Nguyên tác: The Silence of the Lambs
Số lần đọc/download: 47398 / 4763
Cập nhật: 2015-08-11 23:30:32 +0700
Chương 5
Jeff, anh cho tôi xuống phòng thí nghiệm nhé! - Crawford lệnh cho người tài xế - Sau đó anh chờ nhân viên Starling trước cửa Smithsonian. Cô ta sẽ về Quantico.
- Dạ rõ, thưa ông thanh tra.
Họ đến phi trường và băng qua sông Potomac ngược chiều với dòng lưu thông của chiều tối.
Người tài xế trẻ dường như sợ Crawford lắm, nên lái xe với sự cẩn thận quá đáng. Crawford biết điều này; mọi người đều biết, tại trường, người nhân viên cuối cùng dưới quyền của Crawford, đã làm vài chuyện ngu ngốc, hiện giờ đang điều tra các vụ trộm vặt tại các căn cứ ra đa ở vùng Địa Cực.
Tâm trạng của Crawford không được vui. Chín giờ đồng hồ đã trôi qua kể từ lúc chuyển các dấu tay và hình ảnh, nhưng nạn nhân vẫn chưa được nhận diện. Clarice và ông đã vô vọng khám xét cây cầu và cả các bờ của con sông với cảnh sát của Virginie cho đến khi trời tối.
Tại phi trường, ông có gọi điện để yêu cầu một nữ y tá đêm đến nhà ông.
Chiếc limuzin của FBI êm một cách tuyệt vời so với chiếc Xuồng Xanh; giờ đây người ta có thể nói chuyện mà không cần phải hò hét gì hết.
- Khi đem các dấu tay dấn ban nhận dạng, tôi sẽ đưa qua máy điện báo trực tiếp và máy Latent Descriptor Index - Crawford báo - Anh chuẩn bị cho tôi một bản đính kèm vào hồ sơ. Một bản đính kèm chớ không phải một 302 nghe không! Anh biết làm cái đó chứ?
- Dạ biết.
- Thí dụ tôi là Danh Mục, anh có gì mới để báo cáo cho tôi?
Anh ta cần một ít thời gian để thu gom các dữ liệu. Cũng may lúc đó Crawford có vẻ đang chú tâm đến Đài Kỷ niệm Jefferson họ đang đi ngang qua.
Máy Latent Descriptor Index của hệ thống điện toán nhận dạng so sánh các đặc tính của một vụ án mạng chưa được giải quyết với những thói quen kỳ quặc được biết của các tên giết người được lưu trữ trong bộ nhớ. Nếu nó tìm thấy những điểm tương đồng, nó sẽ đề nghị những tên khả nghi và cho ra các dấu tay của chúng. Đến lúc đó, người ta mới so sánh với những cái được thấy tại hiện trường. Cảnh sát hiện giờ chưa có dấu tay của Buffalo Bill, nhưng Crawford không muốn đứng trước sự bất ngờ.
Hệ thống này cần các chi tiết ngắn gọn và chính xác. Clarice cố làm hết sức mình.
- Phụ nữ da trắng, từ hai mươi tám đến ba mươi hai tuổi, bị giết bằng súng, bụng và đùi bị lột da...
- Starling, Danh Mục biết rõ hắn chỉ giết các thiếu nữ da trắng và lột da họ - phải nói rõ là “lột da”. Nó cũng biết là hắn ném họ xuống sông, nhưng chưa biết có chi tiết mới trong vụ sau cùng. Điều mới là gì vậy, Starling?
- Đây là nạn nhân thứ sáu, và là người đầu tiên bị lột da đầu, người đầu tiên thiếu mất mấy miếng da hình tam giác ở xương bả vai, người đầu tiên có một vết đạn ở ngay ngực, người đầu tiên có một cái kén trong cuống họng.
- Cô quên mất các móng tay bị gãy.
- Thưa sếp không, người thứ hai bị gãy móng tay.
- Cô nói đúng. Nghe đây, trong bản báo cáo cô phải ghi chú rằng cái kén là một chi tiết mật. Chúng ta sẽ sử dụng nó để loại bỏ những lời thú tội không đúng.
- Tôi tự hỏi không biết hắn đã làm chuyện này chưa, bỏ một cái kén hoặc một con côn trùng. Người ta dễ dàng không thấy điều này trong lúc giảo nghiệm, nhất là đối với người chết trôi. Ông biết mà, vị bác sĩ thực hiện cuộc giải phẫu nhận thấy nguyên nhân cái chết, muốn kết thúc cho mau... chúng ta có thể nào kiểm tra chi tiết này không?
- Nếu thấy cần thiết. Các bác sĩ pháp y chắc chắn sẽ nói là họ không bỏ qua bất cứ điều gì. Jane Doe, cô gái ở Cincinnati, vẫn còn trong tủ lạnh của nhà xác. Tôi sẽ yêu cầu họ kiểm tra lại một lần nữa, nhưng bốn người trước thì được chôn cất rồi. Một lệnh quật mồ sẽ làm xôn xao dư luận. Chúng ta buộc phải nhờ đến bốn bệnh nhân đã chết của bác sĩ Lecter, để biết chắc vì sao mà chết đã. Tôi bảo đảm với cô chỉ riêng các gia đình nạn nhân thôi cũng đã gây cho chúng ta không ít rắc rối rồi. Nếu cần tôi sẽ làm như thường, nhưng trước đó, hãy chờ xem chúng ta có được gì với Viện Smithsonian hay không đã.
- Một tên giết người lột da đầu của nạn nhân, hẳn rất hiếm thấy, có phải không?
- Đúng vậy, rất hiếm.
