Những ai dám làm, sẽ thắng.

Winston Churchill

 
 
 
 
 
Tác giả: Frank Herbert
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 48
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5856 / 755
Cập nhật: 2020-09-12 14:37:53 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 39
hi tôn giáo hợp nhất luật pháp và nghĩa vụ, ngươi không bao giờ trở nên hoàn toàn có ý thức, không bao giờ nhận thức đầy đủ về chính mình. Ngươi luôn luôn kém hơn đôi chút so với một cá nhân.
- trích "Muad'Dib: Chín mươi chín điều kỳ diệu của vũ trụ" của Công chúa Irulan/p>
Xưởng khai thác hương dược của dân buôn lậu, cùng với tàu vận tải mẹ và đội tàu chim của nó, bay tới chỗ các đụn cát gồ lên, trông hệt như một bầy côn trùng nối đuôi theo con chúa. Phía trước bầy côn trùng là một trong những rặng đá thấp trồi lên từ nền sa mạc giống như những hình thu nhỏ của Tường Chắn. Những bãi đá khô cạn của rặng này đã bị trận bão vừa mới đây quét sạch.
Trong đài quan sát trong suốt hình mái vòm của xưởng khai thác, Gurney Halleck cúi về phía trước, điều chỉnh các thấu kính dầu của ống nhòm rồi khảo sát cảnh quan. Bên ngoài rặng đá, ông nhìn thấy một khoảnh tối có thể là một vụ nổ hương dược, liền phát tín hiệu cho một chiếc tàu chim đang liệng bên ngoài, ra lệnh cho nó bay đi kiểm tra.
Chiếc tàu ve vẩy cánh để cho thấy nó đã nhận được tín hiệu. Nó tách khỏi bầy, lao về phía trảng cát sẫm màu, vừa lượn vòng quanh khu vực đó vừa thò máy dò xuống lơ lửng gần mặt cát.
Gần như ngay sau đó, nó cụp cánh nhào xuống rồi lượn vòng, để cho xưởng khai thác đang chờ đợi kia biết đã tìm thấy hương dược.
Gurney đút ống nhòm vào bao, biết rằng những người khác đã nhìn thấy tín hiệu. Ông thích nơi này. Rặng đá cho nơi trú ẩn và che chở. Nơi này sâu trong sa mạc, khó lòng bị mai phục được... tuy rằng... Gurney ra hiệu cho một đội tàu bay lượn trên rặng đá, rà soát kỹ, cử quân dự bị đến cắm chốt thành đội hình quanh khu vực này - không quá cao bởi khi đó các máy dò của phía Harkonnen có thể phát hiện ra họ từ xa.
Tuy vậy, ông không tin quân tuần tiễu Harkonnen sẽ tiến xa về phía Nam đến thế. Đây vẫn là xứ sở của người Fremen.
Gurney vừa kiểm tra vũ khí của mình vừa nguyền rủa số phận vì đã khiến cho tấm chắn thành vô dụng ở đây. Bất cứ cái gì có thể vời sâu cát đến thì đều phải tránh bằng mọi giá. Ông vừa xoa xoa vết sẹo vì cây nho mực trên hàm vừa nghiên cứu quang cảnh, quyết định rằng an toàn nhất là dẫn một toán đi đường đất băng qua rặng đá kia. Thám sát bằng cách đi bộ vẫn là cách chắc ăn nhất. Chừng nào Fremen và Harkonnen vẫn còn muốn cắt cổ nhau thì có cẩn thận mấy cũng không thừa.
Ở đây chính người Fremen mới làm ông lo lắng. Họ không nề hà gì việc buôn bán hương dược với ta, ta muốn mua bao nhiêu cũng có, nhưng họ sẽ là những con quỷ sẵn sàng giao chiến nếu ta đặt chân đến nơi họ cấm ta không được tới. Hơn nữa dạo gần đây họ trở nên láu cá cực kỳ.
Sự láu cá và khéo léo trong chiến đấu của những người bản địa này, nó khiến Gurney khó chịu. Họ cho thấy sự tinh vi trong nghệ thuật chiến tranh, tinh vi chẳng kém bất cứ cái gì ông từng gặp, trong khi chính ông đã được huấn luyện bởi những chiến binh giỏi nhất trong vũ trụ, những kẻ dạn dày máu lửa trong các trận đánh mà chỉ số ít những kẻ ưu việt nhất mới có cơ sống sót.
Một lần nữa Gurney chăm chú nhìn quang cảnh, tự hỏi tại sao ông cảm thấy bồn chồn. Có lẽ đó là do con sâu cát mà họ đã thấy... nhưng ấy là ở phía bên kia rặng đá.
Một cái đầu nhô lên, tiến vào đài quan sát cạnh Gurney - chỉ huy xưởng khai thác, một tay cướp biển già độc nhãn râu rậm, cặp mắt xanh ngắt còn răng trắng như sữa do thực đơn nhiều hương dược.
"Xem ra chỗ này khẳm phết, thưa ngài," viên chỉ huy xưởng khai thác nói. "Tôi đưa người vào nhé?"
"Hãy xuống chỗ rìa rặng đá kia," Gurney ra lệnh. "Để tôi đổ bộ cùng với người của tôi. Từ chỗ đó ông có thể dùng xe tới nơi có hương dược. Chúng tôi sẽ đi kiểm tra chỗ tảng đá kia."
"Vâng."
"Nếu có chuyện gì, hãy cứu xưởng khai thác," Gurney nói. "Còn chúng tôi sẽ leo lên tàu chim."
Chỉ huy xưởng khai thác đứng nghiêm chào. "Vâng, thưa ngài." Ông ta chui xuống dưới qua cánh cửa sập.
Một lần nữa Gurney quan sát khắp đường chân trời. Ông phải lưu ý đến khả năng ở đây có người Fremen và ông đang xâm phạm nơi này. Người Fremen khiến ông lo lắng, sự bền bỉ dẻo dai của họ, hành tung khôn lường của họ. Trong chuyện làm ăn này có nhiều điều khiến ông lo lắng, nhưng phần thưởng thì lại lớn. Việc không thể cử các tàu cảnh vệ bay cao trên đầu cũng khiến ông lo lắng. Việc cần thiết phải cắt liên lạc bằng vô tuyến càng làm tăng nỗi bồn chồn bất an của ông.
Con bọ-xưởng khai thác xoay mình, bắt đầu bò xuống. Nhẹ nhàng, nó lướt dọc bãi cát khô dưới chân rặng đá. Những bước chân giẫm lên cát.
Gurney mở nắp vòm đài quan sát, tháo các đai đeo bảo vệ ra. Đúng vào lúc xưởng khai thác ngừng chuyển động thì ông bước ra ngoài, đóng sập nắp đài quan sát lại sau lưng, trèo ra trên các tấm chắn bánh xích rồi đu mình xuống cát phía bên ngoài tấm lưới dự phòng sự cố. Năm người thuộc đội cận vệ riêng của ông từ cửa sập đằng mũi chui ra ngoài cùng ông. Những người khác điều khiển cho phi đội vận chuyển của xưởng khai thác tách riêng ra. Nó tách ra, nhấc bổng lên rồi lượn một vòng thâm thấp trên đầu.
Ngay lập tức con bọ-xưởng khai thác kềnh càng lắc lư trở dậy, nhún mình rời khỏi chỏm đụn cát, di chuyển về phía trảng hương dược tối đen lộ ra trên cát.
Một chiếc tàu chim bổ xuống gần đó, khẽ trượt rồi đứng lại. Một chiếc khác theo sau, rồi thêm chiếc nữa. Chúng phun trung đội của Gurney ra rồi cất mình lên để liệng vòng xung quanh đó.
Gurney duỗi thẳng người kiểm tra các cơ bắp của mình trong bộ sa phục. Ông tháo mặt nạ lọc ra khỏi mặt, khiến hơi ẩm trong người mất đi song bù lại ông làm được điều cần thiết hơn - có được cái sức mạnh vang rền trong giọng nói một khi cần thét to ra lệnh. Ông bắt đầu trèo lên giữa các tảng đá để kiểm tra địa hình - dưới chân là sỏi và cát hạt đậu, mùi hương dược.
Địa điểm tốt để đặt căn cứ khẩn cấp, ông nghĩ. Chôn một ít đồ tiếp tế ở đây hẳn là có lý.
Ông ngoái lại, quan sát thuộc hạ của mình tản ra trong khi họ theo ông. Những người giỏi, kể cả những người mới mà ông chưa có thời gian kiểm tra. Những người thật giỏi. Không cần ông lúc nào cũng phải nhắc nhở họ hãy làm gì. Chẳng có ánh lấp lánh nào của tấm chắn trên người bất cứ ai trong số họ. Chẳng có tên hèn nhát nào trong đám người này, những thằng hèn cứ phải tha tấm chắn vào sa mạc nơi sâu cát có thể cảm thấy được tấm chắn mà mò tới cướp không chỗ hương dược họ tìm ra.
Từ tảng đá hơi nhô ra này, Gurney có thể thấy trảng cát chứa hương dược cách mình chừng nửa cây số và thấy con bọ vừa mới mon men tới rìa bên trái của nó. Ông nhìn lên đội bay bảo vệ, ghi nhận độ cao - không cao lắm. Ông gật gù, quay sang tiếp tục leo lên chỏm cát.
Đúng vào khoảnh khắc đó, chỏm cát sụp đổ.
Mười hai tia lửa gầm vang xẹt thẳng từ dưới lên những chiếc tàu chim cùng bộ phận vận chuyển đang liệng trên cao. Từ chỗ con bọ-xưởng hương dược vang lên tiếng kim loại nổ đinh tai, và các tảng đá quanh Gurney tràn ngập những chiến binh đội mũ trùm.
Gurney còn kịp nghĩ: Thề có cặp sừng của Mẹ Vĩ đại! Tên lửa! Chúng dám dùng cả tên lửa kia à!
Rồi ông đối mặt với một người trùm đầu đang cúi thấp, con dao pha lê trong tư thế sẵn sàng. Hai người nữa đứng đợi trên các tảng đá phía trên, một bên trái một bên phải. Gurney chỉ thấy được cặp mắt lộ ra giữa mũ trùm và tấm mạng che mặt trên bộ áo choàng màu cát của tay chiến binh đứng trước mặt ông, nhưng động tác cúi mình và tư thế sẵn sàng kia cảnh cáo ông rằng đây là một chiến binh dày dạn khổ luyện. Đó là đôi mắt màu-xanh-trong-màu-xanh của người Fremen sống sâu trong sa mạc.
Gurney đưa một tay về phía dao của mình, mắt vẫn dán chặt vào con dao của đối phương. Một khi đã dám dùng tên lửa, bọn họ cũng có thể có những vũ khí phóng khác. Khoảnh khắc này đòi hỏi phải cực kỳ cẩn trọng. Chỉ cần nghe các âm thanh, ông cũng biết ít nhất lực lượng yểm trợ trên không của ông đã bị quật ngã. Có cả những tiếng càu nhàu, tiếng vật lộn ồn ĩ sau lưng ông.
Mắt của chiến binh trước mặt Gurney theo sát cử động tiến về phía con dao của bàn tay ông, trở lại nhìn xoáy vào mắt Gurney.
"Để nguyên dao trong vỏ đi, Gurney Halleck," người đó nói.
Gurney chần chừ. Giọng nói đó nghe quen thuộc đến kỳ lạ, dù đã qua bộ lọc của sa phục.
"Ngươi biết tên ta?" ông hỏi.
"Thầy không cần phải dùng dao với ta, Gurney ạ," người đó nói. Anh ta thẳng người lên, đút lại dao vào vỏ bên dưới áo choàng. "Hãy bảo người của thầy đừng kháng cự vô ích."
Người đó hất mũ trùm đầu ra sau, trật bộ lọc sang một bên.
Sự choáng váng trước những gì Gurney nhìn thấy khiến cơ bắp ông đông cứng lại. Thoạt tiên ông nghĩ mình đang nhìn bóng ma của Công tước Leto Atreides. Phải mất hồi lâu ông mới hiểu trọn vẹn sự tình.
"Paul," ông thì thầm. Rồi nói to hơn: "Có thật là Paul không?"
"Thầy không tin vào mắt mình sao?" Paul hỏi.
"Người ta nói ngài đã chết," Gurney kêu lên the thé. Ông tiến lên nửa bước.
"Bảo người của thầy đầu hàng đi," Paul ra lệnh. Chàng vẫy tay về phía những khu vực thấp hơn của chỏm cát.
Gurney quay lại, miễn cưỡng rời mắt khỏi Paul. Ông chỉ thấy vài đám đánh nhau lẻ tẻ. Những người sa mạc đội mũ trùm dường như có mặt khắp nơi. Con bọ-xưởng khai thác nằm im, người Fremen đứng trên nóc. Không có chiếc máy bay nào trên đầu nữa.
"Ngừng chiến đấu," Gurney gầm lên. Ông hít một hơi dài, khum hai bàn tay lại làm loa. "Gurney Halleck đây! Ngừng đánh nhau đi!"
Chầm chậm, đầy cảnh giác, những cặp đang giao chiến tách nhau ra. Những đôi mắt quay về phía ông, dò hỏi.
"Đây là bạn," Gurney nói to.
"Bạn tốt quá nhỉ!" ai đó hét lại. "Phân nửa người của ta bị giết rồi."
"Đó là do nhầm lẫn," Gurney nói. "Đừng làm chuyện thêm tệ hại."
Ông ngoảnh lại Paul, nhìn chằm chằm vào cặp mắt Fremen xanh ngăn ngắt của chàng trai.
Một nụ cười thoáng hiện trên miệng Paul, nhưng trong nét mặt có một sự cứng rắn khiến Gurney nhớ lại Lão Công tước, ông nội của Paul. Rồi Gurney nhận ra trong Paul có một sự khắc nghiệt đầy gân guốc vốn chưa từng thấy ở bất cứ người nào của gia tộc Atreides - vẻ thô kệch của làn da, cái liếc xéo của cặp mắt, sự tính toán trong ánh nhìn lướt qua như thể đang cân lường bất cứ cái gì trông thấy.
"Người ta nói ngài đã chết," Gurney lặp lại.
"Và dường như cứ để người ta nghĩ vậy chính là cách bảo vệ tốt nhất," Paul nói.
Gurney nhận ra đó là toàn bộ lời xin lỗi mà ông từng nhận được cho cái nỗi ông đã bị bỏ rơi phải một mình xoay xở, buộc phải tin rằng Công tước trẻ tuổi... bạn của ông, đã chết. Và ông tự hỏi liệu ở con người này có còn sót lại chút gì của cậu thiếu niên ông từng biết, từng huấn luyện theo cung cách chiến binh không.
Paul tiến một bước về phía Gurney, nhận thấy cặp mắt ông toát lên nỗi đau đớn. "Gurney..."
Như thể mọi chuyện cứ thế tự nó xảy ra: hai người ôm lấy nhau, đấm thình thịch lên lưng nhau, cảm thấy yên lòng khi tiếp xúc với thân thể rắn chắc của nhau.
"Thằng oắt con! Thằng oắt!" Gurney nhắc đi nhắc lại.
Còn Paul: "Gurney, ông bạn! Gurney, ông bạn!"
Ngay sau đó họ lùi lại, nhìn nhau. Gurney hít một hơi dài. "Vậy là nhờ ngài mà người Fremen đã đâm ra khôn ngoan đến thế trong chiến thuật giao tranh. Lẽ ra tôi phải biết mới đúng. Họ cứ làm những chuyện mà đáng lẽ chính tôi phải hoạch định ra. Giá như tôi biết..." Ông lắc đầu. "Giá như ngài nói với tôi một tiếng, chàng trai ạ. Sẽ chẳng có gì ngăn nổi tôi. Tôi sẽ chạy ào tới và..."
Một ánh nhìn trong mắt Paul khiến ông khựng lại... cái nhìn đăm đăm khắc nghiệt, tính toán.
Gurney thở dài. "Hẳn rồi, và chừng đó hẳn sẽ có người tự hỏi tại sao Gurney Halleck này sấn sổ chạy ào tới, một vài người sẽ không chỉ đặt câu hỏi mà còn làm nhiều hơn. Họ sẽ săn lùng câu trả lời."
Paul gật đầu, liếc nhìn những người Fremen đang chờ đợi xung quanh họ - những cái nhìn đánh giá đầy tò mò trên mặt các chiến binh Fedaykin. Chàng chuyển ánh mắt từ các chiến binh cảm tử sang lại Gurney. Tìm thấy thầy dạy kiếm thuật trước đây của mình khiến lòng chàng ngập tràn hoan hỉ. Chàng coi đó như một điềm tốt, một dấu hiệu cho thấy chàng đang tiến trên con đường tới tương lai nơi mọi cái đều tốt đẹp.
Có Gurney bên cạnh ta...
Paul nhìn xuống chỏm cát phía sau đám quân Fedaykin, quan sát đám buôn lậu đi cùng Halleck.
