Nguyên tác: Die Therapie
Số lần đọc/download: 1521 / 15
Cập nhật: 2017-05-20 09:13:55 +0700
Chương 2 - Parkum, Năm Ngày Trước Sự Thật
B
: Ông có cảm giác như thế nào ngay sau tấn bi kịch?
L: Tôi đã chết. Tuy tôi vẫn còn thở, tôi cũng uống nước và đôi lúc cũng ăn. Và thỉnh thoảng tôi còn ngủ được một đến hai tiếng trong một ngày. Nhưng tôi không còn tồn tại nữa. Tôi đã chết vào cái ngày Josephine biến mất.
Viktor nhìn trừng trừng vào dấu chờ lệnh đang nhấp nháy sau đoạn văn. Ông đã ở trên hòn đảo từ bảy ngày nay. Đã một tuần nay, ông ngồi từ sáng sớm đến tối khuya ở cạnh cái bàn cũ bằng gỗ xoan và cố trả lời cho câu hỏi đầu tiên của bài phỏng vấn. Mãi đến sáng nay ông mới gõ được ít ra là năm câu mạch lạc vào trong máy tính xách tay của mình.
Chết. Thật sự là không còn từ nào thích hợp hơn để mô tả tâm trạng của ông trong những ngày và những tuần ngay sau đó.
Sau đó.
Viktor nhắm mắt lại.
Ông không còn có thể nhớ lại được những giờ đầu tiên sau cơn sốc. Không biết đã nói gì với ai lẫn không biết ông đã ở đâu. Khi sự rối loạn phá hủy gia đình ông. Lúc đấy, gánh nặng đè lên vai Isabell. Cô ấy chính là người lục tủ quần áo để báo cho cảnh sát biết Josy đã mang những thứ gì trên người. Cô ấy chính là người lấy ảnh ra từ trong quyển album gia đình để có được một tấm hình truy tìm đứa con gái bé bỏng. Và cô ấy cũng là người báo tin cho họ hàng biết trong khi ông đang lang thang vô định trên đường phố Berlin. Người được cho là nhà tâm lý học chuyên nghiệp nổi tiếng đã thất bại một cách thảm hại trong tình huống quan trọng nhất của cuộc đời mình. Và trong những năm sau đó, Isabell cũng đã cứng rắn hơn ông. Chỉ sau ba tháng, cô ấy đã tiếp tục công việc như là nhà tư vấn doanh nghiệp, trong khi Viktor thì đã nhượng lại phòng khám bệnh và từ đó không hề chữa bệnh cho một người nào nữa.
Chiếc máy tính xách tay bất chợt phát tiếng báo động chói tai và Viktor nhận ra rằng lại phải cắm điện để sạc pin. Vào ngày đến đây, khi dời bàn làm việc trong phòng có lò sưởi đến cái cửa sổ to nhìn ra biển, ông mới biết rằng ở đấy không có ổ cắm điện. Bây giờ, tuy có thể ngắm phong cảnh tuyệt đẹp của biển Bắc vào mùa đông trong lúc làm việc, nhưng cứ 6 tiếng một lần là ông lại phải mang máy tính đến bộ phận sạc nằm trên một cái bàn nhỏ ở trước lò sưởi. Viktor nhanh chóng lưu lại văn bản Word trước khi dữ liệu biến mất mãi mãi.
Như Josy.
Ông nhìn thoáng ra cửa sổ nhưng lại ngoảnh đi ngay lập tức khi thấy được hình ảnh phản chiếu tâm hồn ông trong quang cảnh biển. Ngọn gió, đang đến kêu rít lên ở trên mái nhà lợp tranh và thổi những làn sóng dậy, đang nói một tiếng nói rõ ràng. Bây giờ là cuối tháng 11, và mùa đông đang vội vàng cùng với những người bạn băng tuyết và lạnh giá của nó kéo đến hòn đảo.
Như cái chết, Viktor nghĩ thầm, trong khi ông đứng dậy và mang máy tính đến cái bàn trước lò sưởi có sợi dây sạc điện nằm ở trên.
