Nguyên tác: Der Steppenwolf
Số lần đọc/download: 3187 / 164
Cập nhật: 2016-02-26 01:31:21 +0700
Bút Ký Của Harry Haller
Dành riêng cho những Người điên
Ngày hôm nay đã trôi qua, như mọi ngày vẫn trôi qua; tôi đã kết liễu nó, đã nhẹ nhàng thủ tiêu nó bằng nghệ thuật sống tạm bợ và nhút nhát của tôi; tôi đã làm việc được vài giờ, tra cứu những quyển sách cổ; tôi bị một cơn đau hành hạ suốt hai tiếng đồng hồ, giống như những người luống tuổi vẫn phải chịu đựng thôi; tôi uống tí thuốc bột và mừng rõ vì đã đánh lừa được cơn đau, rồi đầm mình trong bồn nước nóng, để hơi ấm dễ chịu thấm vào người. Ba lần tôi ra nhận thư và đọc lướt qua mọi thư từ cùng ấn phẩm chẳng quan trọng này, sau đó luyện cách hô hấp, nhưng lười biếng nên hôm nay bỏ những bài tập về tư duy; tôi đã đi dạo một giờ, ngắm nhìn trên bầu trời hình dáng những áng mây tơ đẹp đẽ, mỏng mảnh, hiếm khi xuất hiện. Rất thú vị, giống như việc đọc những quyển sách cổ, như nằm trong bồn nước ấm, nhưng nói chung đó không hẳn là một ngày tuyệt vời, cũng chẳng được là một ngày chan hòa hạnh phúc và phới phới niềm vui, mà chỉ là một trong những ngày bình thường và quen thuộc với tôi từ lâu nay: những ngày thoải mái vừa phải, chịu đựng được, nhì nhằng, những ngày nhạt nhẽo của một kẻ luống tuổi bất đắc chí, những ngày tôi không bị đau nhức gì ghê gớm, không lo âu gì đặc biệt, không phiền não gì thật sự, không tuyệt vọng, những ngày mà ngay cả câu hỏi phải chăng đã đến lúc noi gương Adallbert Stifter 1 tử nạn trong lúc cạo râu, có thể được đem ra cân nhắc một cách khách quan và bình thản không chút căng thẳng sợ hãi.
Ai đã từng nếm trải những ngày khác, những ngày bị thảm với những cơn đau do chứng thống phong hoặc chứng nhức đầu tồi tệ bám rễ sau tròng mắt, như thế bị phù thủy quyệt trù ếm, khiến mọi hoạt động của mắt và tai bị biến từ niềm vui được nghe và được thấy thành cownd dau vò xe, hoặc những ngày tâm hồn lịm chết, những ngày khốn khổ tâm tư trống rỗng và tuyệt vọng, những ngày mà ngay trên Trái Đất bị hủy hoại và khai thác cạn kiệt bởi các hiệp hội cổ phần, chúng ta bị thế giới của con người cùng cái gọi là nền văn minh nham nhở ngạo nghễ cười nhạo báng và dai dẳng đeo đuổi trong cái vẻ hào nhoáng lọc lừa, đê tiện lẫn vô liêm sỉ kiểu chợ phiên của chúng, chẳng khác thứ thuốc dùng gây ói mửa, tập trung và thúc đẩy tới cai độ khiến Cái Tôi bệnh hoạn hết chịu đựng nổi - ai đã từng nếm trải những ngày địa ngục ấy sẽ rất hài lòng với những ngày bình thường hoặc làng nhàng không sự cố như ngày hôm nay; y sẽ ngồi bên lò sưởi ấm áp với lòng biết ơn, y sẽ đọc tờ báo buổi sáng và ghi nhận cũng với lòng biết ơn rằng thêm một ngày đã qua mà vẫn chưa nổ ra cuộc chiến tranh mới nào, không xuất hiện thêm một chế độ độc tài nào, không có thêm vụ những lạm trắng trợn nào trong chính trường và kinh tế bị phanh phui; y sẽ biết ơn nắn dây cây đàn thất huyền gỉ sét của mình tấu một bài thánh vịnh hòa nhã, âm hưởng nghe có phần hoan hỉ thú vị; với tấu khúc này y làm cho vị thần Toại nguyện nửa dơi nửa chuột - vốn trầm lặng, hòa nhã, thường khật khừ do tác dụng của thứ thuốc có chất Brom - đâm ra ngán ngẩm, và trong bầu không khí đậm đặc nhàm chán làm y hài lòng ấy, trong tình trạng không bị cơn đau nào hành hạ làm y thấy vô cùng biết ơn ấy, cả hai - vị thần nửa dơi nửa chuột ngủ gật nom phát chán và gã người nủa dơi nửa chuột tóc hoa râm ngân nga bài thánh vịnh - trông y hệt như anh em sinh đôi.
Quả là một điều tuyệt vời khi tâm hồn thư thái, cơ thể không đau đớn, với những ngày ngoan ngoãn dễ chịu này, khi chẳng cơn đau hay dục vọng nào dám lên tiếng kêu ca, mà tất cả chỉ thoảng qua như lời thì thào, như bước chân rón rén. Chỉ tiếc rằng tôi lại không chịu nổi chính tâm trạng hài lòng này, khiến ít lâu sau tôi đâm ra thù ghét lẫn kinh tởm nó thậm tệ và tôi phải tuyệt vọng chạy trốn vào những nhiệt độ khác, bằng cách đi tìm khoái cảm, và nếu cần, đi tìm cả cảm giác đớn đau. Cứ ít lâu sau khi phải sống thiếu vắng cảm giác hoạn lạc hay đau đớn, phải chịu đựng hít thở không khí vô vị nhạt nhẽo của những ngày gọi là tốt đẹp ấy, tôi liềm cảm thấy đau đớn và khốn khổ trong tâm hồn mãi còn thơ dại của mình, đến nỗi cầm cây đàn han gỉ từng dùng tấu khúc tri ân quẳng vào gương mặt đắc ý của vị thần Toại nguyện nửa dơi nửa chuột còn ngái ngủ, vì tôi thấy thà nóng bỏng vì cơn đau quặn quái quỷ trong ruột gan còn hơn phải chịu đựng thứ nhiệt độ được điều hòa rất dễ chịu này. Thế rồi trong lòng tôi bừng bừng nỗi khao khát man dại những cảm giác mạnh, những chuyện giật gân, bừng bừng nỗi căm ghét nếp sống không sinh khí, nhạt nhẽo, khuôn phép, cằn cỗi này, và tiếp đó là cơn điên cuồng ham muốn đập phá tan hoang gì đấy, chẳng hạn một siêu thị, một ngôi giáo đường hoặc chính tôi, muốn làm những chuyện ngu xuẩn ngông cuồng, chẳng hạn giật phăng mái tóc giả của vài thần tượng đang được suy tôn, cung cấp cho dăm ba chú nhóc học sinh nổi loạn những tấm vé đi Hamburg mà chúng khao khát, dụ dỗ một cô bé hoặc vặn cổ vài kẻ đại diện cho thứ trật tự của thế giới trưởng giả. Vì điều tôi thù ghét, kinh tởm và nguyền rủa một cách sâu sắc nhất trong tất cả mọi thứ là: tâm trạng mãn nguyện này, thế chất này, cuộc sống tiện nghi thoải mái, thói lạc quan được duy trì của giới thị dân, việc chăm chút vun bồi để những gì xoàng xĩnh, bình thường, ở mức trung bình được phát triển tràn lan.
Tôi kết thúc cái ngày tầm thường tàm tạm này trong tâm trạng như thế khi bóng đêm vừa xuống. Tôi không kết thúc nó theo cách bình thường và thoải mái cho một người hứng chịu đôi chút khổ đau bằng cách chui tọt vào chiếc giường có sẵn túi chườm nước nóng như một thứ mồi đang chờ đợi, mà bằng cách chán ngán và ghê tởm trước kết quả nhỏ nhoi của cả một ngày lao tâm khổ tứ, bực bội xỏ giày, khoác măng tô, đi vào phố bóng đên và sương mù, tới quán Mũ Sắt uống thứ mà dân nhậu gọi là "một ly vang nhỏ" theo tập quán xưa.
Thế là tôi từ căn phòng trên gác xép bước xuống cầu thang, những bậc thang khó leo của cái thế giới xa lạ, những bậc thang được lau chùi sạch sẽ, hoàn toàn theo kiểu cách trưởng giả của một ngôi nhà gồm ba hộ trông bề thế, mà trên tầng sát mái là nơi ẩn dật của tôi. Tôi không rõ sao lại như thế, nhưng tôi, con sói thảo nguyên sống tha hương và là một con người cô độc, một kẻ thù ghét cái thế giới tiểu tư sản, lại sống trong những ngôi nhà của tầng lớp trưởng giả chính cống, đó là một thoái đa cảm thâm căn cố đế của tôi. Tôi không sống trong các lâu đài hoặc những ngôi nhà của lớp người cùng khổ, mà chỉ toàn trong những cái ổ tiểu tư sản rất mực đàng hoàng, rất mực nhàm chán, chăm chút không chê vào đâu được, nơi thoảng mùi dầu nhựa thông với chút xà phòng, và sẽ giật mình nếu lỡ để cửa sập quá mạnh vào ổ khóa hoặc đi giầy bẩn vào nhà. Hiển nhiên tôi yêu bầu không khí này từ thời thơ ấu và nỗi khát khao thầm kín của tôi về thứ gì như thế quê hương toàn đưa đẩy tôi ngớ ngẩn tìm về những lối cũ đường xưa, không cưỡng lại được. Ấy, mà tôi cũng thích sự tương phản giữa cuộc sống của tôi - thiếu vắng tình cảm và căng thẳng nội tâm, một cuộc sống hoàn toàn vô trật tự - với cái môi trường trưởng giả và lấy gia đình làm trọng ấy. Tôi thích ngồi trên bậc thang hít thở cái mùi toát ra từ một thế giới yên ắng, ngăn nắp, sạch sẽ, tử tế và thuần tính; mặc dù tôi ghét sự trưởng giả, nhưng cái mùi này luôn phảng phất chút gì khiến tôi xúc động, và tôi thích sau đó bước qua ngưỡng cửa phòng mình, nơi không còn mọi thứ kia nữa, nơi những mẩu thuốc lá và những vỏ chai vang nằm lăn lóc giữa các chồng sách, nơi mọi thức đều bừa bộn, lạc lõng, không được ngó ngàng, và nơi mọi thứ - sách vở, bản thảo, những ý tưởng - đều ghi dấu và nói lên tâm trạng cùng quẫn của những kẻ cô đơn, về toàn bộ vấn đề đặt ra cho cuộc sống con người, niềm mong mỏi tìm được một ý nghĩa mới cho kiếp nhân sinh nay đã trở thành vô nghĩa.
Thế rồi tôi đi qua chỗ để cây bách tán. Nói cho chính xác thì nơi tầng một ngôi nhà này, cầu thang dẫn qua khoảnh hàng lang trước một căn hộ còn được lai chùi sạch sẽ hơn những căn hộ khác, chắc chắn thế, sạch sẽ hơn những căn hộ khác, chắc chắn thế, sạch sẽ không chê được, vì khoảnh hàng làn này toát lên một sự chăm chút phải nói là quá sức con người, nó là một ngôi đền nhỏ bé tỏa sách của sự ngăn nắp. Trên tấm sàn lát gỗ, mà người ta ngần ngại khi bước chân lên, có đặt hai cái bục xinh xinh, trên mỗi bục có một chậu cây to, một chậu đỗ quyên, chậu kia trồng cây bách tán khá lớn, non khỏe, cứng cáp, tuyệt vời hoàn hảo, ngay cả chiếc là hình kim cuối cùng trên cái cành cao nhất cũng ánh lên sự lau chùi thường xuyên. Đôi khi, biết không ai để ý, tôi vẫn dùng nơi này như mộ ngôi đền, tôi ngồi nghỉ chôc slats ở một bậc thang phía trên cây bách tán, chắp hai tay, trầm mặc nhìn xuống khoảnh vườn nhỏ của sự ngăn nắp được chăm chút đến mức làm nao lòng và khôi hài hiếm thấy khiến tâm hồn tôi chừng như xúc động. Tôi đoán rằng sua khoảnh hàng lang này, có thể gọi là trong bóng mát thiêng liêng của cây bách tán, có một căn hộ đầy bàn ghế bằng gỗ gụ sáng bóng và một nếp sống tử tế, mọi người biết chăm lo sức khỏe, dậy sớm, chu toàn bổn phận, những buổi họp mặt gia đình nhộn nhịp nhưng chừng mực, mỗi Chủ Nhật đều đi lễ nhà thờ và tối tối đi ngủ.
Làm ra vẻ tươi tỉnh, tôi bước đi trên mặt nhựa ẩm ướt của những con đường hẹp, những ngọn đền đường như ứa lệ và quấn khăn tang, phát ra những quần sáng nhòe nhoẹt xuyên qua làn không khí ẩm đục, lạnh lẽo, và hút vào thứ ánh sáng lờ đờ hắt lên từ mặt đường ướt át. Tôi chợt nhớ lại những năm tháng đã lãng quên thời trẻ - hồi ấy tôi từng yêu những buổi chiều ảm đạm và tối tăm vào cuối thui và suốt mùa đông như thế nào, tôi đã tham lam, mê mẩn thu hết vào tâm khảm toàn bộ ấn tượng về nỗi cô đơn và hội chứng u sầu, khi trùm chiếc măng tô, lang thang suốt nửa đêm, rảo bước qua vùng cây trụi lá trong mưa bão đầy đe dạo, ngày ấy tôi đã cô đơn rồi, nhưng lòng tột cùng thống khoái và trong đầy đầy những vần thơ, để rồi sau đó ngồi trên mép gường trong phòng mình, viết ra dưới ánh nến lung linh! Chà, chuyện ấy đã qua rồi, chén rượu kia đã uống cạn rồi và không có ai rót tiếp cho tôi nữa. Đáng tiếc chăng? Không đáng tiếc. Chẳng có lý do gì phải nuối tiếc những chuyện đã qua. Chỉ nên tiếc cho hiện tại và hôm nay, tiếc tất cả những giờ phút và tháng ngày tôi đã mất, nhiều vô kể; tôi mất vì phải trải qua những ngày giờ đó mà chẳng nhận thức điều gì mới hoặc không có sự cố nào làm tôi rung động tâm can. Nhưng đội ơn Chúa, cũng có những ngoại lệ; đôi khi, hiếm hoi thôi, có những giờ phút khác mang đến những rung động, mang đến những nhận thức mới, kéo sập những bức tường và đưa tôi, kẻ lạc đường, trở lại với trung tâm sinh động của thế gian. Buồn rầu nhưng trong tâm khảm tràn đầy khích lệ, tôi cố gắng nhớ lại biến cố cuối cùng thuộc loại này. Đó là tại một buổi hòa tấu, trình diễn loại âm nhạc cổ điển tuyệt vời, lúc ấy đang giữa hai nhịp của một nhạc khúc được các nhạc công sáo và kèn gỗ tấu lên nhẹ nhàng, thanh thoát, đột nhiên cánh cửa dẫn sang thế giới bên kia mở ra cho tôi, tôi bay lượn vòng khắp thiên đường và được mục kích Đức Chúa Trời đang làm công việc xây thế giới, tôi đau nỗi đau thần thánh và không chống cự lại gì nữa trên cõi nhân gian, không còn thấy sợ hãi điều gì nữa nơi trần thế, tôi đồng ý chấp nhận mọi chuyện, dâng hiến tim mình cho tất cả. Sự kiện này kéo dài không lâu, khoảng mười lăm phút thôi, nhưng đêm hôm ấy nó lại trở về trong giấc mơ, rồi từ đấy, vào những ngày lê thê, buồn tẻ, thỉnh thoảng tia sáng đó lại âm thầm lóe lên, đôi khi tôi thấy nó đi qua đời mình hàng phút rõ rệt như một dấu vết linh thiêng bằng vàng, hầu như luôn bị vùi sâu dưới bụi bặm và bùn nhơ, rồi lại lóe lên những tia óng ánh vàng, chừng như chẳng bao giờ tắt được, thế mà chỉ lát sau lại đã mất tăm. Có lần chuyện xảy ra giữa canh khuya, đang nằm thao thức chợt tôi thốt ra những vần thơ, nhưng vần thơ tuyệt hay và kỳ diệu, khiến tôi không dám nghĩ đến chuyện viết ra, sáng hôm sau tôi chẳng còn nhớ gì nữa, những thật ra chúng vẫn còn đâu đấy trong tôi như hạt hồ đào nặng trĩu nằm trong lớp vỏ khô giòn nứt nẻ. Lần khác tia sáng đến lúc tôi đang đọc một nhà thơ, đang suy ngẫm về một tư tưởng của Descartes, của Pascal 2, lần khác nữa nó lại tỏa sáng, rồi vạch một vệt bằng vàng lên trời cao, trong lúc tôi đang ở bênh cạnh người yêu dấu của mình. Chao ôi, thật khó tìm ra dấu tích thần thánh ấy ngay giữa thời đại mà con người sống quá mãn nguyện, qua ư trưởng giả, quá ư tẻ nhạt về mặt tinh thần này; ta cứ nhìn những kiểu kiến trúc, những cung cách làm ăn kinh doanh, những đường lối chính sách và những con người này thì thấy! Ngay giữa một thế giới mà không một mục tiêu nào của nó tôi chia sẻ được, không một niềm vui nào của nó phản ánh niềm vui của tôi, hỏi làm sao tôi không trở thành một con sói thảo nguyên, lỗ một kẻ ẩn cư thô lỗ được chứ. Tôi không thể nào ngồi lâu trong một nhà hát hay rạp chiếu phim, hầu như không đọc nổi một tờ báo nào, hiếm khi đọc một quyển sách thịnh hành, tôi không thể hiêu được người ra tìm hứng thú và niềm vui gì trong những toa xe lửa và khách sạn đầy nhóc, trong những quán cà phê đông nghẹt giữa tiếng nhạc ngột ngạt gây khó chiu, trong các quán rượu và ca vũ trường của những thành phố xa hoa, ở những cuộc triển lãm quốc tế, tại các đám rước, trong các buổi thuyết trình cho những kẻ ham học hỏi, trên các sân vận động lớn - tôi không thể hiểu và chia sẻ tất cả những thú vui mà cả nghìn người khác cố công đeo đuổi này, dù tôi có thể đạt được, nếu muốn. Ngược lại, những gì xảy đến với tôi trong những giờ phút hạnh phúc hiếm hoi, những gì làm tôi thây sung sướng, cho tôi kinh nghiệm sống thực, khiến tôi mê mẩn hay thấy mình thăng hoa, thì thế giới cùng lắm chỉ biết tới, tìm kiếm và yêu thích trong thi ca, còn trong đời sống họ xem đó là điên rồ. Quả thật, nếu thế giới này đúng, nếu thứ âm nhạc nọ trong các quán cà phê, những hội hè lễ lạc, những con người Mỹ hóa này - những kẻ không đòi hỏi gì ca xa - đúng, thì tôi sai, tôi điên, như thể tôi đúng là Sói Thảo Nguyên, như tôi thường tự xưng, một con vật lạc loài trong một thế giới xa lạ và khó hiểu, và nó không còn tìm thấy quê hương, khí trời và thứ ăn quen thuộc của nó.
Với những suy nghĩ quen thuộc này tôi tiếp tục rảo bước trên con đường ướt át, băng qua một trong những khu yên tĩnh và cổ kính nhất thành phố. Trong bóng tối phía đối diện, bên kia con đường hẹp, có một bức tường cổ bằng đá xám mà tôi luôn thích ngắm nghía. Nó luôn đứng đó, cổ kính và trơ trơ như thế đấy, xen giữa một ngôi giáo đường nhỏ và một bệnh viện đã có từ xưa. Ban ngày mắt tôi thường dừng thật lâu trên mặt tường nhám, không còn nhiều mặt bằng để trống, lặng lẽ, câm nín trong trung tâm phố, nơi cứ mỗi nửa mét vuông ta lại bị một cửa hàng, một luật sư, một nhà sáng chế, một thầy thuốc, một thợ hớt tóc hay một lang băm chuyên trị chai chân đập cái tên vào mắt. Cả lúc này tôi cũng lại thấy bức tường cổ thanh thản đứng đó, thế nhưng có điều gì đã thay đổi; tôi thấy một cái cổng nhỏ xinh xinh hình chóp nhọn ở giữa bức tường và tôi trở nên bối rối, vì quả thật tôi không còn rõ cái cổng ấy luôn có từ xưa hay mới được xây thêm. Chắc chắn no trông cũ kỹ rồi, cũ lắm, có lẽ từ nhiều thế kỷ trước cái cổng nhỏ với cánh cửa gỗ đóng im ỉm này dẫn vào sân trong im lìm ngủ quên của một tu việc nào đấy và bây giờ hẳn tôi đã thấy cái cổng này cả trăm lần rồi mà chẳng quan tâm đấy thôi, sở dĩ lần này tôi chú ý có lẽ vì nó vừa được sơn lại. Dẫu sao tôi đã dừng chân, chăm chú nhìn qua, chứ không bước sang bên đó, vì lòng đường lầy bùn và sũng nước. Tôi chỉ đứng tren vỉa hè, ngó qua thôi, lúc ấy đã tối lắm rồi và tôi thấy dường như quanh cổng có kết một vòng hoa hay thứ gì đó sặc sỡ. Và bây giờ, khi cố nhìn kỹ hơn, tôi thấy phía trên cổng một tấm biển màu sáng, dường như bên đó có hàng chữ viết. Tôi căng mắt và cuối cùng đã bước qua đường, mặc kệ bùn lầy nước đọng. Tôi thấy ở đó, trên nền xám xanh cổ kính của bức tường, phía trên cái cổng, một vệt sáng nhờ nhờ và bên trên vệt ấy chạy những chữ cái đủ màu, thoắt ẩn thoắt hiện. Hóa ra đúng là họ, tôi nghĩ thế, đã lạm dụng đến cả bức tường cổ hiền hòa này làm đèn hiệu quảng cáo! Trong lúc ấy tôi giải đoán vài ba trong số những từ thoáng hiện ra, chúng xuất hiện lúc nhanh lúc chậm, mờ tịt và chập chờn rồi tắt phụt rất mau nên thật khó đọc, cứ phải đoán mò. Người nào muốn kinh doanh kiểu này thật chẳng tài cán gì, hắn chỉ là một con sói thảo nguyên, một kẻ đáng thương hại, sao hắn lại chiếu những chữ nọ ở đây, lên bức tường này, trong cái ngõ tối tăm nhất khu phố cổ, vào giờ này, lúc trời mưa, tối tăm nhất khu phố cổ, vào giờ này, lúc trời mưa, nơi chẳng ai lai vãng và tại sao những chữ ấy lại lướt qua, biến nhanh, chập chờn và khó đọc đến thế? Nhưng khoan đã, bây giờ tôi đã nhận ra được nhiều chữ nối tiếp nhau rồi, chúng như thế này:
Hí viện ma thuật
Không phải ai muốn vào xem cũng được
- không phải cho mọi người
Tôi thử mở cổng, nhưng ấn hết sức mà cái tay nhấn cũ kỹ nặng nề vẫn không nhúc nhích. Dòng chữ thoắt ẩn thoắt hiện kia phụt tắt, nó chấm dứt đột ngột, buồn bã, như thể chợt nhận ra tiếp tục trò chơi này chỉ uổng công. Tôi lùi lại vài bước, lún sâu trong bùn, không thấy chữ nào nữa xuất hiện, trò chơi ấy đã kết thúc, tôi đứng trong sình lầy chờ thật lâu, song hoài công.
Nhưng kìa, khi tôi đã bỏ cuộc và quay lại vỉa hè thì vài ba chữ bằng ánh sáng màu mè chợt nhỏ giọt trên mặt đường nhựa bóng loáng trước mắt tôi.
Tôi đọc thấy:
Chỉ... dành cho... những... người điên!
Chân ướt, tôi lạnh cóng, tuy vậy tôi vẫn đứng chờ một lúc lâu nữa.Chẳng thấy gì thêm.Trong lúc tôi còn đứng ngẫm nghĩ rằng những chữ màu mỏng manh, lung linh sáng, lập lòe trên bức tường ướt át và trên mặt nhựa đen bóng thật đẹp biết bao, chợt một hình tượng trong mớ ý tưởng lúc nãy lại hiện ra: biểu tượng của vệt ngời sáng như vàng nọ, cái vệt sáng chợt đến chợt đi mất hút không thể tìm thấy nữa.
Tôi lạnh tái tê, tiếp tục bước đi, miên man nghĩ tới vệt sáng nọ, lòng đầy khắc khoải mong tìm ra cánh cổng dẫn vào cái hí viện ma thuật chỉ dành cho những người điên. Trong lúc ấy chân tôi đã bước vào bãi chợ, nơi không thiếu những trò tiêu khiển về đêm; cứ vài bước lại thấy một tấm bích chương hoặc biển quảng cáo: Ban nhạc nữ - Ca vũ trường - Rạp chiếu phim - Đêm khiêu vũ, nhưng những thứ này hoàn toàn không phải cho tôi, mà cho "tất cả mọi người", cho những kẻ bình thường, những kẻ tôi thấy đang túm tụm chen qua các cửa vào ở khắp nơi. Tuy nhiên tôi cũng bớt buồn bã chút ít, vì một lời chào đến từ thế giới khác quả đã làm động lòng tôi, dăm ba chữ màu nhảy nhót và gây xôn xao trong tâm hồn tôi, chạm vào những sợi dây đàn ẩn kín lâu nay, và tôi được thấy dấu vết vàng kia lóe lên một lần nữa.
Tôi tìm đến quan rượt nhỏ, cũ kỹ, không chút đổi thay từ ngày đầu tiên tôi dừng chân tại thành phố này, ngót hai mươi lăm năm trước. Vẫn bà chủ cũ; trong số những thực khách ngày hôm nay có vài người đã từng ngồi đây từ thuở nọ, vẫn tại chỗ đó, trước cũng những cái ly ấy. Tôi bước vào cái quán tồi tàn, nơi ẩn dật của tôi. Tuy nó cũng chỉ là một nơi nương náu tương tự như trên bậc thang đặt cây bách tán, tuy ở đây tôi cũng không tìm thấy quê hương và cộng đồng, mà chỉ tìm được một chỗ yên tĩnh trong khán giả, trước một sân khấu cho những kẻ xa lạ diễn những màn lạ lẫm, nhưng chỉ riêng chỗ yên tĩnh này thôi cũng khá đáng giá rồi: không đông nghẹt người, không tiếng hò la, không tiếng nhạc, chỉ dăm ba thị dân bình thản ngồi tại mấy chiếc bàn gỗ đơn sơ (không cẩm thạch, không sắt tây tráng men, không vải nhung, không đồng thau!) trước mặt mỗi người là một ly rượu cho buổi tối - loại vang lâu năm có tên tuổi. Có lẽ dăm ba vị khách thân thiết của quán, mà tôi nhận ra được, thuộc hàng phàm phu tục tử thật sự và ở nhà họ, trong những căn hộ phàm phu, có những chiếc bàn thờ hiu quạnh đặt trước những tượng thàn Toại nguyện vớ vẩn nào đấy, có thể họ cũng là những kẻ cô đơn và đi chệch lối như tôi, những Lưu Linh trầm lặng đầy suy tư về những lý tưởng bị phá sản, họ có phải là sói thảo nguyên và là những kẻ đáng thương hay không, tôi chẳng rõ. Họ đến đây vì nhớ nhà, vì thất vọng, vì có nhu cầu tìm thứ gì khác, người có vợ tìm kiếm nơi đây bầu không khí thời độc thân, vị công chức già tìm âm hưởng những năm tháng thời sinh viên, hết thảy họ đều khá trầm lặng, hết thảy họ đều là dân nhậu giống như tôi, họ thích ngồi trước nửa lít vang Alsace hơn là trước ban nhạc nữ. Đây là nơi tôi thả neo, nơi tôi ngồi được một đến hai giờ đồng hồ. Vừa làm một ngụm Alsace, tôi đã nhận thấy ngày hôm nay tôi chưa ăn gì, ngoài bữa điểm tâm.
