảo vệ quyền công dân của tôi còn có nghĩa lý gì khi tôi làm thế? Sự độc lập của anh còn có nghĩa lý gì khi anh từ bỏ nó ngay từ giây phút do dự đầu tiên? Trốn tránh trách nhiệm của chúng ta có lẽ sẽ dễ dàng đấy, nhưng, tôi cam đoan là sai trái.”
“Chính xác thì điều gì sẽ thuyết phục ông theo hướng ngược lại?” Arkady hỏi.
“Nếu anh chứng minh được nạn nhân hoặc kẻ sát nhân không phải là người Nga.”
“Tôi không thể. Nhưng tôi thật sự cảm thấy rằng một nạn nhân không phải người Nga,” Arkady nói.
“Như thế là chưa đủ.” Vị công tố viên thở dài, cái thở dài của người lớn trước một đứa trẻ. “Nó nảy lên trong đầu tôi vào cuối tuần vừa rồi,” Arkady vội nói trước khi anh được mời ra ngoài. “Điều mà các nạn nhân đang làm lúc đó.”
“Là?”
“Thạch cao, mùn cưa và bụi vàng được tìm thấy ở quần áo của nạn nhân. Những thứ trên đều là vật liệu được dùng để phục chế tượng thánh. Tượng thánh là mặt hàng rất phổ biến ở chợ đen, thậm chí phổ biến với du khách nước ngoài hơn là với người Nga.”
“Nói tiếp đi.”
“Có một khả năng nạn nhân này là người nước ngoài và từ những bằng chứng trên quần áo của anh ta, có khả năng anh ta từng tham gia vào hoạt động chợ đen nơi có liên quan mật thiết với người nước ngoài. Để hoàn toàn chắc chắn rằng chúng ta đang không đối phó với một đối tượng nước ngoài, rằng chúng ta đang làm việc trong giới hạn của mình, tôi muốn Thiếu tá Pribluda chuyển giao các băng ghi âm và bản ghi chép về tất cả các đối tượng nước ngoài ở Moscow vào tháng Một và tháng Hai. KGB sẽ không bao giờ làm thế nhưng tôi muốn yêu cầu của tôi và câu trả lời của anh ta được ghi lại.”
Iamskoy mỉm cười. Cả hai người đều hiểu áp lực mà một yêu cầu và câu trả lời chính thức như thế sẽ dồn Pribluda tới việc thừa nhận thẩm quyền với vụ này ngay bây giờ còn hơn là sau này.
“Anh có nghiêm túc không vậy? Đó là một sự khiêu khích, một số người sẽ nói đó là một hành động quá khích.”
“Có,” Arkady nói.
Iamskoy đang mất nhiều thời gian để từ chối hơn là anh dự kiến. Có điều gì đó trong đề nghị này dường như kích thích công tố viên.
“Phải nói rằng tôi luôn luôn sửng sốt trước đầu óc nhạy bén của anh. Anh chưa bao giờ sai hết, phải không? Và anh là điều tra viên cao cấp ở Moscow, nếu anh thật sự quyết tâm, anh có thể xem xét tất cả các đối tượng nước ngoài không có thân phận ngoại giao chứ?”
Trong một khoảnh khắc, Arkady quá choáng váng để trả lời.
“Được.”
“Chuyện đó có thể sắp xếp được.” Iamskoy ghi chép vào một mẩu giấy. “Còn gì nữa không?”
“Và các băng ghi âm hiện tại” Arkady vội thêm vào. Ai biết được lúc nào tay công tố viên lại trở nên dễ tính một lần nữa? “Việc điều tra sẽ được mở rộng ra các khu vực khác.”
“Tôi biết anh sẽ trở thành một nhà điều tra có tiềm năng vô hạn và giàu nhiệt huyết. Giờ mới chỉ là khởi đầu thôi.”
Người đẹp đang nằm trên bàn mổ tử thi.
“Andreev sẽ muốn cả cái cổ nữa,” Levin nói.
Nhà nghiên cứu bệnh học đặt một tấm kê đầu bằng gỗ dưới cổ, khiến nó gập lên và kéo tóc về phía sau. Ông ta cắt xuyên qua xương bằng một chiếc cưa tròn. Mùi can-xi cháy lan ra. Arkady không có điếu thuốc lá nào, anh nín thở.
Levin cắt dưới đốt sống cổ thứ bảy dọc theo góc của gai cột sống. Khi xương rời ra, đầu và cổ lăn xuống khỏi bàn. Arkady bắt lấy cái đầu theo phản xạ và đặt nó về chỗ cũ cũng nhanh như vậy. Levin tắt cưa.
“Không, Thanh tra ạ, cô ấy giờ hoàn toàn là của anh.” Arkady lau hai bàn tay. Cái đầu đã tan băng. “Tôi sẽ cần một cái hộp.”
