Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Chương 2
K
hông một mảnh vải trên người, Zoya bóc vỏ một quả cam. Cô có gương mặt to và trẻ thơ, đôi mắt xanh trong veo, vòng eo thon và bộ ngực nhỏ với đầu ngực bé xíu như những vết tiêm. Đôi chân cô săn chắc, giọng nói cao và khỏe.
“Các chuyên gia nói với chúng ta rằng tính cá nhân và tính sáng tạo sẽ là những vấn đề then chốt của nền khoa học nghiên cứu tương lai của Liên xô. Các bậc phụ huynh nên chấp nhận chương trình giảng dạy và toán học mới, cả hai đều là những bước đi tiên tiến trong việc xây dựng một xã hội còn vĩ đại hơn nữa.” Cô dừng lại để quan sát Arkady đang nhìn cô và uống cà phê trên bậu cửa sổ. “Anh ít nhất cũng có thể tập thể dục đấy.”
Dù cao và gầy, một ngấn mỡ vẫn lộ ra dưới lớp áo chẽn khi anh khom người. Mái tóc không chải rủ xuống. Nó cũng giả bộ ốm đau như chủ nhân vậy, anh nghĩ.
“Anh đang bảo tồn bản thân cho sự tương quan so sánh với những xã hội vẫn chưa vĩ đại hơn,” anh nói.
Cô nhoài người qua bàn để lướt qua đoạn văn được gạch chân trong tạp chí Nhà Giáo, tay thu lượm hạt và vỏ cam, đôi môi cô mấp máy một lúc.
“Nhưng tính cá nhân không nên dẫn tới chủ nghĩa vị kỷ và tư tưởng địa vị.” Cô khựng lại để liếc mắt nhìn Arkady. “Anh thấy điều đó nghe có ổn không?”
“Bỏ qua tư tưởng địa vị đi. Quá nhiều kẻ thích địa vị trong đám khán giả Moscow rồi.”
Khi cô cau mày và quay đi, Arkady lướt tay xuống rãnh lằn sâu phía cuối sống lưng của cô.
“Đừng, em phải chuẩn bị sẵn sàng cho bài diễn thuyết này.” “Khi nào?” Anh hỏi.
“Tối nay. Quận ủy sẽ chọn một thành viên để nói trước cuộc mít tinh toàn thành phố vào tuần sau. Dù sao thì anh cũng chả có tư cách gì để chỉ trích những người ưa địa vị cả.”
“Giống như Schmidt?”
“Phải,” cô trả lời sau một thoáng suy nghĩ. “Như Schmidt.”
Cô bước vào phòng tắm và qua cánh cửa mở, anh ngắm cô đánh răng, vỗ chiếc bụng phẳng của mình, tô son môi. Cô phát biểu trước gương:
“Hỡi các vị phụ huynh! Trách nhiệm của các vị không dừng lại khi ngày làm việc của các vị kết thúc. Liệu chủ nghĩa vị kỷ có làm hư các học trò khi ở nhà các vị? Các vị đã đọc những số liệu thống kê gần đây liên quan đến chủ nghĩa vị kỷ và con một chưa?”
Arkady trượt khỏi bậu cửa để đọc bài viết mà cô đã gạch chân. Tiêu đề là: “Cần có những gia đình lớn hơn.” Trong phòng tắm, Zoya bóc một hộp thuốc tránh thai. Loại của Ba Lan. Cô không thích việc đặt vòng.
Hỡi những người Nga, hãy sản sinh thêm ra! Bài viết thôi thúc. Hãy ươm mầm vinh quang của một thế hệ trẻ Nga vĩ đại hơn để tất cả những dân tộc thấp kém không nhét những phần cương cứng của chúng vào tỷ lệ dân số cần thiết giữa người Nga da trắng có giáo dục và lũ tăm tối... “Vậy nó cho thấy rằng những gia đình không có hay chỉ có một con, chỉ đơn thuần phù hợp cho những bậc phụ huynh làm việc tại trung tâm đô thị thuộc phần châu Âu của Nga, không mang lại lợi ích lớn hơn cho xã hội nếu chúng ta khao khát những vị lãnh đạo Nga tương lai.” Một tương lai đói khát người Nga! Thật không tin nổi, Arkady nghĩ trong lúc Zoya đang giãn cơ trên thanh xà thể dục.
“... học sinh được tiếp cận với tính độc đáo cần phải được đào tạo một cách nghiêm khắc hơn nữa về ý thức hệ.” Cô nâng chân trái lên ngang tầm thanh xà. “Nghiêm khắc. Mạnh mẽ.”
Anh nghĩ đến một đám đông dân châu Á tuyệt vọng đổ xô ra những đường phố quanh Cung văn hóa Tiền phong, tay giơ cao, la ó, “Chúng tôi khao khát người Nga.” “Xin lỗi,” một nhân vật la lên từ Cung văn hóa trống không, “Chúng tôi hết sạch người Nga rồi.”
“... bốn, một, hai, ba, bốn.” Trán của Zoya chạm đầu gối.
Trên bức tường phía sau giường ngủ là một tấm áp phích đã được sửa lại nhiều lẫn hình ba đứa trẻ: châu Phi, Nga và Trung Quốc - với khẩu hiệu: “Một thành viên Tiền phong là người bạn của trẻ khắp các quốc gia!” Zoya đã vào vai đứa trẻ Nga và khi tấm áp phích trở nên nổi tiếng, cô nghiễm nhiên trở thành gương mặt xinh đẹp của nước Nga. Lần đầu tiên Zoya thu hút Arkady tại trường đại học chính là từ hình ảnh “Cô bé trong tấm áp phích của đội Tiền phong.” Trông cô vẫn còn giống đứa trẻ đó.
“Thoát khỏi mâu thuẫn sẽ dẫn đến sự tổng hợp.” Cô hít thật sâu. “Sự độc đáo hòa trộn với ý thức hệ.”
“Tại sao em lại muốn diễn thuyết?”
“Một trong hai ta phải nghĩ đến sự nghiệp.”
“Chuyện này tệ lắm à?” Arkady bước đến gần cô.
“Anh kiếm được một trăm tám mươi rúp một tháng, em kiếm được một trăm hai mươi rúp. Một quản đốc nhà máy kiếm được gấp đôi thế. Một thợ sửa chữa làm thêm được gấp ba số đó. Chúng ta chẳng có ti vi, máy giặt, hay thậm chí quần áo mới mà em được mặc. Chúng ta đã có thể có một trong số những chiếc xe cũ từ KGB - Chuyện đó đáng lẽ đã có thể được dàn xếp.”
“Anh không thích mẫu xe đó.”
“Đáng ra lúc này anh đã có thể trở thành một điều tra viên cao cấp rồi nếu anh là một người năng nổ hơn.”
Khi anh chạm vào hông cô, da thịt ở đó co lại, như đá cẩm thạch.
“Sao em phải tốn công uống mấy viên thuốc này làm gì? Chúng ta đã không làm gì hàng tháng nay rồi.”