Thật quái lạ, sao con người ta lại có thể nuốt trôi đủ mọi thứ như thế nhỉ! Tôi đọc một tờ báo dễ đến mười phút, để cho tư tưởng của một kẻ vô trách nhiệm nào đấy thâm nhập vào tôi qua thị giác, hắn nhat nát lời người khác và nhồi nước bọt vào đó, rồi nhả ra chứ chưa kịp tiêu hóa. Đến phiên tôi ngấu nghiến hấp thụ lại, cả một cột báo dài. Rồi tôi chén một khoanh lớn gan xẻo từ bụng một con bê. Thật lạ lùng! Ngon nhất là rượu Alsace. Tôi vốn không chuộn rượt vang mạnh, những thứ đặc biệt lôi cuốn và hương vị độc đáo, nhất là vào bữa ăn hằng ngày. Thường tôi thích những loại vang thuần túy địa phương, nhẹ, không mang nhãn hiệu gì đặc biệt, có thể uống được nhiều, chúng thật ngon và mang hương vị của đồng quê, đất đai, bầu trời và cây cỏ quanh vùng. Một ly Alsace và một khúc bánh mì ngon, thế là tuyệt nhất trong mọi bữa ăn. Bấy giờ tôi đã xơi hết phần gan rồi, một sự thú vị đặc biệt vì tôi hiếm khi ăn thịt, trước mặt là một ly thứ hai. Đó cũng là một điều kỳ quái, vì đâu đấy trong những thung lũng xanh mơn mởn có những con người khỏe mạnh hiền lành trồng nho, ép thành rượu vang, để rồi đây đó trên thế giới, thật xa, đôi ba thị dân thất vọng và dăm con sói thảo nguyên nản chí có thể lặng lẽ uống, tìm chút can đảm và nhiệt tình từ những ly rượu của mình.
Quái lạ hay chăng, tôi chẳng quan tâm! Chủ yếu là nó ngon, có tác dụng, gây hứng thú. Nghĩ tới những lời nhai lại của bài báo tôi bật cười khuây khỏa và sực nhớ ra điệu nhạc nhẹ nhàng thanh thoát được những chiếc sáo và kèn gỗ trình tấu mà tôi đã quên khuấ; nó trào dâng trong tôi như một bong bóng xà phòng bé tẹo, sáng ngời, óng ánh, phản chiếu dưới dạng thu nhỏ toàn thế giới muôn màu, rồi nhẹ nhàng vỡ. Nếu điệu nhạc ngắn ngủi tuyệt vời nọ có thể âm thầm bám rễ trong tâm hồn tôi và một ngày kia những bông hoa diễm kiều của nó lại bừng nở với muôn sắc màu duyên dáng thì có thể nào tôi hoàn toàn vô vọng được chăng? Dù tôi chỉ là một con thú lạc đường không hiểu được thé giới chugn quanh thì cuộc sống khinh suất của tôi vẫn có ý nghĩa, có gì đó trong tôi đã lên tiếng trả lời, đã như chiếc máy thu nhận những lời kêu gọi từ những thế giới cao xa vòi vọi, đầu óc tôi chất chứa muôn nghìn hình ảnh.
Những đoàn thiên thần của Giotto 3 từ một vòm nhỏ màu thiên thanh của ngôi giáo đường ở thành phố Padua, đi cạnh họ là Ham ket và Ophelia 4 đầu đội vòng hoa, những biểu tượng tuyệt vời của mọi nỗi buồn và ngộ nhận trên thế gian, nhà lái khí cầu Gianozzo đang thổi tù và trong chiếc khí cầu cháy phừng phừng, Attila Schmelze 5 cầm chiếc mũ mới trong tay, còn Borobudur 6 tung hô lên trời những hình thù chạm khắc trùng trùng điệp điệp của nó. Cho dù mọi hình dáng xinh đẹp này sống trong cả nghìn trái tim khác thì vẫn còn cả vạn hình ảnh và giai điệu nữa không ai biết, ngoài tấm lòng tôi, chỉ mắt tôi thấy và tai tôi nghe được. Bức tường nhà thương cũ kỹ màu xanh xám, loang lổ, hư hao vì mưa nắng với những vệt nứt và vết phong hóa khiến ta có thể hình dung ra cả nghìn bức bích hoạ - ai đáp lại lời nó, ai mở rộng lòng chào đón nó, ai yêu quý nó, ai cảm nhận sức quyến rũ nơi những màu sắc đang âm thầm giãy chết của nó? Những quyển sách cổ với những tiểu họa màu sáng dịu của các tu sĩ và của các thi sĩ Đức trước đây hai trăm hoặc một trăm năm nay bị dân tộc học lãng quên, toàn những quyển đã cũ sờn và thâm sì, những bải in hoặc viết tay của các nhạc sĩ ngày trước, những tờ giấy bền chắc, ố vàng ghi nốt nhạc cùng những giấc mơ bằng thanh âm đã bị đông cứng của họ - ai nghe những tiếng nói thông minh, tinh quái và khát khao của họ, trái tim ai chở đầy những trí tuệ và sức lôi cuốn của họ xuyên qua một thời đại khác, xa lạ với họ? Ai còn nhờ đến cây bách nhỏ bé, dẻo dai tận đỉnh núi phía trên Gubbio 7, gãy toác vì đá lở mà vẫn bám chặt vào sự sống và trong cảnh quẫn bách đã nhú lên một ngọn mới lơ thơ? Ai công tâm với bà nội trợ ở tầng một và cây bách tán sạch bong của bà?
Đêm khuya, ai đọc những chữ như mây khói của làn sương mù la đà trên dòng song Rhin? Chính là Sói Thảo Nguyên. Và ai đã tìm trên đống hoang tàn của đời mình cái ý nghĩa xốn xang, chịu đựng điều tưởng chừng phi lý, sống kiếp dường như điên rồ và ai đã âm thầm hy vọng được mặc khải và gần với Chúa trong sự hỗn loạn ghê gớm cuối cùng?
Tôi úp tay lên cái ly để bà chủ quán khỏi rót thêm rồi đứng dậy. Tôi không cần rượu nữa. Cái vệt bằng vàng đã lóe lên rồi, tôi đã hồi tường tới vĩnh cữu, tơi sMozart, tới những vì sao. Tôi lại có thể thở hít được một giờ, có thể sống, được phép tồn tại, không phải chịu dằn vặt nữa, không phải sợ hãi hay hổ thẹn nữa.
Khi tôi bước ra khỏi quán, con đường đã trở nên vắng lặng, gió lạnh hắt những hạt mưa phùn lay phay quanh những ngọn đèn đường nghe xào xạc và ánh lên như thủy tinh. Bây giờ đi đâu? Nếu giờ đây có được một chiếc đũa thần, hẳn tôi sẽ làm hiện ra một sảnh đường nho nhỏ xinh xinh, kiểu của vua Louis XVI, để nghe dăm nhạc sĩ tài hoa trình diễn vài ba tác phẩm của Handel và Mozart. Tôi đang hứng thú và sẽ nhấm nháp thứ âm nhạc mát rượi và quý phái ấy như thần thánh thưởng thức rượu tiên. Chao ơi, giá lúc này tôi có được một người bạn, một người bạn đang trầm tư bên ánh nến trong một căn gác xép nào đấy, với chiếc vĩ cầm để bên cạnh! Tôi sẽ lẻn vào trong cõi đêm yên ắng của anh, sẽ leo êm như ru lên cầu thang uốn khúc, khiến anh ngạc nhiên, rồi chúng tôi sẽ trò chuyện và nghe nhạc, ăn mừng dăm ba giờ khuya khoắt siêu phàm! Trước kia, trong những năm qua, tôi thường được hưởng hạnh phúc này, nhưng theo thời gian nó cũng đã dần xa và rời hẳn khỏi tôi, giữa ngày ấy và bây giờ đã bap năm khô héo.
Tôi ngần ngừ đi về nhà, kéo cao cổ áo, thọc gậy trên mặt đường lát đá ướt át. Dù chậm bước đến đâu thì tôi cũng vẫn sẽ lại phải ngồi quá sớm trong căn gác xép, trong quê hương bé nhỏ giả tạ mà tôi không hề yên thương song cũng không thể thiếu, vì cái thời tôi có thể lang thang ngoài trời suốt một đêm đông mưa gió đã qua rồi. Lạy Chúa, tôi không muốn lòng mình chiều nay đang phơi phới bị gió mưa, bệnh thống phogn hay cây bách tán làm mất vui và dẫu không có được dàn nhạc thính phòng và không tìm được một người bạn cô đơn với chiếc vĩ cầm, gia điệu thanh nhã nọ vẫn vang trong lòng tôi và tôi có thể ngân nga khe khẽ trong lúc thở hít đúng nhịp, tựa hồ nó được trình diễn cho chính tôi. Tôi vừa đi vừa ngẫm nghĩ. Đúng vậy, không có nhạc thính phòng lẫn bạn bè thì đã sao và đúng là ngớ ngẩn khi mỏi mòn, nhưng bất lực, ngón tìm sự ấm cúng. Cô đơn chính là độc lập! Tôi đã từng ao ước và đạt được điều này trong bao năm ròng. Nó lạnh lẽo, đúng thế, những cũng trầm lặng, trầm lặng tuyệt vời và mênh mong như bầu không gian yên ắng, giá lạnh, nơi các tinh tú chuyển dịch.
Tôi đi ngang qua một vũ trường; tiếng nhạc Jazz dữ dội hắt vào tôi, nóng bỏng và sống sượng như làn hơi bốc lên từ thịt sống. Tôi dừng lại một lúc; dù ghê tởm loại nhạc này đến đâu, nó vẫn âm thầm quyến rũ tôi. Tôi ghét cay ghét đắng nhạc Jazz, nhưng vẫn thích nó gấp chục lần mọi thứ âm nhạc hàn lâm ngày nay; tính cuồng nhiệt sống sượng của nó chạm tới tận bản năng sâu thẳm trong tôi, toát ra một dục tính hồn nhiên và chân thật.
Tôi đứng hỉnh mũi đánh hơi thứ âm nhạc chói tai này, cáu kỉnh và thèm thuồng đoán trước bầu không khí trong những căn phòng ấy. Một nửa điệu nhạc, cái phần du dương, thì lâm ly, ngọt xớt, ủy mị đến chảy nước, nửa kia hoang dại, bất thường và mạnh liệt, tuy vậy cả hai nửa lại hợp với nhau thật hồn nhiên, hòa thành một tổng thế. Đó là thứ âm nhạc suy đồi, thời các hoàng đế La Mã cuối cùng hẳn cũng có thứ âm nhạc tương tự. Tất nhiên so với Bach, với Mozart và âm nhạc đích thực, nó chỉ là thứ nhăng cuộc - nhưng tất cả nghệ thuật của chúng ta, tư tưởng của chúng ta, văn hóa giả tạo của chúng ta đều như thế cả, nếu so sánh với nền văn hóa chân chính. Và thứ âm nhạc này có ưu điểm là rất chân thành kiểu người da đen, đáng mến, vui tươi hồn nhiên chứ không giả trá. Đối với người Âu chúng ta, thứ âm nhạc này mang nét gì đấy của người da đen và người Mỹ, mạnh bạo nhưng hồn nhiên và tươi mát tựa trẻ thơ đang lớn. Châu Âu sẽ thành như vậy chăng? Nó đang dần như thế rồi chăng? Chúng ta, những kẻ am tường và hâm mộ Châu Âu thuở trước, nền âm nhạc đích thực thuở trước, thơ ca đích thực thuở trước, chẳng lẽ chúng ta chỉ là một nhúm thiểu số ngu xuẩn gàn dở mắc bệnh loạn thần kinh phức tạp, mai đây sẽ bị lãng quên và nhạo báng? Phải chăng đó là thứ mà chúng ta gọi là "văn hóa", trí tuệ, tinh thần và coi là đẹp, là thiêng liêng; phải chăng đó chỉ là một bóng ma đã chết từ lâu mà chỉ dăm kẻ ngớ ngẩn chúng ta vẫn còn coi là đích thực? Phải chăng nó không hề đích thực và sống động? Phải chăng những gì lũ ngớ ngẩn chúng ta ra công suy nghĩ, tìm tòi vốn luôn chỉ là một bóng ma?
Khu phố cổ tiếp nhận tôi, ngôi giáo đường nhỏ bé đứng tàn lụi và hư ảo trong khung cảnh màu xám. Đột nhiên tôi nhớ lại câu chuyện hồi chiều với cái cửa chóp nhọn bí ẩn, với tấm biển bí ẩn phía trên, với những chữ chiếu sáng nhảy múc giễu cợt. Hàng chữ ấy viết gì nhỉ? "Không phải ai muốn vào xem cũng được" và "Chỉ dành cho những người điên". Để thẩm tra, tôi nhìn qua bức tường cổ, thầm mong màn ảo thuật nọ tái diễn với hàng chữ mời mọc tôi, một gã điên, và cánh cổng để tôi vào. Có thể điều tôi ước mơ đang ở trong đó, có thể trong đó đang trình diễn thứ âm nhạc của tôi?
Bức tường đá bình thản nhìn tôi, nó đen sẫm bóng chiều, khép kín, chìm đắm trong mơ. Chẳng thấy đâu một cái cổng, chẳng thấy đâu vòng chóp nhọn, chỉ bức tường tối đen, im lìm, không một kẽ hở. Tôi mìm cười tiếp tục bước đi, thân mật gật đầu chào bức tường. "Ngủ ngon, tường nhé, ta không đánh thức mi đâu. Sé đến lúc người ta giật sập mi hoặc dán lên mi những bảng hiệu tham lam của họ, nhưng tạm thời mi vẫn còn đó, mi vẫn đẹp, vẫn im ắng và ta ưa thích mi".
Chợt tôi giật bắn người vì từ một ngõ đen ngòm có một người, một kẻ trở về nhà muộn màng và lẻ loi với bước chân mệt mỏi, nhô ra quan sát nách tôi; y đội mũ lưỡi trai, khoác áo choàng xanh, vác một thanh gỗ gắn bích chương, trước bụng quàng dây đai mang một chiếc hòm con để mở, giống những người bán hàng rong ở các chợ phiên. Y mệt mỏi bước qua trước mặt tôi, chẳng ngoái nhìn, bằng không tôi đã chào và mời y một điếu thuốc. Tôi cố thử đọc cái cờ hiệu của y, tấm bích chương đó gắn trên thanh gỗ, dưới ánh sáng ngọn đèn đường cạnh đấy, nhưng tấm bích chương cứ chao qua đảo lại nên tôi chẳng đọc được gì. Tôi liền gọi và yêu cầu y cho tôi xem. Y dừng bước, giữ thanh gỗ cho thẳng hơn, lúc ấy tôi có thể đọc được những chữ chao đảo nhảy múa:
Giải trí hỗn loạn buôi tối!
Hí viện ma thuật!
Không phải ai muốn vào xe...
"Tôi đang tìm ông đây" tôi thích thú kêu lên. "Buổi giải trí ban tối của ông như thế nào? Ở đâu? Bao giờ?"
Y đã bước đi rồi.
"Không phải ai muốn vào xem cũng được" y thờ ơ nó, giọng ngái ngủ và đi tiếp. Y chán rồi, muốn về nhà.
"Khoan đã", tôi chạy theo gọi "Ông bán những gì thế? Tôi muốn mua chút ít".
Không dừng lại, người đàn ông ấy máy móc thò tay vào hòm, rút ra một tập sách mỏng, chìa cho tôi. Tôi chụp ngay lấy, cất đi. Trong lúc tôi cởi cúc áo măng tô tìm tiền, y đã ngoặt vào một cái cổng bên đường, rồi đóng lại và biến mất. Mới đầu tôi nghe tiếng chân y nặng nề trên mặt đường đá, rồi trên một cầu thang gỗ, rồi không nghe gì nữa. Đột nhiên tôi thấy cũng quá mệt và cảm tưởng đã khuya lắm rồi, về là vừa. Tôi bước rảo hơn, chẳng mấy chốc đã vượt qua những con hẻm vùng ngoại ô đang say ngủ, về tới nhà. Nhà tôi nằm giữa khi thành lũy, nơi các công chức và những người hưu trí cáp thấp ngụ trong những ngôi nhà thuê cho nhỏ sạch sẽ, phía trước có bãi cỏ và khóm thường xuân. Qua khỏi đám thường xuân, bãi cỏ và bụi thông nhỏ tôi về tới của nhà, mò lỗ khóa, tìm nút bật đèn, lách qua tấm cửa kính, đi qua những cái tủ bóng lộn và những chậu cây, mở cửa phòng mình, chốn giả làm quê hương bé nhỏ của tôi, nơi chiếc ghế bành và lò sưởi có nghiên mực và hộp vẽ, có Novalis và Dostoyevsky chờ đợi tôi, hệt như bà mẹ hay người vợ, lũ con, các cô người làm, chó, mèo chờ đợi những con người khác, những con người đích thực, khi họ về nhà.
Khi cởi chiếc áo măng tô ướt át, tôi chợt thấy lại tập sách nhỏ kia, liền rút ra. Đó là loại sách mỏng, in lem nhem trên giấy xấu bán ở các chợ phiên, giống như tập "Tử vi cho người sinh ra trong tháng Giêng" hay "Làm cách nào trẻ lại hay mươi tuôi trong tám ngày?"
Nhưng khi đã ngồi yên trong ghế bành và đeo kính, tôi sửng sốt đọc và đột nhiên cảm thấy về một số phận đang xảy đến qua nhan đề trên bìa tập sách chợ phiên ấy: Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên. Dành riêng cho những người điên.
Và đây là nội dung của nó mà tôi đã đọc liền một mạch, mỗi lúc một hồi hộp thêm:
LUẬN THUYẾT VỀ SÓI THẢO NGUYÊN
Dành riêng cho những người điên
Thuở ấy có một tay tên là Harry, biệt danh Sói Thảo Nguyên. Hắn đi ha chân, hắn mặc áo quần, hắn là người, nhưng thật ra hắn đích thị là một con sói thảo nguyên. Hắn học được nhiều thứ mà những người có đầu óc đều có thể học được và hắn là một kẻ khá thông minh. Nhưng cái hắn không học được là: hài lòng về mình và cuộc đời mình. Điều ấy hắn không học được, hắn là một kẻ bất đắc chí. Sở dĩ như thế có lẽ vì lúc nào trong thâm tâm hắn cũng biết (hoặc tưởng là biết) rằng thật ra hắn không phải là ngườ, mà là một con sói từ thảo nguyên. Các nhà thông thái cứ việc tranh cãi xem hắn có thật là sói hay không, biết đâu đã có lần, trước cả khi hắn chào đời cũng nên, hắn được phù phép biến từ sói thành người, hoặc giả hắn sinh ra là người, nhưng lại được phú cho hồn một con sói thảo nguyên và bị nó chế ngự hoặc giả điều hắn tin rằng hắn thật ra là sói chỉ do trí tưởng tượng hoặc một thứ bênh của hắn mà thôi. Chẳng hạn có thể thời thơ dại con người này rất hiếu động, bất kham và vô kỷ luật; những người dạy dỗ hắn đã tìm cách diệt trừ tính dã thú trong con người hắn và chính vì thế đã tạo cho hắn ấn tượng và niềm tin rằng thật ra hắn là một dã thú, chỉ khoác một lớp vỏ mỏng tanh của giáo dục và nhân tính thôi. Nếu muốn, người ta có thể nói tràng giang đại hải và tiêu khiển về điều này, thâm chí viết thành sách; nhưng chẳng ích gì cho Sói Thảo Nguyên, vì hắn chẳng mảy may quan tâm đến chuyện con sói nhập vào hắn là do bùa chú hoặc roi vọt, hay đó chỉ là tưởng tượng của tâm hồn hắn. Người khác, thậm chí ngay cả hắn nữa, muốn nghĩ gì về điều ấy, hăn cũng mặc kệ, vì sự nghĩ ngợi đó không trục nổi con sói ra khỏi hắn được.
Vậy là Sói Thảo Nguyên có hai bản chất, một người và một sói; đó là số kiếp của hắn, và có thể số phận này chẳng phải đặc biệt và hiếm hoi gì lắm. Người ra đã từng thây sbao kẻ mang trong mình nhiều tính chất của chó hoặc chồn, của cá hoặc rắn nhưng không vì thế mà họ gặp khó khăn gì ghê gớm. Ở những kẻ đó người và chồn, người và cá đúng là sống cạnh nhau, không bên nào làm khổ bên nào, thậm chí còn tương trợ lẫn nhau; lắm kẻ tiến xa và đáng ganh tị nhờ được sức chồn hoặc khỉ đem lại cho họ phúc lộc nhiều hơn sức người trong họ. Điều này ai cũng biết. Nhưng ở Harry lại khác, người và sói trong hắn không tiến song đôi hoặc giúp đỡ nhau, mà thường trực là kẻ tử thù của nhau, phần này sống chỉ để làm khổ phần kia, và khi hai phần trong cùng một dòng máu và một tâm hồn coi nhau như kẻ từ thù thì đó là một cuộc sống khốn khổ. Thế đấy, ai cũng có số phận riêng và chẳng số phận nào nhẹ nhàng cả.
Về phần Sói Thảo Nguyên của chúng ta thì lúc hắn cảm thấy mình sống giống sói, lúc lại giống người, như ở mọi sinh vật lai tạp; nhưng khi hắn là sói thì phần người trong hắn thường xuyên nằm rình rập, nhóm ngó, bình phẩm và phán xét - con những lúc hắn là người thì phần sói cũng làm y như thế. Chẳng hạn khi Harry là người, có một ý tưởng hay ho, một cảm xúc tinh tế cao quý hoặc có một hành vi gọi là thiện, con sói trong hắn liền nhe nhanh, ra sức chế nhạo, chỉ cho hắn thấy rằng tất cả cái vở kịch cao quý kia, nực cười sao, lại rất thích hợp với một con thú thảo nguyên, một con sói, nó biết rất rõ trong thâm tâm điều gì khiến nó hài lòng, đó là đơn độc rong ruổi qua thảo nguyên, thỉnh thoảng uống máu tươi hoặc chạy theo một con sói cái - và, dưới nhãn quan của con sói, mọi hàng động của con người đều kỳ cục, vụng về, ngu xuẩn và kiêu căng phát sợ. Cũng y như vậy khi Harry cảm thấy mình là sói, khi hắn đe dọa người khác, khi hắn thù ghét và coi mọi người cùng cung cách xử thế cũng như tập quan suy đồi, giả trá của họ là kẻ tử thù; lúc ấy phần người trong hắn sẽ rình rập, theo dõi con sói, gọi nó là đồ súc vật, đồ dã thú, khiến nó chán chường, hết cả hứng thú trong bản tính sói chất phác, lành mạnh và hoang dã của nó.
Bản chất Sói Thảo Nguyên như vậy đấy, và ta có thể hình dung cuộc đời Harry chẳng thoải mái và hạnh phúc chút nào. Nhưng như thế không hàm nghĩa hắn đặc biệt bất hạnh (mặc dù tự hắn cảm thấy thế, giống như ai cũng cho rằng nỗi đau khổ mình phải hứng chịu là ghê gớm nhất). Ta không nên nói như thế về ai. Ngay cả người không mang phần sói trong mình cũng không nhất thiết hạnh phúc. Ngay cả cuộc sống bất hạnh nhất cũng có những giờ phút rạng rỡ ánh hồng và những đóa hoa hạnh phúc nở bừng giữa cát sỏi. Với Sói Thảo Nguyên cũng thế. Phần lớn cuộc đời hắn rất bất hạnh, không thể phủ nhận điều ấy, và hắn có thể làm người khác bất hạnh theo, đó là khi hắn yêu thương họ và họ yêu thương hắn. Vì hết thảy những kẻ yêu thương hắn chỉ thấy một khía cạnh của hắn thôi. Có những người yêu thương hắn là một kẻ tế nhị, thông minh và đọc đáo, nên khi họ đột nhiên phát hiện phần soi trong hắn, họ liền đâm ra kinh hoàng và thất vọng. Họ phải phát hiện ra thôi, vì Harry, như mọi sinh vật khác, muốn được thương yêu trọn vẹn, nên không thể che giấu và lấp liếm phàn sói của hắn, nhất là trước tình thương yêu của những kẻ hắn rất trân trọng. Nhưng cũng có những kẻ thương yêu chính cái phần sói trong hắn, cái chất tự do, hoang dã, không thể thuần hóa, ngủy hiểm, mạnh bạo, nên chính họ lại cực kỳ thất vọng lẫn đau đớn khi thấy con sói hoang dại, hung ác đột nhiên cũng là một con người, cũng khao khát điều tốt và sự dịu dàng, nghe cả nhạc Mozart, cũng đọc thơ và muốn có người này đâm ra đặc biệt thất vọng và phẫn nộ, thế là Sói Thảo Nguyên đã truyền bản tính kép và đối nghịch của chính hắn vào mọi số kiếp xa lạ mà hắn tiếp xúc.
Giờ đây ai tưởng rằng mình biết rõ Sói Thảo Nguyên và có thể hình dung được cuộc đời tội nghiệp và đau lòng của hắn, người ấy rất nhầm, người ấy còn lâu mới biết hết. Người ấy không biết rằng (chẳng quy tắc nào không có ngoại lệ và trong hoàn cảnh nhất định Chúc ưng kẻ duy nhất phạm tội hơn chín mươi chín kẻ công chính) ở Harry cũng có ngoại lệ và những may mắn tình cờ, rằng đôi khi hắn có thể thở, suy nghĩ và cảm thấy lúc như sói, lúc như người, rõ ràng chức không lẫn lộn, đúng thế, và đôi khi, vào những giờ khắc rất hiếm hoi, phần sói và phần người sống hòa hoãn, thân ái với nhau, chứ không chỉ bân này ngủ, bên kia thức, mà tăng cường lẫn nhau, bên nọ giúp cho bên kia trở thành gấp đôi. Cũng trong cuộc đời người đàn ông này, như khắp nơi trên thế gian, dường như đôi lúc mọi thói quen, mọi việc thường nhật, mọi điều được nhìn nhận, mọi sự điều độ chỉ nhằm mục đích ngưng nghỉ ở đâu đó một đôi giây ngắn ngủi, rồi bị phá bỏ, nhường chỗ cho cái phi thường, phép lạ và ân sủng. Những giờ phút hạnh phúc ngắn ngủi, hiếm hoi này có đền bù và xoa dịu được số phận hẩm hiu của Sói Thảo Nguyên, khiến cuối cùng hạnh phúc cân bằng được khổ đau không, hay thậm chí niềm hạnh phúc ngắn ngủi nhưng mãnh liệt trong vài giờ ít ỏi ấy vượt xa sự hóa giải khổ đau, điều này hãy để cho những kẻ nhàn cư tha hồ ngẫm nghĩ. Chính Sói Thảo Nguyên cũng thường suy ngẫm về chuyện ấy, và đó là những ngày nhàn rỗi lẫn vô bổ của hắn.