Dù sao thì, những người đã chết cũng không khác gì nhân chứng của lịch sử tiến hóa loài người, và bản thân mỗi một nhân chứng, mỗi một nắm xương được đẽo ra khỏi than bùn rêu phong hay lãnh nguyên, đã là một đầu mối được thêm vào bức tranh khảm được gọi là thời tiền sử. Một chiếc xương đùi ở đây, một hộp sọ ở kia, có khi một chiếc vòng cổ nai sừng tấm, tất cả đều bị lôi ra khỏi những nấm mồ cổ đại của chúng, bọc lại trong giấy báo và được gửi đến Viện Hàn lâm Dân tộc học Liên Xô nhìn ra công viên Gorky, và để cho sạch sẽ, chúng được xỏ vào dây thép cùng nhau và được phục sinh một cách khoa học.
Không phải mọi điều bí ẩn của nó đều thuộc về thời tiền sử. Ví dụ, một sĩ quan trở về ngôi nhà trọ của mình khi chiến tranh kết thúc đã để ý thấy một vệt ố trên trần nhà. Lúc tìm kiếm nguồn gốc của vết ố trên gác mái, anh đã tìm thấy một thi thể bị chặt chân tay, đã khô lại một nửa, được cảnh sát nhận dạng là xác của một người đàn ông. Sau một cuộc điều tra kéo dài và không thành công, cảnh sát gửi một bản đúc của hộp sọ tới Viện Hàn lâm Dân tộc học để phục dựng lại. Vấn đề là, các nhà nhân chủng học đã phục dựng được gương mặt của một phụ nữ, chứ không phải đàn ông. Phẫn nộ, bên cảnh sát đã phá hủy gương mặt và khép lại vụ việc, cho đến khi phía nhà trọ giao lại bức ảnh của một cô gái. Bức ảnh này khớp với ảnh gương mặt mà các nhà nhân chủng học đã tạo ra, cô gái được nhận dạng và kẻ giết cô đã bị kết án.
Từ đó trở đi, viện nghiên cứu này đã phục dựng từ hộp sọ hay các phần của hộp sọ hơn một trăm gương mặt phục vụ nhận dạng tội phạm. Không có phương pháp tương tự được sử dụng bởi bất kỳ một lực lượng cảnh sát nào khác ở bất kỳ đâu. Một vài phần tái hiện của viện chỉ đơn thuần là tượng thạch cao thô, những cái khác. Sản phẩm của Andreev, đầy ấn tượng không chỉ ở chi tiết của chúng mà còn ở biểu cảm lo lắng hay sợ hãi tột độ rất sống động. Hiệu quả trong phiên tòa khi một trong những chiếc đầu của Andreev được đưa ra luôn là khoảnh khắc chiến thắng của một công tố viên.
“Mời vào, mời vào.”
Arkady đi theo giọng nói này vào một phòng trưng bày đầu. Chiếc tủ gần nhất trưng bày các dạng đầu trong nước - Turkman, Uzbek, Kalmuk,... - được tập hợp lại cùng với những ánh nhìn chằm chằm trống rỗng điển hình cho chân dung các nhóm người. Tiếp theo là tủ trưng bày thầy tu, rồi đến tủ châu Phi và cứ thế. Phía bên kia, dưới lớp sương của ánh sáng từ cửa sổ trên mái hắt xuống, là một chiếc bàn bày tượng bán thân của các nhà du hành vũ trụ mới được tưởng nhớ, lớp sơn của họ vẫn còn mới nguyên. Không thứ nào anh thấy là có phong cách của Andreev, cho đến khi anh đi qua chỗ cửa sổ mái và đột ngột dừng lại. Trong bóng tối cuối phòng, có vẻ bị giật mình vì người điều tra viên tiếp cận và đồng thời vì cái vẻ ngờ vực câm lặng, là Người vượn Bắc Kinh, đôi môi anh ta bị kéo về sau những chiếc răng nanh vàng, đang cố tập trung mà không cần tới trán. Một giống cái nào đó với đôi má ủ rũ của loài đười ươi vùng Sumatra. Một người Neanderthal*, môi dày và có vẻ láu lỉnh. Một người lùn trẻ với mái tóc xoăn khỏe khoắn, một hàng lông mày vắt ngang chiếc đầu thon dài của anh ta, đôi bàn tay và chiếc áo phòng thí nghiệm trắng bệch vì thạch cao. Người lùn trượt xuống khỏi ghế đẩu.
“Anh là viên thanh tra đã gọi điện thoại hả?”
“Đúng vậy,” Arkady tìm chỗ để đặt hộp của mình.
“Đừng bận tâm” Andreev nói. “Tôi sẽ không nghiên cứu về đầu cho anh đâu. Tôi không còn làm công việc pháp y cho cảnh sát nữa, không, chỉ trừ khi vụ án không được phá trong vòng ít nhất là một năm. Đó là một nguyên tắc ích kỷ, nhưng anh sẽ ngạc nhiên khi biết việc cảnh sát phá án được trong vòng một năm diễn ra thường xuyên như thế nào. Hẳn có người đã nói với anh rồi.”
“Tôi đã biết về chuyện đó rồi.”