- Nhưng bác sĩ Lecter nói là Buffalo Bill sẽ làm việc đó. Làm sao ông ta có thể biết được chứ?
- Ông ta không biết gì cả.
- Dù sao thì cũng chính ông ta nói ra điều đó mà.
- Việc này không có gì đặc biệt cả, Starling. Về phần tôi, tôi không hề ngạc nhiên chút nào. Tôi có thể nói là hiếm thấy cho đến khi vụ Mengel xảy ra. Cô có nhớ không? Hắn đã lột da người đàn bà đó. Hai hoặc ba tên sát nhân khác liền bắt chước hắn ngay. Báo chí đã đưa ra lời nhận xét trong các bài nói về Buffalo Bill, rằng tên giết người này không hề lột da đầu các nạn nhân của hắn, nên không lạ gì điều này đã gợi ý cho hắn. Ông ta không nói khi nào việc đó xảy ra, vì thế ông ta có ít cơ may để nói sai. Nếu chúng ta bắt được Buffalo Bill trước khi bất cứ một nạn nhân nào của hắn bị lột da đầu, ông ta sẽ nói là chúng ta đã bắt được hắn trước khi hắn thực hiện việc dó.
- Bác sĩ Lecter cũng có nói Buffalo Bill ở trong một ngôi nhà chứ không phải một căn hộ. Về điểm này, chúng ta không có bất cứ một manh mối nào hết. Tại sao ông ta lại nói thế?
- Hai điều này không giống nhau chút nào. Có thể ông ta có lý và ông ta nói cho chúng ta biết tại sao, nhưng ông ta chỉ lòe cô thôi. Đó là điểm yếu duy nhất của ông ta mà tôi biết được.
- Ông ta có nói tôi phải đặt câu hỏi mỗi khi tôi không hiểu... vậy xin ông cắt nghĩa cho tôi đi.
- Đồng ý. Có phải hai nạn nhân đã bị treo cổ không? Dấu dây buộc quanh cổ mà. Xương cổ trật khớp... đó là tất cả các dấu hiệu của một vụ treo cổ. Vì lẽ đó nên mọi người đều biết và kể cả ông ta. Đối với Lecter, rất khó cho một người nào đó làm trái ý nghĩ của ông ta. Có hàng tá người tự treo cổ tại các nắm cửa. Có khi họ tự thắt cổ trong lúc ngồi nữa kìa. Nhưng rất khó để treo cổ một người khác... dù cho nạn nhân có bị trói đi nữa, vì người đó có thể tựa chân vào một cái gì đó. Với một cái thang thì việc này không thể được rồi. Người đó không thể nào tự leo lên các bậc thang với đôi mắt bịt kín và sẽ không bao giờ bước lên đó nếu thấy nút thòng lọng. Cách duy nhất là dùng cầu thang. Nó không làm cho người ta sợ. Người ta có thể cho là người đó đi vệ sinh chẳng hạn, hoặc đưa người đó lên lầu với một cái khăn trùm kín đầu; rồi tròng thòng lọng được cột trên tay vịn cầu thang vào cổ người đó và đẩy người đó té xuống khi bước đến bậc cuối cùng. Người ta chỉ có thể làm việc đó trong một ngôi nhà mà thôi. Một tên ở California đã làm cho màn kịch này trở nên phổ biến đấy. Nếu Bill không có cầu thang, hắn sẽ giết họ bằng cách khác rồi. Bây giờ cô hãy cho tôi biết tên của người phụ tá thứ nhất và vị chỉ huy cao nhất của cảnh sát bang đi.
Clarice tìm thấy các tên này trong cuốn sổ tay bằng cách cắn cây đèn trong miệng.
- Tốt lắm. Khi nào cô thảo tờ báo thị tầm nã, cô đừng quên gọi các nhân viên cảnh sát bằng tên của họ. Khi họ nghe tên của họ, điều đó giúp họ nhớ đến cô và khi họ biết được điều gì mới họ sẽ báo cho cô ngay. Cô nghĩ gì về vết phỏng ở bắp chân?
- Mọi thứ đều tùy thuộc nếu nó xảy ra sau cái chết.
- Và nếu đúng như trường hợp đó thì sao?
- Như thế nghĩa là hắn có một xe tải nhỏ, một xe chở hàng hoặc một xe tải nhỏ không mui.
- Tại sao?
- Bởi vì vết phỏng nằm ngay bắp chân.
Họ vừa đến bộ chỉ huy mới của FBI mà không người nào gọi là Tòa nhà J. Edgar Hoover.
- Ngừng ở đây đi Jeff - Crawford nói - Không cần vô đó. Anh hãy ở ngoài xe, anh chỉ cần mở thùng xe thôi. Nào Starling, hãy chỉ cho tôi coi.
Cô bước xuống trong khi Crawford lấy cặp hồ sơ và máy fax.
- Buffalo Bill chở cái xác trong một chiếc xe khá lớn để có thể cho nạn nhân nằm dài - cô nói - Đó là phương cách duy nhất để cho đôi chân của nạn nhân nằm trên sàn xe, ngay trên ống xả khói. Trong một cái thùng như thế này, cái xác phải được co mình qua một bên, và...
- Đúng vậy, tôi cũng nghĩ sự việc phải xảy ra như vậy.
Đến lúc này Clarice mới hiểu Crawford cho cô xuống xe để có thể nói chuyện chỉ hai người thôi.
- Khi tôi nói với người phụ tá thứ nhất là tôi không muốn trao đổi các chi tiết trước mặt phụ nữ, điều đó có làm cho cô bực mình không?
- Đương nhiên là có rồi.
