Chướng ngại chỉ đe dọa được bạn một khi bạn rời mắt khỏi mục tiêu.

Henry Ford

 
 
 
 
 
Tác giả: Frank Herbert
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 48
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5856 / 755
Cập nhật: 2020-09-12 14:37:53 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 33
hượng đế tạo ra Arrakis để rèn giũa người trung tín.
- trích "Minh triết của Muad'Dib" của Công chúa Irulan
Trong im lặng của hang, Jessica nghe thấy tiếng cát loẹt xoẹt trên mặt đá khi mọi người đi lại, tiếng chim kêu xa xăm mà Stilgar có lần nói là tín hiệu của những người canh gác.
Những tấm chắn lớn bằng nhựa đã được dẹp khỏi cửa hang. Nàng có thể thấy những cái bóng của buổi chiều trôi ngang qua mép tảng đá trước mặt nàng và vùng lòng chảo trơ trụi ngoài kia. Nàng cảm thấy ánh sáng ban ngày đang rời bỏ họ, cảm thấy nó trong cái nóng khô rang cũng như trong những cái bóng. Nàng biết, ý thức được rèn luyện công phu của nàng chẳng bao lâu sẽ mang lại cho nàng cái mà những người Fremen kia hiển nhiên đang có - khả năng cảm nhận được ngay cả sự thay đổi nhỏ nhất trong độ ẩm không khí.
Họ phải thắt chặt bộ sa phục hối hả đến nhường nào một khi cửa hang đã mở!
Sâu trong hang, ai đó bắt đầu ngân nga:
"Ima trava okolo!
I korenja okolo!"
Jessica thầm dịch: "Đây là tro! Còn đây là rễ!"
Tang lễ Jamis đang bắt đầu.
Nàng nhìn ra hoàng hôn Arrakeen, nhìn những tầng màu sắc chồng chất trên bầu trời. Đêm đang bắt đầu trút bóng lên các tảng đá đằng xa và những cồn cát.
Nhưng cái nóng vẫn dai dẳng.
Cái nóng buộc nàng phải nghĩ về nước, về điều nàng đã quan sát thấy rằng có thể toàn bộ dân tộc này đã được rèn luyện để chỉ khát ở một số thời điểm đã định.
Cơn khát.
Nàng nhớ lại những làn sóng đẫm ánh trăng trên Caladan hắt những tấm áo dài trắng phau lên mặt đá... và làn gió nặng hơi ẩm. Còn giờ đây, làn gió nhẹ lùa qua chiếc áo dài nàng mặc làm khô héo những mảng da má và da trán để lộ ra ngoài. Ống thở mới làm nàng ngứa ngáy, và nàng nhận ra mình không thể nào bớt chú ý đến chiếc ống nối chạy suốt từ mặt nàng xuống bộ quần áo để giữ lại và tái tạo phần nước ẩm trong hơi thở.
Riêng bộ quần áo đã là cả một phòng tắm hơi.
"Bà sẽ thấy bộ sa phục dễ chịu hơn một khi bà đã thích nghi với hàm lượng nước thấp hơn chứa trong cơ thể," Stilgar đã nói.
Nàng biết ông nói đúng, nhưng hiểu biết ấy cũng chẳng làm cho cái khoảnh khắc này dễ chịu hơn. Nỗi ám ảnh vô thức về nước cứ đè nặng tâm trí nàng. Không, nàng tự chữa, ấy là ám ảnh về hơi ẩm.
Và đó là một vấn đề tế nhị hơn, sâu xa hơn.
Nàng nghe thấy những bước chân lại gần, quay lại thì thấy Paul từ sâu trong hang đang tiến đến, bị cô Chani khuôn mặt xinh xắn cầm tay mà lôi.
Lại một chuyện khác nữa, Jessica nghĩ. Cần phải cảnh báo Paul về chuyện đàn bà Fremen. Một phụ nữ sa mạc sẽ không thích hợp để làm vợ Công tước. Hầu thiếp thì được. Vợ thì không.
Rồi nàng lại tự hỏi: Mình đã bị nhiễm những âm mưu của ông ấy rồi ư? Và nàng nhận ra mình đã được chuẩn bị tốt đến thế nào để thích ứng với hoàn cảnh. Mình có thể nghĩ đến nhu cầu thành thân của hoàng tộc mà không một lần xét tới việc chính mình là hầu thiếp. Nhưng... mình đã không chỉ là hầu thiếp.
"Mẹ."
Paul dừng lại trước mặt nàng. Chani đứng sát cạnh cùi chỏ cậu.