Sau một lúc lâu im lặng, Andreev gật đầu, tiến tới phía anh, chân vòng kiềng, cánh tay ngắn khoát về phía những bức tượng bán thân quanh anh ta. “Vì anh đã đến đây rồi, cho phép tôi dẫn anh tham quan một vòng trước khi đi. Bộ sưu tập những sinh vật giống người của chúng tôi, những thứ đã làm anh phải chú ý. Chúng khá ấn tượng. Thường mạnh hơn chúng ta, đôi khi có thể tích não lớn hơn, thậm chí sống cùng thời chúng ta trong vài trường hợp, nhưng bị đào thải vì không có khả năng viết chữ trong quá trình tiến hóa, vì thế đã để chúng ta vượt mặt.” Bước chân nhanh nhẹn đưa anh ta lại gần Arkady và một chiếc hộp mạ vàng chứa tượng bán thân một người Tartan du mục. Arkady ngạc nhiên vì anh đã không thấy nó lúc nãy. Gương mặt bức tượng phẳng và vuông, không sống động nhưng trông như đã từng sống, như thể nếp hằn sâu gò má đã được khía bởi gió thay vì dao của một nhà điêu khắc. Mũ miện hình tháp, ria mép đỏ và chòm râu quai nón nhọn hơi tơi tả, mỏng mảnh như của một ông già. “Người homo sapiens*. Timur Lenk*, sát thủ vĩ đại nhất trong lịch sử. Hộp sọ cho thấy ông ta bị một chứng liệt ở bên trái. Chúng tôi còn có tóc của ông ta để nghiên cứu và một chút nấm mốc trên môi chỗ mọc ria mép.”
Arkady nhìn chằm chằm vào người Tartar cho đến khi Andreev bật đèn trong chiếc hộp mạ vàng thứ hai, trong đó chứa một chiếc đầu đàn ông quá khổ trượt ra khỏi chiếc mũ thầy tu thô. Dù trán cao, phần còn lại của gương mặt ông ta, cái mũi dài, đôi môi tím tái và râu lại võng xuống vì lực hấp dẫn hay vì nỗi lòng tự ghê tởm chính mình. Đôi mắt thủy tinh dường như không quá chết chóc như bị dập tắt.
“Ivan Bạo chúa,” Andreev nói tiếp “được chôn cất như một thầy tu dưới điện Kremlin. Một kẻ sát nhân khác. Ông ta tự đầu độc mình bằng thủy ngân mà ông ta dùng để chà xát nhằm giảm đau do viêm khớp. Ông ta cũng có vấn đề về khớp cắn mà hẳn đã khiến nụ cười của ông ta trông nhăn nhó. Anh có thấy ông ta xấu xí không?”
“Chẳng phải thế sao?”
“Cũng chẳng có gì bất thường lắm. Ông ta đã tránh mặt những họa sỹ cung đình trong những năm tháng cuối đời mình, như thể ông ta muốn chôn khuôn mặt đó cùng mình.”
“Ông ta chỉ là một kẻ giết người,” Arkady nói. “Chứ không phải là kẻ ngu.”
Hai người lúc này đã ở gần cánh cửa khi nãy Arkady bước vào và anh nhận ra chuyến thăm quan phòng trưng bày đã đến lúc kết thúc. Anh không hề tỏ một động thái ra về nào cả, Andreev bắt đầu dò xét anh.
“Anh là con trai của Renko có phải không? Tôi đã nhìn ảnh ông ta nhiều lần rồi. Tôi không thấy anh có nhiều nét của ông ấy lắm.”
“Tôi cũng còn có một người mẹ nữa.”
“Đôi khi đó là một nét khác biệt.”
Sự đồng cảm gần như bộc lộ trên gương mặt Andreev, mấy chiếc răng to như răng ngựa của anh ta gần như mỉm cười với Arkady. “Người sẵn lòng thừa nhận điều đó ít nhất cũng nên được lắng nghe. Tốt lắm, hãy xem anh mang đến cái gì nào. Có khi lại có ai đó muốn phí thời gian.”
Andreev dẫn anh tới một góc có một chiếc bàn xoay gốm được giữ bên dưới một chiếc đèn huỳnh quang. Khi anh ta leo lên một chiếc ghế đẩu để kéo dây bật đèn, Arkady mở chiếc hộp và nắm phần tóc để kéo chiếc đầu ra. Andreev nhận lấy chiếc đầu, đặt nó lên bàn xoay và nhẹ nhàng quạt tung đám tóc dài màu nâu. “Còn trẻ, khoảng hai mươi tuổi, nữ, da trắng, khá cân đối,” Andreev nói. Anh ta cắt ngang Arkady khi anh định giải thích về vụ giết ba người. “Đừng cố cuốn hút tôi vào vụ của các anh, có thêm ba cái đầu nữa cũng khó mà ảnh hưởng gì ở đây cả. Sự cắt xẻo tất nhiên là bất thường.”
“Tên sát nhân nghĩ gương mặt cô ấy bị xóa bỏ. Anh có thể lấy lại gương mặt đó.” Arkady nói.
Andreev đẩy chiếc bàn xoay và những khoảng tối đung đưa giữa hai khoang hốc mắt của chiếc đầu.
“Có thể cô ấy đã đi qua đây vào ngày hôm đó,” Arkady nói. “Chuyện xảy ra vào đầu tháng Hai. Có thể anh đã thấy cô ấy.”
“Tôi không dành thời gian của mình để nhìn phụ nữ.”
“Anh là người đàn ông của những năng lực đặc biệt. Bây giờ thì anh có thể nhìn cô ấy đây.”
“Có những người khác ở đây làm phục dựng rất tốt. Tôi còn có việc quan trọng hơn.”
