The greatest thing you'll ever learn is just to love and be loved in return.

Eden Ahbez, "Nature Boy" (1948)

 
 
 
 
 
Thể loại: Trung Hoa
Biên tập: Trần Hùng
Số chương: 41 - chưa đầy đủ
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 5
Cập nhật: 2024-09-01 17:39:54 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Thời Chiến Quốc
ời Chu chia làm hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất đóng đô ở đất Phong, đất Cảo (miền Thiểm Tây bây giờ), nên gọi là Tây Chu (1134-770); đến đời Chu Bình Vương, bị rợ Hiểm Doãn và rợ Khuyển Nhung uy hiếp, nhà Chu phải dời đô qua Lạc Dương (Hà Nam) ở phương đông, từ đó bắt đầu thời kỳ thứ nhì gọi là Đông Chu (770-221).
Các sử gia chia thời Đông Chu này làm hai thời kỳ nữa: thời Xuân Thu (722-479) và thời Chiến Quốc (479-221).
Sự phân chia đó chỉ dựa trên một bộ sử biên niên của Khổng Tử, bộ Xuân Thu. Bộ này chép sử nước Lỗ từ năm thứ nhất đời Lỗ Ẩn Công (722) đến năm thứ mười bốn đời Lỗ Ai Công (481), gồm 242 năm; năm 479 là năm Khổng Tử mất. Chữ Xuân Thu mới đầu trỏ một năm (người ta lấy mùa xuân và mùa thu để tượng trưng một năm); rồi trỏ những bộ sử chép việc từng năm (vì vậy ngoài bộ Xuân Thu của Khổng Tử, còn nhiều bộ sử khác như của Công Dương, Cốc Lương, Tả Khâu Minh… cũng gọi là Xuân Thu).
Nhiều nhà đã thấy năm 722 và năm 481 (hoặc năm 479) không đánh dấu một biến chuyển nào lớn lao trong lịch sử, nên đã chia lại như sau: thời Xuân Thu: 770-403, từ đời Chu Bình Vương tới cuối đời Chu Uy Liệt Vương; thời Chiến Quốc: 403-221, từ đời Chu An Vương đến khi nhà Tần diệt Tề và thống nhất Trung Quốc.
Lối phân chia này hợp lý hơn (lấp được chỗ trống từ 770 tới 722) nhưng cũng vẫn là ép vì suốt đời Đông Chu, lịch sử và xã hội Trung Hoa biến chuyển liên tục, không bị gián đoạn, từ chế độ phong kiến tới chế độ quân chủ chuyên chế, từ tình trạng phân tán tới tình trạng thống nhất; mà năm 403 cũng không có một biến cố nào quan trọng đủ để mở đầu một thời đại.
Từ khi dời đô qua phía đông, nhà Chu suy nhược lần lần: đất đai thì phải chia cắt để phong cho các vương hầu công khanh, nên mỗi ngày một thu hẹp lại, chỉ còn trông vào sự cống hiến của các chư hầu mà chư hầu thì như nước Lỗ, trong 242 năm chỉ triều cống có ba lần; không những vậy, vì cái danh nghĩa thiên tử đôi khi còn phải giúp lương thực cho chư hầu những năm họ mất mùa hoặc có chiến tranh.
Nhà Chu tuy suy, nhưng các nước chư hầu chưa dám bỏ, vì chưa nước nào đủ mạnh để dẹp tất cả các nước khác. Họ lộng quyền, tranh giành, đánh nhau không ngớt, lại mượn danh nghĩa tôn Chu để sát phạt nhau nữa.
Số chư hầu trước kia trên một ngàn, tới đầu đời Đông Chu chỉ còn lại trên một trăm, vì nhiều nước nhỏ đã bị các nước lớn thôn tính. Nhưng trong số trên một trăm nước đó, thời Xuân Thu chỉ có mười lăm nước là đáng kể: Tấn, Tần, Tề, Ngô, Việt, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh, Trâu. Trong số mười lăm nước đó lại chỉ có năm nước là hùng cường, kế tiếp nhau làm minh chủ, tức là ngũ bá: Tề (Hoàn Công), Tấn (Văn Công), Tống (Tương Công), Sở (Trang Công), Tần (Mục Công).
Qua thời Chiến Quốc, số chư hầu giảm xuống còn trên một chục: Tề, Tần, Sở, Triệu, Ngụy, Hàn (ba nước này xưa là nước Tấn), Tống, Lỗ, Trâu, Đằng, Yên, Trung Sơn…; nhưng chỉ có bảy nước lớn tranh hùng với nhau (thất hùng), tức: Tần, Tề, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên. Trong số thất hùng, mạnh nhất là Tần, Sở, Tề vì đất đai đã rộng (rộng nhất là Sở) mà tài nguyên lại nhiều.