"Người của thầy đứng về phe nào, Gurney?" chàng hỏi.
"Họ đều là dân buôn lậu," Gurney nói. "Nơi nào có lợi nhuận thì họ đứng về bên đó."
"Trong công việc mạo hiểm của bọn ta thì lợi nhuận chẳng có mấy đâu," Paul nói, và chàng nhận thấy cái dấu hiệu tinh tế được truyền tải chớp nhoáng cho chàng từ một ngón tay phải của Gurney - cái mật mã bằng tay quen thuộc giữa họ trong quá khứ. Có những người cần phải sợ, cần phải dè chừng trong đám buôn lậu kia.
Paul day day môi để chứng tỏ chàng hiểu, rồi ngước nhìn đám người đang đứng bảo vệ ở những tảng đá phía trên họ. Chàng thấy Stilgar ở đó. Ký ức về vấn đề chưa giải quyết với Stilgar làm nguội đi chút ít niềm hân hoan của Paul.
"Này Stilgar," chàng nói, "đây là Gurney Halleck mà tôi đã nói với ông. Bậc thầy chinh chiến của cha tôi, một trong các kiếm sư đã chỉ dạy tôi, một người bạn cũ. Tôi có thể tin cậy ông ấy trong bất cứ việc mạo hiểm gì."
"Tôi có nghe." Stilgar nói. "Anh là Công tước của ông ta."
Paul nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tối màu ở phía trên chàng, tự hỏi lý do gì đã buộc Stilgar nói như vừa rồi. Công tước của ông ta. Có một ngữ điệu kỳ lạ phảng phất trong giọng Stilgar, như thể thật ra ông nói một điều khác. Điều đó không hợp với Stilgar, kẻ vốn là thủ lĩnh của người Fremen, một người nghĩ sao nói vậy.
Công tước của ta! Gurney nghĩ. Ông nhìn Paul theo một cách mới. Phải. Một khi Leto đã chết, tước hiệu đó chuyển sang đôi vai Paul.
Mẫu hình cuộc chiến của người Fremen trên Arrakis bắt đầu có một dạng thức mới trong trí Gurney. Công tước của ta! Một nơi vốn đã chết trong ông giờ đây lại hồi sinh. Chỉ một phần của ý thức ông tập trung vào mệnh lệnh của Paul rằng cần phải tước vũ khí toán buôn lậu trước khi tiến hành thẩm vấn.
Tâm trí Gurney quay trở lại với cái lệnh đó khi ông nghe thấy vài thuộc hạ của mình phản đối. Ông lắc đầu, quay ngoắt lại. "Các anh điếc à?" ông quát. "Đây là vị Công tước hợp pháp trị vì Arrakis. Làm theo lệnh ngài đi."
Đám buôn lậu gầm gừ quy phục.
Paul tiến lên cạnh Gurney, hạ giọng nói. "Ta không chờ đợi thầy bước thẳng vào cái bẫy này, Gurney ạ."
"Tôi đã bị trừng trị đích đáng," Gurney nói. "Tôi dám cược rằng cái mảng hương dược này của các ngài chẳng dày hơn một hạt cát, chẳng qua là miếng mồi nhử chúng tôi."
"Thế thì thầy thắng cược rồi," Paul nói. Chàng nhìn xuống đám người đang bị tước vũ khí. "Trong đám quân của thầy còn ai khác từng là thuộc hạ của cha ta không?"
"Không. Chúng tôi tản mác mỗi người một ngả. Có vài người ở chỗ các nhà buôn tự do. Hầu hết đã chi hết lợi nhuận của mình để rời bỏ nơi này."
"Nhưng thầy đã ở lại."
"Tôi ở lại."
"Bởi Rabban vẫn đang ở đây," Paul nói.
"Tôi nghĩ tôi chẳng còn việc gì ngoài trả thù," Gurney nói.
Một tiếng kêu đứt đoạn lạ lùng vang lên từ phía đỉnh rặng đá. Gurney nhìn lên thì thấy một người Fremen đang vẫy khăn tay.
"Một Ngài tạo đang đến," Paul nói. Chàng tiến lên một mũi đá, nhìn về phía Tây Nam, Gurney bám theo sau. Có thể nhìn thấy cái ụ trông như hang đùn dưới đất của một con sâu ở khoảng cách vừa phải, một đường đội cát cắt thẳng qua những đụn cát mà tiến về phía rặng đá.
"Khá to đấy," Paul nói.
Một tiếng lách cách vang lên từ chỗ con bọ-xưởng khai thác bên dưới họ. Nó xoay mình trên các bánh xích như một con côn trùng khổng lồ, ì ạch tiến về phía những tảng đá.
"Chúng ta không cứu được chiếc tàu thồ, thật dở quá," Paul nói.
Gurney liếc nhìn chàng, ngoái lại nhìn những vệt khói và đống mảnh vụn ngoài sa mạc nơi tàu thồ và những chiếc tàu chim đã bị tên lửa của người Fremen bắn hạ. Ông chợt cảm thấy nhói lòng khi nghĩ tới những người đã chết ở đó - thuộc hạ của ông, và ông nói: "Cha của ngài hẳn sẽ quan tâm nhiều hơn tới những người ông ấy không cứu được."
Paul ném cho ông một cái nhìn nghiệt ngã, khiến ông cụp mắt xuống. Ngay sau đó, chàng nói: "Họ là bạn thầy, Gurney. Ta hiểu. Tuy nhiên với bọn ta, họ là những kẻ xâm phạm, có thể nhìn thấy những cái họ không nên thấy. Điều đó thầy phải hiểu."
"Tôi hiểu khá rõ," Gurney nói. "Giờ thì tôi tò mò muốn thấy cái tôi không nên thấy."
Paul ngước lên, nhìn thấy trên mặt Gurney nụ cười toe toét như chó sói mà chàng nhớ rõ, thấy nếp nhăn của vết sẹo vì cây nho mực hằn dọc quai hàm Gurney.
Gurney gật đầu về phía sa mạc bên dưới họ. Người Fremen đang ai làm việc nấy khắp trên khu vực đó. Ông kinh ngạc nhận ra chẳng ai trong số họ tỏ ra bận tâm về chuyện sâu cát đang lại gần.
Một tiếng thì thùng vang lên từ phía các đụn cát bên ngoài trảng hương dược dùng làm bẫy - một tiếng trống sâu thẳm, dường như nghe thấy được qua chân họ. Gurney thấy người Fremen tản ra trên cát, ngay ở đó trên đường tiến của con sâu.
Con sâu xuất hiện như một con cá răng lông khổng lồ, gồ lên trên bề mặt, các đốt thân của nó gợn sóng, xoắn vặn. Trong khoảnh khắc, từ điểm nhìn thuận lợi phía trên sa mạc, Gurney chứng kiến cảnh tóm bắt con sâu - cú nhảy táo bạo của người cầm móc đầu tiên, cú vặn mình của con vật, rồi cả toán người trèo lên mạn sườn uốn cong loang loáng vảy của con sâu.
"Đó là một trong những thứ mà thầy không nên thấy," Paul nói.
"Người ta có kể chuyện, có đồn đại," Gurney nói. "Nhưng chừng nào chưa tận mắt thấy thì khó mà tin được." Ông lắc đầu. "Con vật mà bất cứ ai ở Arrakis cũng đều khiếp sợ thì các ngài sử dụng làm vật cưỡi."
"Thầy đã nghe cha ta nói về quyền lực sa mạc," Paul nói. "Nó đây. Bề mặt hành tinh này là của bọn ta. Không cơn bão nào, không sinh vật nào, không điều kiện nào ngăn nổi bọn ta."
Bọn ta, Gurney nghĩ. Ý cậu ta là người Fremen. Cậu ta nói về bản thân như thể là một trong số họ. Một lần nữa, Gurney nhìn màu xanh vì hương dược trong mắt Paul. Mắt của chính ông, ông biết, cũng nhuốm màu đó, nhưng dân buôn lậu có thể kiếm được thức ăn từ thế giới bên ngoài, và có một hàm ý phân biệt đẳng cấp tế nhị giữa dân buôn lậu với nhau dựa theo sắc độ cặp mắt. Họ nói "nét cọ hương dược" để ám chỉ một người đã trở nên quá giống dân địa phương. Và luôn luôn có một gợi ý bóng gió về sự nghi ngờ trong câu nói đó.
"Trước đây bọn ta không cưỡi Ngài tạo dưới ánh sáng ban ngày ở vùng này," Paul nói. "Nhưng Rabban hiện còn quá ít không lực nên hắn không thể phí phạm nó vào việc tìm dăm ba dúm hương dược ở trong cát." Chàng nhìn lên Gurney. "Chiếc tàu của các người đã khiến cho bọn ta ở đây choáng váng."
Cho bọn ta... cho bọn ta...
Gurney lắc đầu để gạt bỏ những ý nghĩ đó. "Sự choáng váng chúng tôi gây ra cho các ngài không bằng của các ngài gây ra cho chúng tôi đâu," ông nói.
"Ở các sink và làng mạc người ta nói gì về Rabban?" Paul hỏi.
"Họ nói họ đã xây các làng graben kiên cố đến nỗi các ngài sẽ không làm hại họ nổi. Họ nói họ chỉ cần ngồi trong hầm bảo vệ trong khi các ngài tự làm hao mòn lực lượng mình bởi cứ tấn công vô ích."
"Nói gọn, họ án binh bất động," Paul nói.
"Trong khi các ngài thì có thể đi đâu tùy thích," Gurney nói.
"Đó là một chiến thuật ta học được từ thầy," Paul nói. "Họ đã mất quyền chủ động, nghĩa là họ đã thua trong cuộc chiến này."
Gurney mỉm cười, một nét biểu hiện chậm rãi, ra vẻ hiểu biết.
"Kẻ thù của bọn ta ở đúng nơi ta muốn hắn tới," Paul nói. Chàng liếc nhìn Gurney. "Nào, Gurney, thầy có đầu quân cùng ta trong đoạn kết của chiến dịch này không?"
"Đầu quân?" Gurney nhìn chàng đăm đăm. "Bẩm Chúa công, tôi chưa bao giờ thôi phụng sự ngài. Chính ngài mới là người khiến tôi... nghĩ rằng ngài đã chết. Và tôi, bị bỏ rơi, lang thang phiêu bạt, tôi thệ nguyện trung thành được với ai thì cứ thệ nguyện trung thành, trong khi đợi đến lúc có thể bán cuộc đời mình để lấy điều đáng giá với nó: cái chết của Rabban."
Một nỗi im lặng đầy bối rối xâm chiếm lấy Paul.
Một phụ nữ trèo lên các tảng đá về phía họ, đôi mắt lộ ra giữa mũ trùm của bộ sa phục và chiếc mặt nạ lọc liếc nhanh từ Paul sang người đang đứng cùng chàng. Nàng đứng lại trước mặt Paul. Gurney để ý đến vẻ sở hữu toát ra từ nàng, cung cách nàng đứng cạnh chàng.
"Chani này, đây là Gurney Halleck," Paul nói. "Em đã nghe anh kể về ông ấy."
Nàng nhìn Halleck, rồi nhìn lại Paul. "Em có nghe."
"Mấy người kia cưỡi Ngài tạo đi đâu?" Paul hỏi.
"Họ chỉ đánh lạc hướng nó để chúng ta có thì giờ cứu thiết bị."
"Vậy thì..." Paul ngừng lời, ngửi ngửi không khí.
"Gió đang tới đấy," Chani nói.
Một giọng vang lên từ đỉnh rặng đá trên đầu họ. "Này, kìa - gió đấy!"
Gurney thấy chuyển động của những người Fremen trở nên nhanh hơn - lăng xăng hơn, gấp gáp hơn. Sự xuất hiện của con sâu không kích động nổi họ như nỗi sợ trước cơn gió. Con bọ-xưởng khai thác ì ạch trèo lên bãi đá khô bên dưới họ và một con đường đã được mở ra cho nó giữa những tảng đá... rồi các tảng đá khép lại đằng sau nó kín bưng đến nỗi mắt ông không nhìn ra được cái lối đi kia.
"Các ngài có bao nhiêu nơi ẩn nấp như vậy?" Gurney hỏi.
"Vô số," Paul nói. Chàng nhìn Chani. "Tìm Korba đi. Bảo anh ta, Gurney đã cảnh báo anh rằng trong đám buôn lậu này có những người không đáng tin cậy."
Nàng nhìn nhanh sang Gurney, quay lại Paul, gật đầu, rồi tụt xuống các tảng đá, nhảy thoăn thoắt như con sơn dương.
"Cô ta là người đàn bà của ngài," Gurney nói.
"Mẹ của đứa con đầu lòng của ta," Paul nói. "Có một Leto nữa trong gia tộc Atreides."
Gurney chấp nhận điều đó chỉ bằng một cử chỉ mở to mắt.
Paul quan sát những hoạt động quanh họ bằng cái nhìn phán xét. Một màu cà ri giờ đây thống trị bầu trời phía Nam và những luồng gió giật từng cơn quất bụi mù mịt quanh đầu họ.
"Cài kín sa phục vào," Paul nói. Và chàng buộc chặt mặt nạ cùng mũ trùm quanh mặt.
Gurney nghe theo, thấy biết ơn vì có những bộ lọc.
Paul nói, giọng nghẹt đi vì bộ lọc: "Ai trong đám thuộc hạ của thầy là người thầy không tin cậy, hở Gurney?"
"Có vài người mới tuyển," Gurney nói. "Những kẻ từ thế giới ngoài..." Ông ngập ngừng, đột nhiên thấy băn khoăn về chính mình. Kẻ từ thế giới ngoài. Từ đó đã bật ra từ lưỡi ông quá dễ dàng.
"Rồi sao?" Paul nói.
"Họ không giống đám người chuyên săn lùng của cải mà chúng tôi thường tìm được," Gurney nói. "Họ dày dạn hơn."
"Gián điệp của Harkonnen?" Paul hỏi.
"Bẩm Chúa công, tôi cho rằng chúng chẳng thưa thốt gì với Harkonnen cả. Tôi ngờ chúng là người của Mật vụ Hoàng gia. Chúng có gì đó hao hao Salusa Secundus."
Paul nhìn ông một cái sắc như dao. "Sardaukar?"
Gurney nhún vai. "Có thể, nhưng được ngụy trang khéo."
Paul vừa gật đầu vừa nghĩ, Gurney đã quay trở lại cung cách của một lão bộc nhà Atreides dễ dàng đến thế nào... nhưng với sự dè dặt tinh vi... khác biệt tinh vi. Arrakis đã làm thay đổi cả ông ấy nữa.
Hai người Fremen đội mũ trùm nhô lên từ tảng đá vỡ bên dưới họ, bắt đầu trèo lên. Một trong hai người vác trên vai một cái bọc to màu đen.
"Người của tôi giờ đâu rồi?" Gurney hỏi.
"Đang an toàn trong các tảng đá phía dưới chúng ta," Paul nói. "Bọn ta có một hang ở đây - Hang Chim. Sau khi bão tan bọn ta sẽ quyết định làm gì với họ."
Một giọng vang lên từ trên đầu họ: "Muad'Dib!"
Paul quay về phía tiếng gọi thì thấy một vệ sĩ Fremen đang ra dấu bảo họ đi xuống hang. Paul ra hiệu rằng đã nghe thấy.
Gurney chăm chú quan sát chàng với một vẻ mặt mới. "Ngài là Muad'Dib?" ông hỏi. "Ngài là ý-chí-của-cát?"
"Đó là tên Fremen của ta," Paul nói.
Gurney quay đi, lòng nặng trĩu một linh cảm chẳng lành. Nửa số thuộc hạ của ông đã chết trên cát, nửa còn lại thì bị bắt. Ông không quan tâm đến đám quân vừa mới tuyển, những kẻ khả nghi, nhưng trong số còn lại đó có những người tốt, có bạn bè ông, những người ông cảm thấy mình phải có trách nhiệm. "Sau khi bão tan bọn ta sẽ quyết định làm gì với họ." Paul đã nói thế, Muad'Dib đã nói thế. Và Gurney nhớ lại những chuyện người ta kể về Muad'Dib, về Lisan al-Ghaib - ông ta đã lột da một sĩ quan Harkonnen để làm màng bịt trống, rằng quanh ông ta là Fedaykin, những chiến binh cảm tử, những kẻ xông vào trận đánh miệng hát vang bài hát về cái chết.
Ông ta.
Hai người Fremen đang trèo lên các tảng đá nhẹ nhàng nhảy sang một thềm đá trước mặt Paul. Người có khuôn mặt sạm màu nói: "Tất cả an toàn, thưa Muad'Dib. Tốt nhất chúng ta hãy xuống dưới bây giờ."
"Phải."
Gurney lưu ý thanh điệu trong giọng người này - nửa ra lệnh, nửa yêu cầu. Đó là người tên Stilgar, một gương mặt khác trong các truyền thuyết Fremen mới.