“Quan trọng hơn thực tế là có hai người đàn ông và cô gái bị giết gần như ở ngay trong tầm nhìn từ cửa sổ của anh?”
“Tôi chỉ phục dựng thôi, viên thanh tra ạ. Tôi không thể làm cô ấy sống lại được.”
Arkady đặt chiếc hộp xuống sàn. “Gương mặt sẽ làm được.”
Người ta xì xào về Lubyanka, nhà tù của KGB ở quảng trường Dzerzhinksy, nhưng hầu hết những người Moscow phạm pháp bị bắt sẽ đến nhà tù Lefortovo ở bờ Đông thành phố. Một tay lính gác đưa anh xuống bằng thang máy vốn là một cái lồng có từ thời trước cách mạng. Giờ này Zoya đang ở đâu? Cô đã gọi và bảo anh đừng mong cô quay trở về căn hộ. Nghĩ về cô, anh không thể nhớ một điều gì trừ gương mặt cô khi đứng trước cửa phòng ngủ ở căn nhà ngoại ô của Misha, vẻ đắc thắng trên gương mặt cô, như thể đối thủ đã tung ra quân át chủ bài quá sớm. Ngoài ra, chẳng còn gì cả. Trong khi đó, một chuyện phi thường khác xảy ra. Iamskoy đã yêu cầu những băng ghi âm từ Pribluda. Một chiếc đầu đã được chuyển đến để phục dựng. Dưới lớp vỏ bọc, mà anh không mong muốn, một cuộc điều tra thực thụ đang được hình thành.
Tới tầng ngầm, Arkady đi xuống một sảnh với những cánh cửa sắt nhỏ trông giống như những cửa lò, đi qua một viên lính gác đang ngồi viết nguệch ngoạc bên một chiếc bàn, cạnh một căn phòng mở cửa nhét đầy những đệm và sặc mùi nấm mốc, tới một cánh cửa đóng mà anh mở ra để gặp Trưởng điều thanh tra các vụ án Đặc Biệt Chuchin, với dáng vẻ ôn tồn hết mức có thể, nhìn chằm chằm, mắt long lanh, một tay chộp lấy khóa thắt lưng, và một người phụ nữ đang ngồi, quay mặt sang một bên để nhổ vào một chiếc khăn tay.
“Anh...” Chuchin chắn không cho Arkady nhìn cô gái, nhưng Arkady đang nhìn lần thứ hai vào những gì anh đã thấy: cánh cửa bật mở, sự sửng sốt lúc đầu của Chuchin, bàn tay đóng khóa thắt lưng, cô gái mặt đỏ - trẻ nhưng thô - quay vào ghế để nhổ. Chuchin, người đàn ông có dáng vẻ hòa nhã nhất từng thấy, trên môi trên của anh ta là bộ ria đầy mồ hôi, đóng cúc áo khoác lại và đẩy Arkady vào sảnh.
“Một cuộc thẩm vấn à?” Arkady hỏi.
“Không phải một vụ về chính trị, chỉ là một con điếm.” Ngay cả đến giọng nói của Chuchin cũng êm, như thể anh ta đang nhận diện một loài chó.
Arkady đến với một yêu cầu. Anh không cần phải đề nghị nữa.
“Đưa tôi chìa khóa lấy hồ sơ của anh.”
“Biến đi.”
“Công tố viên sẽ rất hứng thú với cách anh tiến hành cuộc thẩm vấn.” Arkady chìa tay ra để nhận chìa khóa.
“Anh không có gan đâu.”
Tay Arkady nắm lại trên đũng quần của Chuchin, và nhận thấy dương vật đang mềm lại. Chuchin nhảy dựng lên khiến hai người có thể nhìn thẳng vào mắt nhau.
“Tôi sẽ giết anh vì chuyện này, Renko, cứ chờ xem,” Chuchin nói giọng khàn khàn, nhưng anh ta phải buông chìa khóa.
Arkady trải mớ hồ sơ lên bàn Chuchin.
Không có điều tra viên nào lại để cho điều tra viên khác thấy các hồ sơ của mình. Mỗi người là một chuyên viên. Trong những trường hợp hoạt động của họ bị trùng lẫn nhau, những hồ sơ riêng rẽ chứa những nhận dạng của những người cấp thông tin cho riêng họ. Nhất là ở Vụ Đặc Biệt. Vụ Đặc Biệt là gì? Nếu như KGB bắt giữ những tội phạm chính trị, những con số tuyệt đối của họ sẽ thổi phồng tầm quan trọng của họ. Hơn chăng là một ai đó bị bắt bởi văn phòng công tố viên vì những tội thông thường mà những công dân bình thường có thể hiểu được. Ví dụ: Nhà sử học B - một người trao đổi thư từ cho những nhà văn bị lưu đày - bị bắt vì đầu cơ vé xem vũ kịch. Nhà thơ F, người vận chuyển sách cấm, bị kết tội ăn trộm sách trong thư viện Lê-nin. Kỹ thuật viên M, người ủng hộ Dân chủ Xã Hội, bị bắt khi đang bán tượng thờ cho người đưa tin G. Mớ hổ lốn này là một sự xúc phạm với những điều tra viên thực thụ. Thái độ của Arkady vẫn luôn là lờ Chuchin đi, như thể để phủ nhận sự tồn tại của anh ta. Anh hầu như không nói chuyện với anh ta chứ đừng nói đến chạm vào người.
