Số lần đọc/download: 1923 / 10
Cập nhật: 2017-03-24 19:17:30 +0700
Chương 1: Cuộc Sống Tẻ Nhạt Năm Hai Mươi Tám Tuổi.
Đ
ang thoăn thoắt gõ một văn bản, màn hình máy tính bỗng tối đen, tôi chỉ nhìn thấy cái bòng mờ mờ của chính mình, người ngây ra như phỗng. Trong tuần này, đây là lần thứ ba mất điện, mà lần nào cũng vào đúng ba giờ chiều.
Trương Đình đang tựa lưng ngồi trên ghế, dáng vẻ uể oải như người sắp chết, nghe thấy tiếng tôi thở dài liền mở mắt, hỏi: “Lại mất điện rồi à?”
Tôi đang thầm đếm đến mời lăm, quả nhiên Từ Nam xuất hiện trước mặt tôi, thở hổn hển. “Chuyện gì vậy? Tôi đang làm thí nghiệm.”
Từ Nam là giảng viên, đang giảng bài cho năm thực tập sinh ngoại quốc ở dưới lầu, theo cách nói của anh ta thì việc mất điện này mang tầm ảnh hưởng quốc tế đấy.
Tôi không nhiều lời, mặt thản nhiên, nhấc máy gọi thẳng đến bộ phận Thiết bị. Anh chàng thợ điện trẻ tuổi đến kiểm tra qua loa rồi lập tức gọi tới sở điện, thì ra là do sự cố từ đường dây bên ngoài.
Tôi và từ Nam cùng đi đến bộ phận quản lý điện lưới của tòa nhà.
Nhân viên quản lý điện lưới nhanh chóng đến kiểm tra, nhưng mất nửa tiếng mà vẫn không tìm ra nguyên nhân, giống hệt ba lần trước.
Từ Nam thở dài, buổi lên lớp lần này lại bị hủy vì mất điện rồi.
“Họ vốn không muốn đến Trung Quốc mà muốn đi Nhật Bản, Mỹ, ở đâu cũng tốt hơn ở đây.” Anh ta lại bắt đầu lảm nhảm mấy câu nói nhàm tai muôn thuở.
Xem đồng hồ, đã hơn bốn giờ chiều rồi, tôi không chịu nổi sự phiền nhiễu của anh ta, bèn ngắt lời: “Tôi thấy hôm nay chắc phải về thôi. Anh hãy an ủi những người bạn quốc tế nhé!”
Từ Nam vốn chẳng còn tâm trạng nào để nói đùa, chỉ nhíu mày rời đi.
Tôi còn nán lại để tán gẫu vài câu vô vị với mấy anh thờ điện, hy vọng biết được chính xác khi nào chuyện điện đóm được giải quyết, nhưng mười phút sau vẫn thấy chỉ uổng công.
Trên đường về tòa nhà, tôi thần thấy kinh ngạc, mình đang yên đang lành làm một quan văn, bây giờ lại tự dưng trở thành tạp dịch vừa văn vừa võ.
Trong văn phòng tối mờ mờ chỉ có Trương Đình đang uể oải nằm bò ra bàn, trông giống hệt một con cá mắc cạn, đang thở hắt ra. Cô ấy đang mang thai, mà phản ứng của người có thai thật dữ dội. Cô ấy đã từng thề sống thề chết, đợi đến khi con chó con trong bụng chào đời, nhất định sẽ tét vào mông nó mấy phát cho hả giận.
Tôi vấp phải chậu hoa trên hành lang, đau đến lặng người.
Trường Đình cố đứng dậy, đi đến hỏi thăm. Tôi xua tay với cô ấy. “Không sao, không sao đâu!”
Điện thoại trên bàn chợt đổ chuông, tôi cố gắng kìm nén cơn đau để đi nghe điện. Đúng là đoán chẳng sai mà, là sếp, có lẽ Từ Nam đã báo cáo chuyện này. Tôi vâng vâng dạ dạ một hồi, không cần nghe cũng biết anh ta đang giao việc gì, chẳng qua là yêu cầu tìm hiểu nguyên nhân, lại hỏi xem khi nào thì có thể giải quyết triệt để chuyện này… Toàn là những lời vô ích, mấy người ở sở điện còn chẳng biết, tôi biết làm sao được. Nhưng ai bảo anh ta là sếp chứ? Tôi chỉ có thể vểnh tai lên nghe, đoán xem bây giờ anh ta đang ở văn phồng tại Hồng Kông hay đang ở Đào Đại Hoa Viên của anh ta.
Nghe giáo huấn xong, tôi quay lại thì thấy Trương Đình đang đứng bên cửa sổ, ánh mắt vượt qua bãi cỏ xanh dưới lầu, nhìn thẳng vào công xưởng cách đó khoảng hơn trăm mét, lẩm bẩm: “Bên đó vẫn có điện, hay là chúng ta đi mượn địa điểm?”
Tôi đáp một tiếng, chưa cần nói bên họ là nơi tấc đất tấc vàng, chắc gì đã cho mượn, cho dù có cho mượn thì cũng không thể mang dụng cụ thí nghiệm sang được, mấy thứ đồ ấy phải nặng đến vài tấn, di chuyển quá khó khăn.