"Mẹ, mẹ biết họ đang làm gì đằng kia không?"
Jessica nhìn vào mảng tối cặp mắt cậu đang đăm đăm nhìn nàng từ sau chiếc mũ trùm. "Mẹ nghĩ là có."
"Chani đã cho con xem... bởi con sẽ phải chứng kiến điều đó và... chính con phải cho phép người ta cân nước."
Jessica nhìn Chani.
"Họ đang lấy lại nước của Jamis," Chani nói, và giọng nói nhỏ nhẻ của cô phát ra từ đường mũi qua ống thở. "Lệ là vậy. Xác thịt thuộc về người đã khuất, nhưng nước của anh ta thuộc về bộ tộc... trừ trường hợp chết trong chiến trận."
"Họ bảo nước đó là của con," Paul nói.
Jessica tự hỏi tại sao điều này lại đột nhiên khiến nàng cảnh giác đề phòng.
"Trong một trận giao chiến, nước thuộc về người chiến thắng," Chani nói. "Đó là vì anh phải giao chiến ngoài trời, không mặc sa phục. Người thắng phải phục hồi lượng nước anh ta đã mất trong khi giao chiến."
"Tôi không cần nước của anh ta," Paul lẩm bẩm. Cậu cảm thấy mình là một phần trong số nhiều hình ảnh chuyển động cùng lúc theo cách rời rạc từng đoạn một, khiến con mắt bên trong bối rối. Cậu không biết chắc mình nên làm gì, nhưng có một điều cậu biết rõ: cậu không muốn nhận chỗ nước chưng cất từ xác của Jamis.
"Đó là... nước mà," Chani nói.
Jessica kinh ngạc trước cung cách cô bé nói. "Nước." Quá nhiều ý nghĩa trong một âm thanh giản dị. Một châm ngôn Bene Gesserit hiện ra trong tâm trí Jessica: "Sự sống sót là khả năng bơi trong nước lạ." Và Jessica nghĩ: Paul và ta, chúng ta phải tìm ra những dòng chảy, những mẫu hình trong những chỗ nước lạ này... nếu chúng ta muốn sống sót.
"Con sẽ nhận phần nước đó," Jessica nói.
Nàng nhận ra thanh điệu trong giọng mình. Nàng đã dùng chính âm sắc đó với Leto, khi bảo vị Công tước quá cố rằng ông sẽ nhận một khoản tiền lớn mà có người dâng tặng vì ông đã ủng hộ họ trong một vụ làm ăn đáng ngờ - bởi tiền là cái duy trì quyền lực của nhà Atreides.
Ở Arrakis, nước là tiền. Nàng thấy rõ điều đó.
Paul vẫn im lặng, ngay khi đó cậu biết cậu sẽ làm theo lệnh mẹ - không phải vì bà ra lệnh, mà vì giọng điệu của bà đã buộc cậu nhìn nhận lại tình thế. Từ chối phần nước đó có nghĩa là không tuân thủ tập quán của người Fremen.
Ngay lúc đó Paul nhớ lại những lời từ Kalima 4:67 trong cuốn Kinh thánh Màu Cam của Yueh. Cậu nói: "Từ nước mà ra mọi sự sống."
Jessica nhìn cậu chằm chằm. Nó học câu trích dẫn đó từ đâu vậy? nàng tự hỏi. Nó đã bao giờ học những huyền thuật đâu.
"Người xưa đã nói thế," Chani nói. "Giudichar mantene: Trong Shah-nama có viết, nước là tạo vật đầu tiên trong mọi tạo vật."
Vì một lý do nào đó mà Jessica không sao lý giải được (và điều này còn khiến nàng bứt rứt hơn cả chính điều nàng cảm thấy), đột nhiên nàng rùng mình. Nàng quay mặt đi để tránh cơn bối rối và cũng vừa kịp lúc để thấy hoàng hôn. Một vùng màu sắc như báo hiệu tai ương tràn khắp bầu trời khi vầng dương xuống dưới đường chân trời.
"Đến lúc rồi!"
Đó là giọng của Stilgar vang rền khắp hang. "Vũ khí của Jamis người đã bị giết. Jamis đã được Người, Shai-hulud, gọi đi; Shai-hulud, Đấng đã ra lệnh cho các tuần trăng ngày một khuyết và rốt cuộc thành như những nhành cây cong queo, héo úa." Giọng Stilgar chùng xuống. "Chuyện xảy ra cho Jamis là vậy."
Im lặng như tấm chăn trùm xuống cả hang.