Ánh mắt Arkady bị thu hút bởi những tài liệu tham khảo của Chuchin về “người đưa tin G” “công dân cảnh báo G” “Nguồn tin đáng tin cậy G”. Toàn bộ một nửa những cuộc bắt giữ liên quan đến tượng thờ đã được lót đường bởi chữ cái duy nhất đó. Anh xem các khoản chi tiêu của Chuchin. G đứng đầu một danh sách những người cung cấp thông tin với một nghìn năm trăm rúp. Có số điện thoại ở đó.
Từ văn phòng của mình, Arkady gọi đến tổng đài điện thoại. Số điện thoại đó thuộc về một gã Feodor Golodkin. Máy ghi âm của Pasha ở cạnh bàn. Arkady cho một băng mới vào và quay số điện thoại. Sau năm hồi chuông, đầu dây bên kia nhấc máy mà không nói gì.
“A lô, Feodor có đó không?” Arkady hỏi.
“Ai vậy?”
“Một người bạn.”
“Cho tôi một số điện thoại để gọi cho anh sau.”
“Nói chuyện luôn đi.”
Cạch.
Khi thùng tài liệu đầu tiên của Pribluda được chuyển đến, Arkady cảm nhận được phần nào sự hân hoan mà tiến trình thậm chí là không tưởng này mang lại. Có mười ba khách sạn Intourist ở Moscow, với tổng số hơn hai mươi nghìn phòng nghỉ, một nửa số đó được trang bị thiết bị nghe lén và trong khi chỉ có năm phần trăm có thể được giám sát cùng một lúc, số lượng được ghi âm và ghi chép thậm chí còn ít hơn, thì đống tài liệu này thật sự ấn tượng.
“Cậu có thể sẽ tình cờ thấy một người vô tội nào đó nói chuyện công khai về việc mua tượng thánh hay về việc gặp ai đó ở công viên Gorky nhưng đừng mong đợi nhiều,”Arkady nói với Pasha và Fet. “Đừng tốn công đọc bản ghi chép của bất kỳ ai được hộ tống bởi hướng dẫn viên của Intourist. Đừng phí sức với những nhà báo nước ngoài, linh mục hay chính trị gia, họ bị theo dõi quá sát sao. Hãy tập trung vào khách du lịch hay doanh nhân nước ngoài, những người biết đường đi lối lại, nói được tiếng Nga và có người quen ở đây. Người có những cuộc nói chuyện ngắn bí ẩn và ngay lập tức rời phòng của họ. Có một băng ghi âm của tay buôn chợ đen Golodkin trong máy này để anh có thể so sánh với giọng anh ta ở băng khác, nhưng đừng quên là có thể anh ta không có dính líu.”
“Tượng thánh?” Fet hỏi. “Sao chúng ta lại chọn chúng?”
“Phép biện chứng chủ nghĩa Mác,” Arkady trả lời.
“Phép biện chứng?”
“Giờ chúng ta đang trong giai đoạn giữa của chủ nghĩa xã hội khi mà vẫn còn những khuynh hướng tội phạm bắt nguồn từ những dấu tích của chủ nghĩa tư bản trong tâm trí của một vài cá nhân. Dấu tích nào rõ ràng hơn được một bức tượng thánh?” Arkady bóc một bao thuốc lá và đưa cho Pasha một điếu. “Ngoài ra, thạch cao và bụi vàng được tìm thấy trên quần áo các nạn nhân. Thạch cao là một chất sơn lót cho gỗ và việc sử dụng vàng hợp pháp duy nhất là dùng cho phục chế tượng thánh.
“Ý anh là chuyện này có thể liên quan đến một tên trộm đồ nghệ thuật?” Fet hỏi. “Như vụ ở Hermitage vài năm trước. Nhớ không, một nhóm thợ điện trộm pha lê từ đèn chùm của bảo tàng. Phải mất vài năm để bắt được chúng.”
“Bọn làm giả tượng thánh, chứ không phải trộm.” Pasha xin một que diêm. “Đám mùn cưa trên quần áo nạn nhân do làm việc với gỗ.” Anh dừng lại và nháy mắt. “Tôi vừa làm một phép biện chứng có phải không?”
Sau một ngày nghe băng ghi âm, Arkady chẳng còn đủ năng lượng để đối mặt với căn hộ của mình, anh đi lang thang cho đến khi thấy mình đang đứng dưới cổng Hoàng đế La Mã vào công viên Gorky. Ở đây, anh mua cho mình bữa tối với bánh nhân thịt và nước chanh. Ở vòng trượt băng, những cô gái thân hình săn chắc trượt giật lùi về sau xa khỏi cậu trai mang đàn phong cầm. Cậu ta chơi một điệu nhạc dồn dập. Dàn loa phóng thanh đang im lặng, bà điếc đã cất những đĩa nhạc đi.