Paul nhìn cái bọc mà người Fremen thứ hai vác trên vai rồi nói: "Korba, cái gì trong bọc vậy?"
Stilgar đáp: "Nó ở trong con bọ. Nó có chữ viết tắt tên của bạn anh đây, bên trong đựng một cây đàn baliset. Đã nhiều lần tôi nghe anh nói về tài nghệ chơi baliset của Gurney Halleck."
Gurney quan sát người đang nói, nhìn thấy mép bộ râu đen nhánh lộ ra phía trên chiếc mặt nạ sa phục, cái nhìn như của chim ưng, cái mũi như chạm bằng đục.
"Ngài có một bạn đồng hành biết suy nghĩ, thưa Chúa công," Gurney nói. "Cám ơn ông, Stilgar."
Stilgar ra hiệu cho người đi cùng trao cái bọc cho Gurney rồi nói: "Cám ơn Công tước của ông thì đúng hơn. Nhờ có ngài chấp thuận mà ông mới được kết nạp vào đây."
Gurney nhận cái bọc, bối rối bởi cái hàm ý khắt khe trong cuộc đối thoại này. Có một vẻ thách thức ở ông ta, và Gurney tự hỏi liệu đó có thể là một cảm giác ghen tị ở người Fremen này không. Đây là một người có tên Gurney Halleck, kẻ từng biết Paul thậm chí từ trước thời Arrakis, người từng chia sẻ với Paul một tình đồng chí keo sơn mà Stilgar không bao giờ có thể xâm phạm được.
"Các ông là hai người mà tôi muốn làm bạn," Paul nói.
"Stilgar, người Fremen, là một cái tên lừng lẫy," Gurney nói. "Bất cứ ai giết bọn Harkonnen, tôi đều sẽ lấy làm vinh hạnh được kể là bạn tôi."
"Ông có bắt tay với Gurney Halleck bạn tôi không, Stilgar?" Paul hỏi.
Chầm chậm, Stilgar chìa tay ra, siết chặt những nốt chai sần trên bàn tay cầm gươm của Gurney. "Ít ai chưa từng nghe tên Gurney Halleck," ông nói, rồi thả lỏng tay ra. Ông ngoảnh lại Paul. "Bão đang ập tới đấy."
"Xuống ngay," Paul nói.
Stilgar quay đi, dẫn họ xuống dưới qua những tảng đá, một lối đi lắt léo nhiều khúc ngoặt đâm vào một khe nứt khuất trong bóng tối dẫn tới cửa hang thấp. Những ngọn đèn cầu soi rõ một khoảng không thoáng đãng có mái vòm, một bên có gờ nhô cao, từ gờ đó có một hành lang dẫn đi nơi khác.
Paul nhảy lên cái gờ, dẫn đường vào hành lang đó, Gurney theo sát đằng sau. Những người khác tiến về phía một hành lang khác đối diện cửa hang. Paul dẫn đường ngang qua phòng đợi, tiến vào một gian phòng mà bốn phía tường treo những bức rèm màu rượu vang sẫm.
"Ở đây chúng ta có thể được chút riêng tư trong chốc lát," Paul nói. "Những người khác sẽ tôn trọng..."
Tiếng chũm chọe cảnh báo ở phòng ngoài kêu lanh lảnh, theo sau là tiếng la hét và vũ khí chạm nhau chan chát. Paul quay ngoắt lại, chạy ngược ra phòng đợi, trèo lên gờ phía trên của sảnh ngoài. Gurney theo sát chàng, vũ khí rút ra khỏi vỏ.
Trên nền hang bên dưới họ là những dáng người xoáy tít vào nhau trong cuộc hỗn chiến. Paul đứng nhận định tình thế trong một thoáng, phân biệt người Fremen với các đối thủ thông qua áo choàng của họ. Các giác quan mà mẹ chàng đã huấn luyện sao cho phát hiện ra những manh mối nhỏ nhất liền nhặt ra được một chi tiết hệ trọng: người Fremen đang đánh lại những người mặc áo choàng của dân buôn lậu, nhưng đám buôn lậu này né đòn theo từng nhóm ba người, khi bị đánh rát thì lui về phòng thủ theo đội hình tam giác.
Thói quen cận chiến đó là dấu hiệu rành rành để phân biệt đội quân Sardaukar của hoàng gia.
Một chiến binh Fedaykin trong đám đánh nhau trông thấy Paul, và tiếng hô chiến trận của anh ta được nâng lên thành tiếng vọng vang khắp căn phòng: "Muad'Dib! Muad'Dib! Muad'Dib!"
Một con mắt khác cũng đã phát hiện ra Paul. Một con dao đen tuyền được ném thẳng cánh vào chàng. Paul lách tránh, nghe tiếng con dao chạm đánh choang vào vách đá sau lưng, chàng liếc lại thì thấy Gurney rút nó ra.
Các nhóm ba người giờ đang bị ép về phía sau.
Gurney giơ con dao lên trước mắt Paul, chỉ vào cái vòng cuộn màu vàng mảnh như sợi tóc mang màu của Đế quốc, chiếc gia huy hình sư tử vàng, những con mắt đa diện trên cái núm tròn ở chuôi dao.
Chắc chắn là Sardaukar.
Paul bước lên mép gờ đá. Chỉ còn sót ba tên Sardaukar. Những đống vải đẫm máu của cả Sardaukar lẫn Fremen lẫn lộn khắp nền phòng.
"Dừng lại!" Paul thét. "Công tước Paul Atreides ra lệnh các người dừng lại!"
Những cặp đánh nhau dao động, ngần ngừ.
"Sardaukar các ngươi!" Paul hét lên với nhóm còn lại. "Các ngươi theo lệnh ai mà dám đe dọa một Công tước đang trị vì?" Và, nhanh như cắt, khi thuộc hạ của chàng bắt đầu sấn lại vây quanh đám Sardaukar: "Dừng lại, ta đã bảo!"
Một trong ba kẻ đang bị dồn vào chân tường thẳng người dậy. "Ai bảo chúng tôi là Sardaukar?"
Paul cầm con dao từ tay Gurney, giơ cao. "Cái này cho biết các ngươi là Sardaukar."
"Vậy ai nói anh là một Công tước đang trị vì?" người đó hỏi.
Paul ra hiệu về phía các chiến binh Fedaykin. "Những người này nói ta là Công tước trị vì. Chính hoàng đế của các ngươi đã trao Arrakis cho Gia tộc Atreides. Ta là Gia tộc Atreides."
Những tên Sardaukar đứng im, bồn chồn.
Paul quan sát kỹ người đó: cao lớn, nét gì cũng nhẵn thín, một vết sẹo bệch bạc hằn ngang má trái. Cơn giận dữ và bối rối lộ rõ trong dáng điệu của y, nhưng ở y vẫn có cái vẻ kiêu hãnh mà nếu thiếu nó thì một chiến binh Sardaukar chẳng khác gì không mặc áo quần, còn nếu có nó thì dẫu trần truồng y vẫn có vẻ như mặc đủ quần áo.
Paul quay sang một trong các sĩ quan Fedaykin của chàng, nói: "Korba, sao họ lại có vũ khí?"
"Chúng giấu dao trong mấy cái túi may rất khéo trên sa phục của chúng," viên sĩ quan nói.
Paul kiểm tra những người chết và bị thương nằm la liệt giữa phòng, rồi lại hướng sự chú ý vào viên sĩ quan. Không cần phải nói gì. Viên sĩ quan cụp mắt xuống.
"Chani đâu?" Paul hỏi, nín thở đợi câu trả lời.
"Stilgar đã bí mật đưa cô ấy tránh ra chỗ khác." Anh ta gật đầu về phía hành lang bên kia, nhìn lại những người chết và bị thương. "Chính tôi chịu trách nhiệm về lỗi lầm này, thưa Muad'Dib."
"Có bao nhiêu tên Sardaukar, Gurney?" Paul hỏi.
"Mười."
Paul nhẹ nhàng nhảy xuống nền phòng, sải bước tiến lại, đứng trong tầm tấn công của tên Sardaukar vừa nói.
Không khí căng thẳng bao trùm đám quân Fedaykin. Họ không thích chàng phơi mình ra trước hiểm nguy như vậy. Đây là điều họ đã thề ngăn chặn, bởi người Fremen muốn giữ gìn sự thông tuệ của Muad'Dib.
Không ngoái lại, Paul nói với sĩ quan của chàng: "Thương vong của chúng ta bao nhiêu?"
"Bốn bị thương, hai chết, thưa Muad'Dib."
Paul thấy có động tĩnh đằng sau tên Sardaukar. Chani và Stilgar đang đứng ở hành lang phía bên kia. Chàng lại chú ý vào nhóm Sardaukar, nhìn chòng chọc vào lòng trắng của thế giới khác trong đôi mắt kẻ phát ngôn. "Ngươi, tên ngươi là gì?"
Gã đàn ông cứng người lại, liếc trái, liếc phải.
"Đừng cố làm thế," Paul nói. "Ta thấy rành rành là các ngươi nhận lệnh truy tìm rồi tiêu diệt Muad'Dib. Ta bảo đảm rằng các ngươi chính là kẻ đã đưa ra ý tìm hương dược trong vùng sa mạc sâu."
Tiếng Gurney thở gấp sau lưng Paul khiến một nụ cười nhạt nở trên môi chàng.
Máu dồn lên mặt tên Sardaukar.
"Kẻ mà ngươi đang thấy trước mặt ngươi không chỉ là Muad'Dib," Paul nói. "Bảy người bọn ngươi đã chết để đổi lấy hai người bọn ta. Ba đổi một. Địch lại Sardaukar thế cũng không tồi, hử?"
Gã đàn ông nhón chân lên, rồi lại hạ xuống khi quân Fedaykin sấn tới.
"Ta hỏi tên ngươi," Paul nói, rồi chàng huy động những tinh vi của Giọng nói: "Nói ta nghe, ngươi tên gì."
"Đại úy Aramsham, Sardaukar Hoàng gia!" y bật ra. Hàm y trễ xuống. Y nhìn Paul chằm chằm, bối rối. Cái dáng điệu của y mà ban nãy khiến cái hang này trở thành một chốn man rợ, giờ đã tan biến.
"Được rồi, đại úy Aramsham," Paul nói. "Nhà Harkonnen sẽ trả giá cao để biết được điều mà lúc này anh biết. Còn Hoàng đế, ông ta sẽ không từ cái gì để biết được rằng một người của gia tộc Atreides hiện vẫn sống mặc cho sự phản bội của ông ta."
Viên đại úy liếc trái, liếc phải về phía hai người còn lại bên y. Paul hầu như thấy được những ý nghĩ đang quay cuồng trong đầu kẻ này. Quân Sardaukar không đầu hàng, nhưng Hoàng đế phải biết về mối đe dọa này.
Vẫn sử dụng Giọng nói, Paul nói: "Hàng đi, Đại úy."
Người đứng ở bên trái viên đại úy bất ngờ nhảy phóc về phía Paul, nhưng liền lãnh trọn vào giữa ngực mũi dao nhanh như cắt của chính kẻ chỉ huy hắn. Kẻ tấn công ngã vật xuống sàn như một đống thịt đầy nước, mũi dao vẫn còn cắm trên người.
Viên đại úy đối mặt với kẻ đồng hành duy nhất còn lại. "Tôi là kẻ quyết định làm gì để phụng sự tốt nhất cho Hoàng thượng," y nói. "Hiểu chưa?"
Vai tên Sardaukar kia rũ xuống.
"Hạ vũ khí xuống," đại úy nói.
Tên Sardaukar tuân lời.
Viên đại úy quay lại về phía Paul. "Tôi đã giết một người bạn vì ngài," y nói. "Chúng ta hãy luôn nhớ điều đó."
"Các ngươi là tù binh của ta," Paul nói. "Các ngươi đã đầu hàng ta. Các ngươi sống hay chết không quan trọng." Chàng ra hiệu cho vệ sĩ đưa hai tên Sardaukar đi, ra dấu cho viên sĩ quan trước đó đã lục soát các tù nhân.
Các vệ sĩ tiến vào, đẩy hai tên Sardaukar đi.
Paul nghiêng người về phía viên sĩ quan Fedaykin.
"Muad'Dib," anh ta nói. "Tôi đã làm ngài thất vọng vì..."
"Lỗi do ta, Korba ạ," Paul nói. "Lẽ ra ta nên cảnh báo anh phải tìm cái gì. Sau này, mỗi khi khám xét quân Sardaukar, hãy nhớ điều này. Cũng hãy nhớ rằng mỗi tên đều có một, hai cái móng chân giả có thể kết hợp với các thứ bí mật khác giấu trong người chúng để làm thành một máy phát tín hiệu hiệu quả. Chúng sẽ có nhiều cái răng giả chứ không chỉ một. Chúng mang những vòng shigaware trong tóc, mảnh đến độ anh khó mà phát hiện được, nhưng vẫn đủ chắc để thắt cổ một người cho đến khi cứa đứt đầu. Với bọn Sardaukar, anh phải rà soát từng li từng tí một - cả bằng tia phản xạ lẫn tia cường độ mạnh - phải chẻ từng mẩu lông mẩu tóc ra. Mà ngay cả khi đã khám xét tận chân lông kẽ tóc như vậy rồi, hãy tin chắc rằng anh vẫn chưa phát hiện được tất cả mọi thứ."
Chàng ngước nhìn Gurney, ông đã lại gần để nghe.
"Thế thì tốt nhất là giết quách chúng đi," viên đại úy nói.
Paul lắc đầu, mắt vẫn nhìn Gurney. "Không, tôi muốn họ thoát."
Gurney nhìn chàng chằm chặp. "Chúa công..." Ông thở ra.
"Sao?"
"Người của ngài nói đúng đấy. Hãy giết ngay các tù binh kia. Tiêu hủy mọi bằng chứng về chúng. Ngài đã làm nhục quân Sardaukar của Hoàng gia! Khi Hoàng đế biết được điều đó, ông ta sẽ ăn không ngon ngủ không yên chừng nào chưa nướng ngài chín từ từ trên ngọn lửa liu riu."
"Hoàng đế hẳn không đủ sức làm vậy với ta đâu," Paul nói. Chàng nói chậm rãi, lạnh lùng. Có cái gì đó đã xảy ra bên trong chàng trong khi chàng đối mặt với quân Sardaukar. Một tổng số của nhiều quyết định đã tích lũy lại trong ý thức chàng. "Gurney," chàng nói, "có bao nhiêu người của Hiệp hội xung quanh Rabban?"
Gurney thẳng người lên, mắt nheo lại. "Câu hỏi của ngài không..."
"Có không?" Paul gắt.
"Arrakis đầy nhóc gián điệp của Hiệp hội. Họ lùng mua hương dược như thể nó là thứ quý nhất trong cả vũ trụ. Chứ ngài nghĩ vì lý do nào khác mà chúng tôi liều đi xa đến nhường này để..."
"Nó chính là thứ quý nhất trong toàn vũ trụ," Paul nói. "Với họ."
Chàng nhìn về phía Stilgar và Chani lúc này đang băng qua phòng tiến về phía chàng. "Và chúng ta làm chủ nó, Gurney ạ."
"Bọn Harkonnen mới làm chủ nó!" Gurney phản đối.
"Kẻ nào có thể hủy diệt một thứ, kẻ đó là người làm chủ nó," Paul nói. Chàng phẩy tay để Gurney thôi đừng bình luận gì nữa, rồi gật đầu với Stilgar lúc này đã đứng trước mặt chàng, bên cạnh là Chani.
Paul cầm con dao Sardaukar bằng tay trái, chìa ra cho Stilgar. "Ông sống vì lợi ích của bộ tộc," Paul nói. "Ông có thể lấy máu cuộc sống của ta bằng con dao đó không?"
"Vì lợi ích của bộ tộc," Stilgar lầm bầm.
"Vậy hãy dùng con dao đó," Paul nói.
"Anh đang thách đấu tôi đấy à?" Stilgar hỏi.
"Nếu làm vậy, ta sẽ đứng đó, không vũ khí, để mặc cho ông giết ta."
Stilgar hít một hơi gấp gáp.
Chani nói: "Usul!" rồi liếc sang Gurney, lại nhìn Paul.
Trong khi Stilgar vẫn còn cân nhắc lời mình, Paul nói: "Ông là Stilgar, một chiến binh. Khi quân Sardaukar bắt đầu đánh nhau ở đây, ông không ở hàng đầu cuộc chiến. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bảo vệ Chani."
"Nó là cháu tôi," Stilgar nói. "Nếu như tôi có chút hoài nghi gì về chuyện quân Fedaykin của ngài xử bầy cặn bã đó..."
"Tại sao ông nghĩ tới Chani trước hết?" Paul hỏi gặng.
"Không phải về nó."
"Ồ?"
"Mà về anh," Stilgar thú nhận.
"Ông có nghĩ mình có thể động thủ chống lại ta không?" Paul hỏi.
Stilgar bắt đầu run rẩy. "Đó là phong tục," ông lẩm bẩm.