Ở đây cần phải nói thêm một điều. Có khá nhiều người cùng loại như Harry, đặc biệt là các nghệ sĩ. Những người này đều mang song song trong lòng họ hai linh hồn, hai bản chất vừa thù nghịc vừa phức tạp, cả thần thánh lẫn quỷ sứ, cả dòng máu me lẫn dòng máu cha, cả khả năng tiếp thu hạnh phúc lẫn khả năng tiếp nhận khổ đau, giống như Harry mang trong con người hắn phần sói và phần người vậy. Những con người có cuộc sống rất không thanh thản ấy đôi khi cảm thấy một vẻ đẹp và sự mãnh liệt khôn tả trong những khoảnh khắc hạnh phúc đôi khi phụt cao chói loại trên đại dương đau khổ, làm xúc động và lôi cuống người khác. Mọi công trình nghệ thuật đều đã ra đời như thế, như làn bọt hạnh phúc quý giá thoắt ran trên bể khổ, chính nhờ những công trình ấy mà một cá nhân đau khổ đã vương lên khỏi số phận cảu mình được trong một giờ, đến mức hạnh phúc của người ấy rạng rõ như một vì sao, khiến ai trông thấy cũng đều ngỡ là thứ gì vĩnh cửu và là giấc mơ hạnh phúc riêng tư của mình. Nói chung tấ cả những con người này, dù việc họ làm và tác phẩm của họ mang tên gì đi nữa, đều không có đời sống thật sự, nghĩa là đời sống của họ không phải là sự hiện hữu, nó không có gì rõ rệt, họ không phải là những anh hùng hay nghệ sĩ hoặc nhà tư tưởng như kiểu những người khác là thẩm phán, thẩy thuốc, thợ giày hay thầy giáo, mà cuộc đời họ là một dòng biến dịch triền miên, đau khổ và sóng gió, bất hạnh, bị giằng xé đầy đau đớn, khủng khiếp và vô nghĩa, ngay từ người ta không chịu nhìn thấy ý nghĩa của nó trong chính những sự kiện, những hành động, những tư tưởng và những tác phẩm hiếm hoi rực sáng trên sự hỗ loạn của một cuộc đời như thế. Giữa những người thuộc loại này đã nảy sinh ý tưởng nguy hiểm và đáng sợ rằng biết đâu toàn thể đời người chỉ là một lầm lẫn phũ phàng, một sự sẩy thai khốc liệt và bất hạnh của bà mẹ nguyên thủy, một thử nghiệm man dại và thất bại khủng khiếp của tự nhiên. Những giữa những người ấy cũng đã nảy sinh một ý tưởng khác, rằng con người có thể không chỉ là thú vật tương đối có lý trí, mà là con của thần thánh, mang số phận bất tử.
Mỗi loại người đều có những dấu hiệu đặc trưng, những biểu tượng, những phẩm hạnh cùng tật xấu và tội trọng riêng của họ. Dấu hiệu đặc trưng của Sói Thảo Nguyên là sống về đêm. Hăn sợ buổi sáng, vì đó là khoảng thời gian tệ hại trong ngày, chẳng khi nào đem lại cho hắn điều tốt lành. Hắn chưa từng thật thoải mái vào bất cứ một buổi sáng nào trong đời, hắn chưa hề làm được điều gì tốt đẹp gì khả dĩ khiến hắn và người khác vui. Chỉ trong lúc xế trưa hắn mới ấm dần và sinh động và chỉ khi gần tối, vào những ngày hắn thoải mái, hắn mới nghĩa ra được nhiều chuyện, trở nên linh hoạt, đôi khi hào hứng và vui vẻ. Điều này liên quan đến nhu cầu được cô đơn và độc lập của hắn. Chưa ai từng khát vọng độc lập sâu xa và mãnh liệt như hắn. Thuở thiếu thời, lúc hà vi phải vất vả kiếm sống, hắn thà chịu ăn đói, mặc rách chỉ để khỏi mất đi chút độc lập nhỏ nhoi. Hắn chưa hề bán mình cho đàn bà hoặc những kẻ lắm quyền nhiều thế hay vì tiền bạc hoặc cuộc sống phong lưu, hắn đã trăm lần vất bỏ và cự tuyệt những thứ được coi là lợi lộc và hạnh phúc trong mắt thế gian, chỉ cốt giữ lấy tự do. Hắn không thù ghét và ghê tởm gì hơn là nhận một chức vụ này đấy, giữ đúng thời gian biểu của ngày, của năm và phải tuân lệnh kẻ khác. Hắn thù ghét bàn giấy, văn phòng, công sở như thù ghét cái chết và điều khủng khiếp nhất, mà hắn trải qua trong mơ, là bị giam hãm trong trại lính. Hắn biết cách thoát khỏi những điều này, nhưng thường phải chịu nhiều hy sinh. Đây là mặt mạnh và đức tính của hắn, ở điểm này hắn bất khuất và không thể bị mua chuộc, ở điểm này hắn kiên định và cứng rắn. Có điều nỗi đau khổ và số phận của hắn lại gắn bó mật thiết với đức tính ấy. Đối với hắn thì cũng như đối với mọi người thôi: những gì hắn tìm kiếm và kiên trì tột bậc vươn tới vì một sự thôi thúc thâm sâu nhất từ bản chất, hắn đều đạt được, nhưng những điều ấy lại quá mức cho sự tốt lành của con người ta. Thoạt tiên điều ấy là ước mơ và hạnh phúc của hắn, nhưng rồi trở thành số phận đắng cay, Kẻ tham quyền lực sẽ tàn đời vì quyền lực, kẻ tham tiền vì tiền, kẻ quỵ lụy vì khúm núm, kẻ ham lạc thú vì dục lạc. Thành ra Sói Thảo Nguyên đã tàn đời vì sự độc lập của hắn. Đạt mục đích rồi, hắn càng độc lập thêm; không ai ra lệnh cho hắn được nữa, hắn chẳng phụ thuộc vào ai và hắn tự do quyết định việc làm hay không làm. Mọi kẻ xuất sắc đều chắc chắn đạt được điều mà lòng khát khao đích thực của họ thúc đẩy. Nhưng giữa lúc đạt được tự do, Harry chợt nhận thấy tự do của hắn yên thân một cách đáng sợ, hắn chẳng còn chút liên quan gì nữa với con người, thậm chí với chính hắn,hắn chết ngộp từ từ trong bầu không khí cứ mãi loãng dần của sự xa cách và cô độc. Vì bây giờ cô đơn và độc lập không còn là ước mơ và mục đích của hắn nữa mà là số phận, là bản án của hắn. Điều nguyện ước thần diệu đã được đáp ứng rồi, không rút lại được nữa; dù hắn thành tâm khao khát dang rộng đôi tay đón chào sự liên hệ gắn bó và đoàn kết cũng chẳng ích gì; không ai đoái hoài đến hắn. Mà nào có phải người ra ghét bỏ hay ghê tởm hắn đâu. Ngược lại, hắn có rất đông bạn bè. Nhiều người quý mến hắn. Song hắn luôn chỉ tìm được sự thiện cảm và niềm nở; người ta mời mọc, tặng quà, thân ái viết thư cho hắn, nhưng không ai gần gũi hắn, không ai nảy sinh chút gắn bó nào, không ai muốn và có khả năng cùng hắn chia sẻ cuộc đời. Giờ đây bao quanh hắn là khoảng trống của sự cô đơn, của bầu không khí thầm lặng; thế giới chung quanh hắn cứ dần trượt xa và bát lực trong việc tạo dựng quan hệ mà chẳng ý chí hay khao khát nào có thể chống chọi nổi. Đấy là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đời hắn.
Một đặc điểm khác là hắn ở trong số những kẻ tự tử. Ở đây cần phải nói rằng sẽ là sai lầm nếu chỉ dùng khái niệm ấy để gọi những kẻ tự hủy mình thật sự. Vì trong số này nhiều kẻ có thể gọi là tự tử do ngẫu nhiên, chứ tự sát không nhất thiết thuộc vào bản chất của họ. Có những kẻ chết vì tự sát trong số những hạng xoàng xĩnh, bắt chước vô ý thức, trong số người không cá tính, không tác phong đặc biệt, không định mệnh vững chãi nhưng không phải vì thế mà họ thuộc vào mẫu nười tự tử, nếu xét toàn các tính, trong khi có rất nhiều kẻ, phần lớn cũng nên, theo bản chất được xếp vào loại người tự tử, nhưng lại chẳng bao giờ dám thật sự tự hủy mình. "Kẻ tự sát" - Harry là một - không nhất thiết phải sống trong quan hệ đặc biệt gần gũi với cái chết; người ta có thể sống như vậy, mà vẫn không phải là kẻ tự sát. Nhưng kẻ tự tử có điểm khác thường ở chỗ y thấy Cái Tôi của mình, bất kể điều này đúng hay sai, là một hạt mầm đặc biệt nguy hiểm, đáng ngờ và bị đe dọa của tự nhiên, y luôn thấy mình mạo hiểm và bị đe dọa khác thường, như thể y đứng trên một mỏm đá bé tẹo, chỉ cần một cái xô nhẹ từ bên ngoài hay chút khiếp nhược từ bên trong đủ khiến y rơi vào cõi hư không. Đặc trưng trên lằn chỉ tay sinh mệnh của loài người này cho thấy tự tử là kiểu chết dễ có khả năng xảy ra nhất, ít ra trong trí tưởng tượng của chính họ. Điều kiện tiên quyết gây nên tâm trạng này - hầu như luôn thấy rõ ngay từ thời niên thiếu và bám theo họ suốt đời - không phải là sinh khí đặc biệt nhu nhược, ngược lại người ta thấy trong số những "kẻ tự sát" lắm người bản tính rất gan lì, đầy khao khát và cả liều lĩnh nữa. Những giống như những kẻ hơi ốm một tí đã bị sốt, những người mà chúng ta gọi là "kẻ tự sát" vốn luôn rất dễ xúc động và nhạy cảm, hễ bị sốc một tí liền có khuynh hướng ráo riết nghĩ đến việc tự hủy mình. Nếu chúng ta có được một ngành khoa học đủ dũng cảm, đủ tinh thần trách nhiện cao, nghiên cứu về con người thay vì chỉ quan tâm đến cơ chếc những hiện tượng của sự sống, nếu chúng ta có được một ngành tương tự như nhân chủng học, tâm lý học, thì ai cũng sẽ quen thuộc với những sự kiên này.
Điều chúng ta nói ở đây về những kẻ tự sát tất nhiên chỉ hời hợt thôi. Nó là tâm lý học, nghĩa là một phần của ngành vật lý. Xét về mặt siêu hình thì vấn đề khác hẳn và sáng tỏ hơn nhiều, vì quan sát trên khía cạnh này chúng ta thấy những "kẻ tự sát" như là những người mang cảm giác phạm tội vì sự cá biệt hóa của mình, như những linh hồn không còn thấy cứu cánh của cuộc đời là hoàn thiện và uốn nắn chính mình, mà là thủ tiêu nó, trở về với Mẹ nguyên thủy, trở về với Chúa, trở về với vũ trụ. Rất nhiêu kẻ trong số đó hoàn toàn bất lực trước việc tiến hành tự sát thật sự vào một lúc nào đấy, vì họ thấy rõ tội lỗi của hành động ấy. Tuy nhiên, với chúng ta họ vẫn là những kẻ tự sát, vì họ thấy đấng cứu tinh trong cái chết chứ không trong sự sống và họ sẵn sàng vứt bỏ đời mình, xả thân, hủy hoại, trở về với nguồn cội.
Giống như mọi sức mạnh đều có thể trở thành yếu đuối (thậm chí phải trở thành, trong một số tình huống), kẻ tự sát điển hình có thể biến sự yếu đuối ngoài mặt của y thành sức mạnh cùng chỗ tựa, và y làm điều này hết sức thường xuyên. Đó cũng là trường hợp của Harry, của con Soi Thảo Nguyên. Như hàng nghìn đồng loại, hắn không chỉ biến ý tưởng bất cứ lúc nào con đường đưa hắn tới cái chết cũng rộng mở thành một trò tưởng tượng của tuổi trẻ u sầu, mà còn tìm thấy từ chính ý tưởng này một niềm an ủi và một chỗ dựa. Quả thật, trong tâm hồn hắn, cũng như trong mọi kẻ cùng loại mỗi dao động, mỗi đau đớn, mỗi bế tắc trong cuộc sống đều khơi dậy ngay ý muốn đào thoát bằng cái chết. Song từ ý hướng này hắn dần dà xây dựng cho mình một triết lý có ích cho đời hắn. Hắn vốn quen nghĩ rằng lối thoát cấp cứu kia thường xuyên rộng mở và điều đó đã tạo cho hắn sức mạnh, đã khiến hắn tò mò tận hưởng đau thương cùng những hoàn cảnh oái ăm; rồi khi quá khốn khổ, hắn đôi lúc tự nhủ với niềm vui tàn nhẫn, hả hê độc địa: "Ta tò mò xem thử con người có thể chịu đựng được đến đâu ấy mà! Khi nào quá mức, ta chỉ cần mở cái cửa cấp cứu kia là sẽ được giải thoát ngay thôi". Khối kẻ tự sát đã được ý tưởng này truyền cho bao sức mạnh phi thường.
Mặt khác, mọi kẻ tự sát đều quen thuộc với việc cưỡng lại sức cám dỗ của việc tự hủy mình. Ở một ngóc ngách nào đấy trong tâm hồn, họ thừa biết tuy tự tử là một lối thoát, song vẫn chỉ là một lối thoát khá ươn hèn, không chính đáng, trong khi chịu để cho cuộc đời chiến thắng mình, quật mình ngã gục mới đúng là cao đẹp hơn. Ý thức này, sự cắn rứ lương tâm này, đại loại cùng nguồn gốc với sự cắn rứt lương tâm của những kẻ gọi là thủ dâm, thôi thúc phần lớn những "kẻ tự sát" đấu tranh dai dẳng chống lại cám dỗ của việc tự hủy hoại. Họ đấu tranh như người mắc bệnh ăn cắp vặt chống lại tật xấu của mình, Sói Thảo Nguyên chẳng lạ gì điều ấy, vì chính hắn đã từng sử dụng đủ loại vũ khí khác nhau cho cuộc đấu tranh như thế. Cuối cùng, khoảng năm bốn mươi bảy tuổi,hắn nảy ra một ý định tài tình và không phải không khôi hài, khiến hắn thường thích thú. Hắn xác định vào sinh nhật thứ năm mươi sẽ cho phéo mình tự sát 8. Ngày ấy hắn được tự do quyết định có sử dụng lối thoát cấp cứu kia hay không, tùy tâm trạng của hắn hôm đó, hắn thỏa thuận với lòng như thế. Vậy thì nay dẫn hắn gặp chuyện gì cũng mặt, dù hắn ngã bệnh hay lâm cảnh nghèo đói, chịu đau khổ và đắng cay - tất cả đều có kỳ hạn, tất cả chỉ còn có thể kéo dài tối đa vài năm, vài tháng, vài ngày nữa và con số này cứ mãi giảm dần! Quả thật, nay hắn chịu đựng dễ dàng hơn nhiều một số điều phiền muộn trước đây từng giày vò hắn nặng nề và dai dẳng, thậm chí có lẽ đã khiến hắn rung động tận gốc rễ. Nếu vì lý do nào đấy hắn quá ư bực bội, chẳng hạn cuộc sống của hắn đã quạnh hiu, đơn chiếc và man rợ, lại phải chịu thêm nữa những đau đớn khác thường hoặc mất mát, thì hắn có thể bảo nỗi đau đớn ấy rằng: "Cứ chờ đi, hai năm nữa thôi, lúc ấy ta sẽ là chủ của bọn bay!" Và rồi hắn say mê đắm chìm hình dung thư từ cùng thiệp mường sẽ đến với hắn vào buổi sáng sinh nhật thứ năm mươi như thế nào, trong lúc hắn, tin cậy vào con dao cạo, vĩnh biệt mọi khổ đau và khép lại cánh cửa cấp cứu sau lưng mình. Bấy giờ bệnh thống phong trong xương cốt hắn, chứng sầu muộn, bệnh nhức đầu và đau bao tử sẽ được thấy bọn chúng đang ở đâu.
Cũng cần nói thêm: để giải thích hiện tượng riêng lẻ của Sói Thảo Nguyên, đặc biệt mối quan hệ khác thường của hắn với tầng lớp trưởng giả, chúng ta hãy quy các sự kiện này vào những quy luật cơ bản của chúng. Sẵn đây, chúng ta lấy ngay cái quan hệ của hắn với giới trưởng giả làm khởi điểm!
Sói Thảo Nguyên, theo quan niệm của hắn, hoàn toàn đứng ngoài thế giới trưởng giả, vì hắn không có cuộc sống gia đình hay tham vọng xã hội. Hắn thấy mình hoàn toàn cá biệt, là kẻ lập dị, khi thì hắn là một kẻ ẩn cư bệnh hoạn, lúc là một cá nhân bẩm sinh thiên tài, cao quý, trội hơn hẳn những chuẩn mực nhỏ nhoi của đám làng nhàng. Hắn khinh miệt một cách có ý thức kẻ trưởng giả và tự hào không là một người như thế. Tuy nhiên trên một số khía cạnh hắn sống hoàn toàn trưởng giả; hắn có tiền gửi ngân hàng và trợ giúp họ hàng nghèo túng, hắn ăn mặc tuy không chăm chút, nhưng lịch sự và nhã nhặn, hắn tìm cách sống hòa hợp với Sở Cảnh Sát, Sở Thuế vụ và những quyền lực tương tự. Nhưng ngoài những điều ấy ra, một niềm khao khát âm thầm song mạnh liệt không ngừng kéo hắn tới cái thế giới trưởng giả bé nhỏ, tới những ngôi nhà êm ấm, đáng trọng với những khoảnh vườn sạch sẽ, khoang cầu thang được chăm chút sáng bóng và bầu không khí rất mực khiêm tốn của trật tự cùng sự sung túc. Hắn thích thói hư tật xấu và tính thái quá của mình, thích cảm thất mình là kẻ đứng ngoài tầng lớp trưởng giả, là kẻ lập dị hoặc thiên tài, nhưng hắn không bao giờ cư ngụ và sống, tạm gọi thế, trong những khu vực chẳng còn tính trưởng giả nào. Hắn không thoải mái trong bầu không khí của những kẻ thô bạo hoặc khác thường cũng như của những kẻ phạm pháp hoặc tồn tại ngoài vòng pháp luật, hắn luôn sống trong khu vực của giới thị dân, lúc nào cũng duy trì quan hệ với tập tục, chuẩn mực và môi trường của họ, dù là quan hệ đối nghịch hay phản kháng. Ngoài ra, vì lớn lên trong nền giáo dục tiểu tư sản nên hắn vẫn còn lưu giữ từ đó không ít khái niệm cùng mẫu mực. Về lý thuyết hắn không hề chống báng giới buôn son bán phấn, nhưng cá nhân hắn không thể nào coi trọng một cô gái mãi dâm và xem thật là ngang hàng với mình. Hắn có thể quý mến như anh em một chính chị phạm, một nhà cách mạng hay người xách động quần chúng về mặt tinh thần - những kẻ bị Nhà nước và xã hội tảy chay, nhưng hắn chẳng biết nên có thái độ thế nào với một tên ăn cắp, một gã trộm, một kẻ sát nhân dâm ác hơn là tội nghiệp chúng theo một cách khá trưởng giả.
Bằng cách đó, lúc nào hắn cũng nhìn nhận và tán thành với một nửa bản chất và hành động của mình điều mà hắn phủ nhận và chống lại với nửa bản chất kia. Lớn lên với khuôn mẫu và tập quan nghiêm ngặt trong một gia đình trưởng giả, có học thức, một phần tâm hồn hắn vẫn còn luôn gắn bó với những trật tự của thế giới này, cả sau khi hắn đã cá thế hóa vượt mức khả dĩ của gưới trưởng giả và thoát khỏi những lý tưởng cùng niềm tin của giới ấy từ lâu.
"Lối sống trưởng giả", nhưng một trạng thái luôn hiện hữu của đặc tính con người, không là gì khác hơn sự cố gắng cân bằng, là nỗ lực tìm sự trung dung giữa vô số thái cực và những cặp đối nghịch trong cách xử thế của con người. Chúng ta thử lấy một cặp đối nghịch bất kỳ nào đấy làm thí dụ, chẳng hạn cặp người thánh thiện và kẻ phóng đãng, thì sự so sánh sẽ thành dễ hiểu ngay. Con người có khả năng dồn hết tâm trí vào chuyện tâm linh, vào việc nỗ lực tiếp cận với thánh thần, vào lý tưởng của bậc đức hạnh. Ngược lại con người cũng có khả năng dành hết tâm trí cho cuộc sống bản năng, cho đòi hỏi của dục vọng và hướng mọi nỗ lực vào việc đạt lạc thú nhất thời. Con đường thứ nhất dẫn tới bậc thánh thiện, tới những người hy sinh cho trí tuệ, tới sự quên mình vì Chúa. Còn con đường kia dẫn đến kẻ phóng đãng, tới kẻ chịu chết vì bản năng, tới sự buông thả cho điều thối rữa. Người trưởng giả tìm cách sống theo lối trung dung giữa hai cực đoan ấy. Y sẽ không bao giờ quên mình, hiến thân, chẳng theo sự say sưa cũng không theo nếp khổ hạnh; y sẽ không bao giờ thành kẻ tuẫn đạo, chẳng bao giờ chịu bị hủy diệt - ngược lại, lý tưởng của y không phải là sự hiến thân, mà là bảo tồn Cái Tôi, nỗ lực của y không dành cho sự thánh thiện cũng chẳng cho điều đối nghịch; y không chịu nổi tính vô điều kiện, tuy muốn phụng sự Chúa, nhưng y cũng muốn hưởng lạc thú ngất ngây; tuy y muốn sống đức hạnh, nhưng cũng thích đôi chút thoải mái và tiện nghi trên trần thế. Tóm lại, y cố tìm chốn trung dung giữa những cực đoan, trong một vùng ôn hòa, dễ chịu, không bão tố hay cuồng phong; quả thật y đã đạt được điều ấy, song bù lại sẽ thiếu cảm giác tuyệt mức như trong lối sống cực đoan và hoàn toàn buông thả. Người ta chỉ có thể sống cuồng nhiệt khi chịu trả giá cho Cái Tôi. Mà kẻ trưởng giả không quý gì hơn Cái Tôi (tất nhiên một Cái Tôi phát triển ở dạng sơ đẳng). Cho nên y chịu mất mát chút cuồng nhiệt đổi lấy Cái Tôi và sự an lòng; y thanh thản lương tâm thay vì đam mê Chúa, mãn nguyện thay vì dục lạc, thoải mái thay vì tự do, khát khao vừa phải thay vì cuồng nhiệt trí mạng. Vì thế kẻ trưởng giả, do bản chất, là một sinh vật có động lực sống yếu đuối, nhút nhát, sợ mọi phóng đãng, dễ bị chế ngự. Nên y đặt ra đa số thay cho quyền uy, luật lệ thay cho vũ lực, bầu cử thay cho tinh thần trách nhiệm.
Rõ ràng thứ sinh vật yếu đuối và nhút nhát này dù đông đến mấy cũng không thể tự bảo tồn; do đặc tính nên nó không thể giữ vai trò gì khác hơn một đàn cừu giữa những con sói lang thang. Tuy nhiên chúng ta thấy vào thời những người hung bạo cầm quyền, kẻ trưởng giả dù bị đè nén nhưng không bao giờ chịu diệt vong, thậm chí dường như đôi khi y còn thống trị thế giới nữa. Sao lại thế được nhỉ? Bầy đoàn đông đảo của y, phẩm hạnh của y, quan niệm thông thường của người đời hoặc sự tổ chức của y đâu đủ mạnh để cứu y khỏi diệt vong. Kẻ đã quá bạc nhược ngay từ đầu thì chẳng phương thuốc nào trên thế gian giữ nổi mạng sống. Thế mà giai cấp trưởng giả vẫn tồn tại, vẫn mạnh và phát triển. Vì sao?
Câu trả lời là: vì những con sói thảo nguyên. Quả thật sức sống của giai cấp trưởng giả hoàn toàn không dựa trên phẩm chất của các thành viên bình thường, mà của cực kỳ đông đảo outsider 9, những kẻ mà giai cấp trưởng giả có khả năng thu hút nhờ lý tưởng mơ hồ và uyển chuyển của nó. Luôn luôn có không ít những kẻ tính tình mạnh bạo và hiếu động trong giai cấp trưởng giả. Sói Thảo Nguyên Harry của chúng ta là một thí dụ điển hình. Hắn - kẻ đã vượt xa mức khả dĩ của một kẻ trưởng giả để phát triển thành một cá thể, kẻ đã từng biết mùi khoái cảm của sự trầm tư mặc tưởng cũng như những vui thú ảm đạm của sự thù hận lẫn ghét bỏ chính mình, kẻ khinh miệt luật lệ, phẩm hạnh và quan niệm thông thường của con người - vậy mà vẫn bó buộc là tù nhân của giai cấp trưởng giả, không thoát ra nổi. Cho nên chung quanh giới trưởng giả đúng nghĩa quy tụ biết bao thành phần của nhân loại, quy tụ hàng nghìn cuộc đời cùng trí tuệ; tuy mỗi kẻ ấy đều có thể phát triển vượt ra khỏi giai cấp trưởng giả, đi theo tiếng gọi của một cuộc sống tuyệt đối, vô điều kiện, nhưng do những tình cảm thời thơ ấu gắn bó với giới trưởng giả và vì tiêm nhiễm khá nặng sức sống yếu đuối của nó, nên y vẫn bám lấy nó, lệ thuộc nó, ràng buộc với nó, sẵn sàng phục vụ nó thế nào đấy. Vì phương châm của giai cấp tư sản ngược với những con người vĩ đại: kẻ nào không chống lại ta là theo ta!
Thành ra, nếu thẩm tra tâm hồn Sói Thảo Nguyên, chúng ta sẽ thấy hắn đã cá thể hóa cao độ trở thành kẻ không-trưởng giả, vì mọi sự cá thể hóa tới mức cao đều quay lại chống đối Cái Tôi và có khuynh hướng hủy diệt nó. Chúng ta thấy trong con người hắn có những thôi thúc mãnh liệt hướng tới cả sự thánh thiện lẫn phóng đãng, nhưng vì một sự yếu đuối hay trì trệ nào đó, hắn không thể thực hiện được bước nhảy vào vũ trụ tự do và hoang dại, mà cứ bị trói chặt vào chòm sao mẹ nặng nề của giai cấp trưởng giả. Đó chính là vị trí của hắn trong vũ trụ, đó chính là sự câu thúc của hắn. Phần lớn trí thức, đại đa số nghệ sĩ thuộc vào mẫu người này. Chỉ những kẻ mạnh nhất trong bọn họ mới xuyên qua nổi bầu khí quyển của quả đất trưởng giả, tiến vào vũ trụ; còn những người khác thảy đều cam chịu hoặc thỏa hiệp, họ khinh bỉ giai cấp trưởng giả nhưng vẫn cứ lệ thuộc vào nó và củng cố lẫn ca ngợi nó; rốt cuộc họ phải tán thành nó để có thể sống. Cuộc đời của vô vàn con người này không vì thế mà biến thành bi thảm, nhưng khá bất hạnh và đen đủi; trong hỏa ngục của sự bất hạnh ấy tài năng của họ trở nên chín muồi, đơm hoa kết quả. Một số kẻ, ít ỏi thôi, bứt khỏi giai cấp trưởng giả, đạt đến chốn tuyệt đối, vô điều kiện, lại suy tàn một cách đáng khâm phục, họ là những kẻ bi tráng. Những kẻ còn lại chịu ràng buộc - mà tài năng của họ thường được giai cấp trưởng giả vô cùng trọng vọng - được một vương quốc thứ ba rộng mở đón chào, một thế giới ảo, nhưng độc lập: đó là sự hài hước. Những con sói thảo nguyên lòng chẳng yên bình, những kẻ triền miên đau khổ, mang số phận hẩm hiu không có được sức mạnh cần thiết để xuyên tới không gian của những vì sao, những kẻ tự thấy có thiên bẩm vào cõi tuyệt đối, nhưng lại không đủ khả năng sống trong đó, những kẻ ấy còn một con đường thoát an ủi vào sự hài hước, nếu tinh thần họ trở thành vững chãi và uyển chuyển qua đau khổ. Sự hài hước luôn mang tính trưởng giả thế nào ấy, dù kẻ trưởng giả thật sự không có khả năng hiểu được nó. Cái lý tưởng rối rắm, đa dạng của mọi con sói thảo nguyên trở thành hiện thực trong lãnh vực tưởng tượng của hắn; nơi đây chẳng những hắn có thể cùng lúc tán thành cả sự thánh thiện lẫn phóng đãng, uốn hai thái cực lại gần nhau, mà còn liên kết được cả kẻ trưởng giả vào sự tán thành đó nữa. Người bị thánh thần ám ảnh rất có thể tán thành kẻ tội phạm và ngược lại; nhưng cả hai loại người này, và mọi kẻ tuyệt đối khác, lại không thể chấp nhận thêm kẻ trưởng giả, loại dở dở ương ương. Chỉ có sự hài hước, phát minh tuyệt vời của những kẻ thiên bẩm trở thành vĩ đại nhưng bị kìm hãm, của những kẻ gần như bi tráng, của những kẻ bất hạnh thiên tư cùng tột, chỉ có sự hài hước (có lẽ đó là thành tựu độc đáo nhất và tài tình nhất của nhân loại) mới đạt được điều bất khả này: đó là phủ lên và hợp nhất mọi khía cạnh của con người với những tia sáng từ lăng kính của nó. Sống trong thế giới mà như thể đó không là thế giới, tôn trọng luật lệ mà vẫn đứng cao hơn nó, sở hữu mà "như không sở hữu", từ bỏ mà như không từ bỏ - tất cả những đòi hỏi được ưa thích và thường được quy phạm hóa này của một triết lý sống rất mực thông tuệ chỉ có thể thực hiện được nhờ sự hài hước mà thôi.
