Số lần đọc/download: 11724 / 98
Cập nhật: 2016-02-18 21:12:52 +0700
Chương I
T
ôi bắt đầu viết lịch sử đời tôi với một nỗi e sợ. Nói theo cách nào đó, tôi có một sự do dự mang tính dị đoan trong việc vén mở tấm voan mỏng bao trùm lên thời thơ ấu của tôi như một lớp sương mù vàng. Viết một tiểu sự tự thuật là một công việc khó khăn. Khi cố phân loại những ấn tượng đầu tiên của mình, tôi nhận ra rằng thực tế và trí tưởng tượng khá giống nhau trong suốt những năm nối kết quá khứ và hiện tại. Người phụ nữ vẽ lại những trải nghiệm của đứa trẻ theo trí tưởng tượng của mình. Một vài ấn tượng nổi lên mồn một từ những năm đầu đời của tôi; nhưng “những cái bóng của ngôi nhà-tù ngục thì chìm lắng”. Ngoài ra, nhiều niềm vui nỗi buồn thời thơ ấu đã mất đi mức độ sâu sắc của chúng; và nhiều sự kiện có ý nghĩa sống còn hồi thời bắt đầu cắp sách của tôi đã bị lãng quên trong sự phấn khích của những khám phá lớn lao. Do vậy, để tránh dài dòng nhạt nhẽo, tôi sẽ cố đưa ra một loạt phác họa chỉ những giai đoạn mà dường như đối với tôi là thú vị và quan trọng nhất.
Tôi chào đời ngày 27/6/1880, ở Tuscumbia, một thị trấn nhỏ ở miền bắc tiểu bang Alabama.
Gia đình bên nội của tôi là dòng dõi của Caspar Keller, một người gốc Thụy Sĩ, lập nghiệp ở Maryland. Một trong những tổ tiên người Thụy Sĩ của tôi là giáo viên đầu tiên của những người điếc ở Zurich và đã viết một cuốn sách có chủ đề về việc giáo dục họ - một điều khá là trùng hợp; dù đúng là không có vị vua nào không có một trong các tổ tiên từng là nô lệ, và không có người nô lệ nào không có một trong các tổ tiên từng là một vị vua.
Ông nội tôi, con trai của Caspar Keller, đã “tiến vào” những vùng đất rộng lớn ở Alabama và cuối cùng định cư ở đó. Tôi nghe kể lại rằng năm nọ có lần ông đã đi từ Tuscumbia tới Philadelphia trên lưng ngựa để mua những trang thiết bị cho trang trại, và cô tôi còn lưu giữ nhiều lá thư ông gửi về nhà, trong đó có những mô tả hấp dẫn và sống động về những chuyến đi này.
Bà nội Keller của tôi là con gái của một trong những người phụ tá của Lafayette [1], Alexander Moore, và là cháu gái của Alexander Spotswood, một thống đốc thời kỳ đầu thuộc địa của Virginia. Bà cũng là em họ thứ hai của Robert E. Lee [2].
Cha tôi, Arthur H. Keller, là một sĩ quan trong quân đội Liên minh, và mẹ tôi, Kate Adams, là vợ thứ hai của ông, trẻ hơn ông nhiều tuổi. Ông nội của bà, Benjamin Adams, kết hôn với Susanna E. Goodhue, và sống nhiều năm ở Newbury, Massachusetts. Con trai của họ, Charles Adams, chào đời ở Newburyport, Massachusetts, rồi chuyển tới Helena, Arkansas. Khi Nội chiến bùng nổ, ông chiến đấu cho miền Nam và trở thành một vị tướng chỉ huy cấp lữ đoàn. Ông kết hôn với Lucy Helen Everett, người có cùng dòng tộc với những người họ Everetts như Edward Everett và Tiến sĩ Edward Everett Hale. Sau chiến tranh, gia đình ông chuyển tới Memphis, Tennessee.