Chuyện này rất giống với chi tiết hai phủ phía đông và tây trong Hồng lâu mộng, chỉ là rõ ràng “phủ” của chúng tôi không đủ thực lực, nhân sự thì ít ổi, không có khả năng cạnh tranh. Cơ cấu tổ chức thể hiện rõ ràng rằng chúng tôi hoạt động độc lập, nhưng lại cử hai cô gái chân yếu tay mềm về quản lý. Sếp thì ở tận Hồng Kông, hoàn toàn là chỉ đạo từ xa, mỗi tháng chỉ như chuồn chuồn đạp nước đến kiểm tra một lần.
Không thể không tìm ông nọ bà kia ở công xưởng để nhờ giúp đỡ, thỉnh thoảng tôi cũng cho bọn họ cơ hội chửi mắng mấy câu, hay thường xuyên tặng quà này quà nọ để lôi kéo những người có liên quan. Vốn cũng ngay gần bên cạnh, hơn nữa đều là người một nhà cả nên tôi chẳng khác nào người vạn năng đá bên đông một ít, lượn nên trây một ít, nhờ thế mà mối quan hệ cũng được mở rộng.
Khi bên công xưởng có chuyện rắc rối, phức tạp gì đều không liên quan tới chúng tôi, giống như động đất vậy, nếu không ở tâm chấn thì cùng lắm cũng chỉ là thoáng qua, mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường, cho nên mọi người vẫn gọi chúng tôi là tiểu đào nguyên (*). Ai ai cũng tỏ vẻ ngưỡng mộ, nói nơi này lúc nào cũng sóng yên bể lặng, đến nỗi không biết thật giả thế nào. Nhưng mà chốn công sở chẳng khắc nào chiến tường, nếu không có dấu vết của “khói súng” thì đúng là chẳng có gì thú vị.
(*) Ý chỉ nơi yên bình.
Tôi luôn cho rằng, chỉ những người lòng lặng như nước thì mới có thể sống cô đơn một mình, mà tôi và Trương Đình thực sự rất thích hợp với cuộc sống như thế này, cả hai đều vô tâm, chẳng có toan tính gì, cũng chẳng có mơ ước được thăng quan tiến chức, chỉ có một chuyện bất đồng duy nhất là cô ấy đã kết hôn, còn tôi thì chưa.
Một ngày sắp trôi qua.
Tôi ngồi trên xe của công ty, tâm trạng hơi buồn bực. Mặc dù những chuyện buồn hôm nay không phải lỗi của tôi nhưng cuối cùng sếp vẫn có ý trách móc, tóm lại tôi cảm thấy không được thoải mái. Với kinh nghiệm hơn hai năm làm việc, nếu gặp phải phiền phức như hôm nay, tôi không nên lúng túng như một người mới như vậy, những lời khó nghe cũng chỉ như gió thoảng qua tai, không thể làm mình bị tổn thương được. Nhưng tôi vốn là người không kiềm chế được cảm xúc, vẫn không thể nào vui lên được.
Hai mươi tám tuổi, tốt nghiệp đại học chính quy, tôi tự nhận mình là người có nhan sắc khá, vóc dáng trung bình, nghề nghiệp là tạp dịch, không có lấy một người dưới quyền. Vấn đề cá nhân còn chưa giải quyết, đến hôm nay, ngay cả một người bạn trai tôi cũng chưa tìm được.
Hồi mười hai tuổi, tôi từng nghĩ đến một ngày nào đó mình sẽ hai mươi tư, bước vào cái tuổi bắt đầu tàn lụi sau thời kỳ thanh xuân huy hoàng nhất. Chớp mắt, tôi đã hai mươi tám, ngay cả một khát vọng mơ hồ cũng không có, lúc nào cũng ngẩn ngơ, ngây ngốc.
Sau hai mươi lăm tuổi, tôi thấy một ngày trôi nhanh như giở trang sách, thoáng cái đã thấy mình già đi. Ngẫm lại thấy thật vô vị, cõi lòng chưa già mà đã yếu, có lẽ nó thực sự bị tổn thương nhiều lắm.
Ở nhà, mẹ đang đợi tôi về ăn tối.
“Bố đâu ạ?” Tôi tùy tiện hỏi.
Mẹ tôi còn chẳng thèm ngẩng lên. “Ông ấy ăn xong là đi ra ngoài rồi.”
Năm ngoái chia tay với Lý Mỗ, tôi và bố đã tranh cãi một trận ra trò, từ đó trở đi, hai bố con như người dưng, chỉ vì Lý Mỗ là con trai chiến hữu của ông. Tôi quyết định như vậy đã làm rạn nứt tình cảm giữa hai người họ.
Đối với chuyện này, tôi cũng chẳng biết nói gì. Chuyện tình cảm vốn không thể miễn cưỡng, đây là nhận thức chung của thế hệ chúng tôi, nhưng ở thế hệ của bố mẹ điều này dường như rất khó chấp nhận, lúc nào cũng trách móc chúng tôi chỉ biết nói mà không biết làm, động đến việc gì cũng chần chừ, do dự.