- Đó chỉ là cái cớ thôi. Tôi chỉ muốn nói chuyện riêng với anh ta.
- Tôi biết.
- Tốt - Crawford đậy nắp thùng xe lại rồi bỏ đi.
- Thưa ông Crawford, thật nghiêm trọng đây.
Ông xoay người lại và chăm chú nghe cô nói.
- Đám cảnh sát biết mặt ông - cô nói tiếp - Họ quan sát mọi hành động và cử chỉ của ông - Nói xong, cô nhún vai và đưa hai bàn tay không ra trước. Điều này đúng và ông không thể chối cãi được.
Crawford xem xét vấn đề một cách lạnh lùng và thật khách quan.
- Tôi sẽ cố ghi nhận điều này, Starling. Bây giờ cô hãy lo cho con vật chết tiệt của cô đi.
- Thưa ông, vâng.
Cô đứng nhìn ông đi xa, một người trung niên, mang nhiều vật dụng, quần áo nhàu nát vì cuộc hành trình, với các lai quần dính đầy bùn của con sông, đang trở về nhà để đương đầu với những gì đang đón chờ ông ta.
Ngay lúc này đây, Clarice có thể làm bất cứ điều gì cho ông. Đó là một phần thiên tư của Crawford.
2
Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên Smithsonian của Washington, đã đóng cửa từ nhiều giờ rồi, nhưng một người bảo vệ vẫn đứng chờ Clarice ở ngay cửa vì Crawford đã điện báo trước.
Tòa nhà được chiếu sáng mờ ảo và bất động một cách kỳ lạ. Không gian chỉ có hình bóng to lớn của bức tượng, đứng đối diện với cửa ra vào.
Người hướng dẫn Clarice, một người da đen cao lớn, mặc đồng phục bảo vệ trắng tinh của Smithsonian. Khi anh ta ngước mặt lên ánh đèn thang máy, Clarice nhận thấy mặt anh ta rất giống với bức tượng. Ý nghĩ phù phiếm này khiến cô thư giãn đôi chút, giống như xoa bóp một cơn chuột rút vậy.
Tầng thứ hai, ngay trên một con voi to lớn trắng được nhồi bông, bị hạn chế với công chúng, là văn phòng của nhân chủng học và côn trùng học. Các chuyên gia nhân chủng học gọi đây là tầng ba, còn đối với những người bên côn trùng học thì đây chỉ là tầng hai. Vài bác học thuộc ban nông nghiệp nói họ có bằng chứng đây là tầng năm. Mỗi bộ phận sử dụng một phần của tòa nhà cũ kỹ cùng các phần phụ thuộc và phần được chia.
Clarice bước theo người hướng dẫn trong một mê cung hành lang không được sáng cho lắm, giữa các thùng gỗ đầy những mẫu vật thuộc nhân chủng học. Trên các nhãn nhỏ có ghi rõ những thứ được chứa đựng trong đó.
- Có hàng ngàn người trong các thùng đó - người bảo vệ cho biết - Bốn mươi ngàn mẫu vật.
Trong lúc bước tới, anh ta dùng cây đèn pin để rọi các số phòng làm việc và cho ánh đèn chạy dài trên các nhãn.
Các dụng cụ mang trẻ con và sọ của người Dayak nhường chỗ cho loài rệp và rời khỏi địa phận Con Người để bước qua một thế giới xưa và có trật tự hơn của loài Côn Trùng. Bây giờ trên tường treo đầy những hộp kim loại lớn được sơn màu xanh lá lợt.
- Ba mươi triệu côn trùng, cộng thêm các loài nhện. Nhưng cô không được gom chúng với nhau - người bảo vệ dặn cô - Các chuyên gia về nhện sẽ không bao giờ tha thứ cho cô đâu. Đây rồi, ngay tại văn phòng có đèn đấy. Nhưng cô đừng có ý định ra về một mình nghe không. Nếu họ không đưa cô về, cô hãy gọi số này đây, đó là phòng bảo vệ, tôi sẽ đến rước cô. - Nói xong anh ta chìa một tấm danh thiếp và bỏ đi.
Cô đang ở ngay trung tâm của bộ phận côn trùng học, trong một hành lang hình tròn, nằm rất cao trên con voi được nhồi bông. Chỉ có văn phòng đèn sáng mới mở cửa.
- Đến phiên mày, Pilch! - Giọng một người đàn ông bị kích thích la lên. - Đến lượt mày đấy.
Clarice đứng ngay thềm cửa. Hai người đàn ông ngồi tại một bàn thí nghiệm đang đánh cờ vua. Khoảng ba mươi, một người gầy tóc nâu, người kia tròn trịa với mớ tóc hung thật dày. Họ chú tâm vào bàn cờ và hình như không nhận thấy sự hiện diện của Clarice. Kể cả của con bọ hung có sừng thật to đang, bò giữa các con cờ.
Khi con vật bò đến bờ của bàn cờ, người gầy thốt lên:
- Đến lượt mày đó Roden!
Người tròn trịa cho con tượng tiến tới và xoay đầu con bọ hung lại để cho nó bò về hướng kia.
- Nếu con vật bò đến ngay góc thì có như thế không?
- Đương nhiên rồi - người tóc hung thốt lên mà không thèm nhìn cô. - Thế cô chơi theo cách nào vậy? Cô cho nó bò qua hết bàn cờ à? Thế đối thủ của cô là ai vậy, một tên lười biếng có phải không?
- Tôi mang một mẫu côn trùng đến như ông thanh tra Crawford đã gọi điện trước đây.