Các nước đó tổ chức những liên minh để đánh lẫn nhau. Có hai kế hoạch liên minh lớn nhất là kế hoạch “hợp tung” của Tô Tần và kế hoạch “liên hoành” của Trương Nghi. Tung có nghĩa là đường dọc, mà hoành có nghĩa là đường ngang. Các nước từ Bắc tới Nam, tức từ Yên đến Sở liên hợp với nhau thành một cái trục dọc để chống lại Tần, cho nên gọi là hợp tung. Để chống lại thế đó, Trương Nghi thuyết phục một số nước ở phía đông Tần cắt đất cầu hoà với Tần thành một trục ngang để đánh với các nước kia, cho nên gọi là liên hoành. Tới cuối thời Chiến Quốc, rốt cuộc các mâu thuẫn lần lần tập trung lại thành mâu thuẫn giữa Tần và sáu nước: Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở.
Càng gần tới mãn cục thì chiến tranh càng khốc liệt mà tình cảnh càng bi đát: có nước bắt lính tới một phần năm dân số, ông già bảy chục tuổi cũng phải tòng quân, có nước thu thuế của dân tới hai phần ba huê lợi mới đủ nuôi quân đội. Trong khi đó, các chính khách, các nhà du thuyết bôn tẩu không ngớt từ nước này qua nước khác, tấp nập trên đường, xe ngựa nối nhau, tán lọng chạm nhau, vàng bạc châu báu tuôn ra để mua chuộc nhau, ly tán nhau, phản gián nhau.
Thời đó là thời “đánh nhau để tranh đất, giết người đầy đồng; đánh nhau để tranh thành, giết người đầy thành”, thời “không có bực thánh vương nào ra đời, các vua chư hầu thì phóng túng, bọn xử sĩ thì bàn ngang, luận càn”, thời “không dùng uy quyền thì không đứng được, không dùng thế lực thì không thi hành được chính trị”.
Sở dĩ có cảnh loạn lạc đó, là vì xã hội Trung Hoa đương biến chuyển mạnh về phương diện chính trị, văn hóa, kinh tế.
Cái thế ở đầu đời Chu (trong nước có cả ngàn chư hầu) chỉ tạm vững khi nhà Chu còn mạnh. Khi nhà Chu bắt đầu suy, dời đô qua phía đông thì các nước chư hầu tất tranh giành nhau, vua Chu can thiệp, ngăn cản không được, do đó có nước thì mạnh lên, có nước thì suy đi. Một nước mà suy thì tất có một bọn quí tộc mất địa vị. Muốn phục hồi địa vị, họ phải dùng những người tài giỏi về chính trị, quân sự, kinh tế, trong mọi giới, cả trong giới bình dân. Nhờ vậy mà bọn này thoát li được giai cấp của mình mà lên giai cấp sĩ phu, lần lần tranh được quyền hành của bọn quí tộc.
Đầu đời Chu, chỉ hạng quí tộc mới được cầm quyền, mới được học. Khi họ sa sút mà thành bình dân thì trong giới bình dân bắt đầu có người học rộng. Khổng Tử là hạng người đó; ông đã mở phong trào tư nhân dạy học, bất kỳ giới nào xin vô học ông cũng nhận, và ông có công lớn trong sự khai hoá quần chúng.
Đời sau, Mặc Tử, một triết gia trong giai cấp bình dân, tiếp tục công việc đó mà sự giảng học phát triển rất mạnh. Nhờ vậy, trong giai cấp bình dân, có nhiều người tài giỏi như Tô Tần, Trương Nghi, Cam Mậu, Phạm Tuy, Ngô Khởi, Bạch Khởi… Chính bọn này đã đóng vai trò quan trọng trong cái thế chiến quốc.
Lại thêm kinh tế mở mang cũng là một nguyên nhân thúc đẩy sự biến chuyển về chính trị nữa.
Dân số tăng lên (tổng số nhân khẩu thất quốc đời Đông Chu đã tới hai chục triệu), chế độ công điền, “thực ấp” hồi trước không còn hợp thời và nông dân oán trách bọn chủ nhân là “không cày không cấy mà lúa chứa đầy vựa”.
Thương Ưởng một phần vì hiểu rõ sự thế tự nhiên của thời đại, một phần vì muốn khuếch trương kinh tế cho Tần được mạnh, cho nhân dân tự do khai khẩn (nông bản chủ nghĩa: coi Thương Quân thư, thiên Nông chiến và thiên Khẩu lệnh), do đó có một số bình dân thành phú gia, mà một khi địa vị đã cao thì quyền lợi cũng phải thay đổi, gây thêm một mâu thuẫn nữa trong xã hội.