Tôi cắm cúi ăn cơm, cũng không nói gì nhiều, chỉ nghe mẹ nói chuyện đông chuyện tây một hồi. Lúc sắp ăn xong bữa cơm, mẹ tôi bỗng hỏi: “Tú Nghiên, thứ Bảy tuần này con có thời gian không?”
Tôi ngẩn người, trực giác mách bảo tôi rằng nhất định mẹ lại tìm cho tôi một đống đối tượng xem mặt mới.
Quả nhiên, mẹ tôi nói tiếp: “Hôm trước, mẹ tình cờ gặp cô Phùng, cô ấy nói cơ quan của con gái cô ấy có một anh chàng rất được, mới ba mươi tuổi, lại là tiến sĩ. Con người cậu ta cũng rất chững chạc, bố mẹ đều là giáo viên…”
“Tiến sĩ ư? Công ty con có cả tá, thậm chí có cả người từ nước ngoài về.” Tôi lập tức ngắt lời mẹ. “Chuyện này phải xem duyên phận, không thể vội vàng được”
“Con không đi gặp người ta, làm sao biết là không có duyên phận?” Mẹ tôi sầm mặt nhưng tôi cũng chẳng sợ. Bà vốn là người khẩu xà tâm Phật, nếu không phải là vì thực sự sốt ruột thì sẽ không thúc giục tôi như thế này. Lúc nào bà cũng nghĩ cho tôi, dù quan hệ giữa tôi và bố đã trở nên đóng băng thế này.
“Mẹ, mẹ phải có niềm tin vào con gái của mẹ chứ! Không đến hai năm nữa, nhất định con sẽ đi lấy chồng, được chưa ạ?” Tôi đưa tay vỗ ngực, thề thốt, nhưng thực ra trong lòng cũng không chắc chắn, nói vậy chỉ là để mẹ tôi đỡ sốt ruột mà thôi.
Mẹ tôi mặc kệ không quan tâm đến tôi nữa. Tôi biết trong lòng bà cũng đã thoải mái hơn rồi.
“May cho con, đây là mẹ, đổi lại là bố con mà xem, có lẽ con đã bị ông ấy đánh cho no đòn rồi!”
Tôi cười hì hì. “Bây giờ bố không quan tâm đến con cũng có cái tốt đấy chứ, không can thiệp vào mọi chuyện của con, con càng được tự do tự tại.” Nghĩ một lát, tôi lại nói với mẹ: “Mẹ đừng nói nữa, thứ Bảy tuần này con thực sự không có thời gian đâu. Ôn Tịnh mới từ Anh về, muốn hẹn gặp con.”
Mẹ tôi chớp mắt, vẻ mặt có chút ưu tư không dễ nhận ra. Tôi có thể cảm nhận được đó là một chút áy náy, thực ra điều này hoàn toàn không cần thiết.
Bố của Ôn Tịnh và bố tôi vốn là đồng nghiệp trong một nhà máy quốc doanh. Chức vụ của bố tôi cao hơn bố cô ấy. Sau này tiến hành cải cách mở cửa, tình hình trong nhà máy cũng ngày càng thay đổi. Lúc đó việc một cá nhân đứng ra nhận thầu thường thấy ở nhiều công ty, nếu xem xét về nhân cách và thực lực thì bố tôi hoàn toàn có thể làm việc này, chỉ có điều bố và mẹ tôi vốn là người làm việc gì cũng cẩn trọng, dè dặt, không dám mạo hiểm. Cuối cùng, nhà máy được bố của Ôn Tịnh mua lại, trở thành doanh nghiệp tư nhân, ngày càng được mở rộng. Đến hôm nay, bố cô ấy đã trở thành một doanh nhân thành đạt.
Mấy năm nay, bố tôi còn phải đối mặt với vấn đề cắt giảm biên chế, từ đó ông sống ẩn mình ở quê, đó cũng là lý do tại sao tính khí của ông càng ngày càng tệ.
Mẹ tôi cũng canh cánh trong lòng. Con người vốn là như vậy, nếu không có cơ hội thì sẽ cảm thấy bất an, nhưng khi có cơ hội rành rành ngay trước mắt thì lại để cho nó qua đi. Đó mới là điều khiến chúng ta phải ân hận cả cuộc đời.
Nhưng những chuyện này chẳng làm ảnh hưởng tới tình bạn giữa tôi và Ôn Tịnh. Ôn Tịnh nhỏ hơn tôi hai tuổi, chúng tôi chơi cùng nhau từ thời tóc còn để chỏm. Mặc dù sau này cô ấy và tôi không thường xuyên gặp gỡ, thậm chí cô ấy còn ra nước ngoài nhưng chúng tôi chưa bao giờ cắt đứt liên lạc. Từ thư viết tay đến thư điện tử, sau bao lần thay đổi, có lẽ chúng tôi đã có thể xuất bản cả một cuốn Ulysses rồi.
“Lần này về, nó còn đi nữa không?” Mẹ tôi hỏi. Thực ra bà cũng rất quý Ôn Tịnh, một cô gái ngoan ngoãn, xinh xắn, thậm chí bà còn coi Ôn Tịnh như con gái của mình.