Zoya chộp lấy cổ tay anh và đẩy ra, nắm chặt hết sức có thể. “Phòng trường hợp bị cưỡng bức,” cô nói.
Đám trẻ vây quanh chú hươu cao cổ bằng gỗ ở dưới sân liếc nhìn trộm qua lớp áo liền quần mùa đông và những chiếc mũ lưỡi trai khi Arkady và Zoya vào trong xe. Cố đến lần thứ ba, thì nút đề máy cũng xoay và anh quay trở lại khu Taganskaya.
“Natasha mời chúng ta cùng về vùng đồng quê vào ngày mai.” Zoya nhìn chằm chằm vào kính chắn gió. “Em bảo cô ấy là chúng ta sẽ đi.”
“Anh đã bảo với em về lời mời đó từ một tuần trước và em đã không muốn đi mà,” Arkady nói.
Zoya kéo khăn choàng lên che miệng. Bên trong chiếc xe còn lạnh hơn bên ngoài, nhưng cô ghét phải mở cửa sổ. Cô ngồi cuộn mình cứng đờ và yên lặng trong chiếc áo khoác nặng có mũ lông thỏ, khăn choàng, đi bốt. Khi dừng đèn đỏ, anh lau đám nước ngưng tụ trên kính chắn gió. “Anh xin lỗi vì chuyện bữa trưa hôm qua,” anh nói. “Hôm nay nhé?”
Cô nheo mắt liếc xéo về phía anh. Đã từng có khoảng thời gian, anh nhớ lại, khi họ dành hàng giờ trong lớp chăn ấm áp, một lớp sương mờ phủ ấm cúng trên ô cửa sổ. Họ đã nói chuyện về điều gì, anh thừa nhận rằng, anh không thể nhớ được nữa. Anh đã thay đổi? Cô đã thay đổi? Bạn có thể tin ai đây?
“Tụi em có một cuộc họp,” cuối cùng cô cũng trả lời.
“Tất cả các giáo viên phải tham gia, cả ngày?”
“Tiến sỹ Schmidt và em, để lên kế hoạch cho phần diễu hành của câu lạc bộ thể dục.”
À, Schmidt. Ờ thì, bọn họ có rất nhiều điểm chung. Hắn ta, xét cho cùng, cũng là thư ký Quận ủy. Cố vấn cho hội đồng Komsomol của Zoya. Huấn luyện viên thể dục. Cùng làm chung một công việc sẽ dẫn đến sự nảy sinh tình cảm song phương. Arkady ghìm lại cơn thèm thuốc lá bởi vì nó sẽ khiến cho hình ảnh một người chồng ghen tuông trở nên quá hoàn thiện.
Học sinh đang đi thành hàng vào lớp khi Arkady tới trường 457. Dù bọn trẻ đáng lẽ phải mặc đồng phục, nhưng hầu hết đều đeo khăn quàng đỏ Tiền phong và mặc những bộ đồ cũ.
“Em sẽ về muộn.” Zoya nhanh chóng nhảy ra khỏi xe.
“Được rồi.”
Cô níu lấy cửa xe thêm một lúc nữa. “Schmidt nói em nên ly dị anh khi còn có thể.” Cô nói thêm và đóng cửa.
Tại cổng trường, đám học sinh hét tên cô. Zoya quay lại nhìn chiếc xe một lần và Arkady lúc này đang châm thuốc lá.
Rõ ràng là ngược lại với học thuyết Liên xô, anh nghĩ. Từ sự tổng hợp đến xung đột.
Viên thanh tra hướng suy tư trở lại với ba vụ giết người tại công viên Gorky. Anh tiếp cận vấn đề theo góc nhìn công lý kiểu Liên Xô. Công lý, cũng có đầy tính giáo dục như bất kỳ một trường học nào.
Ví dụ. Thường thì những tay say xỉn sẽ chỉ đơn giản bị giữ tại một phòng tạm giam cho người say và sau đó được tống về nhà. Khi con số những tay say quắc cần câu - dù giá vodka tăng - đơn giản là trở nên quá nhiều, một chiến dịch giáo dục về sự khủng khiếp của rượu được tung ra, thế là, tụi say xỉn bị tống vào tù. Trộm cắp vặt xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng ở các nhà máy, đó là phía làm ăn tư nhân của nền công nghiệp Liên Xô. Thông thường, một quản lý nhà máy quá vụng về đến mức bị bắt sẽ được xét xử lặng lẽ với mức năm năm tù, nhưng khi trong một chiến dịch chống trộm cắp, anh ta sẽ bị lớn tiếng xử bắn.
Kiểu của KGB cũng chẳng khác gì. Khu cách ly Vladimir đảm nhiệm chức năng giáo dục những thành phần chống đối cứng đầu, “nhưng chỉ có nấm mồ mới chỉnh được người gù,” và vì vậy có một bài học cuối cùng cho những kẻ thù tồi tệ nhất của Nhà nước. Arkady cuối cùng đã tìm hiểu ra rằng hai xác chết được tìm thấy bên sông Kliazma là những kẻ tái phạm gây kích động, cuồng tín vào loại nguy hiểm nhất: Nhân chứng Giê-hô-va.
Có điều gì đó về tôn giáo khiến Nhà nước nổi xung. Chúa khóc than, Chúa khóc than, Arkady tự nói với chính mình, dù anh chẳng biết anh học được cách nói này ở đâu. Toàn bộ sự mộ đạo tăng vọt, thị trường tượng thánh, sự khôi phục các nhà thờ khiến chính phủ quay cuồng như điên. Ném những nhà truyền giáo vào tù cũng chỉ dung dưỡng những người cải đạo. Thà dùng một bài học cứng rắn cho mục đích giáo dục còn hơn.
Công viên Gorky, dù sao, cũng không xa bờ sông, đó là trái tim thanh khiết nhất của thành phố. Ngay cả Pribluda hẳn cũng đã từng tới công viên Gorky khi còn là một đứa trẻ mập mạp, một kẻ đi picnic phì nộn, một tay tán gái hay rên rỉ. Ngay cả Pribluda cũng nên biết rằng công viên Gorky là một nơi dành cho việc vui chơi chứ không phải giáo dục. Ngoài ra, những thi thể đã ở đó hàng tháng ròng chứ không phải chỉ vài ngày. Bài học đó thật lạnh lùng, cũ kỹ và vô nghĩa. Đó không phải là thứ công lý như Arkady vẫn mong đợi và ghét cay ghét đắng.
Lyudin đang đứng chờ ở sau chiếc bàn được che lấp bởi thiết bị đựng những mẫu vật xét nghiệm và ảnh, đầy vẻ tự mãn như một ảo thuật gia được bao bọc bởi những chiếc vòng lớn và khăn choàng.
“Phòng pháp y đã làm việc cật lực vì anh, trưởng thanh tra ạ. Các chi tiết thật lôi cuốn.”
Và đầy lợi nhuận nữa, Arkady chắc mẩm. Luydin đã trưng dụng lượng hóa chất đủ để chất đầy một nhà kho tư nhân, mà có khi ông ta đã làm thế thật.