- Tôi không hiểu tại sao chúng tôi không nghe tiếng còi hụ - người tròn trịa đáp lại - Người ta bắt chúng tôi chờ suốt cả đêm để nhận dạng một con côn trùng cho FBI. Côn trùng là lãnh địa của chúng tôi. Không có ai nói đến mẫu của ông thanh tra Crawford cả. Ông ta nên đưa cái mẫu của ông ta cho bác sĩ của ông ta. Đến phiên mày Pilch!
- Lần khác có thể tôi thích xem hai anh đánh cờ đấy - Clarice nói - nhưng đây là một vụ cấp bách.
- Đến lượt anh Pilch!
Người tóc nâu xoay đầu qua nhìn, thấy cô đang đứng tựa vào thành cửa, tay cầm cặp đựng hồ sơ. Anh liền bỏ con bọ hung vào trong một cái hộp có đựng gỗ mục và phủ lên mình nó một lá cải.
Khi anh ta đứng lên cô mới thấy anh ta rất cao.
- Tôi tên Noble Pilcher - anh ta nói - Còn thằng này là Albert Roden. Cô cần nhận diện một con côn trùng phải không? Sẵn sàng phục vụ cô - Khuôn mặt của anh ta thật thân thiện, nhưng có một chút gì đó đáng ngại trong đôi mắt đen tuyền và quá sát gần nhau, có thể một con hơi lé, phản chiếu ánh sáng hơi khác lạ. Anh ta không đưa tay ra bắt. - Cô là...?
- Clarice Starling.
- Bây giờ hãy xem coi cô đem đến cho chúng tôi cái gì đây.
Roden tiến lại gần để nhìn.
- Cô tìm thấy nó ở đâu vậy? Cô đã giết nó bằng khẩu súng của cô rồi phải không? Cô có thấy mẹ của nó không?
Clarice tự nhủ tên Roden này đáng nhận một quả đấm vào ngay hàm mới được.
- Thôi đi - Pilcher nói xen vào - Cô nói cho chúng tôi biết cô tìm thấy nó ở đâu. Nó được đính vào cái gì, một nhánh cây hoặc trên một cái lá, hay nó nằm ngay dưới đất?
- Thì ra chưa ai báo gì cho các anh sao?
- Ông giám đốc có yêu cầu chúng tôi ở lại sau giờ đóng cửa để nhận dạng một con côn trùng cho FBI.
- Có bảo chúng tôi, không có yêu cầu - Roden chỉnh lại - Ông ta bảo chúng tôi ở lại sau giờ đóng cửa.
- Điều này thường xảy ra với chúng tôi - Pilcher nói tiếp - Cho Hải quan hoặc Bộ Nông nghiệp.
- Nhưng chưa bao giờ đến lúc nửa đêm như thế này - Roden nhấn mạnh.
- Tôi phải tiết lộ cho các anh vài điều về một vụ án mạng. Tôi chỉ có thể nói cho các anh biết với điều kiện các anh không được tiết lộ gì hết trước khi nó được giải quyết. Rất quan trọng đây. Có liên quan đến rất nhiều mạng người. Thế thưa bác sĩ Roden, anh có thể hứa với tôi rằng anh sẽ giữ im lặng không?
- Tôi không phải là bác sĩ. Tôi có phải ký một văn hiện gì không?
- Không cần. Lời hứa của anh cũng đủ rồi. Anh chỉ cần ký cho tôi một biên nhận nếu anh muốn giữ mẫu vật này.
- Dĩ nhiên tôi sẽ giúp cô. Tôi không cần biết.
- Còn bác sĩ Pilcher?
- Đúng vậy. Anh ta không cần biết.
- Tôi có thể tin nơi anh chứ?
- Tôi sẽ không nói gì cả.
- Pilcher và tôi không phải là bác sĩ. Nói về bằng cấp, chúng tôi ngang nhau. Nhưng cô nhận thấy là anh ta để cho cô gọi anh ta là bác sĩ - Roden chống ngón cái vào cằm như muốn nhấn mạnh nét nghiêm túc của mình - Cô hãy cho chúng tôi tất cả các chi tiết. Cái cô nghĩ không quan trọng có thể là trọng yếu đối với một chuyên gia.
- Con vật này được tìm thấy trong cuống họng của một phụ nữ bị sát hại... Tôi không biết tại sao. Người ta tìm thấy thi hài ở con sông Elk, Virginie; cô ta chết cách đây vài ngày.
- Chính là Buffalo Bill, tôi có nghe trên đài - Roden nói.
- Người ta có nói đến con côn trùng không?
- Không, nhưng người ta nói tại con sông Elk. Cô đến từ đó, nên đến trễ phải không?
- Đúng.
- Chắc cô mệt lắm rồi. Cô có muốn một tách cà phê không? - Roden đề nghị.
- Không, cám ơn.
- Một ly nước vậy?
- Không mà.
- Hay một lon Coca?
- Không gì hết, cám ơn. Chúng tôi muốn biết người phụ nữ đó bị nhốt ở đâu và bị giết chết tại đâu. Chúng tôi hy vọng con côn trùng này có một kiểu cư trú đặc trưng, hoặc hạn chế về mặt địa lý, các anh hiểu không, chúng tôi muốn biết nó đến từ đâu. Tôi xin các anh giữ mật, bởi vì nếu tên sát nhân đã cố ý đặt con côn trùng tại nơi chúng tôi tìm thấy, thì chỉ một mình hắn biết sự kiện này và chúng tôi dùng nó để loại bỏ những lời thú tội sai trái của hắn ta làm cho chúng tôi mất thời giờ. Hắn đã giết chết ít nhất là sáu phụ nữ, nên chúng tôi phải đua với thời gian.