Và nếu ở mê cung ngột ngạt nơi địa ngục của mình, Sói Thảo Nguyên lại thành công trong việc sắc thứ thuốc thần diệu này - hắn không thiếu tư chất cùng phương cách - và vã mồ hôi, thì hắn sẽ thoát. Tất nhiên trong việc này hắn còn thiếu nhiều thứ. Nhưng khả năng và hy vọng là có. Ai yêu quý hắn, ai đồng cảm với hắn, hãy cầu chúc cho hắn thoát. Tuy qua đó hắn sẽ suốt đời gắn bó với giới trưởng giả, nhưng mọi khổ lụy của hắn sẽ trở nên có thể chịu đựng và đơm hoa kết quả. Quan hệ của hắn với thế giới trưởng giả, trong sự thương yêu và thù ghét, sẽ mất đi tính đa cảm; sự ràng buộc giữa hắn với thế giới này sẽ thôi liên tục giày vò hắn như một mối hổ nhục.
Để đạt được điều ấy, hoặc để cuối cùng có thể dám lao vào trong vũ trụ, Sói Thảo Nguyên phải một lần tự đối chất với mình, phải nhìn sâu vào sự hỗn mang của chính tâm hồn mình và thấu hiểu triệt để về sự hiện hữu của mình. Lúc ấy sự hiện hữu mơ hồ của hắn sẽ tự hoàn toàn độc lập hiển lộ trước chính hắn và trong tương lai hắn sẽ không thể mãi trốn chạy địa ngục của bản năng, tìm tới những an ủi triết lý và tình cảm, rồi từ đó lại đào tẩu vào trạng thái ngất ngây mù quáng của loài sói. Người và sói sẽ buộc phải nhìn thẳng vào mắt nhau, nhận biết nhau mà không cần những mặt nạ mang cảm xúc giả dối. Lúc ấy hai bên hoặc sẽ nổi giận và vĩnh viễn lìa bỏ nhau, khiến chẳng còn con sói thảo nguyên nào nữa, hoặc chịu sống chung vì lý trí, do được sự hài hước soi sáng.
Có thể một ngày nào đấy Harry sẽ đứng trước khả năng cuối cùng này. Có thể một ngày nào đấy hắn sẽ học được cách tự nhận ra mình, hoặc vì hắn có được tấm gương soi nhỏ bé của chúng ta, hoặc vì hắn gặp người bất tử, hoặc có thể hắn tìm thấy trong hí viện ma thuật của chúng ta thứ hắn cần để giải thoát tâm hồn bị hắt hủi của mình. Cả nghìn khả năng như thế đang chờ đợi hắn, chúng bị số phận của hắn thu hút không cưỡng được; mọi kẻ bên lề này của giai cấp trưởng giả đều sống trong bầu không khí của những khả năng ma thuật ấy. Chẳng cần gì hết mà sấm sét vẫn cứ đánh được.
Sói Thảo Nguyên rất rành rẽ những điều ấy, dù hắn chưa một lần thấy đoạn tiểu sử nội tâm này của mình. Hắn linh cảm vị trí của mình trong tòa nhà thế giới, hắn linh cảm và hiểu những người bất tử, hắn linh cảm và sợ khả năng đối mặt với chính mình, hắn biết về sự hiện hữu của tấm gương mà hắn rất cần nhìn vào - nhưng hắn lại sợ nhìn vào đó chí chết.
Còn một giả tưởng cuối cùng, một nhầm lẫn cơ bản cần làm sáng tỏ để kết thúc thảo luận của chúng ta. Mọi "sự giải thích", mọi thứ tâm lý học, mọi nỗ lực để hiểu vấn đề quả thật cần có phương tiện hỗ trợ, những lý thuyết, những thần thoại, những sự dối trá và - vào đoạn cuối của bài trình bày - một tác giả nghiêm túc không nên bỏ qua việc lý giải những dối trá này trong khả năng cho phép. Khi tôi nói "bên trên" hoặc "bên dưới" thì đó đã là một khẳng định cần được giải thích, vì trên và dưới chỉ có trong suy nghĩ, trong sự trừu tượng. Thế giới tự nó không biết đến cao và thấp.
Thành ra, nói tóm lại, "Sói Thảo Nguyên" cũng chỉ là một giả tưởng thôi. Khi Harry tự thấy hắn là một người-sói, và tưởng là được cấu thành với hai bản chất thù địch và đối kháng, thì đó chỉ là một huyền thoại được đơn giản hóa. Harry tuyệt nhiên không phải là một người-sói; nên khi chúng ta dường như đã chấp nhận điều dối trá do chính hắn bịa đặt và tin tưởng mà không kiểm tra, chúng ta coi hắn thật sự là một sinh vật mang bản chất kép, là con sói thảo nguyên và tìm cách lý giải, có nghĩa chúng ta đã lợi dụng một điều nhầm lẫn, hy vọng qua đó sẽ làm vấn đề thành dễ hiểu hơn, khiến bây giờ chúng ta phải cố đính chính lại điều nhầm lẫn ấy.
Sự lưỡng phân thành sói và người, thành bản năng và tinh thần, như Harry cố làm cho chính hắn hiểu dễ hơn về số phận của mình, là một sự đơn giản hóa quá thô thiển, một sự cưỡng ép sự thật nhằm tạo thuận lợi cho một giải thích có vẻ hợp lý, nhưng lệch lạc, về những mâu thuẫn mà phần con người của hắn phát hiện ra trong chính hắn và chúng dường như là một cội nguồn những khổ lụy không nhỏ của hắn. Harry tìm thấy trong chính hắn một "con người", nghĩa là một thế giới của những tư tưởng, của những cảm nghĩ, của văn hóa, của bản tính thuần hóa và thăng hoa, bên cạnh đó hắn cũng lại tìm thấy trong hắn một "con sói" nữa, nghĩa là một thế giới đen tối của những bản năng, của tính hoang dại, tàn nhẫn, của bản tính tàn bạo, không thăng hoa. Tuy bản chất hắn có vẻ được phân chia rành mạch thành hai phạm vi thù nghịch nhau, nhưng hắn luôn luôn được chứng kiến việc sói và người chịu đựng nổi nhau trong một khoảnh khắc, trong một phút giây hạnh phúc. Giả sử Harry muốn xác định trong mỗi khoảnh khắc của đời hắn, trong mỗi hành động, trong mỗi cảm giác của hắn phần nào của người, phần nào của sói thì lập tức hắn sẽ lâm vào tình thế khó xử và toàn thể mớ lý thuyết đẹp đẽ của hắn về sói sẽ tan thành mây khói ngay. Vì không một ai, kể cả người da đen man dã, kể cả kẻ ngu xuẩn, lại thoải mái đồng ý với việc bản chất của mình được giải thích chỉ qua hai hoặc ba yếu tố chính; thành ra giải thích cho một kẻ rất phức tạp như Harry bằng sự phân chia ngớ ngẩn thành sói và người quả là một cố gắng vô vọng, rất đỗi trẻ con. Harry không chỉ gồm hai bản chất, mà cả trăm, cả nghìn. Cuộc đời hắn (như mọi đời người) không chỉ dao động giữa hai cực, như giữa bản năng và tinh thần hoặc giữa thánh thiện và phóng đãng, mà giữa cả nghìn, giữa vô vàn cặp đối cực.
Chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy một kẻ học thức và thông minh như Harry lại có thể tự coi mình là một con "sói thảo nguyên" và tin rằng có thể thu tóm cả cái cấu trúc phong phú và phức tạp của đời mình vào trong một công thức quá giản lược, quá thô thiển đến thế. Con người không có khả năng suy tư ở mức độ cao; ngay cả người thông minh và học rộng nhất cũng thường xuyên nhìn thế giới và chính mình qua cặp kính của những công thức rất hồn nhiên, giản lược và giả tạo - nhất là nhìn chính mình! Vì, dường như thế, nhu cầu bẩm sinh và hoàn toàn tất yếu của mọi người là hình dung Cái Tôi của họ như một nhất thể. Dù ảo tưởng này bị lung lay thường xuyên tới đâu, mãnh liệt đến đâu, nó luôn được phục hồi. Viên thẩm phán ngồi đối diện tên sát nhân, nhìn vào mắt y, nghe y nói một lúc bằng chính giọng của mình (của viên quan tòa) và phát hiện ngay trong chính lòng mình cũng có mọi cảm xúc, tài cán, khả năng của y, nhưng chỉ nháy mắt sau ông lại là nhất thể, là viên thẩm phán, quay vội về với vỏ của Cái Tôi tưởng tượng của mình, thi hành nhiệm vụ và kết án tử hình kẻ sát nhân. Còn nếu những tâm hồn đặc biệt thiên tài và được tổ chức vi tế từ từ nhận thấy sự đa dạng của chúng, khi chúng, như mọi thiên tài, phá vỡ cái ảo tưởng về sự nhất thể của cá nhân và tự cảm nhận thấy chúng là phức hợp, là một chùm của nhiều Cái Tôi, thì chỉ cần chúng nói ra điều ấy tức khắc số đông sẽ gông cổ chúng, lại còn yêu cầu khoa học trợ giúp, xác định đó là chứng tâm thần phân liệt để bảo vệ nhân loại khỏi phải nghe lời kêu gọi của sự thật từ miệng những kẻ bất hạnh này. Ờ, thế thì phí lời làm gì, nói ra những điều ấy làm gì, vì người nào có suy nghĩ đều tự hiểu, nói ra chỉ đi ngược lại tập quán? Cho nên nếu nay một kẻ đã xung phong nới sự nhất thể tưởng tượng của Cái Tôi thành lưỡng thể, thì y đúng là chẳng khác bậc thiên tài, hay ít ra cũng là một ngoại lệ hiếm hoi và thú vị. Nhưng thật ra chẳng Cái Tôi nào, kể cả Cái Tôi ngây ngô nhất, là một nhất thể, mà là cả một thế giới hết sức đa dạng, một bầu trời nho nhỏ của những tinh tú, một hỗn mang của những hình dạng, của những mức độ và trạng thái, của những di sản và những khả năng. Sự kiện mỗi cá nhân cố coi sự hỗn mang này là một nhất thể và nói về Cái Tôi của mình như đó là một hiện tượng đơn giản, cố định và có hình thù rõ rệt, cái sự kiện mà mỗi người (kể cả những bậc cao nhất) thường nhầm lẫn, dường như chỉ là một điều tất yếu, một đòi hỏi của đời sống tựa như hít thở và ăn uống.
Ảo tưởng này dựa trên một suy diễn đơn giản. Về thể xác thì mỗi người là một, về linh hồn thì không bao giờ. Cả thơ văn, thậm chí những tác phẩm hoàn chỉnh nhất cũng luôn theo thông lệ nói về những nhân vật dường như toàn vẹn, dường như nhất thể. Cho tới ngày nay, bộ môn được các chuyên gia, những người am hiểu trân trọng nhất trong thơ văn là kịch; và họ có lý, vì kịch đem lại (hoặc có thể đem lại) khả năng lớn nhất để diễn tả Cái Tôi như một nhất thể đa hợp - nếu nó không mâu thuẫn với cái hình ảnh khái quát làm cho chúng ta tin rằng mọi nhân vật của vỡ kịch đều là một nhất thể, vì chắc chắn mỗi nhân vật từ đầu đến cuối đều có một cơ thể duy nhất và tách biệt. Nền thẩm mỹ học hồn nhiên cũng đánh giá cao nhất loại kịch diễn tả cá tính, trong đó mỗi nhân vật xuất hiện rõ rệt như một nhất thể tách biệt. Chỉ khi nhìn từ xa mới dần hé ra sự phỏng đoán rời rạc, rằng có thể tất cả những điều này là một thứ triết lý thẩm mỹ nông cạn rẻ tiền và chúng ta đã nhầm khi đem những khái niệm tuyệt vời thời cổ đại về cái đẹp gán cho những nhà soạn kịch lớn của chúng ta, những khái niệm chúng ta có không do bẩm sinh mà chỉ qua nghe bàn tán; thực tế những khái niệm ấy, xuất phát từ những hình hài thấy được khắp nơi, đã sáng tạo ra sự hư cấu về Cái Tôi, về nhân vật. Thơ ca cổ đại Ấn Độ hoàn toàn xa lạ với khái niệm này; những vai chính trong các thiên anh hùng ca Ấn Độ không phải là những cá thể, mà cả một đám, một chuỗi kẻ hóa thân. Và trong thế giới đương đại của chúng ta có những tác phẩm thơ văn cố diễn đạt sự đa hợp của linh hồn, đằng sau tấm màn về nhân vật và cá tính, mà hẳn chính tác giả không hoàn toàn ý thức. Ai muốn nhận ra điều này, phải quyết định một lần không nhận xét những hình hài của tác phẩm thơ ca ấy như những con người riêng biệt, mà là những phần, những mặt, những khía cạnh khác nhau của một nhất thể cao hơn (ví dụ tâm hồn nhà thơ). Ai quan sát Faust theo cách này, đều thấy Faust, Mephisto, Wagner 10 cùng mọi nhân vật khác hợp thành một nhất thể, một siêu-nhân-vật, và chỉ trong nhất thể cao vượt này, chứ không trong những nhân vật đơn lẻ, mới thể hiện phần nào bản chất đích thực của tâm hồn. Khi Faust thốt ra câu "Chao ơi, hai linh hồn cùng ở trong ngực tôi!" nổi tiếng trong giới mô phạm, còn đám phàm tục rùng mình thán phục, thì y đã quên bẵng Mephisto cùng cả đám linh hồn khác mà y cũng mang trong lồng ngực. Con sói thảo nguyên của chúng ta cũng tin hắn mang trong lồng ngực hai tâm hồn (sói và người), nên thấy ngực mình bị dồn ép quá mức. Lồng ngực, cơ thể luôn luôn là một thôi, còn trong đó không chỉ hai hoặc năm linh hồn cư ngụ, mà nhiều vô kể; con người là một củ hành với hàng trăm lớp vỏ, một tấm vải dệt từ vô vàn sợi. Người Á châu thời cổ đại đã nhận biết và hiểu rõ điều này; yoga Phật giáo đã tìm ra một kỹ thuật chính xác để lột trần ảo tưởng về cá tính. Trò đùa của nhân loại thật vui nhộn và muôn hình thái: cái ảo tưởng mà Ấn Độ đã nỗ lực cả nghìn năm để lột trần lại chính là thứ mà phương Tây đã đổ ra cũng ngần ấy công sức để duy trì và khiến nó mạnh thêm.
Quan sát Sói Thảo Nguyên từ quan điểm này, chúng ta sẽ rõ vì sao hắn lại đau khổ quá mức đến thế dưới tính nhị phân lố bịch của hắn. Hắn nghĩ, giống như Faust, rằng một lồng ngực duy nhất cho hai linh hồn là quá nhiều và lồng ngực đó sẽ phải vỡ tan. Nhưng ngược lại, hai linh hồn là quá ít, và Harry đã làm tình làm tội linh hồn khốn khổ của hắn, khi cố tìm hiểu nó qua một hình ảnh quá đơn giản như thế. Tuy kiến thức cao, nhưng Harry hành động chẳng khác một kẻ mọi rợ không đếm nổi quá số hai. Hắn gọi một phần của mình là người, phần kia là sói, cho như thế là rốt ráo và nghĩ cạn hết rồi. Trong phần "người" hắn nhét mọi thứ trí tuệ, siêu việt hoặc có văn hóa mà hắn phát hiện nơi hắn, còn trong phần "sói" mọi thứ mang bản năng, hoang dã và hỗn loạn. Nhưng sự việc trong cuộc đời không đơn giản như trong suy nghĩ hoặc thô thiển như thứ ngôn ngữ khốn khổ của chúng ta, thành ra Harry đã tự dối lòng đến hai lần, khi hắn sử dụng phương cách sói mọi rợ này. Harry gán ghép cho "con người", chúng ta e là như thế, trọn nhiều vùng của linh hồn hắn, những vùng còn lâu mới thuộc về con người, và cho "sói" nhiều phần trong bản chất hắn, những phần đã từ lâu không thuộc về sói nữa.
Như mọi người, Harry tin rằng biết rất rõ con người là gì, nhưng lại hoàn toàn chẳng biết gì cả, cho dù không hiếm khi hắn linh cảm thấy điều ấy trong những giấc mơ và những trạng thái ý thức khó kiểm soát nào khác. Giá như hắn không quên những linh cảm ấy, giá như hắn cố hết sức biến chúng thành của riêng! Con người không phải một cấu thành cố định và bền vững (điều này là lý tưởng của thời cổ đại, bất chấp những ước đoán trái ngược của các bậc thông thái thời bấy giờ), ngược lại y là một thử nghiệm và bước chuyển tiếp; y không là gì khác hơn một cây cầu chật hẹp, nguy hiểm nối thiên nhiên với tinh thần. Sứ mạng thâm sâu hướng y tới tinh thần, tới Chúa; còn khát vọng thâm sâu lại kéo y trở về với tự nhiên, với Mẹ nguyên thủy: cuộc đời y đung đưa đầy run sợ giữa hai thế lực ấy. Cái mà con người ta hiểu về khái niệm "người" luôn luôn chỉ là một quy ước nhất thời của giới trưởng giả. Quy ước này gạt bỏ và tẩy chay một số bản năng thô bạo nhất, nó đòi hỏi một chút ý thức, lối cư xử văn hóa và phi thú-vật-hóa, nó không chỉ cho phép mà thậm chí còn khuyến khích một chút trí tuệ. "Con người" của quy ước này, như mọi lý tưởng trưởng giả, là một thỏa hiệp, một thử nghiệm rụt rè và ngây thơ ranh mãnh, vừa để lừa bịp tổ mẫu cáu kỉnh - thiên nhiên - cùng tổ phụ phiền nhiễu - tinh thần - trước những đòi hỏi gắt gao của họ, vừa để sống tạm gọi là trung dung giữa hai đấng ấy. Vì thế kẻ trưởng giả cho phép và dung túng cái y gọi là "nhân cách", nhưng đồng thời lại trao nhân cách ấy cho thế lực độc ác "Nhà nước" và liên tục dùng chúng chống lại nhau. Cho nên hôm nay người trưởng giả thiêu kẻ bị xem là tà đạo, treo cổ kẻ bị coi là tội phạm, song ngày mai lại dựng tượng đài tưởng niệm họ.
Chính Sói Thảo Nguyên cũng linh cảm rằng "Con người" chưa phải là một tạo vật đã hoàn tất mà là một thách thức của tinh thần, một khả thể xa xôi đáng khát khao lẫn đáng sợ và luôn chỉ có thể đi tới đó từng đoạn ngắn, dưới những đau khổ kinh hoàng và những giây phút xuất thần, kể cả đối với những cá nhân hiếm hoi mà hôm nay người ta dựng đoạn đầu đài, ngày mai dựng tượng đài tưởng niệm. Nhưng cái mà hắn gọi là "người" trong hắn, đối nghịch với phần "sói", phần lớn chẳng là gì khác hơn chính cái ước lệ trưởng giả tầm thường nọ. Tuy Harry có thể đã mường tượng được khá rõ con đường đưa đến con người đích thực, con đường dẫn tới những kẻ bất tử và hắn ngập ngừng bước chỗ này chỗ nọ một đoạn ngắn ngủi, để rồi trả giá bằng nhiều khổ sở và cô đơn đau đớn, nhưng tự đáy tâm hồn hắn lại sợ sự thách thức cao nhất kia, không dám chấp nhận và nỗ lực vươn tới trở thành con người đích thực mà tinh thần đang tìm kiếm, không dám đi con đường chật hẹp duy nhất đưa tới sự bất tử. Hắn cảm thấy rất rõ: điều đó sẽ dẫn tới những khổ đau hơn, tới sự tẩy chay, tới sự từ khước cuối cùng, có thể tới đoạn đầu đài nữa; và cho dù sự bất tử đang nhử hắn ở cuối con đường này, hắn vẫn không sẵn lòng hứng chịu mọi đớn đau nọ, chết mọi cái chết kia. Dù hắn ý thức hơn kẻ trưởng giả về mục tiêu của sự trở thành con người đích thực, hắn vẫn nhắm mắt không muốn biết rằng việc bám víu tuyệt vọng vào Cái Tôi, bám víu tuyệt vọng vào sự tham sống chính là con đường chắc chắn nhất để dẫn đến cái chết đời đời, trong khi việc có thể chết, việc rũ sạch mọi lớp màn che đậy, vĩnh viễn dâng hiến Cái Tôi cho sự chuyển hóa lại đưa tới sự bất tử. Khi hắn tôn thờ những người hắn yêu quý trong những kẻ bất tử, chẳng hạn Mozart, thì rút cuộc hắn vẫn luôn đánh giá ông bằng đôi mắt của kẻ trưởng giả và có khuynh hướng, như một thầy giáo, giải thích sự toàn mỹ của Mozart chỉ là nhờ thiên bẩm đặc biệt cao vời, thay vì do tầm vóc của sự dâng hiến và sẵn sàng chấp nhận khổ đau của ông, do sự thờ ơ của ông đối với những lý tưởng của kẻ trưởng giả, do sự chịu đựng nỗi cô đơn cùng cực của ông, nỗi cô đơn hòa loãng mọi bầu không khí trưởng giả thành lớp ê te băng giá quanh những kẻ đau khổ, những kẻ hóa thân thành người, nỗi cô đơn trong vườn Gethsemane 11.
Dẫu sao Sói Thảo Nguyên của chúng ta ít ra cũng đã phát hiện ra bản chất kép như ở nhân vật Faust trong con người hắn, hắn đã khám phá ra rằng trong nhất thể của hình hài hắn không trú ngụ một nhất thể của tâm hồn, mà giỏi lắm thì hắn mới đang trên con đường dài hành hương tới lý tưởng của sự hòa đồng này thôi. Hắn muốn chế ngự con sói trong mình và hoàn toàn trở thành con người, hoặc từ khước phần người và ít nhất sống một cuộc sống trọn vẹn như sói, không bị phân hóa. Có lẽ hắn chưa từng quan sát kỹ một con sói thật sự, vì nếu có, hẳn hắn đã thấy rằng loài vật cũng không có linh hồn nhất thể; dưới vóc dáng căng lẳn, đẹp đẽ của tấm thân chúng cũng có vô vàn khát vọng cùng trạng thái; trong lòng sói cũng đầy rẫy đau khổ và vực thẳm. Không, "Trở về với tự nhiên!" nghĩa là con người luôn theo con đường lầm lạc đầy đau khổ và vô vọng. Harry chẳng bao giờ hoàn toàn trở thành sói lại được nữa, và nếu có, hẳn hắn sẽ thấy rằng ngay cả sói cũng không phải là gì đơn giản và sơ khai, mà đã rất đa dạng và phức tạp. Cả con sói cũng có hai hay nhiều linh hồn hơn nữa trong lồng ngực nó và ai ao ước được thành sói hẳn cũng đã lãng quên như người đàn ông trong bài hát "Ôi, sung sướng sao còn được là một đứa trẻ!" Người đàn ông đáng mến nhưng đa cảm hát bài ca này, về những đứa trẻ hạnh phúc, là kẻ cũng ước mong trở về với tự nhiên, với sự ngây thơ trong trắng, với những thuở ban đầu và quên bẵng rằng trẻ thơ chẳng hạnh phúc chút nào, mà có thể chúng phải chịu bao tranh chấp, bao mâu thuẫn tự thân và mọi đau khổ khác.
Hoàn toàn không có con đường trở về nào, dù trở về với sói hay trẻ thơ. Khởi thủy của sự vật không phải là thơ ngây và chất phác; mọi tạo vật, kể cả thứ dường như đơn giản nhất, đều đã mang tội lỗi, đều đã đa dạng, đều đã bị quăng vào dòng lưu chuyển bẩn thỉu của sự biến dịch và không bao giờ, không bao giờ bơi ngược dòng được nữa. Con đường đưa tới ngây thơ, tới trạng thái chưa được tạo dựng, tới Chúa không quay ngược, mà đi tới, không trở về với sói hay trẻ thơ, mà mãi dấn sâu vào trong tội lỗi, vào sự thành người. Sói Thảo Nguyên đáng thương ơi, dù mi tự sát cũng chẳng giúp ích thật sự gì cho mi đâu, mi sẽ phải đi suốt chặng đường lê thê, nhọc nhằn và vất vả để thành người, mi sẽ còn phải thường xuyên nhân lên bội phần cái bản chất kép của mi, phức tạp hóa nhiều hơn nữa sự phức tạp của mi. Thay vì thu hẹp thế giới của mình, đơn giản hóa linh hồn mình, mi sẽ phải nhận thêm, cuối cùng phải thu nhận cả thế giới vào trong linh hồn đau đớn nới rộng của mi, để may ra được một lần kết thúc, được nghỉ ngơi. Đức Phật đã đi con đường này, mọi vĩ nhân cũng đều theo con đường này, người ý thức, kẻ không, bao lâu họ gặp may với sự táo bạo ấy. Mọi sinh nở đều có nghĩa chia lìa với toàn thể, có nghĩa xác định ranh giới, tách rời khỏi Chúa, có nghĩa một sự tạo dựng mới đầy đau khổ. Trở về với cái toàn thể, giải thoát sự cá nhân hóa đầy khổ lụy, hòa nhập với Chúa có nghĩa là mở rộng tâm hồn cho đến khi nó lại có thể ôm tròn cái toàn thể.
Đây không phải nói về con người mà nhà trường, nền kinh tế quốc dân, sự thống kê vốn biết, cũng không nói về con người như hàng triệu kẻ đang ngược xuôi trên đường phố, chẳng khác cát trong biển cả hay những tia nước của ngọn sóng xô bờ; hơn kém vài triệu chẳng nghĩa lý gì, họ là vật liệu, thế thôi. Không, ở đây chúng ta nói về những con người theo nghĩa cao hơn, về mục đích của con đường trở thành người dài tít tắp, về những con người vương giả, về những kẻ bất tử. Bậc thiên tài không hiếm như chúng ta thường vẫn tưởng, tất nhiên cũng không quá sẵn như văn học sử và sử thế giới hoặc thậm chí báo chí hằng ngày vẫn nghĩ. Sói Thảo Nguyên Harry, theo chúng ta thấy, có lẽ đủ thiên tài để bạo dạn thử trở thành con người đích thực, thay vì mỗi khi gặp khó khăn lại than thở, viện cớ là con sói thảo nguyên ngu xuẩn.