“Tôi rất nóng lòng.”
“Anh biết nguyên tắc của sắc ký khí đấy, tác động của khí di chuyển và vật liệu dung môi cố định.”
“Tôi nói thật đấy,” Arkady nói. “tôi không thể chờ nổi.”
“Ồ” - tay giám đốc phòng thí nghiệm thở dài - “ nói một cách nhanh gọn là, sắc ký được tìm thấy ở quần áo của cả ba nạn nhân đều được kết lại rất rõ những bột thạch cao và mùn cưa, và trên quần của GP-2 có một dấu vết rất nhỏ của vàng. Chúng tôi xịt luminol lên quần áo, chuyển chúng vào một phòng tối và quan sát sự phát huỳnh quang chỉ ra vết máu. Hầu hết máu, đúng như dự kiến, là của nạn nhân. Dù vậy, những chấm máu nhỏ nhất không phải là máu người mà là máu gà và cá. Chúng tôi cũng tìm thấy một hoa văn rất thú vị trên quần áo.” Lyudin giơ cao một bản vẽ những cái xác còn đang mặc quần áo trong tư thế giống như khi họ được tìm thấy. Có một vùng tối phía trước của người phụ nữ nằm ngửa và dọc theo phần trên khuỷu tay của các nạn nhân nam nằm nghiêng. “Ở vùng tối, và chỉ có ở trong vùng tối, chúng tôi tìm thấy dấu hiệu của carbon, chất béo động vật và axit tanic. Nói cách khác, sau khi những cái xác được bao phủ phần nào bởi tuyết, có thể trong vòng bốn mươi tám giờ, chúng cũng đã được phủ nhẹ một lớp tro từ đám cháy quanh đó.”
“Đám cháy ở xưởng thuộc da Gorky,” Arkady nói.
“Rõ ràng là thế rồi.” Lyudin không thể kìm nổi một nụ cười. “Vào ngày mùng ba tháng Hai, một vụ hỏa hoạn từ xưởng thuộc da Gorky đã bao phủ đầy tro lên một vùng rộng ở quận Octobryskaya. Ba mươi centimet tuyết rơi vào ngày mùng một và hai tháng Hai. Hai mươi centimet tuyết rơi từ ngày mùng ba đến mùng năm tháng Hai. Nếu chúng ta đã có thể duy trì nguyên trạng đám tuyết ở khu đất trống, thậm chí chúng ta có thể tìm ra được một lớp tro chưa bị xáo trộn. Dù sao thì, điều đó có vẻ như giúp anh xác định được thời điểm phạm tội.”
“Làm tốt lắm,” Arkady nói. “Tôi ngờ rằng bây giờ chúng ta cần phải phân tích mẫu tuyết.”
“Chúng ta đồng thời cũng đã phân tích các viên đạn. Kẹt bên trong tất cả các viên đạn là những lượng khác nhau quần áo và mô của nạn nhân. Viên đạn dán nhãn GP1-B còn mang theo những mẩu da thuộc màu nâu không liên quan đến quần áo của các nạn nhân.
“Thế còn thuốc súng?”
“Không hề có trên quần áo của GP1 nhưng có vài dấu vết mờ nhạt trên áo khoác của GP2 và GP3, cho thấy rằng họ đã bị bắn ở cự li gần hơn,” Lyudin nói thêm.
“Không, nó cho thấy họ bị bắn sau GP1,” Arkady nói. “Có gì ở giày trượt tuyết không?”
“Không có máu, thạch cao hay mùn cưa. Không phải là giày chất lượng cao lắm.”
“Ý tôi là dấu hiệu nhận dạng. Người ta thường đề tên của mình lên giày trượt, đại tá ạ. Anh đã làm sạch mấy cái giày và xem thử chưa?”
Tại văn phòng của mình ở Novokuznetskaya, Arkady nói, “Đây là khu bãi trống ở công viên Gorky. Cậu,” anh nói với Pasha, “là Quái vật. Thám tử Fet, cậu là Đỏ, gã gầy còm ấy. Đây” - anh đặt một chiếc ghế giữa bọn họ - “là Người Đẹp. Tôi là kẻ sát nhân.”
“Anh đã nói là có thể có nhiều hơn một hung thủ,” Fet nói.
“Đúng, nhưng lần này chúng ta chỉ thử từ trước ra sau thay vì cố gắng gò ép thực tế vào một lý thuyết.”
“Tốt thôi. Tôi cũng yếu về mặt lý thuyết.” Pasha nói.
“Trời mùa đông. Chúng ta đang cùng nhau trượt băng. Chúng ta là bạn bè, hay ít nhất là người quen. Chúng ta rời đường trượt băng tới bãi trống, ở gần đường nhỏ nhưng bị chắn bởi cây cối. Vì sao vậy?”
“Để nói chuyện,” Fet gợi ý.
“Để ăn uống!” Pasha la lên. “Đó là lý do vì sao bất kỳ ai cũng trượt băng, để bạn có thể dừng lại và ăn một chiếc bánh nhân thịt, chút pho mát, bánh mì và mứt, dĩ nhiên là chuyền tay nhau chút vodka hay brandy.”
“Tôi là chủ tiệc,” Arkady nói tiếp. “Tôi chọn chỗ này. Tôi mang đồ ăn tới. Chúng ta đang thư giãn, có chút vodka trong bụng và chúng ta đang cảm thấy rất ổn.”
“Và rồi anh giết chúng tôi? Bắn bằng một khẩu súng từ trong túi áo khoác của anh?” Fet hỏi.
“Có khi anh sẽ tự bắn chính chân mình nếu anh thử làm thế,” Pasha trả lời. “Anh đang nghĩ về mẩu da trên viên đạn, Arkady. Nghe này, anh mang đồ ăn đến. Anh không thể mang nhiều đồ ăn như thế trong túi áo. Anh mang chúng trong một chiếc túi da.”
“Tôi đang đưa đồ ăn ra từ túi.”
“Và tôi thì chẳng ngờ vực gì khi anh nâng túi lên gần với ngực tôi. Tôi bị bắn trước vì tôi là kẻ lớn nhất và hung dữ nhất.” Pasha gật đầu - thói quen khi anh ta bị buộc phải suy nghĩ. “Bùm!”
“Phải. Đó là lý do vì sao lại có mẩu da trên viên đạn thứ nhất, nhưng không có thuốc súng trên áo khoác của Quái vật. Thuốc súng có thoát ra ngoài lỗ đạn trên túi ở những lần bắn sau.”
“Thế còn tiếng ồn,” Fet phản đối và được ra hiệu ngồi xuống.
“Đỏ và Người đẹp không thấy khẩu súng nào cả.” Pasha hào hứng, đầu anh ta gật lia lịa. “Họ không biết chuyện gì đang xảy ra.”