- Cô có nghĩ hiện giờ hắn đang giữ một người phụ nữ khác trong khi chúng ta đang xem xét con côn trùng này không? - Roden hỏi. - Mắt anh ta trợn trừng và cái miệng há hốc, đến mức cô có thể nhìn thấy bên trong, gợi cho cô một kỷ niệm mới đây.
- Tôi không biết nữa - Giọng cô hơi chói tai - Tôi không biết nữa, - cô lặp lại câu nói ít cảm xúc hơn. - Hắn sẽ bắt đầu lại khi có thể.
- Nếu vậy, chúng ta phải bắt tay cho mau mới được - Pilcher tuyên bố - Cô đừng lo, chúng tôi biết công việc mình phải làm mà. Cô đang ở trong tay những người đáng tin cậy đấy.
Nói xong anh ta dùng cây kẹp dài để lấy cái vật màu nâu ra khỏi cái lọ và để nó xuống một tờ giấy trắng dưới ánh đèn. Anh ta kéo một cái kính lúp thật lớn được gắn trên một tay di động.
Con côn trùng với thân hình dài giống một xác ướp. Một vỏ bọc gần trong suốt mà các đường viền làm cho người ta nghĩ đến một quan tài. Các phần phụ còn đính với thân, có vẻ như được khắc vậy. Cái mặt nhỏ xíu của nó đượm một chút gì đó khôn ngoan.
- Trước hết, đây không phải là một con vật mà trong lúc bình thường, lại chui vào trong một xác chết, và nó không thuộc loại sống trong nước - Pilcher nói - Tôi không biết cô có hiểu chút ít gì về côn trùng không, và nếu cô muốn, chúng tôi cho cô biết tất cả các chi tiết.
- Các anh cứ nghĩ tôi chưa biết gì hết. Hãy cho tôi biết tất cả đi.
- Đồng ý. Đây là một con nhộng loại sâu bọ hai cánh, một con vật chưa thành thục trong cái kén của nó - cái kén chứa đựng nó trong khi nó biến đổi từ ấu trùng thành một con vật trưởng thành - Pilcher giải thích.
- Một cái kén bằng kitin phải không Pilch? - Roden nhăn mũi để đưa cặp kính lên cao.
- Tôi nghĩ đúng vậy. Anh có muốn tham khảo cuốn CHU về các con vật chưa thành thục không? Tốt rồi, đây là loại nhộng trần của một loài lớn đấy. Phần lớn các con côn trùng tiến hóa đều phải trải qua giai đoạn nhộng này. Rất nhiều loài trong số đó phải qua mùa đông như thế này.
- Quyển sách hay kính lúp Pilcher?
- Kính lúp. - Pilcher đặt mẫu vật trên mặt của kính hiển vi và cúi người xuống với que thông trên tay. - Chúng ta bắt đầu: không có cơ quan hô hấp rõ rệt trên vùng bụng và lưng, có lỗ thở ngay ngực giữa và bụng; chúng ta hãy bắt đầu với cái này.
- Coi naaàooo - Roden thì thầm trong khi lật các trang của quyển sách nhỏ - Có hàm chuyên dùng không?
- Không.
- Có hai mảnh ngoài hàm, trên vùng trước bụng không?
- Có, có.
- Râu nằm ở đâu?
- Giáp với bờ trên của cánh. Hai cặp cánh, cái trong bị che phủ hoàn toàn. Chỉ ba đoạn bụng dưới là ở ngoài. Có mấy cơ bìu nhỏ và nhọn, chắc là một loại của họ bộ cánh phấn.
- Đó là những gì quyển CHU cho biết - Roden xác nhận.
- Đây là họ bươm bướm - Pilcher cắt nghĩa - Người ta có thể tìm thấy khắp nơi.
- Sẽ không dễ nếu các cánh vẫn còn ướt. Tôi phải đi tìm sách mới được. Tôi nghĩ chắc không thể ngăn quý vị nói về tôi trong lúc tôi không có mặt.
- Tôi cũng nghĩ như thế - Pilcher đáp lại - Roden là một con người được lắm - anh nói với Clarice, ngay khi người bạn anh ta bước ra khỏi phòng.
- Tôi không nghi ngờ điều dó.
- Thật đấy. - Pilcher có vẻ vui thích - Chúng tôi học chung với nhau; trong thời đại học chúng tôi làm tất cả những việc lặt vặt mà chúng tôi có thể tìm được. Roden tìm được một việc mà anh ta phải ở dưới một mỏ than để canh chừng sự phân rã prôton. Chỉ có điều anh ta ở trong tối quá lâu. Nhưng anh ta khỏe lắm. Với điều kiện là không ai đề cập đến prôton cả.
- Tôi sẽ cố tránh đề tài đó.
Pilcher rời xa vùng ánh sáng chói chang.
- Họ bộ cánh phấn là một họ lớn lắm đấy. Có khoảng ba mươi ngàn loại bươm bướm ngày và một trăm ba mươi ngàn loại đêm. Tôi muốn rút nó ra khỏi cái kén quá đi, buộc phải vậy thôi để thu hẹp phạm vi điều tra.
- Đồng ý. Nhưng anh có thể lấy ra mà không làm hư không?
- Tôi nghĩ là được. Cô hãy nhìn đi, nó bắt đầu muốn chui ra ngoài trước khi chết. Có một vết rách không đều trên cái kén, đây này. Chắc phải mất một ít thời gian.
Pilcher xé cho lớn cái vết rách tự nhiên và thật nhẹ nhàng lôi con côn trùng ra. Hai cánh, còn dính với thân hình, và ướt mèm. Trải hai cánh ra cũng khó như trải một khăn giấy Kleenex ướt được vò thành cục. Không có hình vẽ gì rõ rệt cả.