Thật quá đỗi ngạc nhiên và nản chí khi những con người với khả năng như thế lại phải cầu cứu đến những con sói thảo nguyên cùng kiểu than van "Hai linh hồn, chao ơi!" như họ quá thường bày tỏ thứ luyến ái hèn nhát nọ với nếp sống trưởng giả. Một người có khả năng hiểu được Đức Phật, một người có được linh cảm về cõi trời và những vực thẳm của nhân loại không nên sống trong một thế giới ngự trị bởi lý trí của con người lành mạnh, chế độ dân chủ và nền giáo dục trưởng giả. Y sống trong đó chỉ vì hèn nhát và khi bị tầm cỡ của y thúc ép, khi căn phòng trưởng giả chật hẹp trở nên quá tù túng với y, y liền đổ lỗi cho phần "sói" chứ không chịu hiểu rằng đôi khi con sói là phần đáng quý nhất của mình. Y gọi tất cả những gì hoang dại trong bản thân là sói, coi đó là xấu xa, nguy hiểm, là con ngáo ộp của giới trưởng giả - nhưng mà y, tưởng mình là một nghệ sĩ và có nhận xét tinh tế, lại không nhận ra nổi rằng ngoài con sói, phía sau con sói, còn nhiều con vật khác sống trong y, rằng không phải hễ thứ gì cắn đều là sói cả, vì ở đó còn có cả chồn, rồng, cọp, khỉ và chim thiên đường 12 sống nữa. Hệt như y không thấy được rằng cả thế giới này, hết thảy các vườn địa đàng này với những hình thù xinh đẹp hoặc đáng sợ, lớn hay nhỏ, mạnh mẽ hay yểu điệu đều bị đè bẹp và giam hãm bởi câu chuyện ngụ ngôn về con sói, giống như con người đích thực trong y bị con người giả mạo - kẻ trưởng giả - đè bẹp và giam hãm.
Ta thử hình dung một khu vườn với hàng trăm loại cây, hàng nghìn loại hoa, hàng trăm loại trái, hàng trăm loại rau cỏ. Giả dụ người làm vườn chỉ phân biệt nổi chúng thành loại "ăn được" và "cỏ dại", thì y sẽ chẳng biết nên làm gì với chín phần mười thửa vườn, y sẽ nhổ phăng những bông hoa tuyệt trần nhất, sẽ đốn trụi những cây quý nhất, hoặc sẽ ghét bỏ và lườm nguýt chúng. Sói Thảo Nguyên cũng cư xử y như thế với hàng nghìn đóa hoa trong tâm hồn hắn. Cái gì không thích hợp với phạm trù "con người" hoặc "sói" hắn đều không nhìn thấy. Và còn có gì mà hắn chẳng xếp vào cho "con người"! Tất cả những trò hèn nhát, ngớ ngẩn như khỉ, mọi trò ngu muội và bần tiện hắn đều gán cho "con người", miễn không có vẻ sói, cũng như hắn quy cho con sói mọi thứ mạnh mẽ và cao quý, chỉ vì hắn chưa thành công trong việc làm chủ được nó.
Chúng ta tạm biệt Harry ở đây, để mặc hắn một mình đi tiếp con đường của hắn. Giả thử hắn tới được cõi những người bất tử rồi, giả thử hắn đã đạt đến đích mà con đường khó nhọc của hắn dường như hướng tới thì hắn sẽ kinh ngạc ra sao khi nhìn lại con đường quanh co khúc khuỷu mà hắn đã hết đi tới lại đi lui, lung tung, do dự và hắn sẽ động viên, trách mắng, cảm thông, cười cợt con sói ấy như thế nào!
Đọc xong, tôi sực nhớ mấy tuần trước có lần đã viết một bài thơ khá kỳ lạ cũng nói về Sói Thảo Nguyên, nên lục tìm trong đống giấy má trên cái bàn đầy nhóc. Thấy rồi tôi liền đọc:
Ta, Sói Thảo Nguyên, ruổi rong, rong ruổi
Thế gian đầy tuyết,
Từ cây bạch dương con quạ vỗ cánh bay lên,
Nhưng chẳng thấy đâu một bóng thỏ, một dáng nai!
Ta vốn khoái nai tơ,
Phải chi vớ được một con!
Ta sẽ ghì nó trong nanh, quặp nó trong chân,
Chẳng còn gì tuyệt vời hơn thế.
Ta sẽ hết lòng trân trọng con thú yêu kiều,
Ta bập thật sâu vào bắp chân mảnh khảnh,
Uống no nê dòng máu đỏ tươi,
Để rồi sau đó ta cô đơn tru suốt đêm trường.
Dù chỉ vớ được một con thỏ thôi, ta cũng hài lòng,
Trong đêm tối, thịt nó ấm nên vẫn ngọt.
Chao ơi, chẳng lẽ mọi thứ đều đã rời bỏ ta,
Những thứ khiến cuộc đời vui thêm chút ít?
Lông đuôi ta đã bạc rồi,
Mắt ta cũng không còn thật tinh tường nữa,
Vài năm trước vợ yêu của ta đã lìa đời.
Giờ đây ta lang thang và mơ đến những con nai,
Lang thang và mơ đến những con thỏ,
Nghe gió hú trong đêm đông,
Ta nuốt tuyết hầu làm dịu họng ta cháy bỏng,
Và mang cho quỷ dữ linh hồn khốn khổ của ta.
Thế là tôi có trong tay hai bức chân dung của chính mình, một bức tự họa qua những vần thơ nghe như chọc vào tai, buồn rầu và hãi sợ như bản thân tôi, bức kia lạnh lùng, mang vẻ hết sức khách quan của một kẻ ngoài cuộc, nhìn từ bên ngoài lẫn bên trên, viết do một người biết nhiều song lại ít hơn tôi biết về chính mình. Cả hai bức chân dung này, bài thơ u buồn, ấp a ấp úng của tôi lẫn bài khảo cứu sáng suốt của một kẻ ẩn danh, đều làm tôi đau đớn; cả hai bài đều chí lý, đều lột trần sự hiện hữu thê lương, đều vạch rõ tình trạng khôn kham và bất ổn của tôi. Gã Sói Thảo Nguyên này phải chết, hắn phải tự tay kết liễu sự hiện hữu đáng ghét của mình hoặc - do tan chảy trong lò lửa luyện ngục của sự tái chiêm nghiệm mình - hắn phải biến cải, gỡ bỏ mặt nạ và thực hiện công cuộc trở thành một Cái Tôi mới. Chao ơi, quy trình này nào phải mới mẻ hay xa lạ gì đối với tôi; tôi biết nó mà, tôi đã trải qua nhiều lần rồi, lần nào cũng đều trong những giai đoạn tuyệt vọng tột cùng. Lần nào Cái Tôi ở thời kỳ ấy cũng vỡ tan thành muôn mảnh, khi sự cố bị đào xới tàn tệ; lần nào nó cũng đều bị những sức mạnh sâu kín lung lay và hủy hoại, lần nào cũng có một khoảng đời được chăm chút và đặc biệt yêu dấu của tôi phản bội tôi, bỏ đi không tăm tích. Một lần tôi đã mất đi cái thanh danh trưởng giả cùng tài sản của mình và đã phải học khước từ lòng kính trọng của những kẻ cho đến lúc ấy vẫn ngả mũ chào tôi. Một lần khác, chỉ trong một đêm cuộc sống gia đình của tôi sụp đổ; người vợ bị bệnh tâm thần của tôi 13 đã xua đuổi tôi ra khỏi mái nhà êm ấm; tình yêu và lòng tin cậy đột nhiên biến thành thù hận và cãi nhau chí tử; láng giềng nhìn theo tôi thương hại và khinh bỉ. Sự cô đơn của tôi bắt đầu từ ngày ấy. Rồi sau nhiều năm, sau nhiều năm vô cùng cay đắng, trong sự cô đơn ghê gớm và kỷ luật tự giác gian khổ tôi xây dựng được cho mình một cuộc sống cùng lý tưởng khổ hạnh và trí thức mới, đời tôi đã lại đi lên và đạt một mức bình yên nào đấy, tôi say mê luyện tập suy nghĩ trừu tượng và nhập định theo quy tắc nghiêm ngặt, thì cung cách sống mới này cũng lại sụp đổ và đột nhiên mất đi ý nghĩa cao cả của nó; tôi lại bị lôi kéo vào những chuyến du lịch rất căng thẳng trên thế gian này, đau khổ mới và tội lỗi mới chất chồng. Và lần nào cũng thế, trước khi một mặt nạ bị lột bỏ, một lý tưởng sụp đổ, tôi đều phải trải qua tình trạng trống rỗng và thanh thản rùng rợn này, cái địa ngục hoang vu trống trải này của sự không có tình yêu và tuyệt vọng, như giờ đây tôi lại phải vượt qua.
Không thể phủ nhận là cứ mỗi khi cuộc đời mình bị chấn động như thế thì rốt cục tôi cũng đều đã đạt được chút gì đấy, một chút tự do, trí tuệ, thâm trầm, cả sự cô quạnh nữa, cả tình trạng không ai hiểu mình và sự nguội lạnh. Nhìn từ phía kẻ trưởng giả thì cuộc đời tôi sa sút không ngừng, từ lần chấn động này qua lần chấn động khác, ngày càng cách xa cái bình thường, cái được phép, cái lành mạnh. Suốt nhiều năm tôi trở thành kẻ vô nghề nghiệp, không gia đình, không quê hương, sống bên ngoài mọi phe nhóm, mọi giới xã hội, đơn độc, chẳng ai yêu thương, bị nhiều kẻ nghi ngờ, không ngừng xung đột gay gắt với công luận cùng đạo đức và mặc dù vẫn sống trong khuôn khổ trưởng giả, tôi vẫn là kẻ xa lạ ngay giữa thế giới này do tất cả cách rung cảm và suy nghĩ của mình. Tôn giáo, Tổ quốc, gia đình, Nhà nước đều đã mất giá trị đối với tôi và chẳng liên quan gì tới tôi nữa; sự quan trọng hóa của khoa học, của những phường hội, của các nghệ thuật làm tôi ghê tởm; những quan điểm của tôi, những thị hiếu, mọi suy nghĩ của tôi, những điều ngày trước từng khiến tôi nổi bật là một kẻ tài hoa và được hâm mộ, nay bị nghi ngờ, trở nên tàn lụi. Cứ cho là tôi đã gặt hái được một điều gì vô hình và không thể cân đong qua mọi cuộc hóa thân đau khổ đến thế của mình, thì tôi cũng đã phải trả giá đắt và cuộc đời tôi càng trở nên gian khổ hơn, khó khăn hơn, cô đơn hơn và hiểm nghèo hơn từ lần này qua lần khác. Thật ra tôi chẳng có lý do gì để ước mong tiếp tục theo con đường này, nó chỉ dẫn tôi tới những bầu không khí loãng hơn, giống như làn khói trong bài thơ Herbstlied - Ca khúc mùa thu của Nietzsche.
À vâng, tôi biết những sự kiện này, những sự hóa thân này, những thứ mà định mệnh dành cho bầy con đã gây cho nó nhiều lo âu, bầy con khó nuôi của nó, tôi biết chúng rõ lắm. Tôi biết chúng như một kẻ đi săn, đầy tham vọng nhưng thất bại, có thể biết về những chặng đường của cuộc săn, như một người chơi chứng khoán lão luyện có thể biết về những giai đoạn của việc đầu cơ, của lợi nhuận, của thị trường bất ổn, của biến động giá cả và của sự phá sản. Tôi có nên thực sự trải qua một lần nữa mọi điều ấy không? Lại trải qua mọi giày vò ấy, mọi cùng quẫn kinh hoàng ấy, mọi điều trông thấy về sự thấp hèn và vô tích sự của bản ngã tôi, mọi khủng khiếp trước sự thua cuộc, mọi sợ hãi trước cái chết? Chẳng phải là khôn ngoan và đơn giản hơn ư, khi ta lẩn tránh? Hẳn rồi, như thế là khôn ngoan và đơn giản hơn. Mặc cho những điều viết về những "kẻ tự sát" trong tập sách mỏng về Sói Thảo Nguyên đúng hay sai, không ai có thể ngăn cản tôi thú vui dùng thán khí, dao cạo hay súng ngắn để khỏi phải lập lại một quy trình mà quả thật tôi đã phải nếm trải quá thường và quá nhiều sự giày vò cay đắng của nó. Không, quỷ thần ơi, chẳng thế lực nào trên thế gian này có thể đòi hỏi tôi phải chịu đựng thêm lần nữa những ớn lạnh chết người của cuộc gặp gỡ chính mình, thêm một lần tái tạo mới, một sự đầu thai mới mà mục tiêu và cứu cánh của nó không phải là yên bình và thư thái, mà luôn chỉ là sự tự hủy diệt mới, luôn chỉ là sự tự tạo dựng mới! Mặc cho việc tự sát là ngu xuẩn, hèn nhát và đáng khinh, mặc cho nó là một lối thoát không vẻ vang và đầy nhục nhã, để ra khỏi luyện ngục của sự đau khổ này thì mọi lối thoát, dù hèn hạ nhất cũng đáng được tha thiết ước ao; nơi đây không còn chỗ nào nữa cho vở kịch mang tính hào hiệp cao thượng và chủ nghĩa anh hùng, nơi đây tôi bị đặt trước một chọn lựa đơn giản giữa sự đau đớn nhỏ nhoi, thoáng qua và nỗi khổ đau vô hạn, nóng bỏng không tưởng tượng nổi. Trong cuộc đời gian khổ và cuồng điên đến thế của mình tôi đã quá thường đóng vai Don Quichotte 14 cao quý, đã chuộng danh dự hơn thoải mái, chủ nghĩa anh hùng hơn lý trí. Đủ rồi và phải chấm dứt thôi!
Cuối cùng, khi tôi đi nằm, buổi sáng đã lấp ló qua khung kính cửa sổ, cái buổi sáng màu chì, đáng nguyền rủa của một ngày mưa gió mùa đông. Tôi mang theo vào giường điều quyết định của mình. Nhưng tệ hại thay, đúng lúc tôi vừa thiếp đi, thì ở ranh giới cuối cùng của ý thức, cái đoạn lạ lùng nói về "những kẻ bất tử" chợt lóe lên một tích tắc trong tôi, khiến tôi nhớ lại trong chớp mắt rằng thỉnh thoảng - và vừa mới đây thôi - tôi cảm thấy đã đủ gần những kẻ bất tử để cùng thưởng thức trong một nhịp của khúc nhạc cổ điển tất cả sự thông tuệ lạnh lùng, sáng láng cùng nụ cười khắt khe của họ. Điều tôi nhớ lại ấy hiện ra, ngời sáng, rồi tắt ngấm và giấc ngủ đè lên trán tôi như một quả núi nặng nề.
Quãng gần trưa tôi thức dậy thì cái tình trạng đã được làm sáng tỏ kia lại ập ngay đến với tôi; tập sách nhỏ cùng với bài thơ của tôi nằm trên chiếc bàn ngủ; cái quyết định - đã định hình trọn vẹn và chắc chắn trong giấc ngủ hồi đêm - vui vẻ và điềm tĩnh nhìn tôi từ sự hỗn loạn trong cuộc sống mới đây của tôi. Gấp gáp nhưng không vội vàng! Quyết định tự sát của tôi không phải chuyện bốc đồng trong một giờ, mà là một trái chín, để lâu được; nó lớn từ từ và nặng dần, khẽ đung đưa theo ngọn gió định mệnh và sẽ rụng rơi trong làn gió sắp tới.
Tôi có trong túi thuốc du lịch một phương tiện tuyệt vời để làm dịu đớn đau: thuốc phiện được pha chế cực mạnh mà tôi thường giữ cả tháng, rất hiếm khi dám đụng tới; tôi chỉ dùng thứ thuốc gây mê nặng này khi bị những đau đớn thể xác hành hạ tới mức chịu không nổi. Nhưng tiếc thay nó lại không thích hợp để tự tử; nhiều năm trước tôi đã có lần thử rồi. Hồi đó, khi lại bị tuyệt vọng bủa vây, tôi đã nuốt một lượng kha khá, đủ để giết sáu người, thế mà nó chẳng giết được tôi. Tuy tôi có thiếp đi và hoàn toàn mê man trong nhiều giờ, nhưng cực kỳ thất vọng khi mơ màng tỉnh dậy vì bao tử quặn thắt dữ dội, tôi nôn ra hết thứ thuốc độc kia, song không tỉnh hoàn toàn và lại thiếp đi; mãi trưa hôm sau mới tỉnh hẳn, tỉnh táo khủng khiếp, đầu óc trống rỗng, cháy rụi và hầu như mất sạch trí nhớ. Nhưng chất độc này chẳng để lại di chứng nào, trừ một thời kỳ tôi bị mất ngủ và những cơn đau bao tử làm tình làm tội.
Nghĩa là không thể dùng thứ thuốc ấy được rồi. Nhưng bây giờ tôi quyết định cụ thể như sau: ngay khi lại xảy ra tình trạng khiến phải dùng đến thứ thuốc chế biến từ nha phiến này, thì thay vì một sự giải thoát ngắn ngủi tôi sẽ cho phép mình nhâm nhi sự giải thoát lớn, chắc chắn, bằng một viên đạn hay lưỡi dao cạo. Như thế tình trạng đã sáng tỏ! Phải chờ đến sinh nhật thứ năm mươi của mình, theo cái cách kỳ dị của tập sách về Sói Thảo Nguyên, tôi thấy thật quá lâu, còn những hai năm nữa! Dù thực hiện quyết định này trong một năm, trong một tháng hay ngay ngày mai thì cánh cửa cũng đã rộng mở rồi!
Tôi không thể nói rằng "quyết định" này đã thay đổi nhiều cuộc đời mình. Nó khiến tôi thờ ơ hơn đôi chút trước những đau đớn, bệnh tật, ít ưu tư hơn khi dùng thuốc phiện và rượu, tò mò hơn một chút về giới hạn của sự chịu đựng, tất cả chỉ có thế. Những sự kiện khác tôi đã trải qua buổi tối hôm ấy mới thật có hậu quả mạnh hơn. Thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại hết tập luận thuyết về Sói Thảo Nguyên, khi thì say mê và với lòng hàm ơn như thể biết có một nhà ảo thuật vô hình hướng dẫn định mệnh của tôi một cách sáng suốt, lúc lại chế giễu và khinh miệt sự nhạt nhẽo của tập luận thuyết mà theo tôi nó dường như không hiểu tâm trạng và căng thẳng đặc biệt của tôi. Những điều viết trong ấy về lũ sói thảo nguyên và những kẻ tự sát có thể rất hay ho và sáng suốt đấy, đúng cho chủng loại đó, mẫu người đó, quả là một sự trừu tượng đặc sắc; còn ngược lại, theo tôi thấy, cái lưới thưa như thế thật khó chụp bắt nổi cá nhân tôi, tâm hồn thật sự cùng số phận độc nhất cá biệt của tôi.
Nhưng điều khiến tôi bận tâm trí hơn mọi điều khác là cái ảo giác trên bức tường ngôi nhà thờ nọ, là lời tuyên cáo đầy dự báo của những chữ bằng ánh sáng nhảy nhót lung linh phù hợp với những ám dụ của tập luận thuyết. Ở đó tôi đã được hứa hẹn nhiều, những giọng nói của cái thế giới xa lạ nọ đã khơi dậy mãnh liệt trí tò mò của tôi, tôi thường đắm chìm hàng giờ ngẫm nghĩ về nó. Và lời cảnh báo của hàng chữ ấy không ngớt nói với tôi mỗi lúc một rõ ràng hơn: "Không phải ai muốn vào xem cũng được!" và "Chỉ dành cho những người điên!" Nghĩa là tôi phải điên và khác biệt hẳn "bất cứ ai" nếu những tiếng nọ đến được với tôi và những thế giới nọ nói được cùng tôi. Chúa ơi, chẳng lẽ tôi chưa xa cách đủ với đời sống của mọi người, với sự hiện hữu và tư duy của những kẻ bình thường từ lâu rồi ư, chẳng lẽ tôi chưa tách biệt và quá điên rồ từ lâu rồi ư? Vậy mà tôi hiểu rất rõ trong tận đáy lòng lời kêu gọi kia, lời đòi hỏi trở thành kẻ điên, vất bỏ lý trí, ngần ngại, lối sống trưởng giả, hiến mình cho thế giới buông thả không bị kềm tỏa của tâm hồn, của trí tưởng tượng.
Một ngày nọ, sau khi uổng công thêm một lần nữa lùng khắp các đường phố cùng quảng trường tìm kiếm người đàn ông vác thanh gỗ gắn tấm bích chương, sau nhiều lần tạt qua bức tường với cái cổng vô hình và để ý rình, tôi gặp ở khu ngoại ô St.Martin một đám ma. Khi quan sát những gương mặt của tang chúng lê bước sau chiếc xa hòm, tôi nghĩ: "Trong thành phố này, trong thế gian này, đâu là kẻ mà cái chết của người ấy sẽ là một mất mát đối với ta? Và đâu là kẻ mà cái chết của ta sẽ có chút ý nghĩa nào đấy với người đó?" Ờ thì, có Erika đấy, người tình của tôi, nhưng từ lâu rồi chúng tôi sống trong mối quan hệ rất hời hợt, hiếm khi gặp nhau mà không cãi vã và bây giờ tôi chẳng biết đến cả nàng đang ở đâu. Thỉnh thoảng nàng tìm đến tôi, hoặc tôi tới với nàng và vì hai chúng tôi đều là người cô đơn và khó tính, trong tâm hồn và trong tâm bệnh thoảng có chút gì giống nhau, nên tuy vậy vẫn còn giữ được sự gắn bó. Nhưng có thể nào nàng không thở dài nhẹ nhõm khi được tin tôi chết chăng? Tôi không biết, cũng chẳng rõ cảm nhận của mình có đáng tin cậy không. Người ta phải sống trong trạng thái bình thường và khả thể mới mong biết gì đấy về những điều này.
Trong lúc đó, chiều theo tính bốc đồng, tôi nhập vào đám tang và lững thững theo sau những người đang đau buồn nọ tới nơi chôn cất, một nghĩa trang hiện đại, tráng xi măng, được phép có lò thiêu cùng mọi thứ tiện nghi khác. Nhưng họ không thiêu kẻ quá vãng này mà quan tài được hạ xuống trước một cái huyệt đơn sơ; tôi quan sát ông mục sư cùng những kẻ kiếm ăn trên xác chết - các nhân viên của một xí nghiệp mai táng - cử hành nghi lễ; vì cố nặn ra một vẻ thật trang trọng và sầu thảm, nên họ đã ra sức đóng kịch; sự lúng túng và vẻ giả dối khiến họ đâm ra khôi hài; tôi thấy những nếp gấp trên bộ đồng phục đen của họ chảy xuống và họ cố tạo một bầu không khí buồn rầu để buộc những người đưa đám phải khấu đầu trước vẻ uy nghi lẫm liệt của thần Chết. Nhưng chỉ hoài công, chẳng ai thương khóc, dường như tất cả đều không thấy thiếu vắng người đã khuất. Cũng chẳng thuyết phục được ai nảy chút lòng sùng tín, nên khi ông mục sư luôn miệng "thưa các tín hữu Cơ Đốc giáo quý mến," mọi khuôn mặt kinh doanh lầm lì của những thương gia, của những chủ lò bánh mì cùng các bà vợ đều cúi gằm, cố nặn vẻ nghiêm trang, những bối rối và giả trá; chẳng có gì khiến những khuôn mặt ấy lộ nét cảm kích hơn là buổi lễ tang không chút thoải mái này chấm dứt sớm. Khi tang lễ kết thúc, hai người đứng hàng đầu trong số các tín hữu Cơ Đốc giáo bắt tay ông mục sư, rồi họ tới vệ cỏ gần đó cọ giày cho sạch lớp bùn nhão nhoét, thứ bùn mà họ đã chôn người chết; gương mặt họ tức thì trở lại bình thường, ra dáng con người. Chợt thôi thấy một người trong đám ấy có vẻ quen quen, dường như đó là người đàn ông ngày nọ đã vác tấm bích chương và ấn vào tay tôi tập sách mỏng kia.
Đúng lúc tôi ngỡ là nhận ra ông ta, thì ông ta quay người, cúi xuống kiểu cách xắn chiếc quần đen lên khỏi giày rồi nhanh nhẹn bước đi, cây dù kẹp dưới nách. Tôi chạy theo, bắt kịp, gật đầu chào, nhưng dường như ông ta không nhận ra tôi.
"Hôm nay không có giải trí buổi tối à?" tôi vừa hỏi vừa nháy mắt, giống những kẻ đồng lõa biết được điều bí mật vẫn làm với nhau. Nhưng đã lâu lắm rồi, từ cái thời tôi rành rẽ lối ra hiệu bằng điệu bộ và nét mặt, lối sống của tôi đã khiến tôi gần như quên mất thế nào là nói năng và trò chuyện, thành ra chính tôi cũng cảm thấy mình chỉ nặn được một vẻ mặt nhăn nhó ngớ ngẩn.
"Giải trí buổi tối à?" người đàn ông vừa lầu bầu vừa nhìn tôi như một kẻ lạ hoắc. "Cha nội ơi, nếu có nhu cầu thì cứ đến quán Đại Bàng Đen."
Quả thật tôi không còn dám chắc ông ta chính là người mình muốn tìm. Tôi thất vọng tiếp tục đi, chẳng rõ tới đâu, không mục đích, nỗ lực hay nhiệm vụ nào. Cuộc đời cay đắng đến ghê tởm; tôi cảm thấy sự chán ghét ngày một tăng đã từ lâu nay đạt tới cao điểm và cuộc đời xua đuổi, ruồng bỏ tôi như thế nào. Tôi giận dữ chạy qua thành phố xám xịt, thấy mọi thứ dường như toát ra mùi đất ẩm ướt và mùi mai táng. Không, ngày chôn cất tôi sẽ không một con chim báo tử khoác áo thụng thầy tu nào lảm nhảm những lời ủy mị với tín hữu Cơ Đốc giáo được phép đứng bên huyệt của tôi! Chao ơi, mặc lòng tôi nhìn về đâu, mặc lòng tôi hướng suy nghĩ về đâu, chẳng nơi nào chờ đợi tôi với niềm vui, không nơi nào vẫy gọi tôi, không nơi nào thoảng chút hơi hướm của sự dụ dỗ; tất cả đều nồng nặc mùi hao mòn thối rữa, mùi thỏa mãn tạm bợ hôi rình, tất cả đều củ mèm, tàn tạ, xám ngoét, bơ phờ, kiệt quệ. Chúa ơi, sao lại thế được? Sao tôi lại có thể lâm vào một hoàn cảnh như thế được - tôi, gã thanh niên được chắp cánh, thi sĩ, bạn của những nữ thần thơ ca, kẻ ngao du khắp thế gian, kẻ mộng mơ cuồng nhiệt? Làm thế nào mà nó luồn vào tôi từ từ như thế được, cái sự tê liệt ấy, niềm thù hận ấy đối với bản thân tôi và tất cả, sự tắc nghẽn ấy của mọi cảm giác, sự bất mãn sâu xa cay độc ấy, cái địa ngục bẩn thỉu ấy của trái tim trống rỗng và niềm tuyệt vọng?