“Đặc biệt là nếu chúng ta được coi là bạn bè. Tôi chuyển cái túi sang phía Đỏ.” Ngón tay Arkady trỏ về phía Fet. “Bùm!” Anh nhắm vào chiếc ghế. “Đến giờ, Người đẹp đã có đủ thời gian để hét lên. Vì một lý do nào đó, tôi biết cô ta sẽ không làm thế, tôi biết cô ta thậm chí còn chẳng cố gắng chạy trốn.” Anh nhớ lại cái xác của cô gái giữa hai người đàn ông. “Tôi giết cô ta. Và tôi bắn xuyên đầu hai anh.”
“Đòn ân sủng. Rất gọn nhẹ.” Pasha tán đồng.
“Nhiều tiếng ồn hơn,” Fet gạt phắt đi. “Tôi chẳng quan tâm những gì anh nói, như thế là có quá nhiều tiếng ồn. Dù sao đi chăng nữa, bắn vào miệng ai đó thì cũng chẳng phải đòn ân sủng gì cả.”
“Thám tử” - Arkady đưa ngón tay trở lại - “cậu nói đúng. Vậy tôi đang bắn cậu vì một lý do khác, một lý do tốt để bắn thêm hai lần nữa.”
“Đó là gì?” Pasha hỏi.
“Giá mà tôi biết được. Giờ tôi lấy dao ra và cắt rời mặt của các cậu. Có lẽ là dùng kéo lớn để cắt các ngón tay. Bỏ mọi thứ vào trong túi.”
“Anh đã dùng một khẩu tự động.” Pasha tràn đầy cảm hứng. “Ít tiếng ồn hơn là một khẩu côn và vỏ đạn được phóng thẳng vào trong túi. Đó là lý do vì sao chúng ta không tìm thấy vỏ đạn trong tuyết.”
“Khoảng thời gian nào trong ngày?” Arkady thúc giục.
“Khuya,” Pasha nói. “Như thế thì có ít khả năng những người trượt tuyết khác dừng ở bãi trống. Có thể là trời đầy tuyết - làm lấp bớt tiếng súng. Vậy là trời tối và tuyết rơi khi anh đi ra khỏi công viên.”
“Và ít có khả năng người nào đó nhìn thấy tôi quăng cái túi xuống sông.”
“Đúng vậy!” Pasha vỗ tay.
Fet ngồi trên ghế. “Dòng sông đã bị đóng băng,” anh ta nói.
“Mẹ kiếp!” Hai bàn tay của Pasha buông thõng xuống.
“Đi ăn thôi,” Arkady nói. Lần đầu tiên trong hai ngày nay anh có cảm giác muốn ăn.
Quán ăn tự phục vụ ở trạm dừng tàu điện ngầm bên kia con phố giữ một bàn cho các điều toa viên. Ông già Belov gia nhập vào nhóm và bắt đầu những câu chuyện thời chiến về cha của Arkady.
“Lúc này vẫn còn sớm, trước khi chúng tôi tập hợp lại.” Belov nháy mắt sụt sịt. “Tôi lúc đó là tài xế lái xe BA-20 của đại tướng.”
Arkady vẫn nhớ câu chuyện. BA-20 là một chiếc xe bọc thép cổ lỗ gồm một tháp súng máy hình nhà thờ Hồi giáo đặt trên một bộ khung xe Ford. Ba chiếc BA-20 dưới quyền chỉ huy của cha anh đã bị bẫy xuống một trăm kilomet sau phòng tuyến của Đức trong tháng đầu của cuộc chiến và đào thoát mang theo tai cùng cầu vai của một chỉ huy nhóm SS.
Phần về những cái tai khá buồn cười. Người Nga chấp nhận cưỡng bức và tàn sát như là những trò diễn bên lề bình thường của chiến tranh. Điều khiến cho đất nước của những cuộc cách mạng rung chuyển thế giới dội lại trong sự khiếp sợ chính là ý tưởng về chiến lợi phẩm con người bị tước đoạt bởi người Nga. Nó còn hơn cả tồi tệ, đối với giai cấp vô sản bất khả chiến bại nhưng thoáng vẻ bồn chồn, nó chỉ ra một vết nhơ đậm hơn tất thảy: sự thiếu văn minh. Tin đồn về những chiếc tai cứ đeo đẳng sự nghiệp của viên đại tướng sau cuộc chiến.
“Lời đồn về những chiếc tai là không đúng sự thật,” Belov quả quyết tại bàn.
Arkady có nhớ những chiếc tai. Chúng thường được treo lủng lẳng như những chiếc bánh khô quăn trên tường phòng làm việc của cha anh.
“Anh thực sự muốn tôi nói chuyện với tất cả những người bán dạo đó à?” Pasha dùng dĩa cuốn một miếng thịt nguội. “Tất cả những gì họ nói là họ muốn chúng ta đuổi bọn Gypsy khỏi công viên.”
“Hãy nói chuyện với những người Gypsy nữa. Chúng ta có thời điểm rồi, đầu tháng Hai.” Arkady nói. “Và tìm hiểu loại nhạc trượt băng mà họ chơi trên loa phóng thanh.”
“Anh có hay gặp vị đại tướng cha anh hay không?” Fet chen vào để hỏi.
“Không thường gặp.”
“Tôi nghĩ về những gã khốn tội nghiệp ở trạm cảnh sát trong công viên,” Pasha nói. “Cái trạm nhỏ khá ổn - túp lều gỗ phổ thông, bếp lò ấm áp, mọi thứ. Chẳng trách họ không biết được rằng trong rừng đầy xác chết. Họ sẽ thấy rất nhiều cánh rừng ở trạm tiếp theo của họ, gấu trắng và dân eskimo nữa.”
Belov và Fet khiến Arkady phải chú ý. Trước sự ngạc nhiên của anh, những người bạn chí cốt này đang đả kích sự Sùng bái Cá nhân.
“Ý các anh là đồng chí Stalin?” anh hỏi.
Fet tái mặt. “Ý chúng tôi là Olga Korbut.”
Chuchin tới. Viên trưởng thanh tra Vụ đặc biệt là tổng hợp của những nét phổ thông nhất, một cái khuôn được tô hình người. Anh ta nói với Arkady rằng Lyudin đã gọi báo về một cái tên trên những chiếc giày trượt.
Trong sự buồn tẻ của Moscow, bên triền đồi Lê-nin là xưởng phun Mosfilm. Còn có những xưởng phim khác trong nước: Lenfilm, Tadjifilm, Uzbekfilm. Không có cái nào lớn hay có thanh thế như Mosfilm. Một người quyền cao chức trọng tới thăm xưởng sẽ được chở tới bằng xe limousine dọc theo bức tường rào màu cam nhạt qua cổng nhà, rẽ trái theo hướng khu vườn và đột ngột ngoặt phải tới cửa chính của tòa nhà rạp phim trung tâm, nơi những đạo diễn nổi tiếng (luôn mang theo kính dày cộp và thuốc lá) cùng những cô đào ngoan ngoãn cầm hoa xếp hàng để đón tiếp ông ta. Ông ta sẽ còn được vây quanh bởi nhiều nhà rạp lớn hơn nữa, những dãy nhà ở, nhà chiếu phim, nhà của người viết kịch bản, tòa nhà của các biên kịch, tòa nhà quản lý, gara máy bay, phòng tráng phim, nhà kho và dựng rất nhiều xe ngựa kiểu Tarta, xe tăng bọc thép và tàu vũ trụ. Bản thân nó cũng là cả một thành phố, với dân số ngày càng tăng gồm những kỹ thuật viên, họa sỹ, nhà kiểm duyệt và các diễn viên phụ - một số lượng diễn viên phụ đặc biệt lớn vì xu hướng thích những cảnh quần chúng của phim Liên Xô, bởi vì không có bộ phim Xô Viết nào với khoản ngân sách hạn hẹp có thể chi trả cho cả một đám đông, và bởi vì với rất nhiều người trẻ tuổi, giành được một suất làm diễn viên cho Mosfilm thậm chí chỉ là vai phụ cũng là được sinh ra một lần nữa.