Roden đã trở lại với mấy quyển sách trên tay.
- Sẵn sàng chưa? - Pilcher hỏi - Tốt lắm. Xương đùi của đốt đầu ở ngực bị che khuất.
- Còn lông thì sao?
- Không có lông. Cô làm ơn tắt ngọn đèn đó được không, cô Starling?
Cô đứng cạnh cái công tắc trên tường, chờ Pilcher bật sang cây bút pin của anh ta và đưa nó ra xa cái bàn để chiếu thẳng vào con vật. Mắt của con côn trùng sáng lên trong bóng tối, phản chiếu lại tia sáng nhỏ bé.
- Một con bướm đêm - Roden lên tiếng.
- Có thể lắm, nhưng là loại nào đây? Nhờ cô bật đèn lại giùm. Đây là loại ngài đêm, cô Starling, một con bướm đêm - Thế có bao nhiêu loại ngài đêm vậy Roden?
- Hai ngàn sáu trăm… và tất cả được mô tả.
- Thường chúng không lớn như thế này. Tốt rồi. Bây giờ hãy cho chúng tôi xem anh biết làm gì đây, anh bạn già của tôi!
Đầu tóc bù xù của Roden bao phủ cái kính hiển vi.
- Bây giờ chúng ta phải xem xét lớp da của nó để tìm được chủng loại, về mặt này, Roden tài lắm.
Clarice có cảm tưởng không khí bây giờ có chút gì đó hòa nhã hơn.
Roden phản ứng lại bằng một cuộc tranh luận thật hăng say với Pilcher về cách bố trí các cục u của thời ấu trùng trên con vật mẫu, có được xếp thành hình tròn hay không. Và cuộc tranh luận trở nên sóng gió khi đề cập đến sự hiện diện của lông trên bụng.
- Con Erebus odora - cuối cùng Roden kết luận.
- Chúng ta hãy đi kiểm tra xem - Pilcher nói.
Mang con vật mẫu theo, họ dùng thang máy xuống tầng có con voi trắng và bước vào một phòng tứ giác chứa đầy hộp màu xanh lá. Đây là một hành lang rộng lớn được chia thành hai tầng để có thể tạo đủ chỗ cho loại côn trùng của viên Smithsonian. Họ bước đến chỗ dành cho bướm đêm. Pilcher coi lại các ghi chú của mình và dừng lại ngay trước một cái hộp cao khoảng một mét rưỡi.
- Chúng ta phải thật cẩn thận với những thứ này - anh ta nói trong lúc tháo cánh cửa nặng bằng kim loại để đặt nó xuống đất - Nếu chẳng may nó rớt xuống chân thì không thể nào đặt chân xuống đất trong nhiều tuần lễ đấy.
Anh ta cho ngón tay trỏ chạy trên các ngăn tủ, rồi chọn một cái và kéo nó ra.
Clarice nhìn thấy nhiều trứng bé nhỏ và một cái kén trong một ống đựng đầy cồn và một con côn trùng trưởng thành làm mẫu. Một con bướm lớn màu nâu đậm, thân hình lông lá, hai cái râu mảnh mai, có chiều ngang khoảng mười lăm phân.
- Con Erebus odora đây rồi - Pilcher nói - Con phù thủy đen.
Roden lật vài trang.
- Một loại của miền nhiệt đới, mà khi đến mùa thu, đi ngược lên tận Canada - anh ta đọc.
Ấu trùng sống trên cây keo và những loại cây tương tự. Có nguồn gốc từ đảo Ăng ti và miền nam Hoa Kỳ, được xem là có hại tại Hawaii.
Mẹ kiếp, Clarice thầm chửi.
- Thật điên rồ - cô nói lớn tiếng - Nó được tìm thấy ở khắp mọi nơi sao!
- Đợi một chút coi... đúng, ở miền cực nam Florida và miền nam Texas.
- Khi nào?
- Vào tháng năm và tháng tám.
- Coi nào... cái mẫu của cô phát triển nhiều hơn cái của chúng tôi và rất mới. Nó bắt đầu xé rách cái kén để chui ra. Tại quần đảo Ăng ti và Hawaii thì tôi có thể hiểu được, nhưng tại đây đang là mùa đông. Đáng lý nó còn phải chờ thêm ba tháng mới có thể bay được. Trừ phi việc đó xảy ra tình cờ trong một nhà kính, hoặc có ai đó nuôi nó.
- Nuôi bằng cách nào?
- Trong một cái lồng trong không khí nóng với lá keo để cho ấu trùng có đủ thời gian tạo thành kén. Không khó chút nào.
- Đó là cách tiêu khiển phổ biến không? Ngoài những người chuyên nghiệp, có nhiều người khác làm như thế không?
- Không, chỉ duy nhất các nhà côn trùng học đang cố thu được những con hoàn hảo, có thể vài nhà sưu tầm nào đó. Ngoài ra còn có công nghiệp tơ lụa, họ cũng nuôi loại bướm đêm, nhưng không phải là loại này.
- Chắc phải có loại sách chuyên môn và các hội đoàn bán trang thiết bị chứ!
- Đương nhiên và chúng tôi nhận được phần lớn là các ấn phẩm đó.
- Tôi sẽ soạn cho cô một mớ - Roden nói - Hai hay ba đồng nghiệp của tôi có đặt mua dài hạn loại ấn phẩm đó. Họ khóa chúng trong tủ và ai muốn xem qua đều phải trả hai mươi lăm xu. Với những người này, chúng ta phải chờ đến sáng mai.