"Phong tục là giết chết những kẻ lạ từ thế giới khác đến mà ta gặp trong sa mạc, lấy nước của họ như một món quà của Shai-hulud," Paul nói. "Thế nhưng một đêm nọ ông đã cho phép hai kẻ như vậy sống, mẹ ta và ta."
Trong khi Stilgar vẫn nhìn chàng trân trân, lặng thinh, rúng động, Paul nói: "Phong tục có thể thay đổi đấy, Stil ạ. Chính ông đã thay đổi chúng."
Stilgar nhìn xuống cái biểu tượng màu vàng trên con dao đang cầm trên tay.
"Khi ta là Công tước ở Arrakeen với Chani bên cạnh, ông nghĩ ta sẽ vẫn có thời gian để quan tâm tới từng chi tiết nhỏ trong việc cai quản sietch Tabr sao?" Paul hỏi. "Bản thân ông có quan tâm tới những vấn đề nội bộ trong từng gia đình không?"
Stilgar vẫn nhìn con dao chăm chăm.
"Ông nghĩ rằng ta muốn chặt cánh tay phải của ta sao?" Paul hỏi.
Chầm chậm, Stilgar ngước lên nhìn chàng.
"Ông!" Paul nói. "Ông nghĩ rằng ta muốn tước mất của chính ta hay của bộ tộc ta tài trí và sức mạnh của ông sao?"
Stilgar khẽ nói: "Chàng trai của bộ tộc tôi mà tôi biết rõ tên, chàng trai đó tôi có thể giết trên sàn thách đấu, ấy là ý của Shai-hulud. Còn Lisan al-Ghaib, người đó tôi không làm hại được. Ngài đã biết điều đó khi trao con dao này cho tôi."
"Ta biết," Paul tán thành.
Stilgar xòe bàn tay ra. Con dao rơi đánh cách xuống sàn đá. "Phong tục có thể thay đổi," ông nói.
"Chani," Paul nói. "Hãy đến chỗ mẹ anh, dẫn người tới đây để ta có lời khuyên của người trong..."
"Nhưng anh đã nói chúng ta sẽ đi về phía Nam," nàng phản đối.
"Anh đã lầm," chàng nói. "Bọn Harkonnen không có ở đó. Cuộc chiến không ở đó."
Nàng hít một hơi sâu, chấp nhận điều đó như một phụ nữ sa mạc chấp nhận mọi điều thiết yếu giữa một cuộc sống song hành cùng cái chết.
"Em hãy cho mẹ ta biết một thông điệp, chỉ riêng bà thôi." Paul nói. "Bảo bà rằng Stilgar thừa nhận anh là Công tước Arrakis, nhưng phải tìm được cách nào đó sao cho đám thanh niên chấp nhận điều này mà không giao chiến."
Chani liếc nhìn Stilgar.
"Làm như anh ấy nói đi," ông lẩm bẩm. "Hai chúng ta đều biết anh ấy có thể đánh bại ta... và ta không thể động thủ chống lại anh ấy... vì lợi ích của bộ tộc."
"Em sẽ cùng mẹ quay lại đây," Chani nói.
"Mời mẹ anh tới," Paul nói. "Bản năng của Stilgar đúng đấy. Khi em được an toàn thì anh mạnh mẽ hơn. Em sẽ ở lại trong sietch."
Nàng toan phản đối, nhưng kìm lại.
"Sihaya," Paul nói, dùng cái tên thân mật với nàng. Chàng quay ngoắt về bên phải, bắt gặp ánh mắt trừng trừng của Gurney.
Cuộc trao đổi giữa Paul với người Fremen lớn tuổi hơn như thể đã trôi trong một làn sương bao quanh Gurney từ khi Paul nhắc tới mẹ chàng.
"Mẹ ngài," Gurney nói.
"Idaho đã cứu mẹ con ta trong cái đêm bị địch đột kích," Paul nói, còn lơ đãng vì chia tay với Chani. "Ngay bây giờ chúng ta đã..."
"Duncan Idaho thì sao, thưa Chúa công?" Gurney hỏi.
"Anh ấy chết rồi, đổi lấy chút thì giờ cho mẹ con ta thoát."
Mụ phù thủy vẫn sống! Gurney nghĩ. Kẻ mà ta thề báo thù, vẫn sống! Và rõ ràng Công tước Paul không biết cái thứ sinh vật gì đã đẻ ngài ra. Con mụ quái ác! Bán đứng chính phụ thân Công tước cho bọn Harkonnen!
Paul bước qua trước mặt ông, nhảy lên gờ đá. Chàng ngoái lại, nhận thấy những người chết và bị thương đã được đưa đi, và chàng cay đắng nghĩ rằng ở đây lại có thêm một chương trong truyền thuyết về Paul Muad'Dib. Thậm chí ta không hề rút dao ra, nhưng người ta sẽ nói ngày hôm nay một tay ta đã giết hai mươi tên Sardaukar.
Gurney bám theo cùng Stilgar, bước đi trên cái mặt sàn mà thậm chí ông không cảm thấy. Cái hang với ánh sáng đèn cầu màu vàng này đã bị cơn phẫn nộ gạt phăng ra khỏi ý nghĩ của ông. Mụ phù thủy vẫn sống trong khi những kẻ bị mụ phản bội chỉ còn là nắm xương trong những nấm mồ đơn chiếc. Ta phải tính cách sao cho Paul biết được sự thật về mụ trước khi ta giết mụ.
Thường hay có chuyện cơn thịnh nộ của kẻ đang giận dữ phủ nhận những gì mà bản ngã nội tại của anh ta đang nói với anh ta.
- "Tuyển Dụ ngôn của Muad'Dib" của Công chúa Irulan
Đám đông trong phòng họp của hang toát ra cái cảm giác bầy đàn mà Jessica đã cảm thấy vào hôm Paul giết chết Jamis. Có sự bồn chồn trong những giọng thì thầm. Từng nhóm nhỏ tụ lại như các điểm nút giữa những bộ áo choàng.
Jessica nhét một cái hộp hình trụ chứa thư vào dưới áo choàng khi từ khu nhà riêng của Paul tiến ra chỗ gờ đá. Bà cảm thấy thư thái sau chuyến đi dài từ phía Nam về, nhưng vẫn day dứt bởi Paul vẫn chưa cho phép họ dùng các tàu chim bị tịch thu.
"Chúng ta không hoàn toàn kiểm soát được bầu trời," chàng đã nói. "Và nữa, chúng ta không được trở nên phụ thuộc vào nhiên liệu từ thế giới ngoài. Cả nhiên liệu lẫn tàu, chúng ta đều phải thu thập và giữ lại cho tới cái ngày cần huy động tối đa."
Paul đứng cùng một nhóm thanh niên trẻ hơn gần chỗ gờ đá. Ánh đèn cầu nhợt nhạt khiến cho quang cảnh nhuốm chút gì đó không thực. Nó như một bức tranh, song là bức tranh được bồi thêm kích thước của mùi hang trong lòng đất, những tiếng thì thầm, tiếng bước chân qua lại.
Bà quan sát kỹ con trai, tự hỏi tại sao nó vẫn chưa trưng ra cho mọi người thấy cái sẽ khiến họ ngạc nhiên - Gurney Halleck. Ý nghĩ về Gurney khiến lòng bà xáo động bởi những ký ức về một quá khứ thanh thản hơn, những ngày tràn ngập tình yêu và cái đẹp bên người cha của Paul.
Stilgar đợi cùng một nhóm thuộc hạ của mình nơi đầu kia gờ đá. Có một vẻ đường hoàng như vẫn luôn thấy ở ông, ở cách ông đứng mà không trò chuyện với ai.
Chúng ta không thể mất người đó được, Jessica nghĩ. Kế hoạch của Paul phải thực hiện được. Bất cứ điều gì khác đều sẽ là bi kịch khủng khiếp.
Bà sải bước dọc gờ đá, ngang qua trước mặt Stilgar mà không nhìn ông, bước xuống đám đông. Người ta mở lối cho bà khi bà tiến tới chỗ Paul. Và theo gót bà là sự im lặng.
Bà biết ý nghĩa của sự im lặng đó - những câu hỏi không được nói ra của đám đông, nỗi kính sợ Mẹ Chí tôn.
Đám thanh niên lùi lại khỏi Paul khi bà lại gần chàng, và trong khoảnh khắc bà thấy mình mất hết tinh thần khi nhận thấy sự tôn kính mới mẻ này của họ đối với Paul. "Tất cả những ai nằm dưới vị trí của mi đều thèm địa vị của mi," châm ngôn Bene Gesserit nói vậy. Nhưng bà không thấy sự thèm thuồng nào ở những khuôn mặt đó. Họ được giữ cách xa một quãng bởi nỗi kích động mang tính tôn giáo xung quanh địa vị thủ lĩnh của Paul. Và bà nhớ lại một châm ngôn Bene Gesserit khác: "Các nhà tiên tri có một cách để chết do bạo lực."
Paul nhìn bà.
"Đến lúc rồi," bà nói, rồi trao cho chàng hộp trụ mang thư.
Một trong các chiến hữu của Paul, táo bạo hơn những người khác, liếc ngang về phía Stilgar, nói: "Người có thách đấu ông ta không, Muad'Dib? Chắc chắn giờ đã đến lúc rồi. Người ta sẽ nghĩ người là tên hèn nhát nếu..."
"Ai dám gọi ta là tên hèn nhát?" Paul hỏi. Nhanh như chớp, bàn tay chàng tìm đến cán dao.
Im lặng như tờ trùm xuống toán người, lan ra đám đông.
"Có việc cần phải làm," Paul nói trong khi người kia lùi khỏi chàng. Paul quay đi, len qua đám đông tiến về phía gờ đá, nhẹ nhàng nhảy lên đối diện với đám đông.
"Làm đi!" ai đó thét to.
Những tiếng lẩm bẩm thì thầm dậy lên đằng sau tiếng thét đó.
Paul chờ sự im lặng. Nó đến từ từ, giữa những tiếng chân xê dịch và tiếng ho rải rác. Khi trong hang đã yên lặng, Paul hất cằm, nói bằng một giọng vang đến tận những góc xa nhất.
"Các người đã mệt mỏi vì chờ đợi," Paul nói.
Một lần nữa, chàng đợi cho đến khi những tiếng thét đáp lại lặng đi.
Quả thật họ đã mệt mỏi vì chờ đợi, Paul nghĩ. Chàng nhấc chiếc hộp trụ đựng thư lên, nghĩ về cái đựng bên trong nó. Mẹ chàng đã đưa nó cho chàng xem, giải thích rằng nó đã được lấy từ một kẻ đưa thư Harkonnen.
Thông điệp rất rõ ràng: Rabban đang bị bỏ rơi, bị để mặc cho xoay xở một mình ở Arrakis này! Hắn không thể kêu ai giúp đỡ hay cứu viện!
Một lần nữa, Paul cất cao giọng: "Các người nghĩ đã đến lúc ta thách đấu Stilgar và thay đổi quyền lãnh đạo bộ tộc!" Họ chưa kịp trả lời thì Paul đã quát lên với họ đầy giận dữ: "Các người nghĩ Lisan al-Ghaib ngu xuẩn đến thế sao?"
Im lặng sững sờ bao trùm.
Nó đang chấp nhận cái biểu tượng tôn giáo, Jessica nghĩ. Nó không được làm vậy!
"Phong tục là thế!" ai đó la to.
Paul nói khô khan, thăm dò những cảm xúc ngấm ngầm ở đám đông. "Phong tục có thể thay đổi."
Một giọng giận dữ cất lên từ góc hang: "Chúng tôi mới có quyền nói cái gì thay đổi!"
Đây đó trong đám đông vang lên tiếng hò la tán thành.
"Tùy các người," Paul nói.
Và Jessica nghe thấy những ngữ điệu trầm bổng tinh tế khi chàng sử dụng quyền lực của Giọng nói mà bà đã dạy chàng.
"Các người sẽ nói," chàng đồng ý. "Nhưng trước hết các người phải nghe ta nói."
Stilgar đi dọc theo gờ đá, bộ mặt râu ria lộ vẻ bình thản. "Đó cũng là phong tục," ông lên tiếng. "Tiếng nói của bất cứ người Fremen nào cũng được lắng nghe ở Hội đồng. Paul Muad'Dib là người Fremen."
"Lợi ích của bộ tộc, đó là điều quan trọng nhất, phải không?" Paul hỏi.
Cũng bằng giọng đều đều điềm nhiên, Stilgar nói: "Bước đi của chúng ta được dẫn dắt bằng cách đó."
"Được," Paul nói. "Vậy thì, ai cai trị chúng dân bộ tộc chúng ta, ai cai trị mọi bộ tộc và mọi đội quân bằng những chiến thuật mà chúng ta đã rèn luyện theo phương pháp huyền thuật?"
Paul đợi, nhìn khắp trên đầu đám đông. Không có tiếng trả lời.
Ngay sau đó, chàng nói: "Có phải Stilgar cai trị tất cả không? Chính ông nói là không phải thế. Ta cai trị ư? Kể cả Stilgar cũng có lúc vâng lệnh ta, và các nhà hiền triết, thông thái nhất trong những người thông thái cũng lắng nghe ta và kính trọng ta ở Hội đồng."
Đám đông im lặng, rục rịch bồn chồn.
"Vậy đó," Paul nói. "Mẹ ta có cai trị không?" Chàng chỉ xuống Jessica đứng giữa đám đông, mặc áo choàng nghi lễ màu đen. "Hầu như trong mọi quyết định hệ trọng Stilgar và mọi thủ lĩnh khác của bộ tộc đều xin lời khuyên của bà. Các người biết điều đó. Nhưng Mẹ Chí tôn có cưỡi cát hay cầm đầu một cuộc razzia chống lại bọn Harkonnen không?"
Những nét cau mày hằn lên trán đám người nằm trong tầm mắt Paul, nhưng vẫn có những tiếng thì thầm giận dữ.
Làm cách này nguy hiểm quá, Jessica nghĩ, nhưng bà nhớ lại chiếc hộp trụ đựng thư cùng ý nghĩa bao hàm trong nó. Và bà nhận ra ý định của Paul: tiến thẳng đến tận đáy sâu tính không kiên định của họ, sử dụng nó, rồi mọi chuyện khác tự khắc phải đi theo.
"Không ai công nhận kẻ làm thủ lĩnh nếu không thử thách và không quyết đấu, phải không?" Paul hỏi.
"Phong tục là vậy!" ai đó hét.
"Mục đích của chúng ta là gì?" Paul hỏi. "Lật đổ Rabban, con thú dữ Harkonnen, và tái tạo thế giới của chúng ta thành nơi chúng ta có thể nuôi gia đình mình trong hạnh phúc giữa cơ man nào là nước - có phải đó là mục đích của chúng ta?"
"Nhiệm vụ nặng nề thì cần những cách thức nặng nề," ai đó hét.
"Các người có đập nát con dao của mình trước một trận đánh không?" Paul hỏi vặn. "Ta nói điều này như một thực tế, chẳng hề có ý khoe khoang hay thách thức: không một ai ở đây, kể cả Stilgar, có thể địch được với ta trong một cuộc đấu tay đôi. Chính Stilgar thừa nhận như vậy. Ông ta biết điều đó, các người cũng biết."
Một lần nữa, những tiếng thì thầm giận dữ dậy lên từ đám đông.
"Nhiều người trong các người từng đấu tập với ta," Paul nói. "Các người biết đây chẳng phải khoe hão. Ta nói vậy vì đó là một thực tế ai cũng biết, và nếu chính ta không nhận thấy thì ta là kẻ thậm ngu. Ta bắt đầu rèn luyện theo những phương pháp đó sớm hơn các người, và thầy dạy ta là những kẻ dạn dày hơn bất cứ ai các người từng gặp. Các người thử nghĩ xem, nếu không vậy thì làm sao ta thắng được Jamis khi ta ở độ tuổi mà con trai các người vẫn chỉ đang đánh trận giả?"
Nó dùng Giọng nói khá tốt, Jessica nghĩ, nhưng với những người này thì chừng đó chưa đủ. Họ có độ cách ly khá tốt chống lại sự khống chế thông qua âm thanh. Nó còn phải chinh phục họ bằng cả logic nữa.
"Vậy nên chúng ta đi đến điều này," Paul nói. Chàng nhấc hộp trụ đựng thư lên, rút mẩu băng trong đó ra. "Cái này được lấy từ một người đưa tin của Harkonnen. Độ trung thực của nó không cần bàn cãi. Nó được gửi cho Rabban. Thư này bảo hắn rằng yêu cầu gửi thêm quân của hắn bị bác bỏ, rằng lượng thu hoạch hương dược của hắn quá thấp so với hạn ngạch, rằng hắn phải moi được nhiều hương dược hơn từ Arrakis với số người hắn đang có."
Stilgar tiến lên cạnh Paul.