Mặt trời lặn vào những đám mây khói. Arkady đi tới khu vui chơi. Vào một cuối tuần đẹp trời, ở đây có thể có hàng ngàn đứa trẻ cưỡi thú nhún tên lửa và xe ô tô đạp chân, cầm súng hơi gõ lách cách lên những con vịt gỗ hay xem trình diễn ảo thuật ở rạp hát ngoài trời. Khi còn là một đứa trẻ, anh cũng đến đây khá thường xuyên như một người thông thái với gã-thông-thái Misha và những kẻ khôn ngoan khác trong nhóm, cùng với Trung sĩ Belov. Anh còn nhớ khoảng thời gian những người Séc mở cuộc triển lãm nước ngoài đầu tiên trong công viên, gian hàng bia Pilsen vào năm 1956. Bỗng nhiên, bia trở nên phổ biến. Mọi người đều pha nó với vodka của mình. Tất cả đều hạnh phúc và say xỉn. Anh nhớ khi phim “Bảy tay súng oai hùng” đến Moscow, tất cả nam giới từ mười hai đến hai mươi tuổi đều bắt đầu đi lại giống Yul Brynner, công viên Gorky dường như ngập tràn những chàng cao bồi đi tìm ngựa của mình. Một khoảng thời gian khi tất cả mọi người đều là cao bồi.
Tuyệt vời! Giờ thì bọn họ là cái gì? Nhà quy hoạch thành phố, quản lý nhà máy, Đảng viên, chủ xe ô tô, người mua tượng thánh, độc giả của Krokodil, những bậc cha mẹ.
Hôm nay, ở đây không có nhiều trẻ con. Hai ông già xếp cờ domino trong bóng chiều nhập nhoạng. Những người đẩy xe bán hàng dạo đeo tạp dề và mũ lưỡi trai trắng đứng túm tụm vào nhau. Một em bé kéo dãn hết cỡ dầy cao su mà bà mình đang cầm.
Trên vòng đu quay ở cuối khu giải trí, một cặp đôi tầm tám mươi tuổi ngồi lơ lửng ở lưng chừng không trong khi người vận hành, một chàng trai có vấn đề về da, đang đọc lướt qua tạp chí xe máy, thật đáng nguyền rủa nếu cậu ta định nhả phanh chỉ vì hai ông bà già đã về hưu. Khi gió nổi lên, cabin lắc lư và cụ bà ngồi dịch lại gần chồng.
“Cho đu quay quay lên đi.” Arkady đưa một tấm vé cho người vận hành và ngồi vào một ca bin. “Ngay bây giờ.”
Chiếc đu quay nhún mình rồi quay tròn, và Arkady được đưa lên cao hơn ngọn cây. Dù ánh nắng còn nán lại ở phía tây, qua những ngọn đồi Lê-nin, khắp thành phố đang lên đèn và anh có thể nhìn ra những ánh đèn giao thông trông như các quầng sáng đồng tâm, những đại lộ được bao bọc bởi cây xanh quanh nội thành, đường vành đai Sadovaya hướng tới công viên, đường vành đai ngoài trông mơ hồ như dải Ngân Hà.
Đó là một trong những điểm đặc biệt ở công viên Gorky, đó là nơi duy nhất trong thành phố mà bạn có thể ngồi mơ mộng. Bạn phải có giấy thông hành đặc biệt để hòa vào những ảo mộng của Mosfilm, nhưng ở công viên Gorky tất cả mọi người được đón chào. Đã từng có lúc Arkady định trở thành một nhà thiên văn học. Tất cả những gì anh có, còn sót lại từ thời kỳ đó là một nếp nhăn những thông tin vô bổ trên vỏ não. Anh đã từng đứng trong Công viên Gorky ngắm nhìn tàu Sputnik bay qua khoảng hai mươi năm trước. Ồ, cũng chẳng có gì để hối tiếc cả. Tất cả mọi người đều để lại trong công viên này những hồi ức như thế. Đây là một biểu tượng vĩ đại và dễ chịu. Anh, Misha và Pasha, Pribluda và Fet, Zoya và Natasha. Việc một ai đó bỏ lại những xác chết ở đây khiến anh thấy bị xúc phạm.
Lại một vòng nữa. Cặp đôi cao tuổi ở cách vài cabin phía trước ngồi lặng thinh, theo cái cách những người tiền cách mạng vẫn làm khi họ đến thủ đô. Chỉ đám người của Chiến Tranh Vệ Quốc Vĩ Đại mới có đủ sự tự tin để náo nức và hò reo. Trong khi con cháu họ ngồi ngoài những thánh đường của điện Kremlin và ngoáy mũi, kiểu chào mừng của những kẻ kế thừa.
Anh chuyển chỗ để thoải mái dựa vào chiếc ghế kim loại. Phía dưới, công viên chạy dốc lên những ngọn đồi, dọc theo đồn cảnh sát và chia thành hai đường đi bộ lãng mạn, phía ngoài một trong hai đường đi đó nơi “bốn mươi mét về phía bắc của đường đi bộ trên cùng một đường thẳng với phố Donskoy và dòng sông” ba người đã bị giết. Mặc cho bóng tối đang dần phủ dày lên, anh vẫn tìm thấy bãi trống vì có một dáng người đang cầm đèn pin đứng giữa bãi đất.