Jessica nhìn thấy cái bóng xám của Stilgar di chuyển như một bóng ma trong phần tối của hang. Nàng lại nhìn ra ngoài lòng chảo, cảm thấy mát lạnh.
"Bằng hữu của Jamis hãy lại gần." Stilgar nói.
Những người đàn ông di chuyển sau lưng Jessica, hạ một tấm mành che kín cửa hang. Một quả đèn cầu duy nhất được thắp trên trần sâu bên trong hang. Ánh sáng màu vàng của nó tỏa lên một dòng người đang tiến vào trong. Jessica nghe thấy tiếng áo sột soạt.
Chani tiến lên một bước như thể bị ánh đèn lôi đi.
Jessica ghé sát tai Paul, nói bằng mật ngữ gia đình: "Theo gương họ đi; họ làm gì mình làm nấy. Chỉ là một buổi lễ giản dị để xoa dịu vong linh Jamis mà thôi."
Không chỉ vậy thôi đâu, Paul nghĩ. Và cậu cảm thấy một nỗi quặn thắt trong ý thức, như thể cậu đang cố nắm bắt một cái gì đang chuyển động để rồi buộc nó thôi chuyển động.
Chani nhẹ nhàng lùi lại bên Jessica, nắm tay nàng. "Đi nào, Sayyadina. Chúng ta phải ngồi cách nhau ra."
Paul quan sát họ đi xa dần vào trong bóng tối, để lại cậu một mình. Cậu cảm thấy bị bỏ rơi.
Những người đàn ông vừa chăng tấm mành bước đến cạnh cậu.
"Đi nào, Usul."
Cậu cho phép mình để người ta dẫn lối, để người ta đẩy cậu vào một vòng người vừa mới hình thành quanh Stilgar, ông ta đang đứng ngay dưới quả đèn cầu, bên cạnh một đống lùm lùm, cong queo, cứng đờ trên nền đá, khuất dưới một tấm áo dài.
Đám đông cúi xuống khi Stilgar ra hiệu, những chiếc áo dài của họ kêu sột soạt theo sau cử động này. Paul vừa cúi xuống theo họ vừa quan sát Stilgar, lưu ý thấy quả đèn cầu trên đầu soi rõ hai hố mắt của ông, rọi sáng màu vải xanh ở cổ ông. Paul chuyển sự chú ý sang cái đống phủ dưới chiếc áo dài cạnh chân Stilgar, nhận ra tay cầm một cây đàn baliset thòi ra từ dưới mớ vải.
"Khi vầng trăng thứ nhất mọc, linh hồn rời bỏ nước của cơ thể," Stilgar ngâm nga. "Người xưa nói vậy. Khi ta thấy vầng trăng thứ nhất mọc đêm nay, thì trăng sẽ gọi ai?"
"Jamis," đám đông đáp lại.
Stilgar xoay tròn một vòng trên một gót chân, lướt nhìn khắp vòng người. "Tôi từng là bạn của Jamis," ông nói. "Khi chiếc máy bay chim ưng sà xuống đầu chúng ta ở Lỗ-trong-Tảng-đá, chính Jamis đã cứu tôi thoát nạn."
Ông cúi xuống bên cái đống cạnh mình, nhấc chiếc áo dài ra. "Tôi nhận chiếc áo này với tư cách bằng hữu của Jamis - theo quyền của thủ lĩnh." Ông vắt chiếc áo ngang qua một vai, thẳng người dậy.
Giờ thì Paul thấy rõ cái đống lùm lùm được phơi bày ra kia gồm có những gì: màu xám nhạt lấp lánh của một bộ sa phục, một literjon méo mó, một chiếc khăn mà ở chính giữa là một cuốn sách nhỏ, tay cầm không lưỡi của một con dao pha lê, một vỏ dao rỗng, một chiếc cận la bàn, một chiếc distrans, một cây dùi gọi, một đống móc kim loại cỡ số một, một lô những cái trông như những hòn đá nhỏ nằm trong một tấm vải, một búi lông vũ bó lại với nhau... và cây đàn baliset phơi ra cạnh chiếc túi gấp lại.
Vậy ra Jamis chơi đàn baliset, Paul nghĩ. Nhạc cụ này khiến Paul nhớ đến Gurney Halleck và tất cả những gì đã mất. Nhờ ký ức trước đây của cậu về tương lai, Paul biết rằng một vài tình thế ngẫu nhiên nào đó có thể mang lại cuộc gặp gỡ với Halleck, song những cuộc tái hợp đều ít ỏi và mơ hồ. Chúng làm cậu rối trí. Nhân tố bất định khiến cậu băn khoăn. Phải chăng vậy có nghĩa là một việc nào đó ta sẽ làm... một việc nào đó ta có thể sẽ làm, biết đâu sẽ hủy diệt Gurney... hoặc đưa ông ấy trở lại cuộc sống... hay là...