"Bao nhiêu người trong các người hiểu ra điều này có nghĩa gì?" Paul hỏi. "Stilgar nhận ra ngay lập tức đấy."
"Chúng đã bị bỏ mặc!" ai đó hét.
Paul nhét bức thư cùng hộp đựng vào khăn thắt lưng. Chàng lôi từ trong cổ ra một sợi dây bện shigawire, rồi tháo một chiếc nhẫn ra khỏi dây, giơ nó lên cao.
"Đây từng là ấn công tước của cha ta," chàng nói. "Ta đã thề không bao giờ mang nó chừng nào ta chưa sẵn sàng dẫn dắt đoàn quân của ta đi khắp Arrakis đòi lại mảnh đất này như thái ấp hợp pháp của ta." Chàng đeo nhẫn vào ngón tay rồi siết chặt nắm tay lại.
Trong hang im phăng phắc.
"Ai cai trị ở đây?" Paul hỏi. Chàng giơ nắm đấm lên. "Ta cai trị ở đây! Ta cai trị trên từng phân vuông xứ Arrakis này! Đây là thái ấp mà ta được hưởng, dù Hoàng đế có đồng ý hay không! Ngài đã trao nó cho cha ta, và thông qua cha ta, nó thuộc về ta."
Paul nhón chân lên rồi lại hạ gót chân xuống. Chàng quan sát kỹ đám đông, cảm nhận được tâm trạng của họ.
Hầu như được, chàng nghĩ.
"Nơi đây có những người sẽ nắm giữ vị trí quan trọng ở Arrakis khi ta đòi được các quyền lợi thuộc Đế quốc mà vốn dĩ là của ta," Paul nói. "Stilgar là một trong những người đó. Chẳng phải vì ta muốn mua chuộc ông ta! Cũng chẳng phải vì biết ơn, mặc dù ta là một trong số nhiều người ở đây nợ ơn cứu mạng của ông ta. Không! Mà vì ông ta là người thông thái và mạnh mẽ. Bởi ông ta cai quản dân chúng bằng trí thông minh của chính mình chứ không chỉ bằng luật lệ. Các người nghĩ ta ngu ngốc sao? Các người nghĩ ta sẽ cắt đứt cánh tay phải ta rồi ném cánh tay đang ròng ròng chảy máu đó xuống nền hang này chỉ để cho các người xem một trò xiếc hay sao?"
Paul quét một cái nhìn khắc nghiệt khắp đám đông. "Ai ở đây nói ta không phải người cai trị hợp pháp ở Arrakis? Ta phải chứng minh điều đó bằng cách khiến cho mỗi bộ tộc Fremen ở vùng erg này đều không có người lãnh đạo hay sao?"
Bên cạnh Paul, Stilgar động đậy, nhìn chàng với vẻ dò hỏi.
"Ta sẽ làm cho sức mạnh của chúng ta giảm sút trong khi chúng ta đang cần nó nhất ư?" Paul hỏi. "Ta là thủ lĩnh của các người, và ta bảo các người rằng đã đến lúc chấm dứt việc giết những người giỏi nhất của chúng ta mà hãy bắt đầu giết kẻ thù đích thực của chúng ta - bọn Harkonnen!"
Bằng một cử động nhanh đến khó nhìn thấy được, Stilgar rút dao pha lê của mình ra, chĩa lên trên đầu đám đông. "Công tước Paul Muad'Dib muôn năm!" ông thét.
Một tiếng gầm đinh tai nhức óc vang lên ngợp cả hang, vang qua vọng lại. Người ta gào, người ta hô theo nhịp: "Ya hya chouhada! Muad'Dib! Muad'Dib! Muad'Dib! Ya hya chuhada!"
Jessica tự dịch lại cho mình: "Các chiến binh của Muad'Dib muôn năm!" Cái quang cảnh mà nàng cùng Paul và Stilgar bày mưu tính kế với nhau đã diễn ra đúng như dự tính.
Cảnh ồn ào náo động mãi hồi lâu mới lặng đi.
Khi im lặng được vãn hồi, Paul đối mặt Stilgar, nói: "Quỳ xuống, Stilgar."
Stilgar quỳ sụp trên gờ đá.
"Đưa dao pha lê cho ta," Paul nói.
Stilgar tuân lời.
Cái này thì chúng ta không sắp đặt trước, Jessica nghĩ.
"Lặp lại theo ta, Stilgar," Paul nói, rồi chàng nhớ lại những lời trong lễ tấn phong mà chàng từng nghe cha chàng sử dụng. "Tôi, Stilgar, nhận con dao này từ tay Công tước của tôi."
"Tôi, Stilgar, nhận con dao này từ tay Công tước của tôi," Stilgar nói, rồi tiếp nhận con dao màu trắng sữa từ tay Paul.
"Công tước của tôi hạ lệnh đặt ở đâu, tôi sẽ đặt lưỡi dao tôi ở đó," Paul nói.
Stilgar lặp lại những lời đó, chậm rãi và trang trọng.
Nhớ lại nguồn gốc của nghi lễ này, Jessica vừa cố kìm nước mắt vừa lắc đầu. Ta biết lý do phải làm thế này, bà nghĩ. Ta không được để nó làm xáo động ta.
"Tôi dâng lưỡi dao này cho sự nghiệp của Chúa công tôi và cho cái chết của kẻ thù Người chừng nào máu chúng ta còn chảy," Paul nói.
Stilgar lặp lại theo chàng.
"Hôn dao đi," Paul ra lệnh.
Stilgar vâng lời, rồi theo cung cách Fremen, hôn cánh tay cầm dao của Paul. Sau cái gật đầu của Paul, ông đút dao vào bao rồi đứng dậy.
Một tiếng thở dài kính sợ khe khẽ lan khắp đám đông, và Jessica nghe thấy những câu nói: "Lời tiên tri - Một Bene Gesserit sẽ chỉ ra con đường và một Mẹ Chí tôn sẽ nhìn thấy nó." Và, từ xa hơn nữa: "Người chỉ đường cho ta qua con trai Người!"
"Stilgar dẫn dắt bộ tộc này," Paul nói. "Chớ để ai lầm lẫn về điều đó. Ông ấy hạ lệnh bằng giọng của ta. Ông ấy bảo các người điều gì, đó cũng như chính ta bảo các người."
Thông minh lắm, Jessica nghĩ. Người cai quản bộ tộc không thể bị mất mặt trước những người sẽ phải tuân lệnh anh ta.
Paul hạ giọng, nói: "Stilgar, ta muốn ông cho những sa hành giả lên đường đêm nay và cử cielago đi triệu tập họp Hội đồng. Xong xuôi thì hãy chọn lấy Chatt, Korba và Otheym cùng hai sĩ quan khác tùy ý ông. Đưa họ đến nhà ta bàn kế hoạch tác chiến. Chúng ta phải có một chiến thắng để cho Hội đồng thủ lĩnh thấy khi họ tới."
Paul gật đầu về phía mẹ, ra hiệu cho bà đi theo chàng, rồi dẫn lối bước xuống khỏi gờ đá, len qua đám đông về phía hành lang trung tâm và khu phòng khách đã được chuẩn bị sẵn ở đó. Khi Paul xuyên qua đám đông, những bàn tay chìa ra để chạm vào chàng. Những giọng nói gọi chàng.
"Stilgar ra lệnh cho con dao của tôi đi đâu, nó sẽ đi đến đấy, hỡi Muad'Dib! Hãy cho chúng tôi sớm được chiến đấu, Paul Muad'Dib! Hãy để chúng tôi tắm máu Harkonnen cho mảnh đất quê ta!"
Cảm nhận được tâm trạng của đám đông, Jessica nhận ra khía cạnh chiến đấu của những con người này. Họ chưa bao giờ sẵn sàng hơn thế. Chúng ta đang chiếm lĩnh họ giữa lúc họ đang lên tới đỉnh điểm, bà nghĩ.
Ở phòng trong, Paul đang ra hiệu cho mẹ ngồi xuống, rồi nói: "Mẹ đợi đây nhé." Rồi chàng cúi người chui qua rèm đi ra hành lang bên.
Nó sẽ dẫn Gurney Halleck lại đây, bà nghĩ. Và bà kinh ngạc trước sự lẫn lộn cảm xúc kỳ lạ đang chiếm lĩnh mình. Gurney và âm nhạc của ông từng là một phần của biết bao thời khắc an lạc trên Caladan trước khi họ chuyển tới Arrakis. Bà cảm thấy quá khứ trước kia ở Caladan đã xảy ra với một người nào khác. Trong gần ba năm từ đó đến nay, bà đã trở thành một người khác. Việc phải đối mặt với Gurney buộc bà phải nhìn nhận lại những gì đã đổi thay.
Bộ ấm chén cà phê của Paul, làm bằng hợp kim từ bạc và jasmium có khắc rãnh mà chàng đã thừa hưởng từ Jamis, đặt trên một chiếc bàn thấp bên phải bà. Bà đăm đăm nhìn nó, nghĩ đến việc bao nhiêu bàn tay đã chạm vào thứ kim loại đó. Chani đã dùng nó để phục vụ Paul trong tháng qua.
Người đàn bà sa mạc của nó có thể làm gì cho một Công tước ngoài việc dâng cà phê cho nó? bà tự hỏi. Cô ta chẳng mang lại gì cho nó, quyền lực không, gia đình không. Paul chỉ có một cơ hội chính yếu duy nhất - tự mình kết thông gia với một Đại Gia tộc quyền lực, thậm chí với Hoàng gia. Nói gì thì nói, vẫn có nhiều công nương có thể kết hôn được, và mỗi người trong số đó đều được huấn luyện theo phương pháp Bene Gesserit.
Jessica tự hình dung mình đang rời bỏ cuộc sống khắc nghiệt của Arrakis để chuyển sang cuộc sống uy quyền và an toàn mà bà có thể biết tới với tư cách mẹ chồng của một công chúa. Bà vừa nhìn những tấm rèm dày che vách đá của căn buồng trong hang này vừa nghĩ bằng cách nào mình đã đến đây - cưỡi trên sâu cát giữa một bầy sâu cát, những chiếc kiệu và bệ chứa hàng chất cao ngất ngưởng những thứ nhu yếu cần thiết cho chiến dịch sắp diễn ra.
Chừng nào Chani còn sống, Paul còn chưa nhìn thấy nghĩa vụ của nó, Jessica nghĩ. Chani đã cho nó một đứa con trai, vậy là đủ.
Đột nhiên bà cảm thấy khao khát muốn nhìn thấy thằng cháu trai, đứa trẻ mang quá nhiều nét giống Leto, ông nội nó. Jessica ép chặt lòng bàn tay lên hai má, bắt đầu thở theo nghi thức để làm dịu cảm xúc và thanh lọc tâm trí, rồi cúi thân trên về phía trước trong bài tập cầu nguyện nhằm chuẩn bị thân thể cho những yêu cầu của tâm thức.
Việc Paul chọn Hang Chim làm đại bản doanh không có gì phải bàn, bà biết. Nơi này thật lý tưởng. Vả lại về phía Bắc là Đèo Gió, dẫn vào một ngôi làng được bảo vệ nằm giữa một sink bốn bề toàn vách đá. Đó là một làng then chốt, nơi ở của những thợ thủ công và kỹ thuật viên, trung tâm bảo trì cho toàn bộ quân khu phòng vệ của Harkonnen.
Một tiếng ho vang lên ngoài rèm. Jessica thẳng người lên, hít một hơi sâu, chầm chậm thở ra.
"Vào đi," bà nói.
Những tấm trướng được vạch ra và Gurney Halleck nhảy thoắt vào. Bà chỉ kịp thoáng thấy mặt ông với nét cau có kỳ lạ, rồi ông đã ở sau lưng bà, luồn một cánh tay rắn chắc vào dưới cằm bà, nhấc bà đứng dậy.
"Gurney, đồ ngốc, ông làm cái gì vậy?" bà hỏi.
Rồi bà cảm thấy mũi dao chạm vào lưng mình. Nhận thức lạnh toát tỏa ra từ mũi dao ấy. Ngay tại khoảnh khắc đó bà hiểu ra Gurney muốn giết bà. Tại sao? Bà không nghĩ ra được lý do nào, bởi ông không phải hạng người từ trung thành chuyển sang phản bội. Nhưng bà không nghi ngờ gì về ý định của ông. Đã biết điều đó, tâm trí bà rúng động. Đây chẳng phải một kẻ có thể dễ dàng khuất phục. Đây là một kẻ giết người biết cảnh giác trước Giọng nói, cảnh giác về mọi mưu mẹo giao chiến, mọi thủ đoạn chết chóc và bạo lực. Đây là một công cụ mà chính bà đã góp phần huấn luyện bằng những gợi ý và ám chỉ tinh vi.
"Mụ tưởng mụ có thể thoát được hử, đồ phù thủy?" Gurney gầm gừ.
Bà chưa kịp đắn đo suy nghĩ về câu hỏi đó hoặc cố trả lời thì rèm đã bị vẹt ra và Paul bước vào.
"Ông ấy đây rồi, thưa m..." Paul ngừng bặt, nhận ra sự căng thẳng trong cảnh tượng trước mắt.
"Chúa công đang đứng ở đâu thì xin hãy đứng nguyên ở đấy," Gurney nói.
"Cái gì..." Paul lắc đầu.
Jessica định nói thì cảm thấy cánh tay kia bóp mạnh vào cổ họng bà.
"Mụ chỉ được nói khi ta cho phép thôi, đồ phù thủy," Gurney nói. "Ta muốn mụ chỉ nói một điều duy nhất cho con trai mụ nghe, và ta đã sẵn sàng đưa con dao này vào tim mụ theo phản xạ ngay khi có dấu hiệu cho thấy mụ muốn chống lại ta. Giọng của mụ sẽ chỉ được đều đều, không âm sắc. Mụ không được làm căng hay cử động một số cơ. Mụ sẽ phải hành động cực kỳ cẩn trọng để may ra còn sống thêm được vài giây nữa. Và ta cam đoan với mụ, mụ chỉ có chừng đó thôi."
Paul tiến tới một bước. "Gurney, ông bạn, cái gì..."
"Đứng yên tại chỗ," Gurney ngắt lời. "Tiến thêm bước nữa là mụ ta sẽ chết."
Bàn tay Paul luồn xuống chuôi dao. Chàng nói bằng giọng cực kỳ bình thản: "Tốt nhất là chính thầy hãy giải thích, Gurney ạ."
"Tôi đã thề lấy mạng kẻ phản bội phụ thân của Chúa công," Gurney nói. "Ngài nghĩ tôi có thể quên người đã cứu mạng tôi từ một hầm nô lệ Harkonnen, cho tôi tự do, cuộc sống và danh dự... cho tôi tình bạn, điều khiến tôi tự hào hơn hết thảy sao? Tôi đang có kẻ đã phản bội Người dưới mũi dao của tôi. Không ai có thể ngăn tôi..."
"Thầy hoàn toàn nhầm rồi, Gurney," Paul nói.
Và Jessica nghĩ: Ra là vậy! Mỉa mai thay!
"Nhầm, tôi ư?" Gurney hỏi. "Ta hãy nghe điều đó từ chính mụ đàn bà này. Và hãy để mụ nhớ rằng tôi đã mua chuộc, đã do thám, đã lừa gạt bao kẻ hòng xác nhận lời buộc tội này. Thậm chí tôi còn chuốc semuta cho một tay đội trưởng cảnh vệ Harkonnen để biết được một phần câu chuyện."
Jessica cảm thấy cánh tay siết họng bà lơi đi một chút, nhưng bà chưa kịp lên tiếng thì Paul đã nói: "Kẻ phản bội là Yueh. Ta sẽ kể ngay cho thầy, Gurney ạ. Bằng chứng là hoàn hảo, không thể bác bỏ. Đó là Yueh. Ta không quan tâm vì sao thầy lại nghi ngờ mẹ ta như thế - bởi điều đó không thể nào khác được - nhưng nếu thầy làm hại đến mẹ ta..." Paul rút dao pha lê ra khỏi vỏ, chìa lưỡi dao ra trước mặt, "... ta sẽ lấy máu thầy."
"Yueh là một bác sĩ đã đạt tới Tối Thượng Y pháp, xứng đáng với hoàng tộc," Gurney nói. "Ông ấy không thể trở thành kẻ phản bội!"
"Ta biết một cách để phế bỏ Tối Thượng Y pháp đó," Paul nói.
"Bằng chứng?" Gurney vẫn khăng khăng.
"Bằng chứng không có đây," Paul nói. "Nó nằm ở sietch Tabr, xa về phía Nam, nhưng nếu..."
"Đây là trò lừa gạt," Gurney gầm gừ, và cánh tay ông lại siết chặt cổ họng Jessica.
"Chẳng có trò lừa gạt gì hết, Gurney," Paul nói, và giọng chàng mang một âm sắc buồn ghê gớm đến độ khiến lòng Jessica đau như xé.
"Tôi đã thấy bức thư tước được từ tay mật thám Harkonnen," Gurney nói. "Bức thư được gửi trực tiếp đến..."