- Tôi sẽ cho người đến lấy, xin cám ơn, anh Roden.
Pilcher cho chụp lại các tham khảo liên quan đến con Erebus odora và đưa cho cô cùng con vật.
- Tôi sẽ đưa cô xuống dưới.
Họ đứng chờ thang máy.
- Phần nhiều, người ta thích bươm bướm ngày hơn và ghét loại bướm đêm - anh cho biết. Nhưng những con này lại... lý thú hơn, đáng chú ý hơn.
- Và cũng tàn phá hơn.
- Chỉ vài loại, có thể là nhiều hơn, nhưng chúng có nhiều cách sống khác nhau. Như chúng ta vậy. - Im lặng suốt một tầng lầu - Có một loài - đúng ra là hơn một - chỉ sống nhờ nước mắt mà thôi. Chúng chỉ ăn và uống nước mắt, không gì khác hết.
- Loại nước mắt gì? Nước mắt của ai vậy?
- Của loài động vật có vú to xác. Như chúng ta vậy - Hồi xưa, bất cứ thứ gì thuộc về đêm đều được xem là ác hại... Đây là công việc chính của cô sao, việc truy lùng Buffalo Bill đấy?
- Tôi cố hết sức mình.
Pilcher đưa lưỡi liếm môi, giống như con mèo chui xuống cái mền vậy.
- Cô có khi nào ra ngoài để ăn một cái bánh mì kẹp pho mát và uống một chai bia, hoặc một ly rượu vang ngon không?
- Những lúc sau này thì không.
- Cô nghĩ sao nếu tôi mời cô đi uống một ly gì đó với tôi ngay bây giờ? Có một quán nước không xa đây.
- Không được, nhưng chính tôi sẽ mời anh một khi công việc này kết thúc... đương nhiên là cả anh Roden nữa.
- Điều này không có vẻ gì là tự nhiên cả - Pilcher đáp lại - Và khi đến thềm nhà, anh nói tiếp - Tôi hy vọng cô sớm kết thúc vụ này, cô Starling.
Cô hối hả bước đến chiếc xe đang chờ cô.
Clarice thấy thư tín và nửa thanh sôcôla trên giường mình. Ardelia Mapp đã ngủ rồi.
Cô đem máy đánh chữ xuống hầm giặt quần áo, để một tờ giấy trắng có giấy than vào trong máy. Cô đã sắp xếp lại trong đầu các thông tin về con Erebus odora trên đường về Quantico, và ngay lúc này cô thảo thật nhanh bản báo cáo của mình.
Sau đó cô ăn phần sôcôla và viết một tin ngắn cho Crawford đề nghị ông đối chiếu các danh sách những người đặt mua các ấn phẩm về côn trùng học của những thành phố gần nơi xảy ra các vụ bắt cóc, với những kẻ phạm tội của FBI cộng thêm hồ sơ của các tên tội phạm về tính dục của Metro Dade, San Antonio và Houston, nơi mà loài bướm đêm rất dễ tìm.
Còn một việc quan trọng cô không thể quên là: hỏi Lecter tại sao ông ta nghĩ tên sát nhân bắt đầu lột da đầu các nạn nhân.
Cô trao bản báo cáo cho người bảo vệ đêm và đi ngủ trong khi vẫn nghe thì thầm các giọng nói của suốt ngày nay và hơi thở nhẹ nhàng của Ardelia. Trong sự lúc nhúc của những hình ảnh trong đêm tối, cô thấy cái khuôn mặt nhỏ bé thật khôn ngoan của con bướm đêm. Đôi mắt như phát sáng này đã nhìn thấy được mặt của Buffalo Bill.
Ngoài hình dáng khôi hài mà viện Smithsonian luôn để lại, trong đầu cô xuất hiện cái ý nghĩ cuối cùng, đoạn kết của ngày làm việc: Trong cái thế giới lạ lùng này, phân nửa cái thế giới hiện tại đang chìm trong bóng đêm, tôi phải truy tìm một vật gì đó sống bằng nước mắt.
3
Tại Memphis, bang Tennessee, Catherine và bạn trai của cô đang ngồi trong nhà của anh chàng, xem chương trình tivi và hút vài hơi cần sa. Các đoạn quảng cáo càng lúc càng nhiều hơn.
- Em hơi đói đây, anh có muốn em đi lấy bắp rang không? - cô hỏi.
- Để anh đi cho, đưa chìa khóa đây.
- Anh ngồi yên đó. Bằng mọi cách em phải kiểm tra xem mẹ có gọi không đã.
Catherine Baker Martin đứng lên khỏi cái đi văng. Cô là một thiếu nữ cao lớn, thể tạng rất tốt, da thịt rắn chắc, với khuôn mặt đẹp và tóc thật dày. Cô tìm đôi giày dưới cái bàn thấp và ra khỏi nhà.
Cái đêm tháng Hai này ẩm và lạnh hơn. Một ít sương mù đến từ sông Mississipi, trôi bồng bềnh ngang tầm người trên bãi đậu xe rộng lớn. Tại điểm cao nhất trên đường chân trời, cô thấy một vầng trăng lưỡi liềm nhỏ bé, nhợt nhạt và cong như một lưỡi câu bằng xương. Ngước đầu lên để nhìn như thế làm cho cô choáng váng. Cô bước ra bãi đậu xe, đi về cánh cửa nhà cô cách đó khoảng một trăm thước.
Một chiếc xe tải màu nâu đậu gần đấy, giữa các xe cắm trại và các rờ moọc tàu. Cô để ý đến nó vì giống các xe giao hàng thường đem các thùng quà biếu của mẹ cô.