Paul nuốt nước bọt, lắc đầu.
Một lần nữa, Stilgar khom mình trên đống đồ vật.
"Cho người đàn bà của Jamis và cho đội bảo vệ," ông nói. Những hòn đá nhỏ và cuốn sách được cất vào nếp áo dài của ông.
"Quyền của thủ lĩnh," đám đông ngân nga.
"Dấu hiệu để người ta phục vụ cà phê cho Jamis," Stilgar nói, rồi nhấc lên một chiếc đĩa dẹt bằng kim loại màu xanh lục. "Nó sẽ được trao cho Usul trong buổi lễ thích hợp khi chúng ta quay lại sietch."
"Quyền của thủ lĩnh," đám đông ngân nga.
Cuối cùng, ông cầm cán dao pha lê, thẳng người lên. "Dành cho bình nguyên tang lễ," ông nói.
"Dành cho bình nguyên tang lễ," đám đông ngân nga.
Đứng ở chỗ của mình giữa vòng người, đối diện Paul, Jessica gật đầu, nhận ra nguồn gốc xa xưa của nghi thức này, và nàng nghĩ: Cuộc gặp gỡ giữa dốt nát và hiểu biết, giữa tàn bạo và văn hóa - nó bắt đầu trong sự tôn trọng mà chúng ta dành cho người đã khuất. Nàng nhìn qua vòng người về phía Paul, tự hỏi: Nó có nhận ra điều đó không? Liệu nó có biết phải làm gì không?
"Chúng ta là bạn của Jamis," Stilgar nói. "Chúng ta không than khóc cho người đã khuất như một lũ garvarg."
Một người râu xám đứng bên trái Paul đứng dậy. "Tôi từng là bạn của Jamis," anh ta nói. Anh ta tiến về phía đống đồ vật, cầm chiếc distrans lên. "Khi nước của chúng tôi xuống dưới mức tối thiểu hồi bị vây hãm ở Hai Con Chim, Jamis đã chia sẻ nước." Anh ta quay lại chỗ của mình trong vòng người.
Liệu mình có phải nói mình là bạn của Jamis không? Paul tự hỏi. Họ có chờ đợi mình lấy một món gì đó từ đống kia không? Cậu thấy những khuôn mặt quay về phía cậu rồi quay đi. Họ chờ đợi điều đó!
Một người khác đối diện Paul đứng dậy, tiến lại chỗ chiếc túi, lấy chiếc cận la bàn ra. "Tôi từng là bạn của Jamis," anh ta nói. "Khi đội tuần tra bắt gặp chúng tôi ở Khúc-Quanh-Mỏm-Đá và tôi bị thương, Jamis đã đánh bật chúng đi, nhờ vậy những người bị thương mới được cứu thoát." Anh ta quay lại chỗ của mình trong vòng người.
Một lần nữa, những khuôn mặt quay về phía Paul, và cậu thấy sự chờ đợi trên những khuôn mặt đó, bèn cụp mắt xuống. Một cùi chỏ hích vào cậu và một giọng nói rít lên: "Anh muốn mang sự hủy diệt đến cho chúng ta sao?"
Làm sao mình có thể nói mình là bạn của Jamis được? Paul tự hỏi.
Một dáng người khác đứng lên từ trong vòng người, chỗ đối diện Paul, và khi khuôn mặt bị mũ trùm che khuất hiện ra dưới ánh sáng, cậu nhận ra mẹ cậu. Nàng lấy một chiếc khăn từ chỗ đống đồ vật. "Tôi từng là bạn của Jamis," nàng nói. "Khi linh hồn của các linh hồn bên trong anh ấy nhận ra những đòi hỏi của chân lý, linh hồn ấy đã rút lui và tha mạng cho con tôi." Nàng quay về chỗ.
Và Paul nhớ lại nỗi khinh miệt trong giọng nói của mẹ khi mẹ đối mặt cậu ngay sau trận chiến. "Làm kẻ giết người thì thấy thế nào?"
Một lần nữa, cậu thấy những khuôn mặt quay về phía cậu, cảm thấy nỗi tức giận và e sợ trong đám đông. Một đoạn trong một cuốn sách phim mà mẹ từng cho cậu xem về "Sự tôn thờ người chết" thoáng qua tâm trí Paul. Cậu biết mình phải làm gì.