Không có chức sắc cũng chẳng được mời, Arkady tìm đường đi riêng của mình giữa nhà rạp trung tâm và những đống tuyết bị xúc bỏ trước tòa nhà điều hành. Một cô gái đứng nhìn trừng trừng giơ cao một bảng hiệu viết phấn màu đen ghi yêu cầu: “Yên lặng!” Anh nhận ra mình đã tới một bối cảnh ngoài trời, một vườn đầy những chậu trồng táo chìm trong cỏ được soi sáng bởi đèn chiếu lọc màu với ánh sáng rực rỡ ấm áp của một buổi hoàng hôn mùa thu. Một người đàn ông mặc bộ đồ công tử thế kỷ XIX đang nghiền ngẫm một cuốn sách bên chiếc bàn sắt rèn màu trắng trong vườn. Đằng sau anh ta là một bức tường giả với cửa sổ mở nhìn vào một chiếc đèn dầu trên đàn piano. Một người đàn ông thứ hai mặc quần áo vải thô nhón chân dọc theo bức tường, rút một khẩu súng lục nòng dài ra và ngắm bắn.
“Lạy chúa tôi!” Người đàn ông đọc sách nhảy lên.
Có điều gì đó sai, điều gì đó dường như luôn sai, và họ cứ quay đi quay lại cảnh này. Đạo diễn và các quay phim, với tâm trạng cáu bẳn và áo khoác da thời trang, chửi rủa các trợ lý sản xuất, vốn là những cô gái xinh xắn trong áo khoác Afghan. Tất cả họ đều trưng ra nét mặt pha trộn giữa vẻ nhàm chán và căng thẳng. Đám đông rất hào hứng. Bất kỳ ai không có việc gì làm - thợ điện, tài xế, những người Mông Cổ khoác trên mình một lớp body painting, những vũ công ba lê nhí nhút nhát cũng như những chú chó tạp chủng - lặng lẽ quan sát với vẻ say mê màn kịch quay phim còn thú vị hơn nhiều so với vở kịch đang được quay.
“Lạy chúa! Anh làm tôi chết khiếp!” Người đọc sách gắng gượng một lần nữa.
Cố đứng kín đáo hết mức có thể bên cạnh xe phát điện dành cấp nguồn chiếu sáng, Arkady có thừa thời gian để tìm trợ lý trang phục. Cô cao, mắt sẫm màu, da trắng và tóc nâu cuộn lại thành một búi. Áo khoác Afghan của cô sờn hơn áo của những cô gái khác, và ngắn, để lộ cổ tay. Đứng bất động, ôm một kịch bản, cô có sự tĩnh lặng của một bức ảnh. Khi cô cảm nhận được ánh mắt của Arkady, cô nhìn về phía anh và cái nhìn của cô khiến anh cảm giác như được chiếu rọi trong giây lát. Cô hướng sự chú ý trở lại với cảnh phim trong vườn, nhưng anh đã kịp nhìn thấy vết bớt trên má phải của cô. Trong ảnh của cảnh sát, vết bớt có màu xám. Giờ anh thấy nó màu xanh nhợt, nhỏ nhưng nổi bật vì cô đẹp.
“Lạy chúa! Anh làm tôi sợ chết khiếp!” Người đọc sách chớp mắt trước khẩu súng đang được chĩa ra. “Tôi đã đủ căng thẳng rồi, và anh còn làm cái trò ngu xuẩn như thế nữa!”
“Nghỉ ăn trưa!” đạo diễn hô lên và bước ra khỏi khu vực chỉ đạo. Cảnh này cũng đã được diễn trước đó, để cho diễn viên và đoàn làm phim rút đi gần như là nhanh chóng, bỏ lại đám người xem giải tán. Arkady quan sát cô trợ lý trang phục choàng những tấm khăn phủ bụi lên chiếc bàn ngoài vườn và ghế, kéo thẳng lại một bông hoa bị rủ xuống và vặn nhỏ chiếc đèn dầu trên đàn piano. Áo của cô còn hơn cả sờn cũ, những miếng vá đã biến họa tiết thêu trên áo Afghan thành một chiếc chăn ghép vải điên rồ. Một chiếc khăn quàng cổ màu cam rẻ tiền được thắt lỏng lẻo quanh cổ cô. Đôi bốt của cô bằng nhựa dẻo màu đỏ. Một bộ đồ khác thường, song cô mặc nó với sự bình thản rằng người phụ nữ khác nhìn thấy cô có lẽ sẽ nói, Phải rồi, đó là cách mà tôi nên mặc đồ, như vừa nhảy ra khỏi thùng rác vậy. Không có những chiếc đèn chiếu, khu vườn trở nên tối sầm. Cô nở một nụ cười.
“Irina Asanova?” Arkady cất tiếng.
“Và anh là?” Cô có giọng nói dày và tròn âm điệu Siberi. “Tôi biết tất cả bạn bè của mình, và tôi chắc rằng tôi không quen anh.”
“Cô có vẻ biết rằng cô là người mà tôi tìm đến để nói chuyện.”
“Anh chẳng phải người đầu tiên đến làm phiền khi tôi đang làm việc.” Tất cả những điều này được nói ra kèm theo một nụ cười như thể chẳng có chuyện làm mất lòng. “Tôi sẽ lỡ bữa trưa,” cô thở dài, “coi như là tôi sẽ ăn kiêng đi. Anh có gì để hút không?”
Vài lọn tóc quăn thoát ra khỏi trật tự của búi tóc. Irina Asanova hai mươi mốt tuổi, Arkady nhớ theo hồ sơ cảnh sát. Khi anh châm thuốc cho cô, cô khum những ngón tay dài lạnh lẽo chắn ngọn lửa từ tay anh. Động chạm thể xác thế này là một trò khiến anh thất vọng, cho đến khi anh nhìn vào mắt cô và cô cười nhạo anh. Đó là một đôi mắt đầy biểu cảm, chúng có thể khiến cô gái thô kệch nhất trở nên thú vị.