Lúc cô đi ngang qua đó, một ánh đèn được bật sáng trong sương mù… Trên mặt đường, có một chân đèn có chụp, chiếu sáng một ghế bành được bọc bằng vải có in hình bông hoa đỏ thật lớn, giống như chúng vừa mới nở trong sương mù.
Catherine nháy mắt nhiều cái và tiếp tục bước đi. Nó có vẻ siêu thực quá, cô nghĩ có thể là do cỏ mà ra. Nhưng hình ảnh đó vẫn cứ kéo dài. Chắc một người nào đó đang dọn nhà đến. Hoặc dọn đi không chừng. Có nhiều người làm như thế tại Khu Biệt Thự Stonehinge. Bức rèm nhúc nhích và cô thấy con mèo của cô đang cong lưng, cọ mình vào kính cửa sổ.
Ngay lúc cô muốn đút chìa vào trong ổ khóa, cô xoay đầu lại. Một người đàn ông bước xuống từ phía sau xe. Trong ánh đèn, cô thấy một cánh tay gã bị băng bột và treo trên băng chéo. Cô vào trong nhà và đóng cửa lại.
Catherine vén màn cửa sổ nhìn ra; người đàn ông đó cố kéo chiếc ghế bành lên xe tải. Gã giữ nó bằng cánh tay lành lặn và cố nhấc cái ghế lên bằng cái đầu gối. Cái ghế rớt xuống. Gã đứng lên và chùi ngón tay dính đất vào quần.
Cô bước trở ra.
- Để tôi giúp ông một tay - Cô nói bằng một giọng ân cần.
- Thật thế sao? Xin cảm ơn - Một giọng hết sức căng thẳng. Không phải giọng của dân địa phương.
Ánh đèn chiếu sáng phần dưới mặt gã, làm biến dạng các nét, nhưng cô thấy rất rõ thân hình của gã. Gã mặc quần kaki được ủi thẳng và một loại áo da nai được mở rộng trước ngực đầy tàn nhang. Cằm và gò má hoàn toàn trơ trụi, láng như da của đàn bà vậy; hai mắt chỉ là hai điểm long lanh trong vùng tối của gò má.
Gã nhìn cô chăm chăm và điều này làm cô bối rối. Khi cô bước lại gần họ, nhiều khi cánh đàn ông phải ngạc nhiên vì thân hình của cô và có người che giấu phản ứng của mình hay hơn người khác.
- Tốt lắm - Gã nói.
Người gã thoát ra một mùi vô cùng khó chịu và cô nhận thấy trên áo gã dính đầy lông, mà vài sợi trên vai và ở cánh tay đều quăn.
Họ dễ dàng khiêng cái ghế lên sàn của chiếc xe tải.
- Chúng ta hãy đẩy nó về phía trước, cô nhé! - Gã leo vào bên trong để dịch chuyển vài món đồ, vài cái chậu lớn người ta thường dùng để thay nhớt xe và một cái tời nhỏ quay tay.
Họ đẩy cái ghế bành đến sát các băng ghế.
- Quần áo cô mặc là cỡ bốn mươi bốn phải không? - Gã hỏi.
- Xin lỗi, ông muốn nói gì?
- Cô có thể đưa cho tôi cuộn dây thừng được không? Ngay dưới chân cô đó.
Khi cô vừa khom người xuống, gã đập vào ót cô bằng cánh tay băng bột. Cô tưởng mình vừa đụng đầu, và cánh tay bó bột đó đập một lần nữa. Gã tiếp tục đánh, lần này ngay phía sau lỗ tai, nhưng không mạnh lắm, cho đến khi cô té nhào trên cái ghế bành, lăn xuống sàn xe và nằm bất tỉnh.
Người đàn ông đứng canh cô một lúc, sau đó tháo miếng băng bột và cái khăn chéo ra. Hắn nhanh chóng thu hồi cái đèn và đóng cánh cửa sau xe lại.
Hắn xoay người Catherine lại và với ngọn đèn pin nhìn số của chiếc áo cánh.
- Hay lắm, hắn thốt lên.
Hắn cắt đôi cái áo ở phía sau lưng bằng kéo y khoa và lấy cái áo ra, kế đến còng hai tay cô ra sau lưng. Hắn trải một bấm bạt xuống sàn xe và quấn nó quanh người cô.
Cô không mặc áo lót. Hắn dùng ngón tay sờ nắn hai vú to lớn của cô, để đánh giá sức nặng và độ mềm dẻo của chúng.
- Hay lắm.
Cô có một vết mút hồng ở ngay vú trái. Hắn liếm ngón tay mình để chà lên đó, giống như cách gã đã làm với cái ghế bành và gật đầu khi thấy cái vết đó từ từ biến mất. Hắn mới lật người cô lại và xem xét cái sọ bằng cách bới mớ tóc dày của cô. Miếng băng bột có nhồi bông không làm cho cô bị thương.
- Hhhaaay lllaắmm - hắn lặp lại. Hắn còn phải thực hiện một chuyến đi rất dài để về đến nhà và hắn nghĩ không cần phải băng cô ta lại.
Tại cửa sổ, con mèo của Catherine Baker Martin nhìn ánh đèn sau của chiếc xe xa dần.
Điện thoại reo lên phía sau nó. Trong phòng ngủ, máy trả lời ghi nhận cuộc gọi khi ngọn đèn báo đỏ nhỏ chớp tắt trong bóng tối,
Mẹ của Catherine vừa gọi và bà là thượng nghị sĩ của bang Tenessee, người trẻ nhất của Hoa Kỳ.