Chầm chậm, Paul đứng dậy.
Một tiếng thở dài lan khắp vòng người.
Càng tiến đến giữa vòng tròn, Paul càng cảm thấy cái tôi của mình thu nhỏ lại. Như thể cậu đã đánh mất một mảnh của chính mình và đang tìm nó ở đây. Cậu cúi xuống đống vật tùy thân, nhấc cây baliset lên. Một dây đàn khẽ bật lên khi chạm vào một cái gì đó trong đống đồ vật.
"Tôi từng là bạn của Jamis," Paul thì thầm.
Cậu cảm thấy nước mắt nóng hổi trong mắt cậu, buộc mình nói to hơn. "Jamis đã dạy tôi... rằng... khi ta giết người... ta phải trả giá. Tôi ước gì mình đã quen biết Jamis nhiều hơn."
Mò mẫm, cậu quay về chỗ của mình trong vòng người, ngồi bệt xuống nền đá.
Một giọng khẽ vang lên: "Anh ta nhỏ nước mắt!"
Lời đó được truyền đi khắp vòng người: "Usul trao hơi ẩm cho người đã khuất."
Cậu cảm thấy có những ngón tay chạm vào bờ má còn ướt của cậu, nghe thấy những tiếng thì thầm kính sợ.
Nghe thấy những giọng nói, Jessica nhận ra chiều sâu của điều người Fremen đang cảm nhận, hiểu rằng ở họ ắt phải có những cấm đoán kinh khủng đến nhường nào đối với việc để rơi nước mắt. Nàng tập trung chú ý vào câu: "Anh ấy trao hơi ẩm cho người đã khuất." Nước mắt, đó là một món quà cho thế giới bóng tối. Không nghi ngờ gì nữa, nước mắt sẽ được tôn sùng.
Không gì trên hành tinh này có thể khắc sâu vào tâm trí nàng một cách mạnh mẽ đến thế về giá trị tối thượng của nước. Không phải những người bán nước dạo, không phải làn da khô héo của người dân bản xứ, không phải sa phục hay những quy định khắt khe của kỷ luật nước. Ở đây có một thứ tinh chất còn quý hơn mọi thứ, đó là bản thân sự sống và bện chặt quanh nó là biểu tượng, là nghi lễ.
Nước.
"Tôi đã sờ má anh ấy," ai đó thì thầm. "Tôi cảm nhận được món quà."
Ban đầu, những ngón tay sờ mặt Paul khiến cậu sợ. Cậu siết chặt chiếc cần lạnh giá của cây đàn baliset, cảm thấy những dây đàn miết chặt đến đau nhói vào lòng bàn tay cậu. Thế rồi cậu thấy những khuôn mặt phía trên những bàn tay mò mẫm đó - những đôi mắt mở to, kinh ngạc.
Ngay sau đó, những bàn tay rụt lại. Tang lễ lại tiếp tục. Nhưng lúc này có một khoảng trống tinh tế xung quanh Paul, đám đông lùi lại, suy tôn cậu bằng một sự cách biệt đầy cung kính.
Tang lễ kết thúc bằng những lời ngân nga khe khẽ:
"Trăng tròn gọi anh...
Anh sẽ nhìn thấy Shai-hulud;
Đêm đỏ ối, trời mờ tối.
Anh đã chết đẫm máu.
Chúng ta cầu nguyện trăng: mặt trăng tròn...
Rồi chúng ta sẽ lắm vận may,
Chúng ta tìm thứ gì sẽ tìm ra thứ đó
Ở vùng đất rắn."
Bên chân Stilgar vẫn còn một cái túi căng phồng. Ông cúi xuống, đặt hai lòng bàn tay lên nó. Ai đó đến cạnh ông, cúi xuống bên cùi chỏ ông, và Paul nhận ra khuôn mặt Chani trong bóng tối chiếc mũ trùm.
"Jamis đã mang ba mươi ba phẩy bảy lít và ba trăm ba mươi phần sáu mươi dram nước của bộ tộc," Chani nói. "Bây giờ ta ban phúc cho nó trước sự hiện diện của Sayyadina. Ekkeri-akairi, đây là nước, fillissin-follasy của Paul Muad'Dib! Kivi a-kavi, không bao giờ thêm nữa, nakalas! Nakelas! được đong đếm nữa, ukair-an! bởi những nhịp tim jan-jan-jan của Jamis, bằng hữu của chúng ta..."