Lúc đi ngang qua thư viện, tôi gặp một ông giáo sư trẻ mà trước đây tôi thỉnh thoảng vẫn trò chuyện, thậm chí vài năm trước, trong lần cuối cùng cư ngụ tại thành phố này, tôi từng nhiều lần đến tận nhà thăm, cùng ông mạn đàm về thần thoại phương Đông, một lĩnh vực tôi rất quan tâm hồi đó. Đi ngược chiều tôi, nhà học giả dáng người cứng đơ và cận thị khá nặng, chỉ kịp nhận ra tôi khi tôi sắp đi qua khỏi. Ông nhảy bổ vào tôi với cả tấm chân tình, còn tôi nửa vui nửa không vì lòng đang rầu rĩ. Ông mừng rỡ, sôi nổi hẳn lên, nhắc lại những chi tiết từ các buổi mạn đàm ngày trước của chúng tôi, đoan chắc rằng ông rất hàm ơn những gợi ý của tôi và vẫn thường nhớ đến tôi; kể từ dạo ấy ông ít khi có được những buổi tranh luận hào hứng và phong phú đến thế với các đồng nghiệp. Ông hỏi tôi tới thành phố này bao lâu rồi (tôi nói dối: mới vài ngày) và sao không đến thăm ông. Tôi nhìn vào khuôn mặt học giả hiền lành của con người dễ mến ấy, thấy khung cảnh hơi nực cười, nước dãi ứa đầy vòm họng khô khốc, tình cảm khiến hắn mềm lòng dù hắn không muốn. Đúng thế, cho nên tôi mồm năm miệng mười nói dối rằng chỉ ở tạm đây thôi, vì chuyện nghiên cứu, và tại trong người không khỏe, bằng không tất nhiên thế nào tôi cũng đến thăm ông chứ. Rồi khi ông chân thành mời tôi thế nào cũng phải đến chơi ngay buổi tối ấy, tôi liền cám ơn nhận lời và nhờ ông chuyển lời chào đến bà vợ; việc nói cười hăm hở này khiến hai bên má tôi đau dần, vì chúng không còn quen phải gắng sức như thế nữa. Và trong lúc tôi, Harry Haller này, đứng đấy trên đường phố, hoàn toàn bất ngờ vì được tâng bốc nên đã lễ độ và vồn vã mỉm cười với khuôn mặt hiền lành cận thị của con người dễ mến này, thì gã Harry kia đứng ngay bên cạnh cũng cười luôn, gã vừa đứng vừa cười, nghĩ tôi đúng là một thứ anh em quái gở, lươn lẹo và dối trá; mới hai phút trước tôi còn nhe răng phẫn nộ với cả thế gian khốn kiếp, thế mà giờ đây chỉ nghe một tiếng gọi, một lời chào hỏi vô thưởng vô phạt của một kẻ trưởng giả thật thà đáng trọng đã liền cảm kích, hăm hở đồng tình và tận hưởng chút thiện cảm, sự trọng thị và vẻ ân cần chẳng khác một con heo sữa đằm mình trong bùn. Hai gã Harry này, hai nhân vật cực kỳ mất thiện cảm, đứng đối diện như thế đấy với ông giáo sư lịch thiệp; chúng chế giễu nhau, xét nét nhau, nhổ toẹt trước mặt nhau và một lần nữa tự hỏi, như từng luôn xảy ra trong những hoàn cảnh tương tự, rằng đó đơn thuần là sự ngu muội và nhu nhược của con người, số phận con người nói chung, hay tính ích kỷ ủy mị này, sự thiếu cá tính này, tính không nghiêm chỉnh và lá mặt lá trái này của cảm giác chỉ là một khí chất riêng của lũ sói thảo nguyên. Nếu thứ đê tiện này là của con người nói chung thì lòng khinh bỉ thế giới của tôi có thể nhào lên nó với một sức mạnh mới; còn nếu đó chỉ là sự hèn mọn của riêng tôi, thì đấy sẽ là dịp để tôi mặc sức tự khinh bỉ mình.
Trong lúc hai gã Harry này cãi vã thì tôi hầu như quên bẵng ông giáo sư; nên bây giờ sự hiện diện của ông đột nhiên khiến tôi lại thấy khó chịu và tôi hối hả tìm cách dứt khỏi ông cho rảnh nợ. Tôi nhìn theo ông một lúc lâu, khi bóng ông khuất dần trên đại lộ trơ trụi, với dáng đi hiền lành và hơi kỳ quái của một con người có lý tưởng cao, một kẻ sùng tín. Cuộc gấu ó kia sôi sục trong lòng tôi; trong lúc co vào, duỗi ra như máy những ngón tay cứng đơ bị chứng thống phong âm thầm hành hạ, tôi phải thú nhận rằng mình đã bị phỉnh nịnh nên đã tròng vào cổ lời mời ăn chiều lúc bảy giờ rưỡi, cùng với bó buộc về lịch sự, tán gẫu về khoa học và ngắm nhìn hạnh phúc gia đình người khác. Tôi điên tiết đi về nhà, uống ly rượu Cognac pha với nước, ngoài ra còn nuốt vài viên thuốc trị bệnh thống phong, rồi ngả người trên đi văng, cố đọc sách. Cuối cùng, khi đã đọc được một lúc quyển Chuyến du lịch của Sophie từ Memel đến Sachsen, một câu chuyện giải trí mê ly của thế kỷ 18, tôi sực nhớ đến lời mời nọ, mà tôi chưa cạo râu, lại còn phải ăn vận nữa. Chỉ Chúa biết sao tự dưng tôi lại tròng vào cổ những chuyện này! Nào, Harry, đứng lên, bỏ sách xuống, xát xà phòng cạo râu, gọt cằm cho tóe máu, đóng bộ vào và hãy hài lòng nơi con người! Trong lúc xát xà phòng tôi nghĩ tới cái hố bùn bẩn thỉu trong nghĩa trang, nơi hôm nay họ đã thòng dây hạ huyệt kẻ xa lạ nọ, đến những khuôn mặt nhăn nhó của những tín hữu Cơ Đốc giáo buồn tẻ, nghĩ mà không nhếch mép cười nổi. Tôi thấy dường như tại cái hố bùn bẩn thỉu nọ, trong những lời ngu muội lúng ba lúng búng của nhà thuyết giảng, trong nét mặt lúng ba lúng búng ngu muội của tang chúng, trong cảnh hoang liêu của mọi cây thập giá và bia mộ bằng sắt thép và cẩm thạch, trong hết thảy những bông hoa giả bằng dây kẽm hoặc thủy tinh, không chỉ kết thúc đời kẻ xa lạ nọ, nơi đó không chỉ tôi cũng sẽ kết thúc ngày mai hoặc ngày kia, bị vùi lấp vào bùn đất dưới vẻ bối rối và dối trá của những kẻ tham dự; không, tất cả đều sẽ kết thúc như thế, mọi kỳ vọng của chúng ta, toàn bộ văn hóa của chúng ta, toàn bộ niềm tin của chúng ta, mọi nỗi sống vui và tính yêu đời của chúng ta, cái tính yêu đời đã quá bệnh hoạn và chẳng mấy chốc cũng sẽ bị chôn vùi. Thế giới văn minh của chúng ta là một bãi tha ma, trong đó Chúa Jesus Ki-tô và Socrates, Mozart và Haydn, Dante 15 và Goethe chỉ còn là những tên tuổi phai mờ trên những mộ bia han gỉ; đám người đưa tang bối rối và giả trá bu quanh sẵn sàng trả khối tiền, nếu họ còn tin tưởng nổi vào những tấm mộ bia bằng kim loại từng là thiêng liêng đối với họ; họ sẵn sàng trả khối tiền, dù ít nhất có thể nói được một lời trung thực, nghiêm chỉnh về nỗi u buồn và niềm tuyệt vọng đối với cái thế giới đã tiêu vong, nhưng thay vào những thứ ấy họ chẳng còn gì khác hơn là gượng gạo cười, đứng vơ vẩn bên một tấm mộ. Bực bội nên tôi lại làm trầy trụa chỗ xưa nay vẫn thường bị ở cằm, phải tẩy rửa vết thương mất một lúc, và lại phải thay chiếc cổ áo vừa mới đeo 16 mà hoàn toàn chẳng hiểu tại sao mình lại làm tất cả những điều ấy, vì tôi chẳng chút hứng thú với lời mời. Nhưng một phần của Harry lại giở trò, bảo rằng ông giáo sư là kẻ đáng mến, khao khát được tiếp xúc, chuyện vãn và giao tế đôi chút với con người, hắn nhớ tới bà vợ xinh xắn của ông ta, thấy về cơ bản cái ý tưởng trải qua một buổi tối với những người chủ nhà khả ái thật là đáng phấn khởi và hắn giúp tôi dán lên cằm một miếng băng của Anh, giúp tôi mặc quần áo, thắt chiếc ca vát lịch sự và nhẹ nhàng khuyên tôi từ bỏ điều mong muốn thật sự là được ở nhà. Đồng thời tôi lại nghĩ: giống như tôi thắng bộ lúc này rồi đến thăm ông giáo sư, trao đổi với ông những điều lễ độ mang ít nhiều giả dối mà tôi thật lòng không muốn, thì phần lớn con người ta hằng ngày, hằng giờ phải sống và hành động tương tự như thế, bó buộc chứ không hề muốn; họ thăm viếng, trò chuyện với nhau, ngồi cho hết giờ ở bàn giấy, dù trong công sở hay hãng tư, tất cả đều miễn cưỡng, máy móc, gượng gạo, tất cả những chuyện này để máy móc làm cũng tốt không kém hoặc bỏ cũng chẳng sao; chính cái cơ chế chạy hoài hủy đó đã ngăn cản họ, giống như trong trường hợp tôi, phê phán chính cuộc sống của mình, ngăn cản họ cảm nhận sự ngu muội và hời hợt, sự khả nghi đáng tởm, sự buồn rầu tuyệt vọng và nhạt nhẽo của cuộc sống ấy. Chà, họ - những con người ấy - có lý, có lý quá, khi họ sống như thế, chơi trò chơi của họ, đeo đuổi những việc quan trọng của họ thay vì cưỡng lại cái cơ chế ảo não và đăm đăm nhìn tuyệt vọng vào cõi hư vô, như tôi - một kẻ lầm đường lạc lối - đang làm. Nếu trong những trang giấy này thỉnh thoảng tôi khinh thị và cả giễu cợt con người, xin đừng ai nghĩ rằng tôi đổ lỗi cho họ, lên án họ, quy trách nhiệm cho người khác về nỗi khốn khổ của cá nhân tôi! Nhưng mà tôi, kẻ đã dấn bước quá xa và nay đứng bên rìa cuộc sống, nơi nó rơi vào cõi tối đen thăm thẳm, sẽ sai trai và dối trá nếu cố lừa mị mình và người khác, làm như thể cái cơ chế kia vẫn quay đều với cả tôi trong đó, như thể cả tôi cũng vẫn thuộc về thế giới trẻ thơ đẹp đẽ nọ của trò chơi miên viễn.
Cho nên buổi tối hôm ấy cũng tuyệt vời tương ứng. Tôi dừng lại một lúc trước ngôi nhà của ông giáo sư, ngước nhìn những khung cửa sổ. Người đàn ông này sống ở đây, tôi thầm nghĩ, ông ta không ngừng làm công việc của mình hết năm này sang năm khác, hứng thú đọc và chú giải những văn bản, tìm kiếm những liên hệ những thần thoại vùng Tây Nam Á với Ấn Độ, vì ông tin tưởng vào giá trị của việc mình làm, tin vào khoa học mà ông là kẻ phục vụ, tin vào giá trị của kiến thức đơn thuần, của sự thu thập nó, vì ông tin vào sự tiến bộ, vào sự phát triển. Ông không phải trải qua cuộc chiến tranh 17, không trải nghiệm sự chấn động tận nền tảng của sự tư duy - cho tới bây giờ - mà Einstein 18 đã gây ra (ông nghĩ rằng điều này chỉ liên quan đến các nhà toán học), ông không mảy may thấy chung quanh mình cuộc chiến tranh sắp tới đang được chuẩn bị ráo riết như thế nào, ông cho rằng người Do Thái và Cộng sản là đáng thù ghét, ông thật không khác một đứa trẻ vô tư lự, ham đùa nghịch, tự cho mình là quan trọng, ông thật đáng ganh tị xiết bao. Gạt bỏ do dự, tôi bước vào, được một cô người làm đeo tạp dề trắng ra đón; chẳng hiểu linh cảm thế nào mà tôi lại ghi nhớ rõ chỗ cô treo mũ cùng măng tô của tôi; cô mời tôi vào một căn phòng sáng sủa ấm cúng, yêu cầu tôi ngồi đợi; rồi tôi, thay vì cầu nguyện hay nhắm mắt ngơi một lát, lại chiều theo bản năng nghịch ngợm của mình, vớ ngay lấy một vật gần nhất trong tầm tay. Đó là một bức hình nhỏ lồng khung đứng nghiêng nghiêng trên chiếc bàn tròn nhờ cái chân chống bằng giấy bồi cứng, một bản khắc đồng diễn tả thi hào Goethe, một cụ già đầy cá tính, mái tóc hết sức chải chuốt với khuôn mặt được tạo hình thật đẹp và không thể thiếu đôi mắt rực lửa nổi tiếng cùng đường nét thoa phấn trắng hơi cô đơn và đau khổ của người sống trong cung đình mà nhà nghệ sĩ đã đặc biệt dày công tô điểm. Y đã thành công trong việc tạo nên một vẻ thản nhiên và trung thực khá mô phạm lẫn kịch cỡm mà không làm tổn hại đến sự sâu sắc nơi cụ già quỷ quái này; nói chung, nhà nghệ sĩ nọ đã biến Goethe thành một con người đẹp lão thật sự, đáng trưng bày trong mỗi ngôi nhà trưởng giả. Có lẽ tấm hình này không ngô nghê hơn mọi bức cùng loại của các thợ thủ công cần cù về nghệ thuật, như những bức hình đấng Cứu thế xinh đẹp, hình các tông đồ, các vị anh hùng, những thiên tài về tư tưởng và những chính khách tài ba; nhưng nó khiến tôi bực mình có lẽ chỉ do một sự thành thạo điêu luyện nào đấy; dẫu vì lý do gì thì cái hình ảnh diễn tả vô nghĩa và tự mãn này về cụ Goethe đã như quát ngay vào mặt tôi - nghe rất chói tai và hậu quả thật đáng tiếc, vì tôi đang cáu tiết do sẵn khá bực dọc - rằng tôi đã đến nhầm nơi, rằng đây là chỗ dành cho những bậc lão thành được cách điệu hóa tuyệt mỹ và những vĩ nhân của đất nước, chứ không phải cho lũ sói thảo nguyên.
Giá lúc ấy ông chủ nhà bước vào thì may ra tôi có thể viện những lý do có thể chấp nhận để rút lui. Nhưng người bước vào lại là bà vợ ông, nên tôi đành phó mặc cho số phận, dù đã linh cảm chuyện chẳng lành. Vừa chào hỏi nhau xong thì tiếp theo điều lạc điệu đầu tiên chỉ toàn là những lạc điệu mới. Bà khen vẻ mặt tôi tươi tốt, mà tôi quá rõ rằng mình đã già đi biết bao trong mấy năm qua, kể từ lần gặp gỡ cuối cùng. Chỉ cần bắt tay bà thôi là những ngón tay nhức buốt do chứng thống phong đã nhắc nhở tôi đau xót nhớ tới điều ấy. Đúng thế! rồi bà hỏi thăm về sức khỏe người vợ yêu quý của tôi, tôi phải trả lời rằng vợ tôi đã bỏ tôi và chúng tôi ly dị nhau rồi 19. Nên cả bà lẫn tôi đều mừng rỡ, khi ông giáo sư bước vào. Ông cũng niềm nở chào tôi và vở kịch nhanh chóng mang vẻ khôi hài nhất mà ta có thể hình dung được. Ông cầm tờ nhật báo đặt mua dài hạn của cái đảng quân phiệt và kích động chiến tranh 20; bắt tay xong, ông chỉ vào tờ báo kể rằng trong đó viết đôi điều về một người trùng tên với tôi, một nhà báo Haller; hẳn y là một kẻ đê tiện và vô Tổ quốc, vì y đã chế nhạo Đức Hoàng đế 21 và cho rằng trong việc gây ra cuộc chiến tranh, Tổ quốc của y cũng gánh trách nhiệm không kém những nước thù địch. Hẳn y phải là một kẻ tồi tệ nhường nào! Đây, trong tờ báo này y đã bị vạch mặt chỉ tên, ban biên tập đã đập y tơi bời và bêu riếu phải biết! Nhưng khi thấy tôi không quan tâm đến chuyện ấy, ông liền đổi qua đề tài khác; vợ chồng ông thật chẳng mảy may nghĩ tới khả năng có thể tên ác ôn kia đang ngồi ngay trước mặt họ. Đúng vậy đấy, tên ác ôn nọ chính là tôi. Chà, khua chiêng gióng trống khiến người ta bất an mà làm gì! Tôi cười thầm, nhưng không còn hy vọng tối hôm đó có được đôi chút thoải mái. Tôi vẫn nhớ rõ giây phút ấy, vì đúng lúc đó, khi ông giáo sư nói về tên phản quốc Haller, cái cảm giác phiền muộn và tuyệt vọng tồi tệ không ngừng chất chứa trong tôi từ lúc dự đám tang càng lúc càng dữ dội thêm, trở thành một sức ép điên cuồng, một tình trạng cùng quẫn mà tôi cảm thấy rõ trong cơ thể mình (nơi bụng dưới), một cảm giác sợ hãi đến ngạt thở về định mệnh. Có gì đó đang rình rập, tôi cảm thấy thế, một mối nguy cơ đang lẻn tới tôi từ phía sau. May thay chúng tôi được thông báo bữa ăn đã sẵn sàng. Chủ khách cùng kéo vào phòng ăn; trong lúc tôi luôn cố gắng nói hoặc hỏi những điều vô thưởng vô phạt, tôi lại ăn nhiều hơn bình thường, nên càng lúc càng cảm thấy thảm hại hơn. Lạy Chúa, tôi không ngớt thầm nghĩ, sao chúng ta cứ phải gắng sức thế này? Tôi cảm thấy rõ chính vợ chồng chủ nhà cũng không thoải mái; họ phải cố gắng mới tươi tỉnh được, hoặc vì tôi đã khiến họ bị tê liệt đến mức ấy, hoặc vì trong nhà này có điều chi bất hòa. Họ hỏi tôi toàn những điều mà tôi không trả lời thẳng thắn được; chẳng mấy chốc tôi buộc toàn phải nói dối thật sự, để rồi phải chống chịu nỗi kinh tởm sau mỗi lời mình thốt ra. Cuối cùng, để lái sang đề tài khác, tôi kể về đám tang đã chứng kiến bữa nay. Nhưng tôi ăn nói tẻ nhạt nên những cố gắng gây hài hước của mình chỉ tạo ra bực dọc, khiến chủ khách lại càng thêm xa cách; con sói trong tôi liền nhe răng cười. Lúc ăn tráng miệng cả ba chúng tôi đều lặng lẽ hẳn.
Rồi chủ khách cùng quay lại căn phòng đầu tiên để dùng cà phê và rượu; biết đâu hai món này sẽ giúp chúng tôi được chút gì chăng. Nhưng ở đó, bậc thái sơn bắc đẩu của làng thơ lại đập vào mắt tôi; cụ đã được mời sang một chiếc tủ chè bên cạnh. Tôi không dứt khỏi cụ được nên đã lại cầm lấy, bắt đầu tranh luận với cụ, dù không phải không nghe thấy tiếng cảnh báo trong lòng mình. Tôi như bị ám ảnh bởi cảm giác rằng bây giờ tình thế đã trở thành khôn kham và tôi phải hoặc làm cho vợ chồng chủ nhà sôi nổi lên bằng được, lôi cuốn họ vào sự cao hứng giống như tôi hoặc đưa đến đổ bể hoàn toàn.
"Chúng ta hãy hy vọng," tôi nói, "rằng Goethe thật sự trông không như thế này, không mang cái dáng điệu kiêu căng và quý tộc này, cái phẩm cách làm duyên làm dáng này đối với quý vị quan khách tham quan và ẩn dưới bề ngoài có vẻ nam tính là cả một thế giới đa cảm rất yếu đuối. Đương nhiên người ta có thể phản bác cụ nhiều thứ, chính tôi cũng thường không ưa ông già làm bộ làm tịch này, nhưng diễn tả cụ như vầy thì không được, thế là quá lố."
Với khuôn mặt cực kỳ thiểu não, bà chủ nhà rót xong cà phê liền hối hả đi ra; ông chồng thổ lộ với tôi - nửa bối rối, nửa trách móc - rằng bức hình Goethe này là của vợ ông và bà đặc biệt yêu quý nó. "Ngay cả ông đúng về mặt khách quan, điều mà tôi phủ nhận, thì ông cũng không nên nói toạc ra như thế chứ."
"Ông nói đúng," tôi công nhận. "Rất tiếc đó là một thói quen, một tật xấu của tôi, cứ luôn chọn lối nói thẳng thừng nhất, điều mà Goethe cũng từng làm trong những giờ phút thoải mái của mình. Cụ Goethe dễ thương và thiển cận trong phòng khách này dĩ nhiên chẳng bao giờ dùng một lối nói thành thật trực tiếp. Tôi tha thiết mong ông bà tha lỗi cho - xin ông nói giúp với bà nhà rằng tôi là một kẻ mắc chứng tâm thần phân liệt. Đồng thời tôi cũng xin phép cáo từ."
Chủ nhà luống cuống vài lời chống chế, nhắc cả chuyện ngày trước chúng tôi từng có những buổi mạn đàm thú vị và gây cảm hứng; đúng thế, điều phỏng đoán hồi đó của tôi về Mithras và Krishna 22 từng gây ấn tượng sâu đậm cho ông và ông đã hy vọng hôm nay cũng sẽ lại... vân vân. Tôi cảm ơn ông về những lời rất mực thân ái ấy, nhưng tiếc thay sự quan tâm của tôi tới Krishna đã tan biến, cũng như tôi hoàn toàn chẳng còn hứng thú gì với những buổi mạn đàm khoa học, rằng hôm nay tôi đã nhiều lần nói dối ông, chẳng hạn không phải tôi đến thành phố này mới vài ngày, mà đã nhiều tháng rồi, nhưng sống một thân một mình và không tiện giao du với những gia đình trưởng giả nữa, vì một là tôi rất xấu tính, lại mắc bệnh thống phong và hai là tôi rất thường say sưa. Ngoài ra, để làm sáng tỏ và ít nhất không từ giã như một kẻ dối trá, tôi phải giải thích cho ông chủ nhà quý mến rằng hôm nay ông đã rất miệt thị tôi, vì ông đã lấy quan điểm của một tờ báo phản động về những suy nghĩ của Haller làm của mình, những quan điểm ngu xuẩn, đầu bò đầu bướu, thích hợp với một viên sĩ quan vô công rồi nghề, nhưng không xứng với một học giả như ông. "Gã vô Tổ quốc" Haller đó lại chính là tôi và có lẽ sẽ tốt hơn cho đất nước chúng ta và thế giới, nếu có được ít ra dăm ba kẻ biết suy nghĩ chịu đứng về phía lý trí và yêu chuộng hòa bình, thay vì mù quáng và điên cuồng nhắm tới một cuộc chiến tranh mới. Thôi, đành vâng theo ý Chúa!
Thế là tôi đứng lên, từ biệt cụ Goethe và ông giáo sư, giật phăng mũ áo treo trên móc ở nhà ngoài rồi bỏ đi. Con sói trong lòng tôi tru lên hể hả; giữa hai gã Harry nổ ra một trận đấu khẩu kịch liệt. Vì buổi tối kém vui vẻ này mang nhiều ý nghĩa với tôi hơn là với ông giáo sư đang phẫn nộ kia, tôi rõ ngay điều ấy; với ông nó chỉ là một sự thất vọng và một chút bực mình, còn với tôi đó là một thất bại và một cuộc tháo chạy cuối cùng, là sự giã từ của tôi với thế giới trưởng giả, đạo đức và thông thái, một thắng lợi hoàn toàn của con sói thảo nguyên. Tôi giã từ như kẻ đào tẩu và chiến bại, như một lời tuyên bố phá sản trước chính mình, giã từ không lời an ủi, không kênh kiệu, không hài hước. Tôi đã giã từ thế giới cũ, quê hương xưa của mình, lối sống trưởng giả, tập quán, sự uyên bác không khác một kẻ đau bao tử giã biệt món thịt heo chiên. Tôi giận dữ bước đi dưới những ngọn đèn đường, giận dữ và buồn thắt ruột. Thật là một ngày buồn nản, đáng xấu hổ, tồi tệ, từ sáng đến tối, từ nghĩa trang đến những biến cố trong nhà ông giáo sư! Để làm gì chứ? Tại sao? Có ý nghĩa gì không, khi chất lên mình thêm nhiều ngày như thế này nữa, hứng chịu thêm nhiều hậu quả tồi tệ như thế này nữa? Không! Thế thì đêm nay tôi sẽ kết thúc vỡ hài kịch này. Về nhà thôi, Harry, về mà cắt phăng cái họng mi đi! Mi đã chờ đợi chuyện này đủ lâu rồi.
Tôi lang thang qua các phố xá, lòng dằn vặt khổ đau. Đúng là tôi đã quá ngu xuẩn, ngu xuẩn và bất lịch sự, khi phỉ nhổ vật trang hoàng phòng khách của những con người tử tế, nhưng tôi hoàn toàn không thể làm khác được, tôi không thể chịu đựng nổi lối sống dễ bảo, giả trá và ngoan ngoãn kia. Và vì tôi, chừng như thế, cũng không thể chịu nổi sự cô đơn nữa, vì xã hội của riêng tôi cũng đã trở nên đáng ghét và kinh tởm khôn xiết đối với tôi, vì tôi ngạt thở giãy giụa trong cái địa ngục thiếu vắng không khí của mình, vậy hỏi còn lối thoát nào nữa chứ? Không còn lối nào cả. Hỡi mẹ cha, hỡi ngọn lửa thiêng thời trẻ xa xôi của tôi, hỡi muôn và niềm vui, công trình và mục tiêu của đời tôi! Tôi chẳng còn gì trong tất cả những thứ ấy, không có nổi một sự ân hận, chỉ toàn kinh tởm và đau đớn. Chưa bao giờ, dường như thế, cái việc duy nhất là phải sống lại khiến tôi đau khổ như trong giờ phút này.
Tôi ngồi nghỉ một lúc trong cái quán buồn tẻ ở ngoại ô, uống rượu Cognac pha nước, rồi tiếp tục đi như bị ma đuổi lên những con đường dốc quanh co của khu phố cổ, rồi lại xuống dốc, qua những đại lộ, băng qua quảng trường Nhà Ga. Mình đi nơi khác! tôi nghĩ thế, rồi bước vào trong ga, nhìn đăm đăm vào bảng giờ tàu chạy trên những bức tường, uống chút vang, cố ngẫm nghĩ. Tôi bắt đầu nhận ra, càng lúc càng gần hơn, càng lúc càng rõ rệt hơn, cái bóng ma đã khiến tôi khiếp sợ. Bóng ma đó chính là về nhà, là quay về trong căn phòng mình, là sự phải bình thản trước nỗi tuyệt vọng! Tôi không sao thoát nổi bóng ma ấy; dù đi loanh quanh thêm nhiều giờ nữa tôi vẫn không thoát nổi phải trở về với cái cửa phòng mình, tới cái bàn đầy sách, tới cái đi văng với tấm hình người yêu dấu của tôi treo phía trên, không thoát nổi giây phút tôi rút dao cạo và tự cắt cổ. Hình ảnh này hiện ra càng lúc càng rõ rệt trước mắt tôi và tôi cảm thấy càng lúc càng rõ, với trái tim hối hả, nỗi sợ hãi nhất trong mọi sợ hãi: sợ cái chết! Vâng, tôi sợ chết kinh khủng. Cho dù tôi không thấy một lối thoát nào khác, dù sự kinh tởm, đau khổ và tuyệt vọng chồng chất quanh tôi, dù chẳng còn gì khêu gợi được tôi, tạo nổi cho tôi niềm vui và hy vọng, tôi vẫn cứ khiếp sợ không thốt nên lời trước sự hành hình, trước giây phút cuối cùng, trước vết cứa lạnh lẽo toang hoác vào chính da thịt mình! Tôi không thấy lối nào thoát khỏi điều đáng sợ này. Hôm nay sự hèn nhát có thể thắng trong trận đấu tranh giữa tuyệt vọng và hèn nhát, ngày mai và mọi ngày khác tôi sẽ lại vẫn đối diện với nỗi tuyệt vọng, nhiều hơn nữa, do tự khinh bỉ. Tôi sẽ cứ hết cầm lưỡi dao rồi lại quăng nó đi, cho đến lúc rốt cục sẽ thực hiện ý định. Thế thì là làm quách hôm nay! Tôi lựa lời tự nhủ, như vỗ về một đứa trẻ đang sợ hãi, nhưng nó không nghe mà bỏ chạy, nó muốn sống. Rùng mình từng cơn, tôi tiếp tục đi qua thành phố, vòng thật xa căn hộ của mình, luôn nghĩ đến việc trở về, nhưng luôn trì hoãn. Chỗ này chỗ nọ tôi dừng chân ở một quán rượu, vừa đủ lâu để uống một hai ly, rồi nó lại tiếp tục săn đuổi tôi vòng quanh thật xa mục tiêu, quanh lưỡi dao cạo, quanh cái chết. Thỉnh thoảng tôi mệt rũ ngồi trên băng ghế, trên một bờ giếng, trên một cái bệ chống va, nghe tim đập, lau mồ hôi trán, rồi lại tiếp tục đi, lòng đầy nỗi sợ ghê gớm, đầy nỗi khát khao khắc khoải được sống.