Cho tới thời điểm bị căn bệnh tước đi thị lực và thính lực, tôi sống trong một ngôi nhà bé xíu gồm một căn phòng rộng hình vuông và một căn phòng nhỏ dành cho những người giúp việc. Tập quán ở miền Nam là cất một ngôi nhà nhỏ gần ngôi nhà chính như là một phần phụ để sử dụng những khi cần thiết. Cha tôi đã xây một cái nhà như thế sau Nội chiến, và khi ông cưới mẹ tôi, họ chuyển sang sống ở đó. Nó bị che phủ hoàn toàn bởi những cây nho, hồng dây và kim ngân hoa. Nhìn từ ngoài vườn, trông nó giống như một lùm cây. Cái cổng vòm nhỏ bị che khuất khỏi tầm mắt bởi một lớp hồng vàng và dây khúc khắc miền Nam. Nó là nơi tới lui thăm viếng ưa thích của lũ chim ruồi và lũ ong.
Thái ấp Keller, nơi gia đình sinh sống, cách lùm cây hoa hồng nhỏ của chúng tôi vài bước. Nó được gọi là “Thường xuân xanh” vì ngôi nhà và những cây cối, rào giậu xung quanh bị che phủ bởi những dây thường xuân xinh đẹp của nước Anh. Khu vườn kiểu cổ của thái ấp là thiên đường tuổi nhỏ của tôi.
Thậm chí trong những ngày trước khi cô giáo của tôi tới, tôi thường dò dẫm men theo những bờ rào vuông làm bằng gỗ hoàng dương cứng, và, được dẫn dắt bởi khứu giác, thường tìm ra những đóa hoa cúc tím và huệ tây nở đầu tiên. Cũng ở đó, sau một cơn tức tối, tôi tới để tìm nguồn an ủi và giấu gương mặt nóng bừng sau lớp lá và cỏ mát rượi. Thật là một niềm vui to lớn biết bao khi đánh mất bản thân trong khu vườn hoa cỏ đó, lang thang thỏa thích từ nơi này sang nơi khác, cho tới khi, đột ngột đứng trước một dây nho xinh đẹp, tôi nhận ra nó nhờ những chiếc lá và những bông hoa của nó, và biết nó chính là dây nho che phủ ngôi nhà nghỉ mùa hè xiêu vẹo ở đầu kia khu vườn! Cũng tại đây, là những cây ông lão lòng thòng, những cụm hoa nhài ủ rũ, và một vài loại hoa quý hiếm gọi là hoa huệ bướm, vì những cánh hoa mong manh của chúng giống như những cánh bướm. Nhưng những bụi hoa hồng là thứ đáng yêu hơn hết. Tôi chưa bao giờ tìm thấy trong những ngôi nhà kính ở miền Bắc những bụi hoa hồng khiến cho tâm hồn mãn nguyện như những dây hồng ở ngôi nhà miền Nam của tôi. Chúng thường treo lơ lửng thành chùm trên vòm cổng, phủ đầy bầu không khí một mùi thơm không hề bị làm cho uế tạp bởi bất kỳ thứ mùi trần tục nào; và vào những sớm mai, tắm mình trong sương, có cảm giác chúng rất mềm mại, thanh khiết, tôi không thể không tự hỏi không biết trông chúng có giống như những đóa lan nhật quang ở khu vườn của Thượng đế hay chăng.
Thời kỳ đầu của đời tôi đơn giản và khá giống với mọi cuộc đời nhỏ bé khác. Tôi đến, tôi nhìn thấy, tôi ngự trị, như đứa bé đầu tiên trong gia đình luôn làm thế. Có một mức độ thảo luận nhiều đến bất thường về việc đặt tên cho tôi. Đứa bé đầu tiên trong gia đình không thể được đặt tên một cách khinh suất, mọi người đều nhấn mạnh tới điểm đó. Cha tôi đề nghị cái tên Mildred Campbell, theo tên của một vị tổ tiên mà ông vô cùng quý trọng, và ông khước từ không tham dự thêm nữa trong cuộc thảo luận. Mẹ tôi xử lý vấn đề bằng cách bảo rằng bà ước muốn đặt tên tôi theo mẹ của mình, vốn có tên hồi con gái là Helen Everett. Nhưng trong niềm phấn khích khi bế tôi tới nhà thờ, cha tôi đã quên khuấy mất cái tên trên đường, rất ư tự nhiên, vì đó là một cái tên mà ông đã khước từ không bàn thảo tới nữa. Khi vị mục sư hỏi tên đứa bé, ông chỉ nhớ rằng mọi người đã quyết định đặt tên tôi theo tên của bà ngoại tôi, và ông gán cho bà cái tên là Helen Adams.