Trong im lặng đột ngột và sâu thẳm, Chani quay lại, nhìn đăm đăm vào Paul. Ngay sau đó cô nói: "Nơi đâu tôi là lửa, người hãy là than. Nơi đâu tôi là sương, người hãy là nước."
"Bi-lal kaifa," đám đông ngân nga.
"Phần nước này trao cho Paul Muad'Dib," Chani nói. "Hãy để anh ấy giữ gìn nó cho bộ tộc, bảo vệ nó, không để nó mất đi vì bất cẩn. Hãy để anh ấy hào phóng trao nó đi những lúc cần. Hãy để anh ấy trao lại nó vì lợi ích của bộ tộc khi thời khắc của anh ấy đến."
"Bi-lal kaifa," đám đông ngân nga.
Mình phải nhận chỗ nước đó, Paul nghĩ. Chầm chậm, cậu đứng dậy, tiến lại bên Chani. Stilgar lùi lại nhường chỗ cho cậu, nhẹ nhàng lấy cây baliset từ tay cậu.
"Quỳ xuống," Chani nói.
Paul quỳ xuống.
Cô cầm tay cậu hướng về phía túi nước, để tay cậu sờ thấy bề mặt co giãn của túi. "Bộ tộc tin cậy trao cho anh chỗ nước này," cô nói. "Jamis đã ra đi, để nó lại. Hãy thanh thản nhận lấy." Cô đứng dậy, kéo Paul đứng theo.
Stilgar trao lại cho cậu cây baliset, chìa ra một đống vòng kim loại nhỏ trên một lòng bàn tay. Paul nhìn chúng, thấy có nhiều cỡ khác nhau, nhận thấy ánh đèn cầu phản chiếu trở lại từ chúng.
Chani cầm chiếc vòng lớn nhất, tròng vào một ngón tay. "Ba mươi lít," cô nói. Rồi cô lần lượt cầm lên từng cái một, vừa chìa cho Paul xem vừa đếm: "Hai lít; một lít; bảy mươi vòng đếm nước, mỗi vòng là một dram; một vòng đếm nước ba trăm ba mươi phần sáu mươi dram. Tổng cộng là ba mươi ba phẩy bảy lít và ba trăm ba mươi phần sáu mươi dram."
Cô chìa các chiếc vòng đeo trên ngón tay mình cho Paul thấy.
"Anh có nhận không?" Stilgar hỏi.
Paul nuốt nước bọt, gật đầu. "Có."
"Sau này tôi sẽ chỉ cho anh cách buộc chúng vào khăn để chúng không khua lách cách làm anh bị lộ những lúc anh cần im lặng." Cô chìa tay ra.
"Cô... giữ hộ tôi được không?" Paul hỏi.
Chani hoảng hốt quay lại nhìn Stilgar.
Ông ta mỉm cười nói: "Paul Muad'Dib, cũng là Usul, chưa biết tập quán của chúng ta, Chani ạ. Hãy giữ các vòng đếm nước của anh ấy, nhưng đừng cam kết gì cho tới khi chỉ cho anh ấy phải mang chúng bằng cách nào." Cô gật đầu, rút một dải vải từ dưới chiếc áo choàng đang mặc ra, giắt vòng vào đó bằng những động tác đan xuống đan lên lắt léo, ngần ngừ một chút, rồi nhét tất cả vào trong thắt lưng dưới áo choàng.
Mình đã bỏ sót cái gì đó, Paul nghĩ. Cậu cảm thấy một không khí hài hước xung quanh cậu, có sự bỡn cợt nào đó trong cái hài hước ấy, và tâm trí cậu bỗng kết nối tới một ký ức tiên tri: trao vòng đếm nước cho một phụ nữ - nghi thức tán tỉnh.
"Thầy quản nước," Stilgar nói.
Đám đông đứng dậy, áo dài khua sột soạt. Hai người đàn ông bước ra, nhấc túi nước lên. Stilgar tháo đèn cầu trên trần xuống, cầm nó dẫn đường đi sâu vào trong lòng hang.
Paul bị đẩy vào đoàn người sau lưng Chani, lưu ý đến ánh sáng màu bơ trên những bức tường đá, những cái bóng nhảy múa, và cậu cảm thấy sự nâng đỡ linh hồn của đám đông hàm chứa trong một bầu không khí hối hả chờ đợi.