"Ta cũng thấy," Paul nói. "Cha ta đã đưa nó cho ta xem vào cái đêm Người giải thích cho ta tại sao đó nhất định phải là âm mưu của bọn Harkonnen nhằm khiến Người ngờ vực người phụ nữ mà Người yêu."
"Ái chà!" Gurney nói. "Ngài chưa từng..."
"Im đi," Paul nói, và sự điềm tĩnh vô cảm trong lời lẽ của chàng mang nhiều uy lực hơn bất cứ giọng nói nào Jessica từng nghe.
Nó có năng lực Điều khiển Lớn, bà nghĩ.
Cánh tay Gurney kẹp trên cổ bà run lên. Mũi dao trên lưng bà ngập ngừng nhấc ra.
"Điều thầy chưa từng trải qua là đêm đêm nghe tiếng mẹ ta khóc vị Công tước quá cố của bà," Paul nói. "Thầy chưa từng thấy mắt bà rực lửa mỗi khi nhắc đến chuyện giết bọn Harkonnen."
Vậy ra nó đã nghe, bà nghĩ. Nước mắt đã làm mờ mắt bà.
"Điều thầy chưa từng làm là nhớ lại những bài học thầy đã học trong hầm nô lệ của bọn Harkonnen," Paul nói tiếp. "Thầy nói đến niềm tự hào là bạn của cha ta! Thầy chưa từng học được sự khác biệt giữa Harkonnen với Atreides sao cho có thể ngửi ra âm mưu của bọn Harkonnen nhờ cái mùi thối hoăng chúng để lại sao? Thầy chưa từng học được rằng lòng trung thành với Atreides được mua bằng tình yêu thương còn đồng bạc của Harkonnen là sự căm thù? Thầy không thể nhìn thấu cái bản chất đích thực của sự phản bội này sao?"
"Nhưng còn Yueh?" Gurney lẩm bẩm.
"Bằng chứng chúng ta có là thư của chính Yueh gửi cho chúng ta thừa nhận rằng ông ta phản bội," Paul nói. "Ta thề điều này với thầy bằng tình yêu thương của ta đối với thầy, tình yêu thương mà ta vẫn giữ vẹn ngay cả sau khi cho thầy nằm chết trên sàn này."
Nghe con trai nói, Jessica kinh ngạc trước nhận thức của nó, sự sáng suốt tinh tường của trí tuệ nó.
"Cha ta có một bản năng nhận biết ai là bạn," Paul nói. "Người trao tình yêu một cách dè xẻn, nhưng không bao giờ nhầm lẫn. Điểm yếu của Người nằm ở chỗ hiểu sai về lòng căm thù. Người cứ nghĩ ai đã căm thù Harkonnen thì không thể phản bội Người." Chàng liếc nhìn mẹ. "Bà biết điều đó. Ta đã chuyển cho bà lời nhắn của cha ta nói rõ Người chưa bao giờ nghi ngờ bà."
Jessica cảm thấy mình đang mất tự chủ, liền cắn môi dưới. Nhận thấy vẻ trang trọng cứng nhắc ở Paul, bà nhận ra để nói được những lời đó chàng phải mất những gì. Bà muốn chạy về phía chàng, áp đầu chàng vào ngực bà mà ru, điều bà chưa bao giờ làm. Nhưng cánh tay kẹp cổ họng bà đã thôi run; mũi dao trên lưng bà lại ấn vào, yên vị và sắc nhọn.
"Một trong những khoảnh khắc khủng khiếp nhất trong đời một đứa trẻ là khi nó phát hiện rằng cha mẹ nó là những con người có chung một tình yêu mà nó không bao giờ có thể biết trọn mùi vị," Paul nói. "Đó là một mất mát, sự thức tỉnh để nhận ra sự thật rằng thế giới vừa ở đó vừa ở đây và chúng ta ở trong đó một mình. Cái khoảnh khắc đó mang trong mình sự thực của riêng nó; ta không thể tránh khỏi nó. Ta đã nghe cha ta khi Người nói về mẹ ta. Bà không phải là kẻ phản bội, Gurney ạ."
Jessica tìm thấy giọng của mình, liền nói: "Gurney, thả ta ra." Không có uy lực đặc biệt nào trong những từ đó, không có mẹo nào nhằm lợi dụng điểm yếu của Gurney, nhưng bàn tay ông rũ xuống. Bà tiến về phía Paul, đứng trước mặt chàng, không chạm vào chàng.
"Paul," bà nói, "còn có những sự thức tỉnh khác trong vũ trụ này. Mẹ đột nhiên nhìn ra mẹ đã lợi dụng con, bóp méo con và điều khiển con nhằm đặt con vào con đường do mẹ chọn... con đường mà mẹ phải chọn - nếu như đó là cái cớ - bởi vì mẹ đã được huấn luyện theo Bene Gesserit." Bà nuốt một khối nghẹn trong cổ họng, ngẩng lên nhìn vào mắt con. "Paul... Mẹ muốn con làm một việc này cho mẹ: hãy chọn con đường hạnh phúc. Người đàn bà sa mạc của con, hãy cưới cô ta nếu đó là ý muốn của con. Hãy coi khinh bất cứ ai, bất cứ cái gì miễn sao làm được điều đó. Nhưng hãy chọn con đường của riêng con. Mẹ..."
Bà nín bặt, bởi tiếng lầm bầm khe khẽ sau lưng bà ngăn lại.
Gurney!
Bà thấy mắt Paul hướng vào phía sau bà, liền ngoảnh lại.
Gurney vẫn đứng y chỗ cũ, nhưng đã đút dao vào vỏ, trật áo choàng ra khỏi ngực để lộ lần vải xám trơn bóng của bộ sa phục phát một lần, loại mà đám buôn lậu thường trao đổi giữa các hang động sietch.
"Hãy đưa dao của ngài vào ngực tôi đây," Gurney lẩm bẩm. "Tôi nói hãy giết tôi và kết thúc chuyện này. Tôi đã làm tên mình bị ô uế. Tôi đã phản bội chính Công tước của tôi! Tốt nhất..."
"Im đi!" Paul nói.
Gurney nhìn chàng chằm chằm.
"Khép áo choàng lại và thôi xử sự như một thằng ngốc đi," Paul nói. "Ta đã có quá đủ chuyện ngốc nghếch trong một ngày rồi."
"Tôi bảo hãy giết tôi đi!" Gurney nổi xung lên.
"Thầy biết ta quá rõ mà," Paul nói. "Thầy nghĩ ta là loại ngốc nào đây? Ta phải làm chuyện này với bất cứ người nào ta cần hay sao?"
Gurney nhìn Jessica, nói bằng giọng đau khổ, van xin, hoàn toàn không giống ông chút nào: "Thế thì bà, thưa Lệnh bà... hãy giết tôi đi."
Jessica tiến lại, đặt tay lên hai vai ông. "Gurney, tại sao ông cứ khăng khăng đòi người của gia tộc Atreides phải giết những người họ yêu quý?" Nhẹ nhàng, bà cầm mép chiếc áo choàng đang bị trật phăng, dứt ra khỏi những ngón tay ông, khép lại rồi buộc chặt lớp áo trên ngực ông.
Gurney nói đứt quãng: "Nhưng... tôi..."
"Ông nghĩ ông đang làm một việc vì Leto," bà nói, "và ta kính trọng ông vì điều đó."
"Lệnh bà," Gurney nói. Ông gục cằm xuống ngực, khép chặt lông mi để ngăn nước mắt.
"Chúng ta hãy coi chuyện này như một sự hiểu lầm giữa những người bạn cũ," bà nói, và Paul nghe thấy sự xoa dịu, âm sắc hòa giải trong giọng của bà. "Chuyện qua rồi, và chúng ta có thể lấy làm vui rằng sẽ không bao giờ còn có kiểu hiểu lầm đó giữa chúng ta."
Gurney mở cặp mắt long lanh mọng nước, nhìn xuống bà.
"Gurney Halleck mà trước kia tôi biết là người lão luyện không chỉ với lưỡi dao mà cả đàn baliset," Jessica nói. "Đó là người chơi đàn baliset mà tôi ngưỡng mộ nhất. Liệu chàng Gurney Halleck đó có nhớ trước kia tôi vẫn thích anh ta chơi cho tôi nghe cả giờ liền không? Ông vẫn còn một cây baliset chứ, Gurney?"
"Tôi có một cây mới," Gurney nói. "Mang từ Chusuk tới, tiếng rất du dương. Chơi như một cây Varota chính hiệu, tuy trên đàn không có chữ ký. Tôi thì nghĩ nó được một học trò của Varota làm ra, người đó đã..." Ông ngừng bặt. "Tôi có thể nói gì với Người đây, thưa Lệnh bà? Ở đây chúng ta nói chuyện tầm phào về..."
"Không tầm phào đâu Gurney," Paul nói. Chàng bước lại đứng bên mẹ, mắt nhìn vào mắt Gurney. "Không phải tầm phào, mà là một chuyện mang lại niềm vui giữa những người bạn hữu. Ta nghĩ nếu thầy có thể chơi cho mẹ ta nghe bây giờ thì thật là hay. Bàn kế hoạch tác chiến thì có thể đợi chút nữa. Dù thế nào thì đến mai chúng ta mới vào trận mà."
"Tôi... tôi sẽ đi lấy đàn," Gurney nói. "Nó để trong hành lang." Ông vòng qua họ rồi bước qua rèm.
Paul đặt một tay lên cánh tay mẹ, nhận thấy bà đang run lên.
"Chuyện kết thúc rồi, mẹ ạ," chàng nói.
Không quay đầu lại, bà ngước nhìn chàng qua khóe mắt. "Kết thúc rồi ư?"
"Dĩ nhiên. Gurney..."
"Gurney? Ờ... phải." Bà hạ mắt xuống.
Những tấm rèm kêu sột soạt khi Gurney mang đàn quay lại. Ông bắt đầu so dây, tránh nhìn vào mắt họ. Những tấm rèm trên tường làm tiếng vang bị ỉm đi, khiến tiếng đàn nghe nhỏ và thân thiết.
Paul dẫn mẹ đến một chiếc đệm con, đặt mẹ ngồi ở đó, lưng tựa vào những tấm rèm dày trên tường. Đột nhiên chàng cảm thấy dường như bà mới già làm sao, với những đường nét khô héo vì sa mạc bắt đầu hằn trên khuôn mặt, đuôi cặp mắt phủ màu xanh đã có vết chân chim.
Bà mệt mỏi rồi, chàng nghĩ. Chúng ta phải tìm được cách nào đó để làm vơi bớt gánh nặng của bà.
Gurney gảy một hợp âm.
Paul liếc nhìn ông, nói: "Ta có... vài việc cần giải quyết. Đợi ta ở đây."
Gurney gật đầu. Tâm trí ông dường như ở đâu đó xa xôi, như thể trong khoảnh khắc này ông đang ở dưới bầu trời bao la của Caladan, mây nhẹ như bông ở phía chân trời báo hiệu mưa sắp tới.
Paul buộc mình quay lưng đi, lách qua những bức rèm nặng trĩu bước ra hành lang bên. Chàng nghe thấy Gurney gảy một giai điệu sau lưng chàng, liền đứng lại một chút bên ngoài phòng để lắng nghe tiếng đàn hát bị rèm chặn lại:
"Vườn quả vườn nho,
Mỹ nữ ngực đầy,
Cốc tràn trước mặt.
Sao ta cứ hoài lải nhải
Về những trận giao tranh
Những núi tan thành bụi?
Sao ta thấy sợ nhường này?
Thiên đường rộng mở
Của thiên đường khắp;
Chỉ cần gom lại là xong.
Sao ta lại nghĩ đến đòn phục kích,
Và độc dược trong chiếc cốc sáng ngời?
Sao ta thấy sợ nhường này?
Vòng tình vẫy gọi
Khoái cảm lõa lồ,
Địa đàng hứa hẹn ngất ngây.
Sao ta nhớ những vết sẹo,
Giấc mơ về tội lỗi xưa...
Sao ta ngủ với bao nỗi sợ nhường này?"
Một người đưa tin Fedaykin mặc áo choàng xuất hiện từ góc hành lang phía trước Paul. Mũ trùm của anh ta trật ra sau lưng còn những chiếc khóa cài sa phục thì nới lỏng quanh cổ, cho thấy anh ta mới từ ngoài sa mạc trở về.
Paul ra hiệu cho anh ta đứng lại, rời khỏi chỗ rèm cửa, tiến dọc hành lang về phía người đưa tin.
Người đó cúi chào, tay chắp lại trước ngực theo cách chào Mẹ Chí tôn hoặc Sayyadina trong nghi lễ. Anh ta nói: "Thưa Muad'Dib, các thủ lĩnh đang bắt đầu đến họp Hội đồng."
"Sớm thế sao?"
"Có những vị mà Stilgar đã cử người đi mời từ trước, khi người ta còn nghĩ rằng..." Anh ta nhún vai.
"Ta hiểu." Paul ngoảnh lại về phía tiếng đàn baliset khe khẽ, nghĩ đến bài hát xưa mẹ chàng vẫn thích - một quãng dài kỳ lạ mà âm nhạc thì vui còn lời hát thì buồn. "Stilgar sẽ đến đây ngay cùng những người khác. Hãy dẫn họ đến nơi mẹ ta đang đợi."
"Tôi sẽ đợi ở đây, thưa Muad'Dib," người đưa tin nói.
"Phải... phải, cứ đợi."
Paul vượt qua anh ta tiến vào sâu trong hang, đến cái nơi mà mỗi hang như thế này đều có - một nơi gần bể chứa nước. Ở nơi này sẽ có một Shai-hulud còn nhỏ, một sinh vật không dài quá chín mét, bị những hào nước xung quanh giam hãm và làm cho còi cọc không lớn được. Con sâu cát đó, sau khi từ vật chủ trung gian Ngài tạo bé chui ra, luôn luôn tránh nước bởi với nó nước là thuốc độc. Và việc trấn nước một Ngài tạo là bí mật lớn nhất của người Fremen bởi nhờ đó sinh ra thứ chất liệu làm họ liên kết lại - Nước của Sự sống, thứ độc dược mà chỉ một Mẹ Chí tôn mới có thể làm biến đổi.
Paul đã nảy ra quyết định khi chàng đối mặt với sự căng thẳng do mối hiểm nguy xảy ra với mẹ chàng. Không một tuyến tương lai khả dĩ nào chàng từng thấy xưa nay lại bao hàm khoảnh khắc hiểm họa đó từ Gurney Halleck. Tương lai - cái tương lai màu mây xám - cùng với cảm giác rằng toàn vũ trụ tiến tới một điểm kết nối phức tạp sôi sùng sục, nó vây quanh chàng như một thế giới không có thực.
Ta phải nhìn thấy nó, chàng nghĩ.
Thân thể chàng đã chầm chậm đạt được một mức dung chứa hương dược nhất định, nó khiến cho những thị kiến tiên tri ngày một ít đi... ngày một mờ đi... Giải pháp đó có vẻ hiển nhiên đối với chàng.
Ta sẽ dìm chết Ngài tạo. Chúng ta sẽ thấy liệu ta có phải Kwisatz Haderach, kẻ có thể sống sót qua bài sát hạch mà các Mẹ Chí tôn đã qua khỏi hay không.
Và chuyện xảy ra vào năm thứ ba cuộc Chiến tranh Sa mạc là Paul Muad'Dib nằm một mình trong Hang Chim dưới những tấm rèm kiswa ở một buồng trong. Và chàng nằm như người đã chết, miên man chìm trong cơn khải ngộ của Nước của Sự sống, bản thể của chàng được cái chất-độc-mang-lại-sự-sống kia chuyển sang bên kia ranh giới của thời gian. Vậy đó lời tiên tri đã thành sự thật rằng Lisan al-Gaib có thể vừa chết vừa sống cùng một lúc.
- "Tuyển Truyền thuyết về Arrakis" của Công chúa Irulan
Chani ra khỏi vùng lòng chảo Habbanya trong bóng tối trước rạng đông, nghe thấy tiếng chiếc tàu chim đã đưa nàng từ phía Nam tới giờ đây đang vù vù bay đến một nơi trú ẩn ngoài vùng cát bao la. Quanh nàng, đội hộ tống giữ một khoảng cách, tản ra theo hình cánh quạt trong những tảng đá trên rặng núi để kiểm tra xem có mối nguy hiểm nào không, cũng là để cho người bạn đời của Muad'Dib, thân mẫu đứa con đầu lòng của ngài, có được điều nàng đã yêu cầu: một chút thời gian để đi dạo một mình.
Tại sao anh ấy gọi mình tới? nàng tự hỏi. Anh ấy chẳng đã bảo mình phải ở lại phía Nam cùng với Leto bé và Alia đó sao.