Phương pháp canh tác cũng tiến bộ: thời Xuân Thu người ta đã biết dùng bò kéo cày, thời Chiến Quốc người ta đã chế tạo dụng cụ bằng sắt, nhờ vậy mà cày sâu hơn, nhanh hơn; người ta lại biết bỏ phân, làm hai mùa, đào kênh dẫn nước, tháo nước. Sự khẩn hoang (đặt biệt ở Tần) phát triển mạnh, và để khuếch trương công việc thuỷ lợi, bọn chủ điền muốn thống nhất đất đai, nhất là thống nhất những nước nhỏ cùng nằm trên một dòng sông.
Chính sách thực sản của Quản Trọng ở nước Tề (khai mỏ đúc tiền, nấu nước bể làm muối, phát triển công nghệ, lập kho lẫm…) có kết quả rất tốt, ảnh hưởng tới nhiều nước khác và làm cho nền kinh tế chung tiến thêm một bước nữa.
Thương mại cũng có những hiện tượng mới: những nơi như Hàm Dương ở Tần, Lâm Tri ở Tề, Hàm Đang ở Triệu, Đại Lương ở Ngụy đều là những thành phố phát đạt về thương mại, dân chúng các nơi di cư lại thành một hạng thị dân. Bọn phú thương rất có thế lực, mua quan bán tước và bắt đầu tham gia chính trị, muốn phá bỏ biên giới giữa các nước chư hầu để cho giao thông và thương mại khỏi bị trở ngại. Sử còn chép những thương gia danh tiếng như Y Đốn (người nước Lỗ, thời Xuân Thu), Bạch Khuê (người nước Ngụy, thời Chiến Quốc), Phạm Lãi, Đoan Mộc Tứ (Tử Cống)… Họ chẳng những buôn hàng hoá mà có khi còn buôn cả vua nữa, như Lã Bất Vi.
Sau cùng còn tâm lý chung này nữa: làm dân một nước nhỏ thì phải chịu nhiều gánh nặng, nhiều nỗi điêu đứng khốn khổ trong thời loạn, cho nên ai cũng mong được làm dân một nước lớn, được thấy Trung Quốc thống nhất.
*
Trước cảnh loạn lạc ấy, làm sao vãn hồi được trật tự? Điều đó làm cho các triết gia Trung Hoa đời Chu thắc mắc. Đại loại có hai chủ trương:
Một chủ trương muốn giữ lại chế độ cũ, chế độ phong kiến, tăng uy quyền cho thiên tử, bắt các chư hầu phải phục tòng.
Một chủ trương muốn đạp đổ chế độ cũ vì biết rằng nó không thể tồn tại được lâu nữa, mà lập một chế độ mới.
Theo chủ trương thứ nhất có Nho gia và Mặc gia. Mới đầu Khổng Tử muốn cứu vãn nhà Chu. Rồi sau, Mặc Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử thấy nhà Chu suy quá, bất lực quá, không thế cứu được, mong có một vị minh quân thay nhà Chu để thống nhất Trung Quốc mà thi hành chế độ cũ sau khi sửa đổi ít nhiều.
Rõ nhất là chủ trương của Mạnh Tử. Một lần Lương Tương Vương hỏi ông: “Khi nào thiên hạ yên định được?”. Ông đáp: “Khi nào thống nhất thiên hạ thì yên định được… và không ai thích giết người thì thống nhất được… Hiện nay trong thiên hạ chẳng có bậc chăn dân nào mà chẳng ham giết người. Nếu có một vị vua có lòng nhân chẳng ham giết người hại chúng thì mọi người trong thiên hạ sẽ quay đầu ngỏng cổ trông về vị ấy” (Lương Huệ Vương). Nghĩa là ông không tin gì nhà Chu nữa, muốn gặp bất kỳ một nhân quân nào biết theo đạo của ông để ông phò tá mà thống nhất thiên hạ.
Theo chủ trương thứ nhì có Đạo gia và Pháp gia. Đạo gia muốn dùng chính sách phóng nhiệm, giảm thiểu chính quyền, cứ theo tự nhiên như thời sơ khai; họ tin rằng khi không còn giai cấp thì sẽ hết loạn, chẳng thống nhất mà cũng như thống nhất. Như vậy phái này đả đảo một cái cựu (chế độ phong kiến) để trở về một cái cựu hơn nữa (chế độ bộ lạc).