“Con không biết. Con bé nói lần này về là quay về nguồn cội. Đấy mẹ xem, thanh niên thế hệ chúng con cũng rất yêu nước đấy chứ!” Tôi vừa nuốt ngụm canh vừa nói.
“Này, vậy còn A Hải nhà họ Chung thì sao? Chẳng phải nó cùng Ôn Tịnh sang Anh sao? Lần này có về không?” Trí nhớ của mẹ tôi quả thực rất tốt, hoặc có thể nói, bà rất quan tâm những vấn đề liên quan đến đám con trai xấp xỉ tuổi tôi.
Chung Tuấn Hải, con trai của giám đốc tòa án nhân dân ở một thành phố bậc trung – Chung Cù. Trước đây nhìn thấy thông báo xử bắn dán trên tường, bên dưới con dấu màu đỏ tươi là chữ ký của giám đốc tòa án, người nắm quyền sinh quyền sát, quyền cho quyền nhận, khó tránh khỏi khiến người khác có cảm giác sợ hãi, dè chừng.
Thực ra hai mươi năm trước, Chung Cù cũng chỉ là một viên chức bình thường. Ba nhà chúng tôi cùng sống ở một khu chung cư nơi ngoại ô thành phố, ba đứa trẻ chúng tôi cùng nhau chơi đùa, cùng nhau lớn lên. Chỉ là sau đó, hoàn cảnh mỗi nhà một khác, nhà họ Ôn và nhà họ Chung ngày càng khấm khá, trước sau rồi cũng chuyển đi nơi khác, chỉ còn nhà tôi ở lại khu chung cư cũ với mong ước có đủ điều kiện để chuyển đến một nơi ở mới tốt hơn. Từ lâu tôi đã hiểu rằng, mỗi người có phúc phận riêng, càng cầu càng khó đạt được, nhưng bố mẹ vẫn luôn nói với tôi những điều này, dường như họ nghĩ rằng tôi không suy nghĩ thông suốt mà thành ra chán nản.
“Phải cùng nhau quay về chứ! Hai người họ yêu nhau bao nhiêu năm như thế, lần này về chắc chắn sẽ có chuyện hỷ.” Tôi thản nhiên nói, vừa khéo ngắt mạch suy nghĩ đó của mẹ.
Mẹ tôi hơi sầm mặt nhưng lập tức trở lại vẻ bình thường. Tôi thỏa mãn buông bát đũa, vừa khẽ hát vừa đi về phòng.
Sau khi đóng cửa phòng, cả người tôi mới thực sự cảm thấy nhẹ nhõm. Lúc nào cũng vậy, dù là nói chuyện với mẹ mình nhưng tôi cũng như đang diễn kịch, cảm thấy làm người lớn thật quá bi ai.
Ngồi trước bàn làm việc, chống tay lên má, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, trong đầu trống rỗng. Một lúc lâu sau, bàn tay trái không nghe lời bắt đầu mò tìm trong ngăn kéo, chạm vào đúng vật thứ hai từ dưới lên, lấy ra một chiếc hộp bánh quy từ chỗ cất sâu nhất, rồi chầm chậm mở ra, trong đó là những tấm bưu thiếp xếp lộn xộn.
Tôi mò mẫm ở đáy hộp một hồi, cuối cùng lấy ra một tập giấy được kẹp bằng ghim, tờ to tờ nhỏ chẳng hề ngay ngắn.
Tôi giở xem từng tờ.
“Tú Nghiên, tám giờ bốn mươi lăm phút sáng mai có một cuộc điện thoại bàn công việc, cô nhớ nhắc tôi nhé!”
“Tú Nghiên, giúp tôi lưu lại mấy hồ sơ này!”
“Tú Nghiên, tám giờ tối nay tôi sẽ đi Quảng Châu.”
…
Phải đến mười mấy tờ như thế, đều là do tôi lén gom lại, đa số được viết bằng tiếng Anh. Tên tiếng Trung của người con trai ấy hơi buồn cười.
Nếu lạc khoản đề ba chữ “Vệ Lê Quân” mà không có lời giải thích, người khác nhất định sẽ đọc không chuẩn. Ba chữ chính trực như thế, người con trai ấy lại có thể ký thành một chữ ký uốn lượn như bươm bướm. Chữ của anh tròn trịa, người ta nói rằng chữ giống như người, thực chẳng sai chút nào.
“Sếp, em thích anh.” Đó chính là giọng nói của tôi khi bày tỏ, hơi run rẩy, lại có chút căng thẳng, mang theo sự ngốc nghếch của “nghé con mới sinh không sợ hổ”.
“…Xin lỗi, tôi không hiểu.” Giọng nói của anh không hề có chút khác thường nào, như thể tôi đang nói chuyện với anh về một văn kiện cần anh ký tên, nhưng tia sáng trong mắt kia lại đang dần biến mất.