Nàng khép áo choàng cho gọn rồi nhẹ nhàng nhảy phóc qua một tảng đá chướng ngại vật, thả mình xuống lối mòn để trèo mà chỉ những ai được huấn luyện để sống trong sa mạc mới có thể nhận ra trong bóng tối. Sỏi trượt dưới chân nàng và nàng nhảy qua chúng mà không nghĩ đến sự nhanh nhẹn khéo léo cần phải có.
Nàng thấy vui vì được leo trèo, nó giúp nàng vơi đi những sợ hãi vốn đã dậy lên trong nàng bởi sự rút lui lặng lẽ của đội hộ tống và bởi việc người ta đã cử tới cả một chiếc tàu chim quý giá chỉ để đưa nàng về đây. Nàng cảm thấy bên trong mình như nhảy cẫng lên vì sắp sửa được tái hợp cùng Paul Muad'Dib, cùng Usul của nàng. Cái tên của chàng có thể là một tiếng hô xung trận trên toàn xứ sở này: "Muad'Dib! Muad'Dib! Muad'Dib!" Nhưng nàng biết một con người khác mang một cái tên khác - cha của con trai nàng, người tình rất dịu dàng.
Từ những tảng đá phía trên nàng xuất hiện một dáng người cao lớn, ra hiệu bảo nàng mau lên. Nàng rảo bước nhanh hơn. Những con chim bình minh đang vừa kêu vừa cất cánh bay lên bầu trời. Một dải ánh sáng lờ mờ càng lúc càng tỏa rộng dọc chân trời phía Đông.
Dáng người trên kia không phải một trong các vệ sĩ của nàng. Otheym chăng? nàng tự hỏi khi nhận ra nét quen thuộc trong cử chỉ và dáng vẻ người đó. Nàng lên chỗ anh ta, nhận ra trong ánh sáng đang tỏ dần những đường nét bè bè, thẳng đuột của viên sĩ quan Fedaykin, mũ trùm đầu trật ra sau, bộ lọc nơi miệng được nới lỏng như người ta vẫn làm đôi khi mạo hiểm ra ngoài sa mạc chỉ trong chốc lát.
"Nhanh lên," anh nói khẽ, rồi dẫn nàng đi xuống khe nứt bí mật tiến vào một hang kín. "Trời sáng ngay thôi," anh thì thầm trong khi giữ van bịt cửa mở cho nàng vào. "Bọn Harkonnen đang tiến hành những cuộc tuần tra liều mạng ở một số nơi trong vùng này. Lúc này chúng ta không dám liều để chúng phát hiện ra."
Họ tiến vào cửa hành lang hẹp dẫn tới Hang Chim. Những quả đèn cầu bật sáng. Otheym băng qua nàng tiến lên phía trước, nói: "Theo tôi. Nhanh lên nào."
Họ rảo bước dọc hành lang, băng qua một cánh cửa van khác, một hành lang khác rồi vén rèm bước vào chỗ từng là góc hang dành cho Sayyadina vào thời nơi đây còn là hang nghỉ qua đêm. Nay thì thảm và đệm ngồi phủ khắp sàn. Những bức rèm dệt có hình chim ưng màu đỏ che kín các bức tường đá. Ở một đầu là chiếc bàn dã chiến thâm thấp trên rải đầy những tờ giấy sực mùi thơm cho thấy chúng có nguồn gốc hương dược.
Mẹ Chí tôn ngồi một mình đối diện lối vào. Bà ngẩng lên với cái nhìn chằm chằm hướng vào bên trong thường khiến những kẻ nào chưa được khai tâm phải run lên.
Otheym ép hai lòng bàn tay vào nhau, nói: "Tôi đã đưa Chani đến." Anh ta cúi chào, rồi rút lui qua những tấm rèm.
Và Jessica nghĩ: Làm sao ta cho Chani biết đây?
"Cháu trai ta thế nào rồi?" Jessica hỏi.
Vậy là phải chào hỏi theo nghi thức đây, Chani nghĩ, và nỗi sợ của nàng quay lại. Muad'Dib đâu? Tại sao anh ấy không có ở đây để đón mình?
"Nó khỏe mạnh và hạnh phúc, thưa mẹ," Chani nói. "Con đã để nó lại với Alia, có Harah chăm sóc."
Mẹ, Jessica nghĩ. Phải, nó có quyền gọi ta như thế khi chào hỏi theo nghi thức. Nó đã cho ta một thằng cháu trai.
"Ta nghe nói sietch Coanua có gửi tới ít vải làm quà," Jessica nói.
"Vải đẹp lắm ạ," Chani nói.
"Alia có nhắn gì không?"
"Không ạ. Nhưng hiện người ta đang bắt đầu chấp nhận sự kỳ lạ của thân thế nó nên mọi chuyện ở sietch đang diễn ra suôn sẻ hơn."
Sao mẹ cứ kéo rề rà chuyện này ra như vậy? Chani tự hỏi. Có chuyện gì cấp bách lắm nên người ta mới cử tàu chim tới đón mình. Thế mà giờ chúng ta lại cứ kéo dài những giao đãi theo nghi thức.
"Chúng ta phải có một ít vải mới ấy để may quần áo cho Leto bé," Jessica nói.
"Xin tùy ý người, thưa mẹ," Chani nói. Nàng nhìn xuống. "Có tin gì về chiến trận không ạ?" Nàng giữ cho nét mặt mình không biểu cảm để may ra Jessica không thấy điều nàng có thể lộ ra - rằng đây là một câu hỏi về Paul Muad'Dib.
"Những chiến thắng mới," Jessica nói. "Rabban đã gửi tới những đề nghị dè dặt về việc ngừng chiến. Các sứ giả của hắn đã được gửi trả về mà không có nước trong người. Rabban thậm chí còn giảm nhẹ gánh nặng cho dân chúng ở một số làng ở vùng sink. Nhưng đã quá muộn với hắn. Dân chúng biết hắn làm vậy chỉ vì sợ chúng ta."
"Mọi điều xảy ra như Muad'Dib đã nói," Chani nói. Nàng nhìn đăm đăm vào Jessica, cố kìm nỗi sợ. Mình đã nói ra tên anh ấy, nhưng bà không phản ứng. Người ta không thể nhìn thấy cảm xúc gì nơi cái tảng đá trơ trơ kia mà bà gọi là khuôn mặt... nhưng bà giá lạnh quá. Tại sao bà cứ im lìm vậy? Chuyện gì đã xảy ra cho Usul của mình?
"Ta ước gì chúng ta đang ở miền Nam," Jessica nói. "Hồi chúng ta ra đi, các ốc đảo mới đẹp làm sao. Con không mong đến cái ngày toàn bộ đất này có thể nở hoa như vậy sao?"
"Vùng đó quả là đẹp," Chani nói. "Nhưng có quá nhiều khổ đau ở đó."
"Khổ đau là cái giá của chiến thắng," Jessica nói.
Bà đang chuẩn bị cho ta đón nhận khổ đau sao? Chani tự hỏi. Nàng nói: "Có quá nhiều đàn bà không có đàn ông. Người ta ghen tị khi nghe nói con được gọi về miền Bắc."
"Chính ta gọi con," Jessica nói.
Chani cảm thấy tim đập thình thình. Nàng muốn lấy tay bịt kín hai tai, sợ cái điều tai mình có thể nghe. Thế nhưng, nàng vẫn giữ giọng bình thản: "Bức thư ký tên Muad'Dib."
"Ta đã ký như vậy trước sự hiện diện của các sĩ quan phụ tá của nó," Jessica nói. "Đó là một sự lừa dối vì cần thiết." Và Jessica nghĩ: Thật là một người đàn bà gan góc, người đàn bà của Usul đây. Cô ta vẫn giữ vững sự tinh tế ngay cả khi nỗi sợ hầu như choán trọn tâm trí cô ta. Phải. Cô ta có thể là người chúng ta cần lúc này.
Chỉ có một chút thanh điệu cam chịu nhuốm vào giọng Chani khi nàng nói: "Giờ mẹ có thể nói điều cần phải nói."
"Con cần có mặt ở đây để giúp mẹ hồi sinh Paul," Jessica nói. Và bà nghĩ: Đấy! Ta đã nói điều đó bằng cách đúng nhất. Hồi sinh. Nói vậy thì con bé sẽ biết Paul vẫn sống và cũng biết rằng đang có một mối nguy, tất cả bao hàm trong chỉ một từ.
Chani chỉ mất một khoảnh khắc để tự trấn tĩnh, rồi nói: "Con có thể làm gì?" Nàng muốn nhảy bổ vào Jessica, muốn lay bà mà thét: "Đưa con đến chỗ anh ấy!" Nhưng nàng im lặng chờ câu trả lời.
"Ta ngờ rằng bọn Harkonnen đã tìm được cách cài một gián điệp vào người của chúng ta để đầu độc Paul," Jessica nói. "Đó là cách giải thích duy nhất có vẻ thích hợp. Một thứ độc dược hết sức khác thường. Ta đã kiểm tra máu của Paul bằng những cách tinh vi nhất mà vẫn không phát hiện được."
Chani quỳ sụp xuống. "Độc dược? Anh ấy có đau đớn không? Liệu con..."
"Nó mê man bất tỉnh," Jessica nói. "Các quá trình sống của nó chậm đến mức chỉ có thể phát hiện ra chúng bằng những kỹ thuật cao nhất. Ta rùng mình khi nghĩ điều gì đã có thể xảy ra nếu không phải chính ta là người phát hiện nó bị đầu độc. Dưới con mắt không được huấn luyện thì nó trông chẳng khác gì đã chết."
"Mẹ gọi con về không chỉ bởi tôn trọng con mà còn vì những lý do khác," Chani nói. "Con biết người, thưa Mẹ Chí tôn. Đâu là việc mà theo mẹ con làm được, còn mẹ thì không?"
Nó gan góc, đáng yêu và, ối chà, sâu sắc quá, Jessica nghĩ. Lẽ ra nó có thể trở thành một Bene Gesserit giỏi.
"Chani ạ," Jessica nói, "con có thể thấy khó tin, nhưng ta không biết đích xác tại sao ta cho người gọi con về. Đó là một bản năng... một bản năng cơ bản. Ý nghĩ này tự nó nảy ra: 'Cử người đưa Chani về.' "
Lần đầu tiên Chani thấy nỗi buồn trên nét mặt Jessica, nỗi đau không che giấu làm thay đổi cái nhìn hướng vào nội thể.
"Ta đã làm tất cả những gì có thể," Jessica nói. "Làm tất cả... có nghĩa là nhiều hơn gấp bội so với những gì người ta vẫn cho làtất cả, đến nỗi con khó mà tưởng tượng ra được. Thế nhưng... ta bất lực."
"Người bạn già ấy, Halleck... liệu ông ta có thể là kẻ phản bội không?"
"Không phải Gurney," Jessica nói.
Ba từ đó bao hàm trong chúng toàn bộ một cuộc đối thoại, và Chani nhìn thấy những cuộc lùng soát, những cuộc kiểm tra... ký ức về những thất bại trước kia để có thể dẫn tới lời phủ định thẳng thừng này.
Chani tì người trở lại lên hai chân, đứng dậy, vuốt phẳng chiếc áo choàng bị sa mạc làm lấm bẩn. "Đưa con tới chỗ anh ấy," nàng nói.
Jessica đứng dậy, bước qua những tấm rèm trên bức tường bên trái.
Chani theo sau, nhận ra mình đang ở một nơi vốn là phòng chứa đồ, nay thì các bức tường đá của nó được giấu kín sau những bức rèm nặng trĩu. Paul nằm trên một tấm đệm trải sát vào bức vách phía trong. Chiếc đèn cầu duy nhất trên đầu soi sáng khuôn mặt chàng. Một chiếc áo choàng đen phủ kín đến ngực chàng, để lộ hai cánh tay duỗi dài dọc hai bên sườn. Chàng có vẻ không mặc quần áo gì dưới tấm áo ấy. Làn da chàng, những chỗ lộ ra ngoài trông như bằng sáp, cứng đờ. Không nhìn thấy một cử động nào ở chàng.
Chani nén nỗi khao khát muốn chạy ào tới, ôm chầm lấy chàng. Thay vào đó, nàng nhận thấy ý nghĩ lại hướng về con nàng - Leto. Và chính lúc đó nàng nhận ra Jessica cũng từng đối diện một khoảnh khắc như vậy - người đàn ông của bà bị cái chết đe dọa, buộc tâm trí bà phải cân nhắc xem có thể làm gì để cứu đứa con còn trẻ dại. Nhận thức đó tạo thành một mối ràng buộc bất ngờ giữa nàng với người phụ nữ lớn tuổi kia, khiến Chani chìa tay ra siết chặt tay Jessica. Cái siết tay đáp lại mạnh đến mức đau đớn.
"Nó vẫn sống," Jessica nói. "Ta cam đoan nó vẫn đang sống. Nhưng sợi chỉ sự sống của nó quá mỏng manh đến nỗi khó mà dò ra được. Trong số thủ lĩnh có người hiện đã xầm xì rằng ấy là người mẹ đang lên tiếng chứ không phải Mẹ Chí tôn, rằng con ta thực tình đã chết và ta không muốn trao nước của nó cho bộ tộc."
"Anh ấy bị thế này bao lâu rồi?" Chani hỏi. Nàng rút tay khỏi tay Jessica, tiến sâu hơn vào phòng.
"Ba tuần," Jessica nói. "Ta đã mất gần một tuần cố làm nó sống lại. Đã hội họp, bàn cãi... điều tra, khám nghiệm. Rồi ta cho người gọi con về. Đội Fedaykin tuân lệnh ta, nếu không thì có khi ta đã không thể kéo dài..." Bà liếm môi, quan sát Chani tiến lại gần Paul.
Giờ thì Chani cúi xuống trên chàng, nhìn xuống bộ râu mềm mại của tuổi trẻ đóng khung quanh mặt chàng, đưa mắt lần theo hàng lông mày cao, chiếc mũi rắn rỏi đầy sức mạnh, cặp mắt nhắm nghiền của chàng - những đường nét quá đỗi bình an trong giấc ngủ cứng đờ này.
"Anh ấy ăn uống bằng cách nào?" Chani hỏi.
"Nhu cầu của thể xác nó quá nhỏ nên nó chưa cần được tiếp thức ăn," Jessica nói.
"Có bao nhiêu người biết chuyện?" Chani hỏi.
"Chỉ những cố vấn thân cận nhất, vài vị thủ lĩnh, đội Fedaykin và, dĩ nhiên, kẻ đã chuốc độc dược cho nó, dù đó là kẻ nào đi nữa."
"Không có manh mối nào về kẻ chuốc độc sao?"
"Không, mà cũng không phải là do điều tra chưa đủ," Jessica nói.
"Đội Fedaykin nói sao?" Chani hỏi.
"Họ tin rằng Paul đang trong một cơn hôn mê thiêng liêng, đang thu thập các năng lực thần thánh của mình trước những trận đánh cuối cùng. Đó là ý nghĩ mà chính ta gieo rắc."
Chani quỳ xuống bên chiếc đệm, cúi lại gần mặt Paul. Nàng cảm thấy một sự khác biệt trong không khí ngay sát mặt chàng... nhưng đó chỉ là hương dược, cái hương dược đâu cũng có mà mùi của nó thấm đẫm vào mọi thứ trong đời sống Fremen. Thế nhưng...
"Mẹ không phải người sinh ra là đã sống cùng hương dược như chúng con," Chani nói. "Mẹ đã xét đến khả năng thân thể anh ấy nổi dậy chống lại vì có quá nhiều hương dược trong khẩu phần của anh ấy chưa?"
"Mọi xét nghiệm phản ứng do dị ứng đều cho kết quả âm tính," Jessica nói.
Bà nhắm mắt lại, vừa để thôi đừng nhìn thấy cảnh này vừa bởi đột nhiên nhận ra mình mệt mỏi xiết bao. Đã bao lâu rồi mình không ngủ? bà tự hỏi. Lâu quá rồi.
"Khi mẹ chuyển hóa Nước của Sự sống," Chani nói, "mẹ làm việc đó bên trong chính mình, bằng ý thức hướng vào nội thể. Mẹ có dùng cái ý thức đó để kiểm tra máu anh ấy không?"
"Máu Fremen bình thường," Jessica nói. "Hoàn toàn thích nghi với chế độ ăn uống và cuộc sống ở đây."
Chani ngồi tì lên gót chân, nhấn chìm nỗi sợ của mình vào suy nghĩ trong khi xem xét kỹ gương mặt Paul. Đây là một thủ thuật nàng học được nhờ quan sát các Mẹ Chí tôn. Có thể buộc thời gian phải phục vụ cho tâm trí. Người ta có thể hoàn toàn tập trung tư tưởng.
Ngay sau đó, Chani nói: "Có Ngài tạo nào ở đây không?"
"Có mấy con," Jessica nói, giọng có phần kiệt sức. "Thời buổi này chúng ta chẳng bao giờ thiếu chúng được. Mỗi chiến thắng đều cần phải được chúng ban phước. Mỗi một nghi lễ trước một cuộc xuất chinh..."