Bị những bàn tay hăm hở lôi vào cuối đoàn người, bị vây tứ phía bởi những thân mình xô đẩy, Jessica cố nén một khoảnh khắc hoảng hốt. Nàng đã nhận ra từng phần rời rạc của nghi lễ, xác định được những mẩu nhỏ tiếng Chakobsa và Bhotani-jib trong những lời nói, và nàng biết cái sức mạnh hoang dã có thể nổ bùng ra từ những khoảnh khắc có vẻ như bình thường kia.
Jan-jan-jan, nàng nghĩ. Đi-đi-đi.
Nó giống như một trò chơi trẻ con đã đánh mất mọi sự kiềm chế trong bàn tay người lớn.
Stilgar dừng lại bên một bức tường đá màu vàng. Ông ấn lên một mấu đá lồi ra, và bức tường lặng lẽ xoay vào trong, mở ra một vết nứt khác thường. Ông đi trước dẫn đường, băng qua một tấm lưới tối lỗ chỗ như tổ ong. Khi đi qua tấm lưới, Paul cảm thấy nó lùa một luồng không khí mát rượi lên người cậu.
Paul quay lại nhìn Chani vẻ dò hỏi, kéo tay cô. "Không khí đó nghe ẩm," cậu nói.
"Su...u...ỵ...t...t", cô thì thầm.
Nhưng một người sau lưng họ nói: "Đêm nay có nhiều hơi ẩm trong bẫy. Đó là cách để Jamis bảo chúng ta rằng anh ấy hài lòng."
Jessica đi qua cánh cửa bí mật, nghe nó đóng lại sau lưng nàng. Nàng nhận thấy người Fremen chậm bước lại lúc băng qua tấm lưới tổ ong, cảm nhận được sự ẩm ướt của không khí khi nàng đã sang tới phía bên kia.
Bẫy gió! nàng nghĩ. Họ có một cái bẫy gió giấu ở đâu đó trên mặt đất để lùa không khí xuống đây, đến những chỗ mát hơn, nhằm thu hơi ẩm trong không khí.
Họ đi qua một cánh cửa bằng đá khác phía trên có bức mành, và cửa đóng lại sau lưng họ. Luồng không khí sau lưng đem lại cảm giác ẩm ướt rõ rệt cho cả Jessica lẫn Paul.
Dẫn đầu đám đông, quả đèn cầu trong tay Stilgar thụt xuống thấp hơn tầm những đầu người đi trước Paul. Ngay sau đó cậu cảm thấy có những bậc thang dưới chân mình, quặt xuống về bên trái. Ánh sáng phản chiếu lại trên những cái đầu đội mũ trùm và trên chuyển động ngoằn ngoèo của đoàn người nối nhau xuống các bậc thang trôn ốc.
Jessica cảm thấy nỗi căng thẳng ngày càng tăng ở những người xung quanh nàng, áp lực của nỗi im lặng riết róng làm nhức nhối dây thần kinh của nàng.
Những bậc thang kết thúc khi đoàn người băng qua một cánh cửa thấp khác. Ánh đèn cầu giờ đây bị nuốt chửng trong một không gian rộng lớn có trần cao uốn cong.
Paul cảm thấy Chani đặt tay lên cánh tay cậu, nghe thấy tiếng nước chảy tí tách trong bầu không khí mát lạnh, cảm thấy một sự nín lặng tuyệt đối bao trùm lấy những người Fremen trước sự hiện diện đầy thánh thiêng của nước.
Mình đã thấy nơi này trong một giấc mơ, cậu nghĩ.
Ý nghĩ đó khiến cậu vừa an lòng vừa thất vọng. Ở đâu đó đằng trước cậu trên con đường này, những đoàn quân cuồng tín xẻ con đường đẫm máu xuyên qua vũ trụ dưới tên cậu. Ngọn cờ xanh đen của nhà Atreides sẽ trở thành biểu tượng của nỗi kinh hoàng. Những binh đoàn hung bạo sẽ xung trận mồm thét vang: "Muad'Dib!"
Điều đó không thể xảy ra, cậu nghĩ. Mình không thể để nó xảy ra.
Nhưng cậu cảm thấy được cái ý thức dòng giống riết róng đòi hỏi bên trong cậu, cái mục đích kinh khủng của chính cậu, và cậu biết không một thứ nhỏ nhặt nào làm chệch hướng nổi cái cỗ xe hủy diệt tàn khốc đó. Nó đang ngày càng nặng hơn, đà tiến càng mạnh mẽ hơn. Nếu cậu chết ngay trong khoảnh khắc này, vật đó sẽ cán qua mẹ và đứa em gái chưa chào đời của cậu. Không gì ngăn nổi vật đó, ngoại trừ cái chết của toàn bộ đám đông đang tụ tập ở đây, kể cả chính cậu và mẹ cậu.