Pháp gia trái lại, không muốn trở về cái cựu mà muốn tiến tới một chế độ mới: họ muốn dùng chính sách độc tài, dùng vũ lực lật đổ chế độ phong kiến mà lập chế độ quân chủ chuyên chế. Họ cho đạo “vô vi” của Lão, Trang là hoang đường, họ muốn cực “hữu vi”; họ lại cho “vương đạo” của Khổng Mạnh chỉ làm cho quốc gia thêm loạn, nên họ chủ trương “bá đạo”.
Chỉ xét sự biến chuyển về ý nghĩa của hai tiếng vương, bá, ta cũng thấy được đại cương của sự biến chuyển về tư tưởng chính trị trong thời Đông Chu.
Suốt đời Xuân Thu, tiếng vương trỏ vua Chu, tiếng bá trỏ vị đứng đầu chư hầu, nghĩa là chỉ có sự phân biệt địa vị chứ tuyệt nhiên không có ý nghĩa gì về chính sách trị dân, về tư cách ông vua.
Qua thời Chiến Quốc, Mạnh Tử là người đầu tiên dùng hai tiếng đó làm danh từ chính trị: vương là chính sách dùng nhân nghĩa, bá là chính sách dùng sức mạnh mà trị dân. Trong thiên Công Tôn Sửu ông viết: “Người dùng sức mạnh mà mượn tiếng làm điều nhân là bá; người làm bá phải có nước lớn. Người lấy đức làm điều nhân là vương, người làm vương không đợi có nước lớn”.
Đời sau, Tuân Tử cũng theo nghĩa của Mạnh Tử, chỉ khác một điều là Mạnh Tử trọng vương mà rất ghét bá, cho vương và bá là hai chính sách trái ngược nhau, còn Tuân Tử thì không ghét hẳn bá, mặt dầu vẫn trọng vương.
Tới Hàn Phi, môn đệ của Tuân Tử, thì nghĩa của vương, bá đổi hẳn: ông vua nào giỏi dùng pháp, thuật mà có cái thế mạnh thì là vương, ông vua nào cũng dùng pháp, thuật mà thế không mạnh thì là bá; chính sách vương hay bá chỉ là một.
Hết thảy các nước đời Chiến Quốc đều theo chủ trương của Pháp gia.
*
Như trên, chúng tôi đã nói, trong số thất hùng, chỉ có Tần và Sở mạnh nhất, rồi tới Tề.
Tần nhờ địa thế hiểm trở (cửa Hàm Cốc khi mà đóng lại thì không đội binh nào qua được), nhờ đất đai rộng (Tần đã chiếm thêm được miền Ba Thục), nhờ dùng “biến pháp” của phái Pháp gia (Thương Ưởng, Lý Tư), nhờ tài cầm quân của Bạch Khởi, mà lần lần chiếm ưu thế về chính trị, kinh tế, quân sự, thôn tính các nước Hàn, Triệu, Ngụy, rồi uy hiếp Sở. Sở đáng lý phải thay đổi chính sách trị nước, liên hiệp với Tề mà chống Tần, phải ủng hộ chính sách hợp tung mà phản đối chính sách liên hoành; nhưng từ vua tới quan, đều mờ ám, không nghĩ tới dân, tới nước, chỉ cầu an nhất thời nếu không phải là mưu tư lợi – Khuất Nguyên rất đau đớn về tình trạng đó – thành thử bị Tần diệt. Tướng Tần là Bạch Khởi, sau khi chiếm Sở, phân tích nguyên nhân thất bại của Sở như sau: “Vua (Sở) thì mê muội, cậy nước lớn, không để ý đến chính trị suy đồi; quần thần thì tranh quyền đoạt lợi, xu nịnh vua, hãm hại người trung, không sửa thành quách, không lo phòng thủ”.
Sở đã bị diệt rồi thì tới phiên Tề, và lúc đó, ở Sơn Đông mọi người đều kinh khủng, lo cho thân phận của mình. Người ta nghĩ tới lời của Lỗ Trọng Liên (coi bài Triệu III12), thấy cái nguy cơ sắp phải chịu cảnh lưỡi gươm Tần kề cổ, hốt hoảng hô hào một lần chót sự đoàn kết để chống Tần (coi bài Yên II11), và tiếng kêu của thái tử nước Yên vang lên ai oán vô cùng (coi bài Yên III5). Nhưng đã quá trễ. Vua Yên phải nhẫn tâm giết thái tử là Đan, dâng thủ cấp cho Tần Thuỷ Hoàng mà Tần Thuỷ Hoàng cũng không tha, san phẳng kinh đô Yên để kết thúc thời Chiến Quốc, mà hoàn thành công việc thống nhất Trung Quốc. Thế là “lục vương tất, tứ hải nhất”.
Chiến Quốc Sách Chiến Quốc Sách - Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê Chiến Quốc Sách