Ngôi nhà nhỏ hai tầng ở cạnh bãi biển được xây vào đầu những năm 20 của thế kỷ trước và từ khi cha mẹ của Viktor qua đời đã không còn nhìn được một người thợ sửa chữa nào nữa. Rất may là Halberstaedt, người thị trưởng của hòn đảo, đã bảo trì dây điện và máy phát điện ở trước nhà nên ít ra nó cũng sáng sủa và ấm áp. Nhưng khoảng thời gian dài không có ai trong gia đình đến đây thăm viếng thế nên ngôi nhà gỗ cũ kỹ không còn được tốt cho lắm. Tường cần phải được sơn mới, trong cũng như ngoài. Sàn gỗ lẽ ra đã phải được mài bóng cách đây nhiều năm và lẽ ra đã phải được thay thế ở hành lang. Và những cửa sổ gỗ có kính đôi đã cong đi một ít vì thời tiết và qua đó để lọt một cách không cần thiết nhiều hơi ẩm và giá rét vào trong. Nội thất có lẽ đã là đồ đắt tiền trong những năm 80 và cho đến nay vẫn còn biểu lộ sự giàu có của gia đình Larenz. Nhưng những cây đèn Tiffany, bàn ghế bọc da nappa và những giá sách bằng gổ tếch đã mang một lớp gỉ quá nhiều do thiếu chăm sóc. Lần cuối cùng mà chúng được lai chùi có lẽ cách đây đã lâu lắm rồi.
Bốn năm, một tháng và hai ngày.
Viktor không cần phải nhìn vào tấm lịch block cũ trong phòng bếp. Ông biết điều đó. Từng ấy thời gian đã trôi qua kể từ khi ông đặt chân lên Parkum lần cuối. Trần phòng đã không nhìn thấy vữa từ lâu lắm rồi. Cũng như bệ lò sưởi đã nhuộm màu bồ hóng. Nhưng lúc đấy có một cái gì khác đang yên ổn.
Cuộc sống của ông.
Vì Josy đã theo ông đến đây, ngay khi căn bệnh đã cướp đi tất cả sức lực của con ông trong những ngày cuối cùng của tháng 10 đó.
Viktor ngồi xuống chiếc xô pha bọc da, nối máy tính với bộ sạc và cố không nhớ lại cái cuối tuần trước ngày định mệnh. Không được.
Bốn năm.
Bốn mươi tám tháng trôi qua không có một dấu hiệu nào của sự sống từ Josy. Tuy đã có nhiều cuộc truy tìm rộng khắp và kêu gọi người dân trên cả nước qua truyền thông. Nhưng ngay đến một chương trình truyền hình đặc biệt gồm hai phần cũng không mang lại một chỉ dẫn đúng đắn nào. Mặc dù vậy, Isabell vẫn từ chối không cho tuyên bố rằng đứa con gái duy nhất của mình đã chết. Vì lý do đấy mà cô ấy cũng chống lại lần phỏng vấn này.
“Không có gì để kết thúc cả”, cô ấy đã nói với ông ngay trước lúc khởi hành.
Họ đứng trên con đường rãi sỏi chạy lên nhà của họ, và Viktor đã xếp xong hành lý vào trong chiếc xe Volvo màu đen. Ba cái va ly. Một cái cho quần áo của ông, hai cái còn lại chứa đầy tài liệu mà ông đã sưu tập từ lúc con gái ông biến mất: bài viết cắt từ báo ra, biên bản và tất nhiên là các bản tường thuật của Kai Strathmann, thám tử tư mà ông đã thuê.
“Không có gì mà anh phải vượt qua hay phải chấm dứt cả, Viktor ạ”, cô ấy nhấn mạnh. “Hoàn toàn không. Bởi vì con chúng ta vẫn còn sống”. Chỉ là sự nhất quán, khi cô ấy để ông một mình trên Parkum và có lẽ là đang ngồi họp ở đâu đó trong một ngôi nhà văn phòng chọc trời nào đấy trên Park Avenue ở New York. Đó là cách thức để làm sao lãng của cô. Bằng công việc.
Ông giật mình trên chiếc xô pha đen khi một thanh củi đang cháy rực trong lò sưởi ngã sụp xuống thật to. Con Sindbad, đang ngủ dưới gầm bàn suốt thời gian vừa rồi, cũng giật mình và bây giờ đang ngáp dài trách móc những ngọn lửa. Cách đây hai năm, con chó giống Golden Retriever đã chạy đến Isabell ở bãi đỗ xe tại bãi tắm Wannsee.
“Em nghĩ gì thế? Em muốn thay Josy bằng một con chó à?”, lúc đấy ông đã quát lên trong gian tiền sảnh của biệt thự, khi cô ấy mang con vật về nhà. Ông to tiếng đến mức bà giúp việc trên tầng một nhanh chóng biến mất vào trong phòng là quần áo.
“Em muốn đặt tên cho nó là gì? Joseph hả?”
Như mọi lần, Isabell cũng không để cho ai khác khiêu khích mình trong tình huống này. Làm vẻ vang cho nguồn gốc thượng lưu của một trong những gia đình chủ ngân hàng lâu đời nhất ở Bắc Đức. Chỉ đôi mắt màu xanh thép của cô ấy hé lộ cho ông biết cô ấy đang nghĩ gì trong khoảnh khắc đó: “Nếu lúc đấy anh trông coi cẩn thận hơn thì bây giờ Josy đang ở chỗ chúng ta và có thể chơi đùa với con chó này”.