Tôi lang thang như thế, lúc ấy đã khuya, tới một vùng ngoại ô tít tắp và gần như xa lạ đối với tôi, vào một quán trọ có tiếng nhạc khiêu vũ xập xình hắt ra từ những cửa sổ. Khi bước vào, tôi thấy bên trên cổng treo một tấm bảng hiệu cũ kỹ: "Đến với quán Đại Bàng Đen". Buổi tối miễn phí nên quán đầy nghẹt người cùng với khói thuốc, hơi rượu và tiếng la ó; người ta khiêu vũ ở căn phòng phía sau, nơi phát ra tiếng nhạc điên cuồng. Tôi dừng lại trong căn phòng trước, nơi toàn những kẻ ăn mặc xuềnh xoàng, nghèo nàn cũng có, còn trong phòng nhảy phía sau thấy có cả những bộ áo quần thanh lịch. Tôi bị đám đông xô đẩy tới sát một cái bàn bên cạnh quầy rượu; một cô gái xinh xắn, xanh xao mặc y phục dạ hội mỏng, hở cổ thật sâu, tóc cài một bông hoa đã héo đang ngồi ở đấy trên chiếc ghế dài dựa sát tường. Thấy tôi tới, nàng thân mật chăm chú nhìn rồi mỉm cười nhích qua một bên, nhường chỗ.
"Tôi được phép chứ ạ?" tôi hỏi và ngồi xuống cạnh nàng.
"Đương nhiên, anh được phép," nàng nói, "anh là ai thế?"
"Cám ơn cô," tôi nói, "tôi không thể nào trở về nhà; tôi không thể, tôi không thể, tôi muốn ở lại đây, với cô, nếu cô cho phép. Không, tôi không thể trở về nhà."
Nàng gật đầu như thể hiểu ý tôi; lúc nàng gật đầu, tôi quan sát lọn tóc từ trán nàng xõa qua tai, thấy bông hoa héo kia là một đóa hoa trà. Từ bên kia vang tới tiếng nhạc chát chúa, còn ở quầy mấy cô bán hàng hối hả xướng lên những món khách gọi.
"Thì anh cứ ở đây," giọng nàng khiến tôi thấy dễ chịu. "Mà sao anh lại không thể về nhà?"
"Tôi không thể. Ở đó có gì đấy đang chờ đợi tôi - không, tôi không thể, khủng khiếp lắm."
"Thế thì cứ để nó chờ, còn anh ở lại đây. Này, trước hết anh lau kính đi đã, anh có nhìn gì được đâu nào. Thế, đưa em cái khăn tay của anh. Mình uống gì nào? Vang Burgund nhé?"
Nàng lau kính cho tôi; lúc ấy tôi mới nhìn rõ nàng, khuôn mặt xanh xao, cương nghị, đôi môi tô đỏ chót, đôi mắt xám nhạt, vầng trán láng nhẵn, tươi mát, một lọn tóc ngắn và căng phía trước tai. Nàng gọi vang, chăm sóc tôi với vẻ hiền lành, pha chút giễu cợt; trong lúc cụng ly nàng ngó xuống đôi giày của tôi.
"Chúa ơi, anh từ đâu đến vậy? Trông cứ như thể anh đã cuốc bộ từ Paris tới đây. Chẳng ai đến một buổi khiêu vũ với bộ dạng như thế này cả."
Tôi ừ hữ, khẽ cười, còn cứ để nàng nói. Tôi thấy nàng rất khả ái và điều ấy khiến tôi thật sự ngạc nhiên, vì xưa nay tôi toàn tránh xa những thiếu nữ kiểu này, nghi kỵ nữa là khác. Nàng đã cư xử với tôi đúng theo cái cách tốt nhất cho tôi trong lúc này - ôi, từ đó nàng luôn như thế đối với tôi, vào bất cứ lúc nào. Nàng chăm chút tôi như tôi cần, nàng giễu cợt tôi như tôi cần. Nàng gọi một ổ bánh mì kẹp, bảo tôi ăn. Nàng rót rượu cho tôi, bảo tôi uống, nhưng đừng quá nhanh. Rồi nàng khen tôi biết vâng lời.
"Anh ngoan lắm," nàng khích lệ tôi, "anh không làm khó dễ ai. Em đánh cuộc là đã lâu rồi anh mới lại phải nghe lời ai đấy, đúng không?"
"Đúng. Cô thắng cuộc. Sao cô biết được nhỉ?"
"Có gì khó đâu. Nghe lời cũng như ăn uống thôi - ai thiếu thốn nó lâu, sẽ thấy chẳng có gì hơn được nó. Anh sẵn lòng nghe lời em đúng không?"
"Rất sẵn lòng. Cô biết hết."
"Anh làm nó thành dễ dàng cho em mà. Anh bạn ạ, có thể em còn nói cho anh được cái gì đang chờ anh ở nhà và cái gì làm anh sợ đến thế nữa cơ. Nhưng chính anh biết mà, mình chẳng cần nói về điều đó nữa, nhé? Vớ vẩn! Hoặc là một người treo cổ, ừ thì y treo cổ, y có lý do của y. Hoặc y vẫn sống, lúc ấy y chỉ phải quan tâm đến cuộc sống thôi. Chẳng có gì đơn giản hơn."
"Ôi chao," tôi kêu lên, "phải chi nó đơn giản như thế! Còn tôi, có Chúa biết là tôi đã quan tâm đầy đủ đến cuộc đời, mà chẳng ăn thua gì. Treo cổ có thể là chuyện khó, tôi không rõ. Nhưng sống khó hơn gấp bội! Chúa ơi, khó biết mấy!"
"Dào, anh sẽ thấy nó dễ như bỡn. Mình đã làm được bước đầu rồi, anh đã lau kính, đã ăn, đã uống. Bây giờ mình đi, chải quần với giày của anh một chút, cần đấy. Rồi anh sẽ nhảy với em một bản Shimmy."
"Cô thấy đấy," tôi hăm hở kêu lên, "tôi nói đúng! Không gì khiến tôi lấy làm tiếc hơn là không thực hiện mệnh lệnh của cô. Nhưng mệnh lệnh này tôi không thể thi hành được. Tôi không nhảy được Shimmy; Valse không, Polka cũng không, tất cả đều không, dù chúng tên gì đi nữa, tôi chưa từng học nhảy trong đời mà. Bây giờ cô thấy rằng không phải tất cả đều đơn giản như cô tưởng chứ?"
Đôi môi đỏ chót của người con gái xinh xắn mỉm nụ cười, nàng lắc lắc cái đầu cương nghị, mái tóc cắt như con trai. Nhìn nàng, tôi ngỡ nàng giống Rosa Kreisler, người con gái đầu tiên tôi phải lòng thời là một chú bé, nhưng Rosa da hơi nâu, tóc sẫm. Không, tôi không biết cô gái xa lạ này gợi nhớ đến ai, chỉ biết đó là một người thời tôi rất trẻ, thời thơ ấu.
"Khoan đã," nàng kêu lên, "khoan đã! Vậy là anh không biết nhảy à? Hoàn toàn không? Cả điệu onestep cũng không luôn? Chúa ơi, thế mà anh dám cả quyết rằng đã cố gắng biết mấy cho cuộc đời! Anh chỉ bịa. Bồ tèo ơi, ở tuổi này anh đừng nên thế nữa nhé. Thật đấy, làm sao anh dám nói đã nỗ lực sống, khi ngay chỉ một chuyện nhảy thôi anh cũng không muốn?"
"Nhưng nếu tôi không thể nhảy thì sao! Tôi chưa từng học bao giờ."
Nàng cười.
"Nhưng đọc và viết thì anh có học, nhỉ? Làm tính và có lẽ cả tiếng Latin, tiếng Pháp và đủ thứ linh tinh? Em đánh cuộc anh đã ngồi mười đến mười hai năm trong nhà trường, biết đâu đã theo học cả đại học nữa và thậm chí có bằng tiến sĩ và biết cả tiếng Hán hoặc Tây Ban Nha cũng nên. Đúng không? Đấy. Nhưng chút thời gian và tiền bạc cho vài ba giờ học khiêu vũ thì anh không có nổi! Chà!"
"Tại bố mẹ tôi," tôi chống chế, "các cụ cho tôi học tiếng Latin, tiếng Hy Lạp và đủ mọi thứ. Nhưng không cho tôi học nhảy; ở gia đình tôi nó không được ưa chuộng, chính bố mẹ tôi cũng không khiêu vũ bao giờ."
Nàng lạnh lùng nhìn tôi, đầy miệt thị, và một lần nữa trên gương mặt nàng phảng phất nét gì gợi tôi nhớ tới thời thanh xuân của mình.
"Ra thế, lỗi là do bố mẹ anh! Thế anh có hỏi các cụ xem hôm nay anh được phép đến quán Đại Bàng Đen không? Có không? Anh bảo các cụ mất lâu rồi à? Thôi được! Nếu thời niên thiếu anh không muốn học nhảy vì vâng lời bố mẹ - em không phản đối! Tuy em không tin hồi đó anh là một đứa trẻ gương mẫu. Nhưng rồi sau đó - sau đó anh đã làm những gì suốt bao nhiêu năm ấy?"
"Chậc," tôi thú nhận, "chính tôi cũng không còn nhớ nữa. Tôi đã nghiên cứu, chơi nhạc, đọc sách, viết lách, đi du lịch..."
"Quan niệm của anh về cuộc đời mới quái lạ làm sao! Nghĩa là anh đã luôn làm những việc khó khăn và phức tạp, còn những chuyện đơn giản anh hoàn toàn không học à? Không có thì giờ à? Không hứng thú à? Em không phản đối, đội ơn Chúa, em không phải là mẹ anh. Nhưng rồi anh làm như thể đã nếm trải hết cuộc đời, rồi bảo rằng chẳng tìm thấy gì cả; không, như thế không được!"
"Đừng trách móc tôi mà!" tôi năn nỉ. "Tôi dư biết mình điên mà."
"Thôi đi, đừng than thở nữa! Anh hoàn toàn không điên, thưa giáo sư, theo em thấy thì anh thậm chí còn điên quá ít! Em thấy anh thông minh theo một kiểu ngu xuẩn, hệt như một giáo sư. Này, ăn thêm một ổ bánh mì nữa đi! Rồi hẵng kể tiếp."
Nàng gọi cho tôi một ổ bánh mì nữa, rắc ít muối, phết một chút mù tạt, tự cắt cho mình một miếng nhỏ rồi bảo tôi ăn. Tôi ăn. Tôi sẵn sàng làm hết mọi điều nàng ra lệnh, mọi điều, trừ khiêu vũ. Thật thích thú vô cùng được vâng lời người nào đấy, được ngồi cạnh người nào đấy, được người ấy vặn hỏi, ra lệnh, mắng mỏ. Giá vài giờ trước đây ông giáo sư và bà vợ làm như thế này, hẳn tôi đã đỡ phải chịu khối chuyện. Nhưng không, như thế lại hóa may, bằng ngược lại tôi sẽ hụt mất nhiều thứ!
"Anh tên gì mới được chứ?" đột nhiên nàng hỏi.
"Harry."
"Harry à? Tên của con nít! Mà anh cũng đúng là một chú nhóc, Harry ạ, dù mái tóc đã hoa râm đôi chút. Anh là một chú nhóc nên anh cần có người chăm sóc cho anh chút ít. Em không nói gì về khiêu vũ nữa. Nhưng xem anh chải tóc kìa! Anh không có vợ, không có cục cưng à?"
"Tôi không còn vợ nữa, chúng tôi đã ly dị. Tôi có cục cưng chứ, nhưng nàng không ở đây, thỉnh thoảng tôi mới gặp nàng, chúng tôi không hợp nhau lắm."
Nàng khẽ huýt sáo qua kẽ răng.
"Xem chừng anh là một người rất khó tính, nên không ai ở với anh được. Nhưng bây giờ hãy cho em biết: tối hôm nay đã xảy ra chuyện gì đặc biệt, đến nỗi anh chạy quanh như hóa rồ vậy? Phá sản à? Thua bạc à?"
Thật khó trả lời.
"Thế này nhé," tôi nói, "đúng ra chỉ là một chuyện nhỏ nhặt thôi. Tôi được mời tới nhà một ông giáo sư - chứ bản thân tôi chẳng phải giáo sư, giáo siếc gì - lẽ ra tôi không nên đến, tôi không còn quen ngồi tán gẫu với người khác, tôi đã quên cái đó rồi. Tôi vào đấy sẵn với cảm giác sẽ có chuyện không hay - khi treo mũ, tôi đã nghĩ ngay có lẽ tôi sẽ lại sớm cần tới nó. Vâng, trong nhà ông giáo sư này, trên bàn có một tấm hình, một bức hình ngớ ngẩn khiến tôi bực mình..."
"Hình gì? Sao anh lại bực mình?" nàng ngắt lời tôi.
"À, đó là một bức tranh vẽ Goethe, cô biết chứ, nhà thơ Goethe ấy. Người trong tranh không giống như người thật - tất nhiên không ai biết được chính xác, vì cụ đã mất đã cả trăm năm rồi. Nhưng một họa sĩ tân thời nào đấy đã chăm chút Goethe thành ra giống như hắn đã hình dung về cụ, và bức hình này làm tôi bực mình và kinh tởm - tôi không biết cô có hiểu không?"
"Em hiểu rất rõ, cứ yên trí. Anh kể tiếp đi!"
"Trước đó tôi đã bất đồng với ông giáo sư; như hầu hết các giáo sư, ông ta là một người rất yêu nước và trong thời chiến tranh đã thật thà tiếp tay dối dạt nhân dân 23 - họ thành thật tin, tất nhiên. Còn tôi là một kẻ chống chiến tranh. Nhưng điều này không quan trọng." Tôi kể tiếp. "Lẽ ra tôi không cần nhìn bức tranh đó..."
"Lẽ ra anh không cần thật."
"Nhưng trước hết nó khiến tôi tội nghiệp Goethe, vì tôi rất quý cụ; rồi chuyện như thế này: tôi nghĩ, vâng, tôi nghĩ hoặc cảm thấy đại khái như sau: mình ngồi đây với những người mình coi là giống như mình, những người mà mình nghĩ là họ cũng yêu quý Goethe giống như mình và hình dung tương tự như mình về chân dung của cụ; vậy mà họ lại trưng bày một bức hình nhạt nhẽo, sai lệch, tô vẽ và cho thế là tuyệt vời chứ không nhận thấy cái hồn của Goethe. Họ thấy tấm hình là tuyệt đẹp, họ muốn thế thì tùy họ thôi - nhưng với tôi đột nhiên mọi tin tưởng vào những con người này, mọi tình bạn dành cho họ, mọi cảm giác gắn bó về quan hệ người với người chấm dứt. Nói thêm là tình bạn giữa tôi với họ không sâu đậm gì mấy. Thế là tôi liền nổi giận lẫn buồn rầu và thấy mình hoàn toàn cô đơn, không ai hiểu mình. Cô hiểu chứ?"
"Dễ hiểu thôi mà, Harry. Rồi sao nữa? Anh phang tấm hình lên đầu họ à?"
"Không, tôi làm toáng lên rồi bỏ đi; lúc ấy tôi muốn về nhà nhưng..."
"Nhưng ở nhà sẽ chẳng có bà mẹ nào để an ủi hay mắng mỏ chú nhóc ngu ngốc. Ôi chao, Harry ơi, anh làm em tí nữa thì mủi lòng vì anh đấy, anh là một kẻ ngây ngô không giống ai."
Tất nhiên, dường như chính tôi cũng thấy thế. Nàng đưa tôi một ly vang, bảo tôi uống. Quả thật nàng đối với tôi như một bà mẹ. Thỉnh thoảng tôi thấy trong một thoáng giây nàng đẹp và trẻ biết bao.
"Nghĩa là," nàng nói tiếp, "cái cụ Goethe ấy đã chết cả trăm năm rồi và chàng Harry rất yêu quý cụ; chàng ta có một hình dung tuyệt vời về cụ, rằng dung mạo cụ có lẽ phải như thế này thế nọ, về chuyện ấy thì Harry có quyền chứ gì? Còn người họa sĩ, cũng mê cụ Goethe và vẽ một bức hình của cụ, lại không có quyền; ông giáo sư nọ cũng không luôn, hoàn toàn không ai có quyền, vì điều này không hợp ý Harry, chàng ta chịu không nổi, chàng ta phải chửi toáng lên và bỏ chạy! Nếu chàng ta khôn ngoan, thì chàng ta chỉ việc cười người họa sĩ và ông giáo sư thôi. Nếu chàng ta điên, chàng ta sẽ quăng cụ Goethe của họ vào mặt họ. Nhưng vì chàng ta chỉ là một chứ nhóc, chàng ta chạy về nhà và muốn treo cổ. Em hiểu câu chuyện của anh rõ lắm, Harry ạ. Thật là một câu chuyện khôi hài. Nó làm em buồn cười. Khoan, đừng uống nhanh thế. Rượu Burgund phải uống từ từ, nếu không sẽ nóng. Phải chỉ bảo anh mọi thứ thôi, chú nhóc ạ."
Mắt nàng nhìn nghiêm khắc và khuyên răn như của một nữ gia sư sáu mươi tuổi.
"Ồ phải," tôi hài lòng yêu cầu, "cô cứ chỉ bảo tôi mọi thứ đi."
"Em nên chỉ anh cái gì đây?"
"Mọi điều cô muốn."
"Được, em nói với anh điều này nhé. Suốt một giờ qua anh nghe em gọi anh là anh, thế mà anh luôn gọi em là cô. Luôn luôn Latin với Hy Lạp, luôn luôn cực kỳ phức tạp! Khi một cô gái gọi anh là anh mà anh không chán ghét nàng thì hãy gọi nàng là em. Đó, anh học được chút ít rồi đấy. Hai là: từ nửa giờ qua em biết anh tên Harry. Em biết, vì em hỏi anh. Còn anh không muốn biết em tên gì."
"Có chứ, tôi rất muốn biết mà."
"Muộn rồi, chú nhóc ơi! Khi nào mình gặp lại nhau thì anh có thể hỏi. Bữa nay em không nói nữa. Nào, bây giờ em muốn khiêu vũ."
Nàng dợm đứng lên khiến tôi đột nhiên buồn bã. Tôi sợ nàng sẽ bỏ đi, để tôi bơ vơ, và rồi có lẽ mọi chuyện sẽ lại như cũ; nỗi sợ và kinh hoàng của tôi lại xuất hiện, tựa như cái răng tạm hết đau, thình lình nhức trở lại, rát như phải bỏng. Chúa ơi, chẳng lẽ tôi đã có thể quên chuyện gì chờ đợi mình ư? Đã có chuyện gì thay đổi chăng?
"Khoan," tôi năn nỉ kêu lên, "cô đừng - em đừng bỏ đi! Đương nhiên em muốn nhảy bao nhiêu cũng được, nhưng đừng bỏ đi lâu quá, hãy quay trở lại, hãy quay trở lại!"
Nàng mỉm cười đứng lên. Tôi cứ nghĩ nàng cao hơn; hóa ra nàng thon thả, chứ không cao. Nàng lại khiến tôi nhớ đến người nào đấy - ai? Tôi không nhớ ra được.
"Em trở lại chứ?"
"Em sẽ trở lại, nhưng có thể phải một lúc lâu, nửa giờ hoặc cả giờ cũng nên. Em muốn nói với anh điều này: hãy nhắm mắt lại và ngủ chút ít đi; đó là cái anh đang cần đấy."
Tôi tránh chỗ cho nàng bước qua; váy nàng chạm vào đầu gối tôi; vừa đi nàng vừa soi một chiếc gương tròn bỏ túi nhỏ xíu, nàng nhướng mày, phớt chiếc cọ thoa phấn xinh xinh lên cằm rồi khuất dạng trong gian phòng khiêu vũ. Tôi nhìn quanh: những khuôn mặt lạ, những người đàn ông đang hút thuốc, bia sánh trên mặt bàn cẩm thạch, tiếng ồn ào, la ó khắp nơi, bên cạnh là tiếng nhạc khiêu vũ. Tôi nên ngủ, nàng vừa bảo thế. Chà, bé ngoan ơi, cứ như là em biết rõ về giấc ngủ của ta vậy, nó còn nhút nhát hơn loài chồn bạch cơ! Ngủ trong cái chợ phiên như thế này, ngồi ở bàn, giữa tiếng lách cách của những cốc vại bia! Tôi nhấp rượu vang, móc túi lấy một điếu xì gà, nhìn quanh tìm diêm, nhưng thật ra tôi đâu định hút, nên đặt nó lên bàn ngay trước mặt. "Nhắm mắt lại," nàng đã bảo tôi thế. Chúa ơi, từ đâu mà nàng có giọng nói này, trầm trầm, êm ái của một bà mẹ. Vâng lời giọng nói này là đúng, tôi từng có kinh nghiệm rồi. Tôi tuân lời nhắm mắt lại, tựa đầu vào tường, nghe hàng trăm thứ tiếng ầm ĩ chung quanh ập vào người; tôi mỉm cười trước ý tưởng ngủ ở chỗ này và quyết định đi tới cửa phòng khiêu vũ, lướt nhìn vào đấy - tôi phải thấy cô bé xinh đẹp của tôi nhảy chứ; tôi cựa quậy chân dưới gầm bàn, mãi lúc ấy tôi mới cảm thấy xiết bao mệt mỏi sau hàng giờ lang thang, nên lại ngồi ì. Và rồi tôi thiếp luôn, tuân theo mệnh lệnh của người mẹ, ngủ một cách tham lam lẫn biết ơn và tôi mơ, thật rành mạch và thú vị; lâu lắm rồi tôi mới lại mơ. Tôi mơ thế này:
Tôi ngồi chờ trong một tiến sảnh cổ kính. Mới đầu chỉ biết là mình được đăng ký diện kiến một đại nhân nào đấy, rồi sực nhớ người sắp tiếp tôi chính là ngài von Goethe. Tiếc rằng tôi tới đây không với tư cách cá nhân mà mang danh nghĩa phóng viên một tạp chí; tôi rất bực bội và không thể hiểu nổi ma quỷ nào đã đưa đẩy mình vào hoàn cảnh này. Ngoài ra tôi còn lo lắng vì một con bọ cạp, mới đây tôi còn thấy nó đang tìm cách bò lên chân tôi. Quả thật tôi đã cố đung đưa chân để gạt con vật đen trũi bò lồm ngồm đó, nhưng chẳng rõ bây giờ nó đang ở đâu và tôi không dám mò tìm.
Tôi cũng không hoàn toàn dám chắc có thật người ta cho mình gặp cụ Goethe, hay do nhầm lẫn lại khiến mình gặp Matthisson, người mà trong giấc mơ tôi cứ đinh ninh là tác giả Những bài thơ gửi Molly, vì tôi nhầm ông với Burger 24. Nhân tiện nói thêm là tôi hết sức ao ước được gặp Molly; tôi hình dung bà là người thật tuyệt vời, dịu dàng, giỏi âm nhạc, sống về đêm. Ước chi tôi không ngồi đây vì thừa ủy nhiệm của cái ban biên tập phải gió nọ! Càng lúc càng thêm bực mình về chuyện này, tôi đâm ra giận lẫy cả Goethe, nên bỗng dưng nghi kỵ và trách mọc cụ đủ thứ chuyện. Thế này chắc sẽ hứa hẹn một buổi tiếp kiến hay ho đây! Còn con bọ cạp tuy nguy hiểm và có lẽ đang trốn ngay sát người tôi, nhưng hẳn không đến nỗi nào; có thể nó, như tôi thấy, báo trước điềm vui; rất có thể nó, như tôi thấy, liên quan thế nào đấy với Molly; nó là một loại người đưa tin hay con vật vẽ trên huy hiệu của bà, một con vật biểu trưng đẹp đẽ và nguy hiểm của nữ tính và tội lỗi. Có thể nào tên nó là Vulpius 25 không nhỉ? Đúng lúc ấy một gia nhân mở tung cửa ra, tôi bật dậy bước vào.
Cụ Goethe đang đứng đấy, nhỏ thó và thẳng đơ, trên lồng ngực mẫu mực của cụ chễm chệ một tấm huân chương to tướng hình ngôi sao. Cụ vẫn luôn còn mang vẻ đang cai trị, vẫn luôn còn tiếp kiến, vẫn luôn còn giám sát thế gian từ viện bảo tàng Weimar của cụ. Nên nhác thấy tôi, cụ đã gục gặc cái đầu như một con quạ già, trịnh trọng phán: "Chà, các cậu bạn trẻ, xem ra các cậu rất ít đồng tình với bọn ta và những nổ lực của chúng ta, nhỉ?"
"Hoàn toàn đúng thế ạ," tôi đáp mà lạnh toát người trước ánh mắt thượng thư 26 của cụ. "Thưa ngài, lớp trẻ chúng tôi quả thật không đồng tình với ngài. Đối với chúng tôi thì ngài quá trịnh trọng, quá kiêu căng, làm bộ làm tịch và không mấy thẳng thắn. Có lẽ đây là điều cốt yếu: không mấy thẳng thắn."
Ông lão nhỏ thó ấy hơi hất cái đầu nghiêm khắc tới trước, và trong lúc cái miệng cương nghị với những nếp nhăn trông trịnh trọng của ông dãn ra thành một nụ cười tủm tỉm, sinh động tuyệt trần thì tim tôi chợt rộn lên, vì đột nhiên tôi nhớ đến bài "Hoàng hôn nghiêng xuống từ trên cao" 27 và chính con người kia, cái miệng kia đã thốt ra những vần thơ nọ. Thật ra ngay lúc ấy trong tôi mọi nghi kỵ và trách móc cụ đã tan biến sạch rồi, tôi bị cụ chế ngự hoàn toàn và không muốn gì hơn là quỳ xuống trước cụ. Nhưng tôi vẫn đứng thẳng người, nghe những lời cụ thốt ra từ cái miệng mỉm cười kia: "Chà, nghĩa là các cậu buộc ta tội không thẳng thắn? Mấy từ ấy mới ghê gớm làm sao! Cậu giải thích rõ hơn được chứ?"
Tôi sẵn sàng, rất sẵn sàng.
"Thưa ngài von Goethe, như mọi nhà tư tưởng lớn khác, ngài đã thấy và cảm nhận rõ rệt về điều nghi vấn và sự tuyệt vọng của kiếp người: lộng lẫy trong chớp mắt rồi lụi tàn khốn khổ, nỗi bất lực không thể trả giá nào khác cho sự thăng hoa của cảm giác hơn là trở thành nô lệ của những sinh hoạt thường nhật, nỗi khát khao cháy bỏng về một vương quốc của tinh thần và sự không ngừng chiến đấu một mất một còn chống lại niềm say mê cũng cháy bỏng và thiêng liêng về sự hồn nhiên, chất phác đã mất của bản tính con người - nghĩa là hết thảy nỗi chơi vơi đáng sợ trong sự trống rỗng và sự không chắc chắn, mang bản án phải tàn phai, chẳng bao giờ toàn thiện, muôn đời chỉ toàn thử nghiệm và vụng về - nói gọn, toàn bộ những bế tắc, xa rời thực tế và tuyệt vọng của kiếp người. Tất cả những điều này ngài đều rõ và minh xác từ thuở nào rồi, thế nhưng ngài lại rao giảng điều ngược lại bằng cả cuộc đời mình, ngài bày tỏ niềm tin cùng sự lạc quan, ngài lừa bịp chính mình cùng người khác rằng những nỗ lực tinh thần của chúng ta bền vững và có ý nghĩa. Ngài đã gạt bỏ và trấn áp những tiếng kêu từ đáy vực, những tiếng nói của chân lý tuyệt vọng, trong chính bản thân ngài cũng như trong Kleist và Beethoven 28. Hàng chục năm ròng ngài đã làm như thể việc tích lũy, sưu tập kiến thức, việc viết lách và gom góp thư từ, như thể cả quãng đời lúc về già của ngài ở Weimar quả là một phương cách để lưu danh thiên cổ cái khoảnh khắc mà thật ra ngài đã chỉ có thể biến nó trở thành một thứ xác ướp, để tinh thần hóa cái bản tính mà ngài đã chỉ có thể cách điệu thành một mặt nạ. Đó chính là sự không thẳng thắn mà chúng tôi thống trách ngài."