“Mấy người từ Vụ Đặc biệt luôn có thuốc lá xịn hơn, tôi phải báo với anh là như thế,” cô nói và hít sâu một hơi đầy tham lam. “Đây có phải là một phần của chiến dịch khiến tôi bị sa thải không vậy? Nếu các anh xua đuổi tôi khỏi chỗ này, tôi sẽ kiếm việc khác thôi.”
“Tôi không đến từ Vụ Đặc biệt hay KGB. Đây.” Arkady giơ thẻ căn cước ra.
“Khác mà cũng chả khác lắm.” Cô đưa trả chiếc thẻ. “Trưởng thanh tra Renko muốn gì ở tôi đây?”
“Chúng tôi tìm thấy giày trượt băng của cô.”
Mất một lúc để cô hiểu ra. “Giày trượt của tôi!” Cô bật cười. “Anh thực sự tìm thấy chúng à? Tôi mất chúng hàng tháng nay rồi.”
“Chúng tôi tìm thấy chúng trên người một người chết.”
“Tốt. ông trời xử chúng đúng lắm. Suy cho cùng cũng có công lý trên đời. Tôi mong chúng bị chết cóng. Xin đừng sốc. Anh có biết tôi đã phải dành dụm bao lâu cho đôi giày đó không? Nhìn vào đôi bốt của tôi này. Nào, nhìn chúng đi.”
Anh thấy đôi giày đã bị bong khóa. Irina Asanova đột ngột tựa vào vai anh và tháo giày ra. Cô có đôi chân dài yêu kiều.
“Thậm chí còn chẳng có một tấm lót nữa.” Cô cọ những ngón chân trần. “Anh thấy tay đạo diễn phim này không? Hắn hứa cho tôi một đôi bốt Ý lót lông nếu tôi ngủ với hắn. Anh nghĩ tôi có nên làm thế không?”
Đó dường như là một câu hỏi thật sự. “Mùa đông sắp hết rồi,” anh nói.
“Chính xác.” Cô xỏ lại bốt.
Điều gây ấn tượng cho Arkady, ngoài đôi chân của cô, là cách mà cô khiến toàn bộ phần trình diễn của mình mang đầy vẻ thờ ơ, như thể cô chẳng quan tâm đến những gì mình nói hay làm.
“Chết,” cô nói. “Tôi cảm thấy khá hơn rồi. Tôi báo mất giày trượt, anh biết đấy, ở sân trượt băng và báo với cảnh sát.”
“Chính xác là, cô báo mất chúng vào mùng bốn tháng Hai, dù cô nói cô mất chúng vào ngày ba mươi mốt tháng Một. Cô không biết là đã mất chúng trong bốn ngày sao?”
“Chẳng phải thường thì anh nhận ra anh mất thứ gì khi anh muốn dùng nó một lần nữa sao? Kể cả anh đấy, viên thanh tra? Mất một thời gian tôi mới nghĩ ra là đã mất chúng ở đâu - rồi tôi quay lại chỗ sân trượt băng. Quá muộn.”
“Có thể trong lúc chờ đợi, cô đã nhớ ra điều gì đó hay ai đó ở sân trượt băng mà cô không nói nhắc đến với cảnh sát khi cô báo mất giày. Cô có biết ai có thể lấy giày trượt của cô không?”
“Tôi nghi ngờ”- cô khựng lại để tạo chút hiệu ứng khôi hài - “tất cả mọi người.”
“Tôi cũng thế,” Arkady nói một cách nghiêm túc.
“Chúng ta cũng có chút điểm chung đấy.” Cô cười sảng khoái, “hay tưởng tượng!”
Nhưng ngay khi anh bắt đầu cười với cô, cô lờ anh đi ngay. “Một trưởng thanh tra chẳng đến đây để nói với tôi về giày trượt,” cô nói. “Tôi đã nói với cảnh sát tất cả những gì tôi biết lúc trước rồi. Anh muốn cái gì?”
“Cô gái đi giày trượt của cô đã bị giết. Hai người khác nữa cũng được tìm thấy cùng cô ta.”
“Thế thì liên quan gì đến tôi?”
“Tôi nghĩ cô có thể giúp được.”
“Nếu họ đã chết, tôi chẳng thể giúp họ được. Tin tôi đi, tôi sẽ chẳng làm gì cho anh đâu. Tôi từng là sinh viên luật. Nếu anh định đến bắt tôi, anh phải có một tay cảnh sát đi cùng. Anh có định bắt tôi không đấy?”
“Không...”
“Vậy trừ khi anh muốn làm tôi mất việc, anh sẽ đi khỏi đây. Mọi người ở đây sợ anh, họ không muốn thấy anh lảng vảng quanh đây. Anh sẽ không đến nữa, phải không?”
Arkady ngạc nhiên với chính mình vì đã để cô gái lố bịch này làm trò. Mặt khác, Arkady hiểu hoàn cảnh của những sinh viên bị ném ra khỏi trường đại học và bám víu lấy bất kỳ công việc nào họ có thể tìm được để không mất giấy thông hành Moscow và bị chuyển về nhà. Về tận Siberi trong trường hợp cô gái này.
“Không,” anh đồng ý.
“Cảm ơn anh.” Anh nhìn nghiêm nghị của cô chuyển sang thực dụng. “Trước khi đi, anh có thể cho tôi một điếu thuốc nữa không?”
“Cứ lấy cả bao đi.”
Đoàn làm phim lại đổ về phim trường. Tay diễn viên cầm súng lục say xỉn và chĩa súng vào Arkady. Irina gọi với theo viên thanh tra đang ra về, “Nhân tiện, anh nghĩ gì về cảnh phim?”
“Giống Chekhov,” anh ngoái lại trả lời, “nhưng dở tệ.”
“Nó là tác phẩm của Chekhov,” cô nói, “và nó kinh tởm, anh chẳng chệch điều gì cả.”
Levin đang nghiền ngẫm một thế cờ khi Arkady bước vào văn phòng của nhà nghiên cứu bệnh học.
“Tôi sẽ cho anh biết lịch sử ngắn gọn về đời của chúng ta.” Levin không ngẩng đầu lên khỏi những mảnh đen và trắng. “Một khi một người đàn ông ưa giết chóc, trong khi anh ta chẳng nghĩ gì về cướp bóc, anh ta tiến tới ngôn ngữ thô tục và chủ nghĩa vô thần, và từ những điều đó tới những cánh cửa mở mà chẳng cần gõ cửa. Nước cờ đen.”
“Ông không phiền chứ?” Arkady hỏi.
“Không sao.”
Arkady gạt sạch phần trung tâm bàn cờ và đặt ba con tốt đen về bên của chúng. “Người đẹp, Quái vật và Đỏ.”
“Anh đang làm gì vậy?” Levin quan sát ván cờ bị làm hỏng.
“Tôi nghĩ ông đang bỏ sót điều gì đó.”
“Làm sao anh biết được?”
“Để tôi nói qua về vụ này nhé. Ba nạn nhân, tất cả đều bị giết bởi một phát súng xuyên lồng ngực.”
“Hai phát qua đầu nữa, vậy anh nghĩ phát đạn nào trước vậy?”