Viktor vẫn hiểu được điều mà cô ấy chẳng cần phải thốt lên. Và số phận mỉa mai muốn rằng con vật ấy nhận Viktor làm người chủ của nó ngay trong ngày đầu tiên.
Ông đứng dậy để đi pha trà mới trong bếp. Hy vọng có được bữa ăn trưa thứ nhì, Sindbad mệt mỏi chạy lon ton theo sau ông.
“Quên đi, ông bạn ơi”. Vừa đúng lúc muốn vỗ nhẹ nó một phát, Viktor thấy con chó vểnh tai lên.
“Gì thế?” Ông cuối người xuống và bất thình lình cũng nghe được. Một tiếng cào của kim loại. Một tiếng leng keng đánh thức dậy những ký ức cũ trong ông. Ông vẫn còn chưa nghĩ ra được. Cái gì thế?
Viktor rón rén đi đến cửa.
Kia. Lại có. Như một đồng tiền được cào vào đá. Thêm lần nữa.
Viktor nín thở. Rồi ông nhớ ra. Đó là tiếng động mà ông thường hay nghe được lúc còn nhỏ, khi cha ông trở về từ một chuyến đi chơi bằng thuyền buồm. Nó là tiếng động lanh canh của kim loại do một chiếc chìa khóa gây ra khi va vào một chậu sành. Và nó phát sinh khi cha ông quên chìa khóa nhà và đang lôi ra chiếc chìa khóa dự phòng ở dưới cái chậu hoa trước lối vào nhà.
Hay là một người nào khác?
Viktor căng người ta. Có ai đó đang đứng trước cửa và biết chỗ cất giấu chiếc chìa khóa dự phòng của cha mẹ ông. Và rõ ràng là người đó muốn vào trong nhà. Đến với ông. Tim đập thình thịch, ông bước dọc theo hành lang và nhìn qua lỗ nhòm của cái cửa nặng nề bằng gỗ sồi. Không có gì cả. Ông vừa muốn kéo bức mành che đã ố vàng để nhìn ra ngoài từ cái cửa sổ nhỏ ở phía bên phải của cửa ra vào thì lại đổi ý và nhìn thêm một lần nữa qua lỗ nhòm của cửa ra vào. Ông hoảng sợ lùi lại. Mạch đập thật nhanh. Ông có thật sự nhìn thấy cái đó không?
Viktor có cảm giác cẳng tay ông đang nổi da gà. Ông nghe máu của ông chạy rần rật trong lỗ tai. Và ông hoàn toàn chắc chắn. Không nghi ngờ. Trong phần nhỏ của một giây, ông nhìn thấy một mắt người, rõ ràng là đang muốn từ bên ngoài nhìn vào trong ngôi nhà ở cạnh bãi biền. Một con mắt mà ông đã quen biết ở đâu đó, nhưng không nói chính xác được là của người nào.
Bình tĩnh lại nào, Viktor!
Ông hít thở thật sâu và giật tung cửa ra.
“Muốn...?” Viktor ngưng ngang câu nói mà ông định to tiếng quẳng vào con người xa lạ đang đứng trước ngưỡng cửa nhà để làm cho người ấy hoảng sợ. Nhưng không có ai ở đấy cả. Trên hiên nhà không có, trên lối đi đến cái cổng cách đấy khoảng sáu mét cũng không và trên con đường cát dẫn ra làng đánh cá cũng không. Viktor bước xuống năm bậc thang đến mảnh vườn trước nhà để xem phía dưới hàng hiên. Khi còn bé, ông thường hay trốn ở đây khi chơi đùa với những đứa nhỏ láng giềng. Nhưng ngay trong ánh sáng chạng vạng của mặt trời chiều đang lặn dần, ông vẫn còn có thể nhận rõ rằng ngoài một vài chiếc lá đã héo được gió thổi vào đây thì chẳng có gì và chẳng có ai ở đây để phá rối ông và sự yên tịnh của ông cả.
Viktor rùng mình vì lạnh và xoa tay trong lúc bước nhanh lên cầu thang. Gió đã một mình gần đóng được cánh cửa gỗ sồi màu nâu lại, và Viktor phải cố sức chống lại ngọn gió mạnh để mở nó ra. Ông vừa mới mở được thì đột ngột ngừng lại.
Tiếng động. Lại nó. Nó nghe có vẻ mang ít tính kim loại hơn và cao hơn, nhưng nó lại xuất hiện. Và lần này nó không đến từ bên ngoài. Nó đến từ phòng khách.
Người muốn gây sự chú ý ở đây không còn đứng trước cửa nữa. Người ấy đã ở trong nhà.