Thực ra tôi cũng đã hiểu được rằng, câu trả lời này chính là đáp án dành cho tôi, mặc dù khéo léo nhưng vẫn khiến trái tim tôi tan vỡ…
Tôi nào phải đối thủ của anh, sống trên giang hồ mười năm có lẻ, còn sóng gió nào anh chưa trải qua? Mặc dù lúc đó tinh thần anh đang sa sút nhưng việc ứng phó đối với tôi vẫn dễ dàng như trở bàn tay.
“Ầm” một tiếng, tôi dùng hết sức đóng chiếc hộp lại, như muốn giữ mấy dòng chữ đó mãi nằm yên nơi đáy hộp.
Trong lòng tôi không còn giống như bị dao sắt cứa vào, mà chỉ là một cảm giác tê tê không gây đau đớn. Rốt cuộc thì ba năm cũng sắp trôi qua rồi. Chỉ có cảm giác khó chịu là còn lưu lại trong tim.
Cảm giác bối rối ấy giống như một con dao chặt xương cùn, cứ day đi day lại, cuối cùng cắt đứt sự tự tin của tôi, khiến tôi từ đó chẳng còn chút dũng khí.
Chương 2: Gặp lại cố nhân
Tôi Chung Tuấn Hải và Ôn Tịnh giống như ba nốt nhạc Đô, Rê, Mi trên khuông nhạc, vì mỗi người vừa khéo cách nhau một tuổi, tôi lớn nhất, sau đó đến A Hải, nhỏ nhất là Ôn Tịnh. Thực ra giữa chúng tôi cũng chỉ cách nhau vài tháng, nhưng vì đã sang năm khác nên dù muốn trẻ hơn cũng không được. Tôi chẳng thể nhường ai cái chức danh người “già” nhất nhóm, trong lòng luôn mơ ước có một người anh trai.
Sinh nhật tôi vào cuối năm, nhớ có một năm đến trường đăng ký học, vì chưa đủ tuổi nên không được nhận. Cũng không biếu lần nữa thế nào mà khi tôi đi học, tôi toàn học với các em nhỏ tuổi hơn.
Chúng tôi cùng nhau trốn học, sau đó lén đi ra ngoài bắt ong mật, leo núi… làm đủ mọi trò mà chúng tôi cho là thú vị. Bố mẹ tôi rất nghiêm khắc trong việc giáo dục tôi, nhưng vì lúc đó họ quá bận rộn nên mới lơi lỏng để tôi nắm được cơ hội đó.
Đến một ngày sự việc bại lộ, tôi và A Hải rất trượng nghĩ đứng ra chịu mọi hình phạt để bảo vệ chu toàn cho cô em gái Ôn Tịnh. Kết quả luôn là tôi bị đánh nhiều nhất, bởi bố tôi rất nóng tính.
Ba chuyện khiến tôi có ấn tượng sâu sắc nhất đối với Chung Tuấn Hải đó là:
Một.
Cho đến chín tuổi, tôi đã luyện bút lông được hơn ba năm, nhưng hoàn toàn là do bị bố tôi thúc ép. Nhất là đến kỳ nghỉ hè, bài tập của tôi mỗi ngày là luyện viết mười trang giấy.
Đương nhiên tôi cũng không phải là dạng vừa, làm sao có thể phụ lòng đám bạn đang đứng chờ ở bên ngoài chứ. Thế là tôi lén giở những trang viết đẹp từ nửa năm trước ra, chọn ba, bốn trang cuối cùng hoặc có lúc tâm trạng vui vẻ, tôi chọn ra hẳn tám trang để làm thành quả của mình ngày hôm đó, sau đấy chỉ cần viết nguệch ngoạc thêm mấy trang nữa là có thể “bàn giao” cho bố rồi.
Làm như thế, bốn lần, bố tôi bắt đầu nghi ngờ rằng tại sao chữ của tôi càng ngày càng xấu. Trước cây roi, tôi đã phải thú nhận sự dối trá của mình trong nước mắt, từ đó, bố yêu cầu tôi phải viết ngày tháng trên mỗi trang giấy, muốn lười cũng không được nữa.
Tục ngữ nói, dưa ép chín không ngọt, hằng ngày tôi viết những chữ “rồng bay phượng múa” mà tâm hồn đâu có ở nhà. Những chữ đó chỉ khiến bố tôi càng phải chau mày thêm.
Buổi chiều hôm ấy, bố tôi vì bị mệt nên mới có nửa ngày nghỉ ngơi hiếm hoi, ở nhà trông chừng tôi viết chữ. Thường thường, khi đồng hồ chỉ mười hai giờ là tôi đã cảm thấy khó chịu, xương cốt toàn thân ê mỏi, ngứa ngáy.
Đang lúc ấy có một tên ngốc đứng ngoài cửa thập thò, bố tôi nhìn thấy, liền gọi: “A Hải, vào đây!”
Chung Tuấn Hải vừa cười hì hì vừa đi vào. Nhóm chúng tôi mỗi khi nhìn thấy người lớn của các nhà thì đều phải tránh xa, nhất là bố tôi, ông vốn là một bề trên vô cùng nghiêm khắc.
Không ngờ, hôm đó bố tôi không sầm mặc rồi giáo huấn như bình thường mà chỉ ôn hòa bảo:
“Nào, viết thử hai chữ cho bác xem nào!”