Ngài ủy viên già nua của Viện Cơ mật đăm chiêu nhìn vào mắt tôi, miệng vẫn không ngớt mỉm cười.
Rồi cụ hỏi khiến tôi ngạc nhiên: "Nghĩa là cậu phải ghét cay ghét đắng bản Điệu sáo mê hồn của Mozart?"
Tôi chưa kịp phản bác, cụ đã hỏi tiếp: "Điệu sáo mê hồn diễn tả cuộc đời như một bài ca tuyệt diệu, nó tán tụng tình cảm của chúng ta, những thứ rất phù vân, như là gì đấy vĩnh cửu và thần thánh, nó không hùa theo các ông von Kleist hay Beethoven, mà thuyết giảng về sự lạc quan và niềm tin."
"Tôi biết, tôi biết!" tôi bực dọc kêu lên. "Có Chúa mới rõ vì sao ngài lại viện ra ngay bài Điệu sáo mê hồn mà tôi thích nhất trên đời này! Nhưng Mozart không thọ đến tám mươi hai tuổi và trong cuộc sống riêng cũng không đòi hỏi phải trường tồn, trật tự và phẩm cách như ngài! Ông ta không làm bộ làm tịch! Ông ta đã ca hát những khúc nhạc thần và sống đói nghèo, chết trẻ, bần hàn, tài năng bị ngộ nhận..."
Tôi hụt cả hơi. Cả ngàn điều muốn nói tôi đã phải gói gọn chỉ trong mười từ, trán tôi vã mồ hôi.
Nhưng Goethe đáp lại rất thân ái: "Việc ta thọ tám mươi hai tuổi có lẽ không tha thứ được. Tuy nhiên ta ít vui thú về chuyện này hơn cậu có thể đã tưởng. Cậu nói đúng: ta luôn muốn được sống trường cửu, ta luôn sợ và chống lại cái chết. Ta tin rằng cuộc chiến đấu chống lại cái chết, lòng mong muốn sống, mong muốn một cách bướng bỉnh và vô điều kiện, chính là động lực đã khiến mọi con người xuất chúng hành động và sống. Còn việc cuối cùng con người ta vẫn phải chết thì cậu bạn trẻ ạ, ta đã chứng minh một cách cũng thuyết phục điều này với tám mươi hai tuổi đời, không khác nếu ta chết ở tuổi học trò. Ta muốn nói thêm điều này nữa, nếu có thể giúp được cho sự biện bạch của mình: bản tính ta nhiều thứ rất trẻ con, rất tò mò, ham đùa nghịch và phung phí thời gian. Thành ra ta đã phải mất khá lâu mới nghiệm ra được rằng chơi đùa thế là quá đủ."
Goethe vừa nói vừa mỉm cười ranh mãnh, như một đứa trẻ nghịch ngợm. Ông trở nên cao lớn hơn, mất hẳn dáng dấp thẳng đơ và vẻ quyền quý gượng gạo trên gương mặt. Bầu không khí quanh chúng tôi giờ đây tràn đầy những khúc nhạc, rất nhiều bài ca của Goethe; tôi nghe rõ trong đó có bài Hoa tím của Mozart, bài Em lại phủ kín rừng rậm và thung lũng của Schubert. Giờ đây gương mặt Goethe hồng hào, trẻ trung, ông mỉm cười khi thì giống Mozart, lúc lại giống Schubert như hai anh em; ngôi sao trên ngực ông biến thành một chùm hoa đồng nội, chính giữa nở rộ một bông anh thảo vàng.
Tôi không vừa ý lắm trước việc ông cụ này muốn lảng tránh theo kiểu bông đùa như thế những câu hỏi và trách cứ của tôi, nên đã nhìn cụ đầy trách móc. Cụ liền cúi tới trước, ghé miệng, nay đã hoàn toàn thành miệng trẻ thơ, sát tai tôi thì thầm: "Này cậu, cậu quá coi trọng lão Goethe già này đấy. Chớ nên coi trọng những người già đã chết rồi, bằng không sẽ là bất công đối với họ. Chúng ta, những kẻ bất tử, không ưa coi trọng chuyện gì hết, mà thích đùa vui. Sự nghiêm trọng, cậu ạ, là công việc của thời gian; sở dĩ có nó, ta có thể tiết lộ cho cậu ngần này, là do thời gian được đánh giá quá cao. Trước kia chính ta cũng đã đánh giá quá cao thời gian, nên ta mới muốn sống đến trăm tuổi. Nhưng trong cõi vĩnh hằng, cậu biết không, không có thời gian; mà vĩnh hằng chỉ là một khoảnh khắc, vừa đủ dài cho một câu đùa."
Quả thật tôi chẳng còn trao đổi được lời nào nghiêm chỉnh nữa với người đàn ông này; cụ nhảy nhót một cách thú vị, lên xuống mềm mại, khiến bông anh thảo lúc như hỏa tiễn vọt ra khỏi ngôi sao, lúc nhỏ rồi lại biến mất. Trong lúc Goethe trổ tài qua những bước và dáng nhảy, tôi phải công nhận rằng ít ra cụ cũng đã không bỏ lỡ chuyện học khiêu vũ. Cụ nhảy thật tuyệt vời, Tôi sực nhớ tới con bọ cạp, tới Molly thì đúng hơn, liền gọi Goethe: "Thưa ngài, Molly không có đây sao?"
Goethe cười rộ. Cụ đi lại bàn, mở một ngăn kéo, lấy một cái hộp quý bằng da hay nhung gì đấy, mở ra rồi chía trước mặt tôi. Trên nền nhung thẫm là một cái chân phụ nữ nhỏ xíu, toàn mỹ và óng ánh, đầu gối hơi co, bàn chân duỗi xuống dưới, tận cùng là những ngón vô cùng xinh xắn.
Tôi chìa tay định nắm lấy cái chân tí tẹo khiến mình say mê nọ, nhưng hai ngón tay tôi mới chực cầm thì món đồ chơi kia dường như hơi giật nhẹ, khiến tôi đột nhiên sinh nghi có thể đó là con bọ cạp. Goethe chừng như thấy rõ điều ấy, thậm chí còn có vẻ chủ tâm gây ra sự lúng túng, sự mâu thuẫn bùng lên giữa thèm muốn và sợ hãi này. Cụ gí con bọ cạp nhỏ bé duyên dáng kia vào sát mặt tôi, nhìn tôi thèm muốn nó, nhìn tôi rùng mình khiếp sợ nó và điều này dường như làm cụ thích thú. Trong lúc trêu tôi với món đồ chơi xinh xắn mà nguy hiểm nọ, cụ lại trở thành già, già khú, nghìn tuổi, tóc trắng phau như tuyết, khuôn mặt già nua tàn tạ cười không thành tiếng, kiểu cười dữ dội thâm thúy đầy hóm hỉnh bí ẩn của người già.
Khi thức dậy tôi quên mất giấc mơ, mãi sau mới nhớ lại. Hẳn tôi đã ngủ chừng một giờ giữa tiếng nhạc và sự náo nhiệt, ngay tại chiếc bàn trong quán rượu; chẳng bao giờ tôi nghĩ có thể như thế được. Cô gái đáng mến đứng trước mặt, một tay trên vai tôi.
"Cho em hai, ba mark," nàng nói, "em đã tiêu pha chút ít ở đằng kia rồi."
Tôi đưa ví, nàng cầm lấy quay đi, lát sau trở lại.
"Nào, bây giờ em có thể ngồi thêm với anh một lúc ngắn nữa, rồi phải đi, em có hẹn."
Tôi hốt hoảng. "Với ai vậy?" tôi vội hỏi.
"Với một ông, nhóc Harry ạ. Hắn đã mời em lại quán rượu Nhà Hát Lớn."
"Ơ, anh cứ tưởng em sẽ không bỏ anh một mình."
"Vậy thì lẽ ra anh phải mời em chứ. Có người mời trước anh rồi. Ờ, thế là anh tiết kiệm được khối tiền đấy. Anh biết quán Nhà Hát Lớn không? Sau nửa đêm chỉ toàn là sâm banh, ghế bành như trong câu lạc bộ, ban nhạc da đen, rất sang."
Tôi đã không lưu ý tới tất cả những điều này.
"Chà," tôi khẩn khoản, "vậy để anh mời em vậy! Anh cứ nghĩ chuyện này là đương nhiên, mình đã là bạn bè của nhau rồi mà. Hãy cho anh mời em đến nơi nào em thích, anh năn nỉ đấy."
"Anh thật dễ thương. Nhưng anh thấy đó, lời hứa là lời hứa, em đã nhận lời rồi và em sẽ đi. Đừng mất công năn nỉ nữa! Đây, uống nữa đi, trong chai vẫn còn rượu. Anh uống cho hết rồi ngoan ngoãn về nhà ngủ. Hứa với em đi."
"Không, anh không thể về nhà được, em ạ."
"Ối giời, anh thật nhiều chuyện! Mãi vẫn chưa xong với cái nhà ông Goethe à? (Đúng lúc ấy tôi sực nhớ đến giấc mơ gặp Goethe.) Nhưng nếu quả thật anh không muốn về nhà, thì cứ ở lại, ở đây có phòng trọ mà. Em lấy cho anh một cái nhá?"
Tôi đồng ý và hỏi có thể gặp lại nàng ở đâu? Nàng cư ngụ chỗ nào? Nàng không cho tôi biết. Nàng bảo, chỉ cần tôi bỏ chút công tìm thì thế nào cũng sẽ thấy.
"Anh không được phép mời em à?"
"Tới đâu?"
"Tới nơi nào em thích, lúc nào tùy em."
"Được. Thứ Ba, ta ăn tối tại quán 'Tu sĩ già dòng Francisco', tầng một. Chào anh nhé!"
Nàng chia tay, mãi lúc đó tôi mới nhận thấy bàn tay ấy đẹp, đầy đặn, thông minh, nhân hậu, quá hợp với giọng nói của nàng. Nàng mỉm cười giễu cợt khi tôi hôn tay nàng.
Vào phút chót nàng còn quay lại lần nữa, bảo tôi: "Em muốn nói thêm với anh điều này, về cái nhà ông Goethe ấy. Thề này nhá, chuyện xảy ra với anh liên quan đến cái nhà ông Goethe đến nỗi anh không chịu đựng nổi bức hình của ông ấy như thế nào thì đôi khi em cũng như thế với các ông thánh."
"Các ông thánh à? Em ngoan đạo đến thế ư?"
"Không, em không ngoan đạo, tiếc thay, nhưng em đã từng sùng tín và sẽ có ngày sùng tín trở lại. Người ta đâu có thì giờ để mà mộ đạo."
"Không có thì giờ? Chẳng lẽ phải có thì giờ mới mộ đạo được à?"
"Cần chứ. Để mộ đạo cần phải có thì giờ, thậm chí nhiều thứ hơn nữa: sự không lệ thuộc vào thời gian! Anh không thể thật sự mộ đạo, đồng thời sống trong thực tại, hơn nữa lại coi trọng những thời gian, tiền bạc, quán Nhà Hát Lớn và đủ thứ linh tinh"
"Anh hiểu rồi. Nhưng chuyện các vị thánh thì như thế nào?"
"À, có một số vị thánh em đặc biệt quý trọng: thánh Stefan này, thánh Francis và nhiều vị khác. Thỉnh thoảng em thấy hình như các vị ấy, cả của Đấng Cứu Thế và Đức Mẹ, những bức hình trả giá, sai lạc, ngớ ngẩn và em cũng không chịu đựng nổi đại loại như anh với bức hình nọ của Goethe. Khi em nhìn một bức hình xinh xắn ngu xuẩn như thế của Đấng Cứu Thế hoặc của thánh Francis và thấy người khác trầm trồ khen đẹp, khiến họ phấn chấn, em liền cảm thấy như đó là một sự nhục mạ Đấng Cứu Thế chân chính và em nghĩ: chao ơi, Người đã sống và gánh chịu đớn đau nhường ấy để làm gì, nếu chỉ cần một bức hình vớ vẩn như thế của Người đủ làm họ mãn nguyện! Tuy nhiên em cũng biết rằng bức hình trong lòng em về Đấng Cứu Thế hoặc thánh Francis cũng chỉ là tưởng tượng của con người thôi, đâu sánh nổi với nguyên mẫu; đối với Đấng Cứu Thế thì ngay chính hình ảnh của Người trong lòng em cũng rõ là vớ vẩn và nghèo nàn, không khác những phiên bản xinh xắn nọ đối với em. Em nói điều này không phải để bảo việc anh tức tối và giận dữ vì bức hình Goethe là đúng; không, anh làm thế là sai. Em nói chỉ để cho anh thấy rằng em có thể hiểu được anh. Các anh, những học giả và nghệ sĩ, đầu óc toàn thứ độc đáo thật đấy, nhưng các anh cũng chỉ là con người như bao kẻ khác thôi và bọn em, những kẻ khác ấy, cũng có lắm giấc mơ và tưởng tượng trong đầu óc mình. Chẳng hạn, thưa nhà học giả, em nhận thấy anh đã hơi lúng túng khi phải kể với em câu chuyện của anh về ông Goethe - anh đã phải cố gắng để một cô gái tầm thường có thể hiểu được những điều lý tưởng của anh. Chậc, em nói thế này chẳng qua vì muốn cho anh thấy không cần phải gồng mình làm gì. Em hiểu anh mà. Thế nhé, bây giờ chấm hết! Anh phải đi ngủ thôi!"
Nàng bỏ đi và một lão bộc đưa tôi lên tầng hai; đúng hơn, trước hết lão hỏi hành lý tôi đâu; khi biết tôi không có hành lý, lão bắt tôi phải ứng trước cái mà lão gọi là "tiền ngủ trọ". Rồi lão đưa tôi qua cái khoang cầu thang cũ kỹ tối om om lên một căn phòng, để mặc tôi ở đấy. Phòng có một chiếc giường gỗ đơn sơ, ngắn ngủn và cứng, trên tường treo một thanh gươm và một tấm hình màu của Garibaldi 29, thêm một vòng hoa đã héo ghi dấu lần liên hoan của một hội đoàn nào đấy. Tôi sẵn sàng trả bộn tiền để có một bộ đồ ngủ! Song ít ra trong phòng cũng sẵn nước và một tấm khăn tay nhỏ nên tôi có thể lau người, rồi lên giường với nguyên áo xống, cứ để đèn, nằm nghĩ ngợi; tôi thừa thì giờ mà. Bây giờ chuyện cụ Goethe thế là ổn thỏa rồi. Cụ đã đến với tôi trong giấc mơ, thật tuyệt diệu biết bao! Và người con gái tuyệt vời này - phải chi tôi biết được tên nàng! Bỗng đâu một người, một người bằng xương bằng thịt, đã đập nát cái chụp thủy tinh u ám úp lên cái chết dần mòn của tôi, đã chìa tay cho tôi, một bàn tay ấm áp, xinh xắn và nhân hậu! Bỗng dưng lại xuất hiện những chuyện liên quan đến tôi, những chuyện mà tôi có thể nghĩ tới với vui thú, âu lo, căng thẳng. Bỗng dưng một cánh cửa mở ra và cuộc đời đi qua đó đến với tôi! Có lẽ tôi có thể sống lại được, có thể tôi có thể lại trở thành một con người. Tâm hồn tôi, đã thiếp đi và gần như đã hóa băng trong giá lạnh, đang thở lại, đang ngái ngủ vỗ đôi cánh nhỏ yếu. Goethe đã đến với tôi. Một cô gái đã bảo tôi phải ăn, uống, ngủ, đã bày tỏ sự thân thiện với tôi, đã cười cợt tôi, đã gọi tôi là một nhóc con ngu xuẩn. Và nàng, người bạn gái tuyệt vời ấy, đã kể về các vị thánh và cho tôi thấy rằng ngay cả trong những lúc tôi kỳ quái nhất tôi cũng không phải là một kẻ cô đơn, không người thông cảm và một ngoại lệ bệnh hoạn, rằng tôi cũng có chị có em, rằng người ta hiểu tôi. Tôi sẽ lại gặp nàng chăng? Có, chắc chắn, nàng đáng tin cậy. "Lời hứa là lời hứa."
Và rồi tôi thiếp đi, ngủ vùi bốn, năm giờ liền. Tôi thức dậy lúc đã quá mười giờ, áo quần nhầu nhĩ, mệt bã người, đầu còn ong ong chuyện gì đấy khá đáng sợ của hôm qua, nhưng tôi đã sôi nổi, đầy hy vọng, đầy những ý tưởng tốt lành. Trên đường về căn hộ của mình tôi không cảm thấy chút gì nữa của nỗi kinh hoàng mà sự trở về này đã gây cho tôi tối hôm qua.
Nơi cầu thang, phía trên chậu bách tán, tôi gặp "bà dì", bà chủ nhà, người tôi hiếm khi thấy mặt, nhưng rất hài lòng về tính tình xởi lởi của bà. Cuộc chạm mặt khiến tôi không thoải mái, vì dẫu sao tôi cũng khá lôi thôi lếch thếch và bơ phờ vì thức trắng đêm, tóc tai không chải, râu ria không cạo. Tôi chào bà và định đi luôn một mạch. Bình thường bà luôn tôn trọng ý muốn của tôi được sống một mình, không bị dòm ngó, nhưng hôm nay dường như quả thật tấm màn ngăn cách tôi với thế giới chung quanh đã bị xé tan, một rào cản đã sụp đổ - bà cười và cứ đứng ở đấy.
"Ông Haller, tối hôm qua chắc ông bù khú nên không ngủ ở nhà. Ông sẽ mệt đừ cho mà xem!"
"Vâng," tôi đáp và cũng bật cười luôn, "tối hôm qua cũng hơi quá vui thật, và vì tôi không muốn làm rộn nếp sống của nhà ta, nên đã ngủ ở khách sạn. Tôi rất trân trọng sự yên tĩnh và tiếng tăm của ngôi nhà này, nên đôi khi tự cảm thấy mình như một cơ thể lạ ở trong đó."
"Ông đừng giễu cợt thế, ông Haller ạ!"
"Ồ không, tôi chỉ tự giễu cợt thôi."
"Ông lại càng không nên thế. Ông không nên cảm thấy như một 'cơ thể lạ' trong nhà tôi. Ông nên sống như ông thích, làm những gì ông muốn. Tôi từng có vài khách trọ rất đáng kính trọng, những hòn ngọc về tư cách, nhưng chẳng ai lặng lẽ và ít làm phiền chúng tôi bằng ông. Bây giờ - ông thích uống trà không nào?"
Tôi không từ chối. Tôi được mời dùng trà trong phòng khách đầy những hình ảnh và đồ đạc cổ kính, nói với bà dăm ba câu chuyện và người đàn bà vui tính này, dù không thật sự hỏi, đã biết được chuyện này chuyện nọ trong đời sống, suy nghĩ của tôi; bà lắng nghe với vẻ vừa tôn trọng vừa không quá quan trọng hóa của bậc hiền mẫu, kiểu mà các bà vợ khôn ngoan thường có trước những gàn dở của chồng. Chúng tôi cũng đề cập tới người cháu trai của bà và bà cho tôi xem ở một phòng bên cái radio, công trình mới nhất của anh ta cặm cụi bao ngày sau khi đi làm về. Nơi đây, tối tối người thanh niên cần mẫn ấy ngồi rị mọ ráp cái máy nọ, mê say ý tưởng về kỹ thuật vô tuyến, sùng tín khấu đầu trước ông thần kỹ thuật, kẻ sau bao nghìn năm đã thành công trong chuyện phát hiện và trình bày cực kỳ không hoàn chỉnh những điều mà mọi nhà tư tưởng đều đã biết và sử dụng khôn khéo hơn. Chúng tôi trò chuyện về những điều ấy, vì bà dì này khá sùng tín và không phải không ưa những chuyện liên quan đến tôn giáo. Tôi bảo bà rằng người Ấn Độ thời cổ đại đã rành rẽ về sự hiện diện khắp nơi của mọi sức mạnh và hành động, còn kỹ thuật mới chỉ có thể biến nổi một tí chút thực tế này thành ý thức phổ biến, qua việc thiết kế một cái máy thu và phát sóng âm thanh còn thiếu sót kinh khủng. Cho tới nay, điều cốt lõi của nhận thức xa xưa nọ, rằng thời gian không có thật, chưa được kỹ thuật quan tâm, nhưng tất nhiên cuối cùng nó cũng sẽ được "khám phá" và rơi vào tay những kỹ sư xăng xái. Có lẽ chẳng bao lâu nữa người ta sẽ thấy rằng không chỉ những hình ảnh và sự kiện ở khoảnh khắc tức thời trong hiện tại mới liên tục tràn ngập chúng ta, tương tự như giờ đây người ta đã khiến âm nhạc ở Paris và Berlin cũng nghe thấy được ở Frankfurt hoặc Zurich, mà mọi chuyện đã xảy ra cũng sẽ được ghi lại cả, và một ngày nào đấy, vô tuyến hay không, rè hay không rè, ta có thể nghe vua Salomon hoặc Walther von der Vogelweide 30 nói. Lúc đó tất cả những chuyện này, giống như bây giờ trong bước khởi đầu của radio, sẽ chỉ khiến con người trốn chạy chính mình và những mục tiêu của mình, rồi tự bủa vây bằng một tấm lưới ngày một khít hơn của sự đãng trí và những bận rộn vô bổ. Nhưng tôi nói ra tất cả những điều quen thuộc này không với giọng cố hữu cay đắng và nhạo báng thời đại cùng kỹ thuật, mà đùa bỡn; bà dì mỉm cười và chúng tôi ngồi uống trà thoải mái suốt một giờ đồng hồ.
Chú thích
1.Adallbert Stifter (1805 - 1868): nhà văn Áo, đã tự sát bằng dao cạo râu vì không chịu nổi bệnh tật giày vò.
2.Descartes, Pascal: hai nhà khoa học kiêm triết gia Pháp ở thế kỷ 17.
3.Gioto di Bondone (1266 - 1337): họa sĩ Ý.
4.Ham let và Ophelia: những nhân vật trọng vở kịch Hamlet của Shakespeare.
5.Gianozzo và Attila Schmelze: hai nhân vật chính trong hai quyển tiểu thuyết của nhà văn Đức Jean Paul (1763 - 1825).
6.Borobudur: ở Java, Indonesia, nơi có đại đền Phật giáo nổi tiếng thế giới, xây dựng vào năm 800 theo kiến trúc Ấn Độ.
7.Gubbio: một thành phố ở Trung Ý.
8."... Tôi khá tuyệt vọng một thời gian và không thiết sống nữa. Nhưng rồi tôi tìm được lối thoát. Tôi dự định vào sinh nhật thứ năm mươi, hai năm nữa, sẽ cho mình quyền tự treo cổ, nếu lúc ấy tôi còn mong muốn như thế..." (Thư ngày 1.4.1925 gửi vợ chồng Hugo Ball, người viết tiểu sử của Hesse).
Hesse cũng gửi thư với nội dung tương tự cho một số người khác, vào thời điểm khác.
(Thêm một chú thích: năm 1892, mới mười lăm tuổi, sau khi bị hai thầy giáo đánh đập tàn bạo, ép nhận lỗi vì "một chuyện cỏn con trong lớp mà tôi hoàn toàn vô tội", Hesse "mất lòng tin và các thầy" nên đã toan tự tử bằng súng lục, khiến cuối năm học ấy cha mẹ ông phải đưa ông vào bệnh viện tâm thần).
9.Outsider (tiếng Anh trong nguyên tác): người ngoài cuộc.
10.Một số nhân vật chính trong vở kịch thơ Faust nổi tiếng của đại thi hào Đức Goethe (1749-1832).
11.Vườn Gethsemane: nơi Chúa Jesus cô đơn cầu nguyện ba lần, trước khi bị bắt, rồi chịu khổ hình trên thập giá (theo Tân Ước).
12.Loại chim lông sặc sỡ ở một số rừng nhiệt đới Á châu.
13.Năm 1919, người vợ đầu của Hesse bị bệnh tâm thần phân liệt.
14.Nhân vật chính trong tiểu thuyết cùng tên nổi tiếng của nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Cervantes Saavedra (1574-1616).
15.Haydn: nhạc sĩ Áo vào thế kỷ 18; Dante: nhà thơ Ý vào thế kỷ 13, 14.
16.Cổ áo cứng rời, để gắn vào loại sơ mi chuyên dùng đóng bộ với áo smoking hoặc đuôi tôm.
17.Tác giả muốn nói đến cuộc Thế chiến I (1914-1918).
18.Ý tác giả nói đến thuyết Tương đối do Albert Einstein (1879-1955) đề ra vào những năm 1905 và 1915.
19.Năm 1923, Hesse ly dị người vợ đầu, Maria Bernouilli.
20.Đảng Quốc xã Đức của Hitler, thành lập năm 1921 - thoát thai từ một đảng cực khác - chủ trương "bài Do Thái, chống Cộng sản", gây chiến tranh để báo thù sự thất trận trong Thế chiến I và rửa mối nhục bị Đồng minh áp đặt.
21.Wilhelm II (gọi theo tiếng Pháp là Guillaume) hoàng đế Phổ (1886-1918); thoái vị ngày 28.11.1918, sau khi bại trận trong Thế chiến I, chấm dứt nền quân chủ ở Đức.
22.Mithras: thần Thái Dương ở Ba Tư cổ đại; Krishna: hóa thân thứ tám của Vishnu, một trong ba ngôi thần chúa tể trong đạo Bà La Môn.
23.Vì thế, năm 1931 - hai năm trước khi Hitler nắm quyền ở Đức, tám năm trước khi nổ ra Thế chiến II - Hesse đã rút tên khỏi Viện Hàn lâm Nghệ thuật Phổ, với lý do: "Tôi có cảm tưởng khi cuộc chiến tranh sắp tới nổ ra, Vận Hàn lâm này sẽ cống hiến cả một đám đông cho số 90 hoặc 100 nhân vật nổi tiếng được Nhà nước giao trọng trách dối gạt nhân dân về mọi vấn đề cốt tử như vào năm 1914."
24.Friedrich von Matthisson (1761-1831), nhà thơ. Gottfried August Burger (1747-1794), tác giả Những bài thơ gửi Molly.
25.Christiane Vulpius (1765-1816), vợ của Goethe.
26.Goethe từng là ủy viên Viện Cơ mật - như thượng thư ở nước ta thời phong kiến - ở Weimar. Đã từ lâu ở đây có một viện bảo tàng nổi tiếng mang tên nhà thơ.
27.Tên một bài thơ của Goethe.
28.Heinrich von Kleist (1777-1811): nhà văn, nhà soạn kịch Đức; Beethoven (1770-1827): nhạc sĩ vĩ đại Đức.
29.Giuseppe Garibaldi (1807-1882): nhà cách mạng, anh hùng dân tộc của nước Ý, đã giải phóng Ý khỏi ách đô hộ của ngoại bang.
30.Salomon: vua Do Thái thời cổ đại, tương truyền nổi tiếng sáng suốt; Walther von der Vogelweide (1170-1230): nhà thơ Đức.