Tới lần quay qua mặt đất tiếp theo, Arkady nhảy xuống. Nơi này cách khu đất trống nửa cây số và anh bắt đầu chạy bằng sải bước dài, thay vì trượt trên băng và lấy lại sự thăng bằng. Con đường uốn khúc dốc lên.
Zoya đã đúng, anh nên tập thể dục. Mấy điếu thuốc lá ngu xuẩn. Anh tới được trạm cảnh sát, nó đúng là ấm cúng như Pasha miêu tả nhưng trống không, thậm chí còn không có chiếc xe nào quanh đó, vì thế anh tiếp tục đi trong khi con đường mòn càng ngày càng dốc hơn. Anh tỉnh táo nhấc đầu gối lên và đánh khuỷu tay ra sau theo một nhịp điệu nào đó, lạc điệu với tiếng nện xuống của giày và tiếng the thé của khí quản. Sau ba trăm mét chạy nước rút, sải bước của anh trở nên ngắn như của một đứa bé. Anh cảm thấy như thể đã chạy hàng giờ liền. Con đường cao dần lên trong khi hông anh bắt đầu giật giật vì đau, và anh tự lẩm nhẩm với chính mình rằng chắc chỉ có mỗi thám tử Fet là đang được ở nhà làm những công việc nhàn nhã mà thôi.
Từ chỗ xe cảnh sát rẽ khỏi đường mòn bốn ngày trước, anh đi chậm lại một cách vụng về theo vết xe vào bãi trống. Băng lạo xạo dưới chân. Ánh đèn đã biến mất, kẻ lục lọi đã bỏ đi hoặc đủ thông minh để bịt ánh đèn khỏi con đường mòn. Chẳng có dấu hiệu gì giúp ích được vì bãi đất, sạch bong tuyết, hoàn toàn tối om. Không một tiếng động. Anh di chuyển từ cây này sang cây khác quanh khu đất, dừng lại lấy đà và nhìn ngó. Anh đang định di chuyển lần nữa thì một tia sáng lóe lên trên cái hố nông nơi những xác chết được đào lên.
Arkady đã vào sâu khoảng mười mét trong bãi đất khi ánh đèn biến mất.
“Ai ở đó vậy?” Anh hỏi.
Một ai đó chạy theo hướng khác.
Anh bám theo. Bãi trống đâm xuống một bãi trồng cây, anh biết. Qua khỏi đó có thể là một bờ sông dốc đứng, một vài lùm cây che mát cho bàn chơi cờ, một con đường mòn khác, cây cối, rồi chỉ nhảy một cái là xuống đường cầu cảng Pushkinskaya và dòng sông.
“Dừng lại! Cảnh sát đây!” Anh hét lên.
Anh không thể hét và chạy thêm nữa. Anh đang tăng tốc. Những bước chân phía trước nghe khá nặng, bước chân của đàn ông. Dù Arkady đã từng dùng súng một lần, anh không bao giờ mang theo nó. Bãi trồng cây đang gần lại, nảy về phía trước như một gợn sóng nhấp nhô. Kẻ chạy trốn tới chỗ những cái cây trước, băng qua những cành cây. Có thể có đèn ở con đường bên dưới, Arkady nghĩ, và rất nhiều đèn trên đường cảng. Anh giơ cánh tay ra khi tới chỗ những cái cây.
Anh cúi đầu xuống né rất nhanh khi nghe thấy tiếng một cánh tay đưa ra đáp trả, nhưng đó không phải một cú đấm, mà là một cú đá vào háng anh. Khi thở hắt ra, anh cố chộp lấy chân hắn và bị một bàn tay túm cổ. Anh tung một cú đấm và bị trượt. Một cú đá khác đạp anh ngược trở lại. Cú đấm thứ hai của anh trúng một cái bụng tròn và cứng. Một bờ vai ghim anh vào gốc cây trong khi những ngón tay chọc vào hạ bộ anh. Miệng Arkady tìm thấy một cái tai và anh cắn.
“Thằng khốn.” Một giọng nói bằng tiếng Anh. Bờ vai giật ngược trở lại.
“Cảnh sát...” Anh cố hét lên, nhưng chỉ có tiếng thì thào thoát ra từ cổ.
Một cú đá làm anh ngã đập mặt xuống tuyết. Đồ ngu, Arkady tự nói với chính mình. Lần đầu một điều tra viên đánh người thì hắn mất vợ. Lần thứ hai hắn oang oang kêu cứu.
Anh lê mình đứng dậy, lắng nghe tiếng những cành cây rung rinh và bám theo. Anh suýt ngã. Đường mòn phía dưới vắng tanh, nhưng anh thấy những bàn chân mất hút vào cây cối phía bên kia.
Arkady bước xuống đường mòn bằng một sải chân và nhảy lên một tấm lưng rộng. Hai người đàn ông lăn trong bóng tối cho đến khi họ va vào một cái ghế dài. Arkady cố khóa tay đối phương về phía sau, nhưng áo khoác quá vướng víu khiến cả hai không thể làm bất kỳ điều gì cho đến khi gã đàn ông xoay người thoát ra được. Arkady ngáng chân hắn, đấm điên cuồng hơn bao giờ hết, khiến hắn ngã quỵ xuống một lần nữa. Nhưng ngay khi họ tách nhau ra, Arkady không có một cơ hội nào. Một bàn tay tát vào mặt anh, và trước khi anh bắt đầu phản công cũng chính bàn tay đó đấm một nhát vào những xương sườn phía dưới tim anh. Anh ngã xuống, cảm thấy tim mình ngừng đập.