Nghe nói bố của Chung Tuấn Hải cũng thích cho con trai luyện viết chữ. Chung Tuấn Hải nghe thấy vậy liền ngẩn người nhưng vẫn ngoan ngoãn vâng lời.
Tôi biết điều tránh sang một bên, đặt bút, mực, giấy, nghiên trước mặt A Hải. Cậu ta hoài nghi liếc tôi một cái, sau đó bắt đầu đưa bút viết. Viết xong, đặt bút xuống, cậu ta lễ phép đứng sang một bên.
Cậu ta mô phỏng thể chữ Liễu (*), mặc dù nét bút còn non nớt nhưng dáng chữ lại rất đẹp, nét chữ rõ ràng mà mạnh mẽ, cũng không kém phần thướt tha.
(*) Thể chữ Liễu: viết theo phong cách của Liễu Công Quyền, một nhà thư pháp nổi tiếng thời Đường, Trung Quốc.
Bố tôi đứng bên cạnh ngắm một hồi, lại so sánh với chữ của tôi, vẻ mặt ông không thể hiện là tán thưởng hay chán nản, nhưng từ đó, ông không còn bắt tôi luyện chữ nữa. Tôi vô cùng sung sướng, A Hải quả là đấng cứu thế của tôi, cho đến khi chúng tôi vì chút lợi cỏn con mà lại tiếp tục tranh đấu quyết liệt.
Hai.
Vào kỳ nghỉ đông năm mười hai tuổi, chị họ bên ngoại cho tôi một chiếc váy bằng tơ tằm màu trắng, có đính hoa rườm rà, trông chẳng khác nào váy cô dâu. Tôi và Ôn Tịnh sung sướng, chuẩn bị chơi trò làm đám cưới.
Vì là chủ nhân của chiếc váy, tôi đương nhiên phải là cô dâu, và vì không có ai để chọn làm chú rể nên tất nhiên người đó là A Hải.
Nhưng cậu ta khăng khăng muốn Ôn Tịnh làm cô dâu thì mới chơi cùng chúng tôi. Sự cố chấp đó khiến tôi tức giận, cuối cùng vở kịch vui đã biến thành bi kịch.
Tôi chỉ nhớ mình đã cắn vào cổ tay của A Hải đến nỗi chảy máu. Ôn Tịnh ở bên cạnh sợ đến mức mặt trắng bệch.
Mẹ tôi phải bồi thường một giỏ trứng gà, còn bố thì đánh tôi một trận ra trò. Tôi giàn giụa nước mắt, bị xách tai sang nhà họ Chung xin lỗi.
Bố mẹ của Chung Tuấn Hải tỏ vẻ khách sáo và khiêm nhường. Những người lớn ngồi trong phòng khách nói chuyện, chẳng mấy chốc chủ đề đã chuyển sang chuyện khác. Tôi cắn môi đi thăm A Hải. Cổ tay được quấn băng trắng, cậu ta đang ngồi trên giường đọc sách, dáng vẻ ung dung, thư thái.
Tôi hoài nghi không biết cậu ta có phải đi tiêm phòng hay không, nhưng rồi lại nghĩ, tôi đâu phải là chó, sao có thể gây ra bệnh dại chứ?
Thấy tôi bước vào cửa, A Hải đặt cuốn sách xuống, ngẩn người nhìn tôi, ánh mắt có chút khắc thường.
Tôi lúng túng không biết phải nói gì, mặc dù trước đó đã làm nhiều việc xấu nhưng nghiêm trọng như thế này thì đây là lần đầu tiên.
“Cậu yên tâm. Sau này tớ nhất định sẽ lấy cậu.” Cậu ta khẽ nói, vẻ mặt nghiêm túc khiến tôi không biết đáp lời thế nào.
Nhưng vì không có giông tố, mọi chuyện tự nhiên tốt đẹp trở lại.
Thực ra tôi luôn ghi nhớ câu nói ấy trong lòng, đến tận rất lâu sau này…
Ba.
Khi học cấp hai, nhóm ba người chúng tôi đã “giải tán”.
Tôi vẫn học ở ngôi trường trung học trước đó, Ôn Tịnh và A Hải thì cùng gia đình chuyển đến phía nam thành phố, trong nội thành. Cuối cùng, chúng tôi cũng kéo dài khoảng cách, những lần gặp nhau ngày càng ít ỏi. Có lúc, khoảng cách địa lý không phải là yếu tố quan trọng, mà địa vị, thân phận mới thực sự là nguyên nhân kéo dài khoảng cách giữa con người.
Nghe nói thành tích của A Hải năm lớp bảy vẫn rất đáng tự hào. Cậu ta luôn như thế, dù có trốn học hay nghịch ngợm thì vẫn học rất giỏi, cho nên giáo viên và phụ huynh có thể tha thứ cho những lỗi lầm của cậu ta.
Năm lớp chín, tôi vô tình nhìn thấy A Hải ở trường mình. Cậu ta đến tham gia cuộc thi học sinh giỏi Toán. Tôi không thể tham gia cuộc thi này vì Toán là môn tôi luôn học kém, điều đó làm tôi cảm thấy hụt hẫng.