"Nhưng Paul Muad'Dib đã lánh xa những nghi lễ ấy rồi," Chani nói.
Jessica gật đầu với chính mình, nhớ lại cảm xúc đầy mâu thuẫn của con trai bà đối với hương dược và cái nhận thức tiên tri do bị hương dược thúc đẩy nên đã đến quá nhanh.
"Làm sao con biết điều đó?" Jessica hỏi.
"Người ta nói thế."
"Người ta nói quá nhiều chuyện," Jessica nói tiếp một cách cay đắng.
"Lấy cho con Nước nguyên chất của Ngài tạo," Chani nói.
Jessica lặng người khi nghe giọng ra lệnh của Chani, rồi bà quan sát kỹ sự tập trung cao độ ở người thiếu phụ và nói: "Ta lấy ngay." Bà vén rèm đi ra ngoài để sai người gọi thầy quản nước đến.
Chani ngồi nhìn Paul trân trân. Nếu anh ấy đã thử làm chuyện này, nàng nghĩ. Mà một chuyện như thế thì anh ấy dám làm thử lắm...
Jessica quỳ xuống cạnh Chani, chìa ra một bình đựng nước kiểu dáng đơn giản. Mùi độc dược nồng nặc xộc vào lỗ mũi Chani cay sè. Nàng nhúng một ngón tay vào thứ chất lỏng đó, rồi chìa ngón tay lại gần mũi Paul.
Làn da dọc theo sống mũi chàng hơi nhăn lại. Chầm chậm, hai lỗ mũi nở ra.
Jessica thở hắt ra.
Chani lấy ngón tay thấm ướt sờ lên môi trên của Paul.
Chàng hít vào một hơi dài, nghe như tiếng nấc.
"Cái gì vậy?" Jessica hỏi.
"Yên nào," Chani nói. "Mẹ phải chuyển hóa một ít nước thiêng. Nhanh lên!"
Không hỏi han gì, bởi nhận ra âm điệu đầy ý thức trong giọng của Chani, Jessica nâng bình nước lên miệng, uống một ngụm nhỏ.
Mắt Paul bừng mở. Chàng ngước nhìn Chani chăm chăm.
"Mẹ không cần phải chuyển hóa Nước đâu," chàng nói. Giọng chàng yếu ớt, song bình thản.
Jessica vẫn còn giữ ngụm nước trên lưỡi, cảm thấy thân thể mình tập trung toàn lực, chuyển hóa cái độc dược kia một cách hầu như tự động. Trong cảm giác nhẹ nhàng hướng thượng mà nghi lễ này luôn mang lại, bà cảm nhận được cái ánh sáng-sự sống tỏa ra từ Paul - một thứ phát xạ hiển hiện đó đang được ghi vào các giác quan của bà.
Ngay trong khoảnh khắc đó, bà hiểu ra.
"Con đã uống nước thiêng!" bà thốt lên.
"Chỉ một giọt thôi," Paul nói. "Rất ít... một giọt."
"Sao con có thể làm một việc ngu ngốc như vậy chứ?" bà gặng hỏi.
"Anh ấy là con của mẹ," Chani nói.
Jessica nhìn nàng chằm chằm.
Một nụ cười hiếm hoi, ấm áp và đầy hiểu biết nở trên môi Paul. "Nghe người yêu của con nói đi," chàng nói. "Nghe cô ấy đi, thưa mẹ. Cô ấy biết đấy."
"Điều người khác có thể làm, anh ấy phải làm," Chani nói.
"Khi con đã đưa giọt đó vào miệng rồi, khi con đã cảm nhận được nó và ngửi nó, khi con biết nó đang làm gì với con, thì con biết con có thể làm điều mẹ đã làm," chàng nói. "Các Tổng quản Bene Gesserit như mẹ thường nói về Kwisatz Haderach, nhưng họ không sao có thể đoán ra con đã đến được bao nhiêu nơi đâu. Trong vòng ít phút con đã..." Chàng ngừng bặt, chau mày bối rối nhìn Chani. "Chani? Làm sao em về đây được? Lẽ ra em phải... Sao em lại ở đây?"
Chàng cố tì cùi chỏ nhỏm dậy. Chani nhẹ nhàng ấn chàng xuống.
"Làm ơn nào, Usul của em," nàng nói.
"Anh thấy yếu quá," chàng nói. Chàng đưa mắt nhìn quanh phòng. "Con ở đây đã bao lâu rồi?"
"Suốt ba tuần, con đã hôn mê sâu đến nỗi tia sáng sự sống hầu như tắt ngấm," Jessica nói.
"Nhưng mà... con chỉ mới uống cách đây có một chút thôi và..."
"Một chút đối với con, ba tuần lo sợ đối với mẹ," Jessica nói.
"Chỉ một giọt thôi, nhưng con đã chuyển hóa nó," Paul nói. "Con đã làm biến đổi Nước của Sự sống." Và Chani hay Jessica chưa kịp ngăn thì chàng đã nhúng bàn tay vào bình nước họ đặt trên sàn bên cạnh chàng rồi đưa bàn tay đang nhỏ nước ròng ròng lên miệng, nuốt chỗ nước chứa trong lòng bàn tay chụm lại.
"Paul!" Jessica thét lên.
Chàng túm lấy tay bà, đối diện bà với nụ cười toe toét như nụ cười của một cái đầu lâu, và chàng gửi ý thức của chàng cho nó tuôn trào sang bà.
Mối tương giao đó không êm dịu, không chia sẻ, không ôm chứa như mối tương giao trong hang giữa Jessica với Alia và với Mẹ Chí tôn già... nhưng nó vẫn là một sự tương giao: sự chia sẻ cảm thức giữa toàn bộ hai bản thể. Nó làm bà rúng động, khiến bà yếu hẳn đi, và bà co rúm lại trong tâm trí, khiếp sợ chàng.
Chàng nói lớn: "Mẹ thường nói về một nơi mà mẹ không thể bước vào? Cái nơi mà Mẹ Chí tôn không thể nhìn tận mặt, hãy chỉ nó cho con."
Bà lắc đầu, kinh hãi trước ý nghĩ đó.
"Chỉ nó cho con!" chàng ra lệnh.
"Không!"
Nhưng bà không thoát được chàng. Bị sức mạnh khủng khiếp của chàng thúc ép, bà nhắm mắt lại mà tập trung vào bên trong - vào cái-hướng-vốn-dĩ-tối-tăm.
Ý thức của Paul tuôn trào qua bà, tuôn trào quanh bà rồi chảy vào bóng tối. Bà lờ mờ thoáng thấy nơi đó trước khi tâm trí bà tự đóng sụp lại vì khiếp sợ. Không biết vì sao, toàn bộ bản thể bà rung lên bần bật trước cái bà vừa thấy - một vùng có gió thổi và những tia lửa lóe lên, nơi có những vòng ánh sáng giãn ra co lại, nơi từng hàng những hình thể màu trắng căng phồng trôi bên trên, bên dưới, xung quanh những ánh sáng đó, được bóng tối và một làn gió chẳng từ đâu đến dẫn dắt.
Ngay sau đó bà mở mắt, thấy Paul đang đăm đăm nhìn lên bà. Chàng vẫn nắm tay bà, nhưng mối tương giao đáng sợ đó đã qua. Bà dằn cơn run xuống. Paul thả tay bà. Như thể một chiếc nạng vừa được cất bỏ đi. Bà lảo đảo, suýt nữa đã ngã nếu Chani không vội nhảy tới đỡ.
"Mẹ Chí tôn!" Chani nói. "Có chuyện gì vậy?"
"Mệt," Jessica thì thầm. "Mệt... quá."
"Đây," Chani nói. "Mẹ ngồi đây." Nàng giúp Jessica ngồi xuống một chiếc đệm tựa vào tường.
Đôi tay trẻ trung khỏe mạnh này làm Jessica thấy dễ chịu xiết bao. Bà bíu lấy Chani.
"Có thật là anh ấy đã nhìn thấy Nước của Sự sống không?" Chani hỏi. Nàng gỡ mình ra khỏi vòng tay siết của Jessica.
"Nó đã thấy," Jessica thì thầm. Tâm trí bà vẫn còn chống chếnh dập dềnh vì sự tiếp xúc kia. Như thể bà đang bước trên đất cứng sau nhiều tuần lênh đênh trên biển cả sóng cồn. Bà cảm thấy Mẹ Chí tôn già bên trong mình... cùng tất cả các Mẹ khác, tất cả đều thức dậy mà gặng hỏi: "Chuyện gì vậy? Có gì xảy ra vậy? Nơi ấy là ở đâu?"
Thông qua đó tất cả bọn họ xâu chuỗi được nhận thức rằng con trai bà là Kwisatz Haderach, người có thể ở nhiều nơi cùng một lúc. Chàng là thực tại thoát thai từ giấc mơ Bene Gesserit. Và thực tại đó khiến bà không thể an tâm.
"Điều gì xảy ra vậy?" Chani hỏi.
Jessica lắc đầu.
Paul nói: "Trong mỗi chúng ta đều có một lực cổ xưa luôn luôn cho và một lực cổ xưa luôn luôn nhận. Người đàn ông ít gặp khó khăn hơn khi đối mặt với cái nơi bên trong anh ta vốn là chỗ cư trú của lực nhận, nhưng nhìn thấu vào lực cho là việc hầu như không thể nếu anh ta không chuyển hóa thành cái gì đó khác chứ không chỉ là đàn ông. Với phụ nữ thì tình hình ngược lại."
Jessica ngước lên, thấy Chani đang nhìn bà chằm chặp trong khi vẫn lắng nghe Paul.
"Mẹ có hiểu con không, thưa mẹ?" Paul hỏi.
Bà chỉ có thể gật.
"Những điều đó là quá xa xưa bên trong chúng ta đến nỗi chúng được nhồi nhét vào từng tế bào một trong cơ thể chúng ta," Paul nói. "Chúng ta được tạo hình bởi những lực đó. Mẹ có thể tự nhủ: 'Phải, ta biết một lực như vậy có thể là thế nào.' Nhưng khi mẹ nhìn vào bên trong mình và đối mặt với cái lực nguyên sơ bắt nguồn từ sự sống của chính mẹ trong trạng thái không che chắn, thì mẹ thấy nguy cơ của mẹ. Mẹ thấy rằng cái đó có thể chôn vùi mẹ. Nguy cơ lớn nhất với Người cho là cái lực luôn luôn nhận. Nguy cơ lớn nhất với Người nhận là cái lực luôn luôn cho. Khi cho cũng như khi nhận, ta đều có thể dễ dàng bị chôn vùi giống như nhau."
"Còn con, con của ta, con là người cho hay người nhận?" Jessica hỏi.
"Con nằm ở điểm tựa," chàng nói. "Con không thể cho mà không nhận và con không thể nhận mà không..." Chàng chợt im bặt, nhìn về bức tường bên phải.
Chani cảm thấy một luồng gió lùa vào má, liền quay lại thì thấy những bức rèm khép lại,
"Đó là Otheym," Paul nói. "Anh ta đang lắng nghe."
Khi tiếp nhận những lời đó, Chani chợt cảm nhận được đôi điều tiên tri đã ám ảnh Paul, và nàng biết một điều-chưa-xảy-ra như thể nó đã xảy ra rồi. Otheym sẽ kể lại những gì anh đã nhìn và nghe thấy. Những người khác sẽ loan truyền câu chuyện cho tới khi nó thành ngọn lửa phừng phừng cháy trên mặt đất. Paul Muad'Dib không giống người thường, họ sẽ nói thế. Không thể nghi ngờ gì nữa. Chàng ta là người, nhưng chàng ta có thể nhìn thấu Nước của Sự sống theo cách của một Mẹ Chí tôn. Chàng đích thực là Lisan al-Gaib.
"Con đã thấy tương lai, Paul ạ," Jessica nói. "Con có nói cho ta nghe con đã thấy gì không?"
"Không phải tương lai," chàng nói. "Con đã thấy cái Bây giờ." Chàng tự buộc mình ngồi dậy, vẫy tay bảo Chani tránh sang một bên khi nàng tiến lại để giúp chàng. "Không gian trên Arrakis đầy rẫy tàu của Hiệp hội."
Jessica run rẩy trước sự chắc như đinh đóng cột trong giọng chàng.
"Đích thân Hoàng đế Padishah đang ở đây," Paul nói. Chàng nhìn bức trần đá của phòng chàng. "Cùng với Người Nói Sự thật mà ông ta sủng ái và năm binh đoàn Sardaukar. Lão Nam tước Vladimir Harkonnen đang ở đây cùng Thufir Hawat và bảy chiếc tàu lèn chặt bất cứ gã tân binh nào lão ta huy động được. Mỗi Đại Gia tộc đều có tàu đột kích bay trên đầu chúng ta... chờ đợi."
Chani lắc đầu, không thể rời mắt khỏi Paul. Sự kỳ lạ ở chàng, thanh điệu đều đều trong giọng nói, cái kiểu chàng nhìn xuyên qua nàng, tất cả khiến nàng kính sợ.
Jessica cố nuốt khan, nói: "Chúng đợi cái gì?"
Paul nhìn bà. "Đợi lệnh của Hiệp hội cho phép đổ bộ. Hiệp hội sẽ giam giữ bất cứ lực lượng nào đổ bộ mà không xin phép."
"Hiệp hội bảo vệ chúng ta sao?" Jessica hỏi.
"Bảo vệ chúng ta ư! Bản thân Hiệp hội đã gây ra chuyện này bằng cách đơm điều đặt chuyện về những gì chúng ta làm ở đây và giảm lệ phí chuyển quân đến mức ngay cả những Gia tộc nghèo nhất giờ cũng đang quanh quẩn trên kia chực chờ cướp bóc chúng ta."
Jessica nhận thấy giọng chàng không có vẻ chua chát, lấy làm lạ về điều đó. Bà không thể nghi ngờ lời chàng nói - chúng có cùng một sự mãnh liệt mà bà đã thấy ở chàng vào cái đêm chàng tiết lộ về con đường tương lai đã đưa họ đến với người Fremen.
Paul hít một hơi dài, nói: "Thưa mẹ, mẹ phải chuyển hóa một lượng Nước cho chúng ta. Chúng ta cần chất xúc tác. Chani, bảo người ta cử một trinh sát đi... để tìm một khối quặng tiền hương dược. Nếu chúng ta cấy một lượng Nước của Sự sống lên trên một khối quặng tiền hương dược, mẹ biết điều gì sẽ xảy ra không?"
Jessica nghiền ngẫm lời chàng, rồi đột ngột nhận ra ý chàng. "Paul!" bà thốt không ra hơi.
"Nước của Cái chết," chàng nói. "Nó sẽ là một phản ứng dây chuyền." Chàng chỉ xuống sàn. "Rải cái chết ra giữa các Ngài tạo bé, giết chết một véc tơ chu kỳ sự sống bao gồm hương dược và các Ngài tạo. Arrakis sẽ chỉ còn là chốn hoang tàn - không hương dược, không Ngài tạo."
Chani đặt một tay lên miệng, sững sờ đến không nói nên lời trước những lời báng bổ tuôn ta từ miệng Paul.
"Kẻ nào có thể hủy diệt một vật thì mới thực sự làm chủ nó," Paul nói. "Chúng ta có thể hủy diệt hương dược."
"Cái gì ngăn được bàn tay của Hiệp hội?" Jessica thì thầm.
"Họ đang truy lùng con," Paul nói. "Hãy nghĩ đến điều đó! Những hoa tiêu tài giỏi nhất của Hiệp hội, những người có thể truy về phía trước xuyên qua thời gian đặng tìm ra lộ trình an toàn nhất cho những Đại thương thuyền nhanh nhất, tất cả đều đang truy lùng con... và không thể tìm thấy con. Chúng run như cầy sấy chưa kìa! Chúng biết con nắm giữ bí mật của chúng ở đây!" Paul chìa bàn tay đang khum lại ra. "Không có hương dược thì chúng là kẻ đui mù."
Chani đã thốt được nên lời. "Anh nói anh thấy được cái bây giờ?"
Paul nằm xuống, tìm kiếm cái hiện tại đang căng trải ra, những giới hạn của nó mở tận vào tương lai và tận vào quá khứ, chàng bám lấy ý thức một cách chật vật bởi sự mặc khải nhờ hương dược đã bắt đầu yếu đi.
"Làm như con đã ra lệnh đi," chàng nói. "Tương lai đang trở nên rối ren đối với Hiệp hội cũng như đối với con. Những tuyến thị kiến đang thu hẹp lại. Mọi vật đều tập trung vào đây, nơi có hương dược... nơi trước đây bọn chúng chưa dám xâm phạm tới... bởi xâm phạm có nghĩa là đánh mất cái mà chúng phải có được. Nhưng giờ thì chúng cùng đường rồi. Mọi con đường đều dẫn vào bóng tối."
Xứ Cát Xứ Cát - Frank Herbert Xứ Cát