Đây là một bước tiến vượt bậc so với những phương pháp nguyên thủy, giám đốc hợp tác xã nói với Arkady và bố anh, sau đó kéo đầu con bò vào một cái gông có một xi lanh kim loại lớn phía trên mà với tiếng cách của một cái nút điều khiển đưa chiếc pit tông loáng dầu vào sọ con bò, những chiếc chân của con vật lủng lẳng đung đưa rớt xuống. Da bò cho mũ bảo hộ của lính tăng thiết giáp, anh nhớ là thế. Để tôi thử xem, Tướng Renko nói, và kéo một con bò khác vào cái gông. Bổ thật mạnh! Thử tưởng tượng có thể dùng tay ai đó như thế.
Arkady kéo mình ra khỏi cơn mê và bước đi loạng choạng, tay ôm lấy ngực. Cây cối và tuyết hút anh trượt xuống một bức tường đá. Anh rón rén đi và ngã gục xuống vỉa hè cầu cảng Puskinskaya.
Ánh đèn xe tải hắt dọc theo khúc quanh của đường cảng. Anh không thấy ai đi lại quanh đây. Không một bóng cảnh sát. Đèn đường là những quả cầu lông lá như những bong bóng khí anh khó nhọc nuốt xuống. Những chiếc xe tải đi tiếp bỏ lại anh một mình, loạng choạng băng qua đường.
Dòng sông là một dải băng rộng ba trăm mét được che chở bởi đám cây đen ngòm, vươn dài tới sân vận động Lê-nin về phía tây và cạnh những tòa nhà tối tăm của các bộ về phía đông. Cầu treo Krimsky ở cách đó ít nhất một kilomet. Sát phía bên trái Arkady là một cầu tàu điện không có lối đi bộ. Trên đó một đoàn tàu chạy rầm rập, những bánh xe tóe lửa.
Một bóng người đang chạy trên sông phía dưới cây cầu.
Không có cầu thang nào cả. Arkady trượt ba mét từ tảng đá bờ kè cong, mông của anh phải lãnh hậu quả từ việc tiếp đất một cách thô bạo xuống nền băng. Anh lê mình đứng dậy và bắt đầu chạy.
Moscow là một thành phố dưới thấp. Từ dòng sông, nó gần như biến mất vào trong vùng trời mơ hồ của chính nó.
Những bước chân mỗi lúc một gần hơn. Gã đàn ông rất khỏe, không nhanh nhẹn, thậm chí là tập tễnh, Arkady vẫn đang tăng tốc. Dọc theo bờ kè phía bắc cũng không có cầu thang, nhưng anh thấy trên bờ kè hướng về sân vận động có những cầu tàu để neo đậu tàu du ngoạn mùa hè.
Gã đàn ông dừng lại để thở, quay lại nhìn Arkady và tiếp tục chạy. Họ đã chạy được nửa đường xuyên qua dải băng, cách nhau khoảng bốn mươi mét. Khi Arkady tiến sát gần, gã kia dừng lại lần thứ hai và giơ tay lên đầy uy quyền đến mức Arkady thấy mình dừng chân. Băng tạo nên ảo ảnh phát quang. Anh có thể nhìn ra một dáng người chắc nịch mặc áo choàng và mũ lưỡi trai. Gương mặt bị ẩn đi.
“Cút đi.” Giọng nói bằng tiếng Nga.
Khi Arkady bước tiến lên, bàn tay anh hạ xuống thấp. Anh thấy một nòng súng. Gã đàn ông ngắm bắn bằng cả hai tay theo cách mà các thám tử được huấn luyện bắn súng và Arkady nhảy chúi người xuống. Anh không nghe thấy tiếng súng nào hay nhìn thấy ánh sáng nào lóe lên, nhưng có gì đó đập tung băng phía dưới anh, ngay lập tức sau đó, cắt tung những tảng đá.
Dáng người đó lê lết một lần nữa về bờ sông phía xa. Khi tới bờ kè thì Arkady đuổi kịp. Nước đã chảy xuống dọc bức tường đá, đóng băng thành một đường trượt không bằng phẳng và có hai người đàn ông vật lộn dưới cái bóng của cây cầu, đầu tiên là trượt chân rồi đến đầu gối. Arkady bị chảy máu mũi còn gã kia thì mất mũ. Một cú đánh không mạnh hơn một cái vỗ nhẹ lên ngực khiến Arkady phải bò bằng tứ chi. Đối thủ của anh thì đứng. Anh lãnh hai cú đá vào bên sườn và một đạp giày mạnh ngang với nhát búa giáng cuối cùng vào sau đầu.
Khi anh xoay mình lại, gã đàn ông đã đi mất. Anh ngồi dậy, phát hiện ra mũ của gã đang trong tay mình.
Phía trên bầu trời cao, thêm những vòng hoa rực sáng xèo xèo lóe ngang bầu trời. Loạt pháo hoa nhỏ cho chiến công nho nhỏ.