Liếc thấy cậu ta đang nói chuyện với một bạn học cùng tường tôi ở phía xa xa trên hành lang, tôi do dự đi tới. Cậu ta thấy tôi liền dừng lại, nhìn chăm chú.
Cậu ta giờ rất cao, trời sinh đã có dáng dấp thư sinh, nước da trắng trẻo, dáng người gầy gò, đôi mắt vẫn trong veo như trước. Cuối cùng, chung tôi cũng chỉ gật đầu rồi cười với nhau một cái, sau đó cứ thế đi lướt qua nhau.
Trong khoảng khắc đó, tôi lại nhìn thấy rõ ràng gương mặt cậu ta ửng hồng. Cảm giác ấy thật kỳ diệu. Sau này tôi thường xuyên hồi tưởng lại, rồi đoán xem vì sao mặt cậu ta lại ửng hồng như vậy.
Đường nhiên tôi không đi cùng A Hải. Tất cả được bắt đầu trong mờ hồ rồi kết thúc cũng trong mơ hồ.
Thời niên thiếu của mỗi người đều có những hình bóng thoáng qua. Tuy mơ hồ nhưng nó cũng khiến chúng ta phải bối rối, có lúc mang nỗi ưu thương như cơn mưa gió của mùa thu, có lúc lại lo lắng, khắc khoải.
Tất cả vừa mới bắt đầu, thực ra chúng tôi mới chỉ đi được một bước trên con đường dài đằng đẳng ấy mà thôi. Không kịp nói chuyện với nhau, không kịp hiểu ra điều gì, trước mắt đã lướt qua một cảnh tượng khác.
Chúng tôi loạng chọang va vấp với những thứ chẳng biết gọi tên, dòng suy nghĩ vẫn không hề dừng lại. Đến một lúc nào đó muốn dừng chân quay đầu nhìn lại, bỗng phát hiện sự náo nhiệt, phồn hoa ấy đã đi đến tận cùng, ánh đèn đã tắt, không gian hư vô chẳng còn một bóng người…
Sau đó nghe nói A Hải và Ôn Tịnh học cùng tường đại học, chẳng có gì lại khi họ thành một đôi. Nhà họ Chung rất thích vẻ dịu dàng, ấm áp của Ôn Tịnh, thêm vào đó cô ấy lại có gia cảnh tốt, hai nhà đã mấy đời có quan hệ thân thiết, vì vậy đã ngầm coi cô ấy là con dâu từ lâu.
Ôn Tịnh cũng là một người chu đáo, thận trọng. Khi điền thông tin vào đơn thi đại học, chú Chung – bố của A Hải – hy vọng con trai thi vào khoa Luật, tương lai sẽ có nhiều thuận lợi hơn, nhưng cậu ta lại đăng ký khoa Tài chính, điều này khiến chú Chung vô cùng tức giận, thế là Ôn Tịnh vội đăng ký thi khoa Luật, rồi an ủi chú Chung, cho nên chú Chung luôn khen Ôn Tịnh giỏi hơn A Hải.
Với Ôn Tịnh, A Hải là cả thế giới, còn với tôi, A Hải là cố nhân, xa xôi và mơ hồ…
Lúc này, chúng tôi đang ngồi tại một nhà hàng xoay (*) trên tầng cao nhất của tòa nhà Cẩm Giang, nhìn xuống thành phố luôn đổi mới từng ngày, nghĩ đến những chuyện thú vị từ tước đến nay, nụ cười trên gương mặt ngày càng rạng rỡ.
(*) Một kiểu nhà hàng nằm trên tầng cao nhất của những tòa nhà cao tầng hoặc tháp cao, có thể chuyển động 360 độ. Thực khách có thể vừa ăn uống vừa quan sát toàn bộ cảnh sắc bên ngoài.
Ôn Tịnh ngồi trước mặt tôi, chiếc áo kiểu truyền thống thời nhà Đường với ống tay áo bằng gấm màu vàng kim phối hợp với chiếc váy đen dài đến gối, trông cô ấy thật đoan trang, nhã nhặn. Chiếc khăn choàng màu đen và mái tóc dài vẫn đẹp như ngày trước làm nổi bật vẻ dịu dàng, ưu nhã, càng khiến tôi cảm thấy mình thật quê mùa, lạc hậu.
“Sang châu Âu đúng là tốt hơn sang châu Mỹ, nhìn em xem, chẳng giống những người đi du học Mỹ về, làm gì cũng vội vội vàng vàng.” Tôi cảm thán từ tận đáy lòng.
Ôn Tịnh chỉ cười cười, để lộ hàm răng nhỏ đều tăm tắp. “Tú Nghiên, chị vẫn đẹp như trước.”
Tôi bật cười. Khi mười hai tuổi, lần đầu tiên tôi nghe thấy có người khen mình đẹp, lúc đó tôi chỉ là đứa cầm đầu một lũ trẻ con, cả ngày toàn làm những chuyện dở hơi. Tôi mơ hồ đi soi gương, đúng lúc bên cạnh có bức tranh của Yamaguchi Momoe, tôi liền cười với cái gương, mắt him híp, lại thêm chiếc răng khểnh, trông có chút giống Yamaguchi Momoe, từ đó tôi càng nghĩ rằng mình hẳn là mỹ nhân.