“Tên sát nhân đã lên kế hoạch cẩn thận,” Arkady tiếp tục đào sâu hơn. “Hắn lấy đi giấy tờ tùy thân, khoắng sạch túi nạn nhân, thực sự lột da mặt họ và cắt đầu ngón tay để loại bỏ đặc điểm nhận dạng. Tuy vậy, hắn vẫn liều lĩnh bắn thêm hai phát nữa vào mặt những nạn nhân nam.”
“Để chắc rằng họ đã chết.”
“Hắn biết rằng họ đã chết. Không, trên một người đàn ông còn có một điểm nhận dạng nữa cần bị xóa bỏ.”
“Có thể là bắn vào đầu họ trước rồi mới bắn vào tim.”
“Vậy tại sao không làm như thế với cô gái? Không, hắn bắn vào đầu người đàn ông đã chết, và nhận ra rằng hắn chỉ đang thông báo cho những gì hắn định làm. Và thế là bắn cả người đàn ông đã chết thứ hai.”
“Vậy tôi hỏi anh.” - Levin đứng dậy - “Tại sao không bắn cả cô gái?”
“Tôi không biết.”
“Và tôi nói với anh với tư cách một chuyên gia, mà anh vốn không phải, rằng viên đạn với đường kính như thế không thể gây biến dạng đến mức khiến người đàn ông không thể nhận dạng được. Ngoài ra, tay đồ tể này đã lột mặt của họ ra rồi.”
“Hãy nói cho tôi biết với tư cách một chuyên gia, những viên đạn đó đạt được cái gì vậy?”
“Nếu hai người đàn ông đã chết rồi,” Levin khoanh tay, “chủ yếu là phá hủy cục bộ. Răng vốn là thứ chúng ta đã kiểm tra kỹ rồi.”
Arkady không nói gì cả. Levin giật tung một ngăn kéo và mang ra những chiếc hộp đánh dấu GP1 và GP2. Từ hộp GP1, ông ta đổ hai chiếc răng cửa gần như nguyên vẹn vào lòng bàn tay mình.
“Răng khỏe,” Levin nói. “Anh có thể cắn quả hạch với những chiếc răng này.”
Những chiếc răng trong hộp GP2 ở tình trạng không tốt. Một chiếc răng cửa bị vỡ vụn và một túi riêng đựng những mảnh vỡ và bột.
“Phần lớn của một chiếc răng đã bị mất trong tuyết. Dù vậy, những gì chúng tôi đã phân tích được cho thấy những dấu vết của men tráng, men răng, cement, tủy răng đã được khử nước, vết ố do thuốc lá và chì.
“Một vết hàn răng?” Arkady hỏi.
“Chín gram.” Levin dùng tiếng lóng chỉ viên đạn. “Hài lòng chứ?”
“Đây là Đỏ, chàng trai nhuộm tóc, phải không?”
“GP2, lạy chúa tôi!”
Đỏ ở tầng dưới, trong một ngăn lạnh bằng kim loại. Họ đẩy thi thể này vào phòng khám nghiệm tử thi. Arkady bập bùng rít từng hơi ngắn thuốc lá.
“Cho tôi chút ánh sáng.” Levin huých khuỷu tay vào anh. “Tôi cứ nghĩ anh ghét công việc này.”
Ở trung tâm của hàm trên là một lỗ hổng được đóng khung bởi răng cửa phụ màu nâu. Dùng một cái dùi, Levin chọc những mẩu hàm lên trên một bản kính đựng chất lỏng. Khi những chất lắng đọng bọc lấy bản kính, ông ta mang nó tới một kính hiển vi trên bàn làm việc.
“Anh có bao giờ biết được mình đang tìm kiếm cái gì không, hay anh chỉ đơn giản là đoán mò?” ông ta hỏi Arkady.
“Tôi đoán, nhưng chẳng ai lại cướp một két sắt rỗng cả.”
“À, dù nó có nghĩa là gì đi chăng nữa.” Nhà nghiên cứu bệnh học ghé một mắt vào kính hiển vi đồng thời khuấy chiếc xương vỡ. Bắt đầu với thị kính 10x, ông ta xoay các thấu kính của vật kính. Arkady kéo một chiếc ghế lên và ngồi quay lưng lại với xác chết khi Levin lấy ra khỏi bản kính mỗi lần một ít bụi xương.
“Tôi đã gửi một báo cáo đến văn phòng anh mà có thể anh vẫn chưa xem đấy.” Levin nói. “Những đầu ngón tay đã bị cắt bỏ bằng kéo lớn. Vết thương có những rãnh đối xứng và rõ ràng. Mô mặt đã không bị lột bỏ bằng dao mổ, những vết cắt không ngọt như thế - thực tế, có một vết cắt lõm mạnh vào xương. Tôi cho là một con dao lớn, có thể là dao đi săn, và cực kỳ sắc.” Một lớp bụi xương mịn đọng lại trên bản kính. “Đây, xem thử này.”
Khi phóng đại lên hai trăm lần, bụi xương là một đám đá vụn màu ngà rải rác lẫn với gỗ hồng.
“Cái gì vậy?”
“Gutta-percha*. Chiếc răng bị vỡ theo cách đó vì nó đã chết và giòn. Anh ta làm ống chân răng, và gutta-percha được đệm vào vị trí chân răng.”
“Tôi không biết là có thủ thuật đó.”
“Nó không được làm ở đây. Nha sỹ ở châu Âu không dùng gutta-percha, chỉ nha sỹ Mỹ thôi.” Levin chế nhạo nụ cười hớn hở của Arkady. “May mắn thì cũng chẳng có gì đáng tự hào cả.”
“Tôi không tự hào.”
Trở về Novokuznetskaya, vẫn mặc áo bành tô, Arkady gõ:
Báo cáo về vụ án mạng Công viên Gorky.
Phân tích bệnh học trên Nạn nhân GP2 xác định thấy những gì sót lại của một mối bơm gutta-percha trong ống chân răng của răng cửa giữa phía trên bên phải. Nhà nghiên cứu bệnh học đã chỉ ra rằng kỹ thuật này không đặc thù trong ngành nha khoa Liên Xô hay châu Âu. Nó phổ biến ở Mỹ.
GP2 đồng thời là nạn nhân đã ngụy trang bằng cách nhuộm tóc vốn đỏ thành màu nâu.
Anh ký tên, ghi ngày tháng, lăn bản báo cáo, tách giấy than ra và mang bản gốc sang phòng bên cạnh một cách khẽ khàng như một ân giảm. Arkady đặt báo cáo lên giữa bàn của công tố viên.
Khi Pasha quay lại vào buổi chiều, viên thanh tra đang ngồi ngả ngốn đọc tạp chí. Tay thám tử đặt máy ghi băng lên bàn và ngồi sụp xuống ghế.
“Cái gì đây, về rút lui sớm à?”
“Không phải là rút lui, Pasha. Mà là một quả bóng bay, một bong bóng trôi lên trời, một con đại bàng tự do bay vút lên - nói ngắn gọn là, một người đàn ông đã trốn tránh trách nhiệm thành công.”