Tôi nghe kể rằng khi vẫn còn mặc những cái váy dài, tôi đã cho thấy nhiều dấu hiệu của một thiên hướng háo thắng, thích tự khẳng định bản thân. Mọi thứ tôi thấy người khác thực hiện tôi khăng khăng một mực làm theo. Mới sáu tháng tôi đã có thể líu lo “Xin chào” (Howd’ye), và một hôm tôi thu hút sự chú ý của mọi người bằng cách nói “Trà, trà trà” (Tea, tea, tea) rất rõ ràng. Ngay cả sau cơn bệnh, tôi vẫn nhớ một trong những từ mà tôi đã học được trong mấy tháng đầu đời đó. Nó là từ “nước” (water) và tôi tiếp tục cố thốt ra từ đó sau khi mọi từ ngữ khác đều mất đi. Tôi chỉ thôi thốt lên tiếng “wah, wah” khi tôi học được cách đánh vần từ đó.
Cha mẹ bảo rằng tôi biết đi vào hôm tôi lên một tuổi. Mẹ tôi vừa mới bế tôi ra khỏi bồn tắm và đang giữ tôi trên đùi thì đột nhiên tôi bị thu hút bởi bóng của những chiếc lá đang nhảy múa chập chờn trong ánh nắng đổ xuống sàn nhà bằng phẳng. Tôi chuồi khỏi đùi mẹ và hầu như chạy về phía chúng. Cơn bốc đồng biến mất, tôi ngã lăn ra và khóc đòi mẹ tôi bế tôi lên. Những ngày hạnh phúc đó không kéo dài. Một mùa xuân ngắn ngủi, tràn đầy âm nhạc với tiếng hót líu lo của lũ chim cổ đỏ và chim ruồi, một mùa hè đầy quả ngọt và hoa hồng, một mùa thu trải sắc vàng và đỏ thẫm ra và để lại những quà tặng của chúng dưới chân của một đứa bé náo nức, vui sướng. Thế rồi, vào tháng Ba ảm đạm, căn bệnh tới, khép kín đôi mắt và đôi tai của tôi, dìm tôi vào cõi vô thức của một đứa bé sơ sinh. Người ta gọi đó là chứng sung huyết dạ dày và não cấp tính. Vị bác sĩ nghĩ là tôi không sống được. Tuy nhiên, một sớm mai kia, cơn sốt rời khỏi tôi cũng đột ngột và bí ẩn như khi nó tới. Sáng hôm đó là một niềm hân hoan to lớn của gia đình, nhưng không ai, ngay cả vị bác sĩ, biết rằng tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy hay nghe thấy được nữa.
Tôi tưởng chừng như vẫn còn những hồi ức rối rắm về cơn bệnh đó. Tôi nhớ nhất sự dịu dàng khi mẹ tôi cố xoa dịu tôi trong những giờ tôi thức giấc, cáu gắt và đau đớn, và sự thống khổ, hoang mang khi tôi choàng tỉnh sau một giấc ngủ ngắn chập chờn và hướng đôi mắt khô khốc, nóng rực vào bức tường, tránh khỏi ánh sáng một thời yêu thích, ngày càng mờ mịt hơn khi đến với tôi. Nhưng, ngoài những ký ức thoáng qua này, nếu quả thật chúng là những ký ức, mọi thứ dường như không có thật, giống như một cơn ác mộng. Dần dần tôi trở nên quen với sự thinh lặng và bóng tối vây quanh tôi và quên rằng trước kia mọi thứ từng khác hẳn, mãi tới khi cô ấy tới, cô giáo của tôi – người đã giải thoát cho linh hồn tôi. Nhưng trong mười chín tháng đầu tiên của đời mình, tôi đã thoáng nhìn thấy những cánh đồng xanh rộng lớn, một bầu trời trong sáng, những cây cối và bông hoa mà bóng tối sau đó không thể hoàn toàn xóa bỏ. Nếu chúng ta đã từng nhìn thấy, “ngày đó là của chúng ta, và những gì ngày ấy đã phô bày là của chúng ta.”