Đáng tiếc tỷ lệ vàng của khuôn mặt xuất hiện quá sớm, càng về sau thì càng trở nên xấu xí, tôi từ một nàng thiên nga biến thành một chú vịt con xấu xí.
“A Hải đâu?” Tôi không kìm được, hỏi.
“Anh ấy vốn nói sẽ đi cùng nhưng lúc sắp đi lại có chút việc, nên bảo em nói với chị một tiếng, nhất định hôm khác sẽ gặp nhau.” Ôn Tịnh tỏ vẻ xin lỗi.
Tôi cúi đầu, bóp chặt ngón tay, hóa ra đã bảy năm rồi tôi chưa gặp cậu ấy.
“Chị đang nghĩ gì mà cười vui vẻ vậy?” Ôn Tịnh nhìn tôi vẻ tò mò.
“Hi hi, chị đang nghĩ về chuyện lúc nhỏ đi tiêm phòng, A Hải sống chết cũng không chịu đi, kết quả là bị mẹ cậu ta vác lên, chạy băng băng ra đường. Không ngờ cậu ta lại lanh lợi leo lên một cây trúc ở ven đường, nhất định không chịu xuống, sau đó mẹ cậu ta phải dọa sẽ lấy dao ra chặt, cậu ta mới ngoan ngoãn tụt xuống.”
Ôn Tịnh cũng rất vui vẻ. “Còn nói anh ấy sao, chị cũng chẳng vừa, mỗi lần đến phòng tiêm, bác sĩ vừa mới giơ ống tiêm, chị đã mắng cả tám đời tổ tông nhà người ta, kết quả là phải có thêm hai “lực sĩ” nữa mới có thể giữ được chị.”
Thật là thời ấu thơ bi tráng!
“Em biết không, bác sĩ tiêm cho chị lần đó bây giờ là viện trưởng của bệnh viện số 3. Có lần chị đi khám bệnh còn gặp ông ấy. Ông ấy không nhận ra chị nhưng lại nhận ra mẹ chị, sau đó còn trách móc chị một hồi, đúng là thù dai mà!”
“Ôi, chuyện như vừa xảy ra trước mắt, vậy mà chỉ chớp mắt một cái chúng ta đã lớn thế này rồi.” Ôn Tịnh cảm thán.
Hóa ra khi lớn lên, chuyện chúng ta thường làm nhất lại là cảm thán.
“Khi nào thì hai người bọn em sẽ làm đám cưới?” Tôi chỉ mỉm cười, hỏi.
Ôn Tịnh hững hờ nói: “Chuyện đó để sau rồi tính.”
Trong mấy năm qua, hai người họ đã tan hợp mấy lần, tôi biết đó không phải lỗi của Ôn Tịnh. Cô ấy toàn tâm toàn ý ở bên A Hải. vấn đề là ở A Hải, lúc nào ở bên cạnh cậu ta cũng có cả đám hoa cỏ vây quanh. Thời buổi này, những người đàn ông của gia đình đi đến đâu cũng không thể sóng yên biển lặng vì có quá nhiều cám dỗ.
“Lúc nào anh ấy cũng như gần như xa, có lúc em thực sự không biết anh ấy đang nghĩ gì nữa.”
Tôi chỉ có thể an ủi cô ấy: “Thực ra trong lòng cậu ấy biết rõ em là một cô gái tốt, chỉ là cậu ấy cần kiềm chế mình mà thôi. Huống hồ, bây giờ hai người bọn em đều đã về nước rồi, bố mẹ cậu ấy cũng luôn giúp đỡ em.”
Ôn Tịnh im lặng không nói, vẻ trầm tư.
“Em có dự định gì về công việc chưa?” Tôi đành chuyển chủ đề.
“Em đang liên hệ với một văn phòng luật.”
“Còn A Hải? Chắc sẽ đến công ty của bố em chứ?” Tôi đoán.
Ôn Tịnh lắc đầu, vẻ mặt có chút bất lực. “Bố em cũng hy vọng như vậy, nhưng anh ấy lại từ chối, nói là đã có dự định khác… Tú Nghiên, còn chị thì sao? Sao đến bây giờ vẫn chỉ có một mình?”
Cô ấy hỏi chuyện này khiến tôi thực sự không biết phải trả lời ra sao, chỉ biết cười trừ. “Chẳng phải chị vẫn đang đợi sao? Đợi một người có thể khiến chị cam tâm tình nguyện lấy anh ấy.”
Những tâm sự của chúng tôi đều đã nói với nhau trên mạng, cho nên lúc này không cần nói nhiều cũng đã hiểu được lòng nhau.
“Hay là… chị đừng có chìm đắm vào chuyện cũ quá!” Cuối cùng, cô ấy chỉ nói với tôi một câu như vậy.
Tôi muốn phủ nhận nhưng lại thấy hơi chột dạ, cuối cùng chỉ cười.