“Anh đang nói cái gì vậy? Tôi chỉ vừa mới phá án.”
“Chẳng có vụ án nào cho chúng ta nữa.”
Arkady miêu tả răng của người đàn ông đã chết.
“Một tay gián điệp Mỹ?”
“Ai quan tâm chứ, Pasha? Ngoại trừ bất kỳ thằng Mỹ đã chết nào. Pribluda sẽ phải nhận thẩm quyền về vụ này.”
“Thế còn công trạng thì sao?”
“Cho hắn một ngày đi. Chuyện này đáng ra phải là của hắn ngay từ đầu. Hành quyết bộ ba vốn không phải là kiểu vụ án của chúng ta.”
“Tôi biết KGB. Lũ bẩn tính. Sau khi chúng ta làm hết mọi việc.”
“Việc nào? Chúng ta còn không biết nạn nhân là ai chứ đừng nói đến kẻ đã giết họ.”
“Chúng được trả lương gấp đôi thám tử, có cửa hàng đặc biệt riêng, câu lạc bộ thể thao hoành tráng.” Pasha sa đà vào lối mòn của riêng mình. “Anh có thể nói cho tôi biết tụi nó hơn tôi ở chỗ nào chứ, tại sao tôi chẳng bao giờ được tuyển cả? Có điều gì đó không ổn ở tôi chỉ vì ông tôi chẳng may lại là một hoàng thân sao? Không, anh phải có một dòng dõi, đầy mồ hôi và bùn đất suốt mười thế hệ, hoặc phải nói được mười thứ tiếng.”
“Pribluda chắc chắn hơn anh khoản mồ hôi và bùn đất rồi. Tôi không nghĩ hắn nói được hơn một thứ tiếng.”
“Tôi đã có thể nói tiếng Pháp hay tiếng Trung nếu tôi có cơ hội.” Pasha tiếp tục.
“Anh nói tiếng Đức.”
“Ai chả nói tiếng Đức. Không, nó rất điển hình, câu chuyện đời tôi. Giờ họ sẽ lấy hết công trạng khi chúng ta phát giác ra cái gì nhỉ, cái gì, cái gì đó...”
“Răng.”
“Chết tiệt.” Đó là một biểu hiện tức giận mang tính quốc gia, không phải một câu xúc phạm.
Arkady bỏ mặc Pasha trong cơn kinh hãi và tới văn phòng của Nikitin. Vị trưởng thanh tra điều phối không có trong phòng. Với chiếc chìa khóa trong bàn của Nikitin, Arkady mở một két gỗ chứa danh bạ điện thoại thành phố và bốn chai vodka. Anh chỉ lấy một chai.
“Vậy là cậu thà làm một thằng bẩn tính còn hơn là làm một thám tử tốt?” Anh nói với Pasha khi quay trở lại. Không nguôi ngoai nổi, Pasha nhìn chằm chằm xuống sàn nhà. Arkady rót ra hai cốc rượu vodka. “Cạn ly.”
“Vì cái gì?” Pasha càu nhàu.
“Vì ông của cậu, ngài hoàng thân!” Arkady mời mọc.
Pasha mặt đỏ tía tai vì lúng túng. Anh ta nhìn chằm chằm qua khung cửa mở ở sảnh.
“Vì Nga Hoàng!” Arkady thêm thắt.
“Xin anh đấy!” Pasha đóng cửa lại.
“Thế thì uống đi.”
Sau vài ly rượu, Pasha không còn quá đau khổ. Họ nghênh đón khám phá pháp y của Đại tá Levin, sự tất thắng của công lý và việc mở các đường tàu biển tới Vladivostok.
“Vì người đàn ông trung thực nhất Moscow,” Pasha gợi ý.
“Ai?” Arkady hỏi, mong đợi một câu nói đùa.
“Anh,” Pasha nói và uống cạn.
“Thực ra” - Arkady nhìn vào cốc của mình - “những gì chúng ta đang làm trong hai ngày qua cũng chẳng trung thực lắm.” Khi ngước lên, anh thấy tinh thần vừa được khôi phục lại của tay thám tử bắt đầu chùn xuống. “Dù sao thì, cậu nói là cậu đã “phá án” hôm nay. Nói cho tôi biết như thế nào vậy.”
Pasha nhún vai, nhưng Arkady nài ép, vì anh biết viên thám tử muốn anh làm thế. Cả ngày nói chuyện với đám búp bê Nga cũng đáng được thưởng một cái gì đó.
“Tôi chợt nảy ra ý nghĩ “ - Pasha cố gắng tỏ ra thản nhiên - “là có thể có thứ gì đó ngoài tuyết che lấp đi tiếng súng. Sau khi phí cả ngày nói chuyện với mấy người bán đồ ăn dạo, tôi đi và nói chuyện với bà già nhỏ thó bật nhạc trượt băng qua loa phóng thanh trong công viên vào mùa đông. Bà ấy có một căn phòng nhỏ trong tòa nhà ở cổng Krimsky Val. Tôi hỏi “Bà có bật đĩa nhạc ồn ào nào không?” Bà ấy nói, “chỉ những đĩa nhạc tĩnh lặng dành cho trượt băng thôi.” Tôi hỏi tiếp “Bà có theo dõi chương trình âm nhạc nào hàng ngày hay không?” Bà ấy trả lời, “Chương trình là dành cho ti vi, tôi chỉ bật nhạc trượt băng, những đĩa nhạc tĩnh lặng được bật bởi một người lao động giản dị, như những đĩa mà tôi có từ thời chiến khi tôi còn ở pháo binh. Tôi có được công việc này một cách trung thực, bởi vì tôi tàn tật.” Tôi lại nói “Đó không phải là việc của tôi, tôi chỉ muốn biết thứ tự các bản nhạc mà bà đã bật.” “Thứ tự đúng,” bà nói. “Là tôi bắt đầu từ trên xuống dưới chồng đĩa, và nếu chẳng còn đĩa nhạc nào nữa thì tôi biết đã đến lúc về nhà.” “Cho tôi xem nào,” tôi nói. Bà già mang ra một chồng mười lăm chiếc đĩa nhạc. Chúng thậm chí được đánh số từ một đến mười lăm. Tôi đang nghĩ là vụ nổ súng có lẽ diễn ra vào khoảng cuối ngày và vì vậy tôi xem xét từ cuối lên. Số mười lăm, không còn nghi ngờ gì luôn, từ vở Hồ Thiên Nga. Số mười bốn, anh có muốn đoán không? Bản “dạo đầu 1812”. Đại bác, chuông, đủ thứ. Cuối cùng thì tôi cũng khôn ra. Tại sao lại phải đánh số những đĩa nhạc? Tôi giữ đĩa nhạc trước miệng mình và hỏi bà ấy, “Bà đã bật chúng to cỡ nào?” Bà ấy chỉ nhìn, không nghe thấy gì cả. Bà già bị điếc, đó là khuyết tật của bà ấy và đó là người họ dùng để bật nhạc ở công viên Gorky!”