Paul nhìn quanh, thấy đám đông giãn ra thành một hàng. Họ đẩy cậu lên phía trước về phía một hàng rào thấp tạc từ đá tự nhiên. Bên kia hàng rào, dưới ánh sáng quả đèn cầu trong tay Stilgar, Paul thấy một mặt nước tối thẫm phẳng lặng. Nó trải dài vào trong bóng tối - đen ngòm, sâu thẳm - bức tường đằng xa chỉ hiện lên mờ mờ, có lẽ cách chừng một trăm mét.
Jessica cảm thấy làn da khô nẻ trên má và trán mình dễ chịu hẳn đi trước sự hiện diện của hơi ẩm. Hồ nước khá sâu; nàng cảm thấy được độ sâu của nó; và cố cưỡng lại mong muốn ngâm tay vào đó.
Một tiếng nước bắn tóe vang lên phía bên trái nàng. Nàng nhìn xuống hàng người Fremen mờ tỏ trong ánh sáng nhá nhem thì thấy Stilgar cùng Paul đứng bên cạnh và các thầy quản nước đang đổ chỗ nước họ mang theo xuống hồ qua một lưu lượng kế. Cái lưu lượng kế là một con mắt tròn màu xám trên mép hồ. Nàng thấy mũi tên lấp lánh của nó di động khi nước chảy qua, thấy mũi tên dừng lại ở mức ba mươi ba lít, bảy dram và ba trăm ba mươi phần sáu mươi dram.
Cực kỳ chính xác khi đếm nước, Jessica nghĩ. Và nàng lưu ý thấy vách máng dẫn nước của chiếc lưu lượng kế không giữ lại dấu vết nào của hơi ẩm sau khi nước đi qua. Nước chảy ra khỏi những vách đó mà không cần tới áp lực bắt buộc. Nàng nhận ra một manh mối sâu xa về kỹ thuật của người Fremen ở sự kiện giản đơn này: họ là những kẻ cầu toàn.
Jessica tiến về phía hàng rào, đến bên cạnh Stilgar. Người ta nhường lối cho nàng một cách nhã nhặn tự nhiên. Nàng để ý thấy cái nhìn lãnh đạm trong mắt Paul, nhưng sự bí ẩn của cái hồ nước vĩ đại này đã choán hết ý nghĩ của nàng.
Stilgar nhìn nàng. "Trong chúng tôi có nhiều người cần nước," ông nói, "nhưng họ chỉ tới đây mà không đụng tới nước. Bà có biết điều đó không?"
"Tôi tin điều đó," nàng nói.
Ông nhìn cái hồ. "Chúng tôi có hơn ba mươi tám triệu đê ca lít ở đây," ông nói. "Chúng tôi xây tường ngăn để ngăn ngừa các Ngài tạo bé, để giấu kỹ và bảo vệ nước này."
"Cả một kho báu," nàng nói.
Stilgar nhấc cao quả đèn cầu lên để nhìn thẳng vào mắt nàng. "Nó còn hơn cả kho báu nữa. Chúng tôi có hàng ngàn nơi trữ nước như vậy. Chỉ vài người trong chúng tôi biết hết những nơi ấy." Ông nghếch đầu sang một bên. Quả đèn cầu hắt một ánh sáng mờ màu vàng qua mặt và râu ông. "Nghe thấy không?"
Họ lắng nghe.
Tiếng nước tí tách rỏ từ bẫy gió xuống ngự trị toàn không gian nơi đây. Jessica nhận thấy cả đám đông háo hức lắng nghe. Chỉ có Paul dường như ở đâu đó rất xa.
Với Paul, âm thanh đó như thể từng khoảnh khắc một đang tích tắc trôi qua. Cậu cảm thấy thời gian đang tuôn qua cậu, những khoảnh khắc không bao giờ tóm bắt lại được. Cậu cảm thấy cần phải quyết định, nhưng thấy mình bất lực không thể nhúc nhích.
"Nó được tính toán chi li chính xác," Stilgar thì thầm. "Chúng tôi biết rõ mình cần bao nhiêu triệu đê ca lít. Chừng nào có đủ, chúng tôi sẽ thay đổi bộ mặt của Arrakis."
Một tiếng thì thầm đáp lại từ phía đám đông: "Bi-lal kaifa!"
"Chúng tôi sẽ giam các đụn cát dưới những thảm cỏ," Stilgar nói, giọng càng lúc càng mạnh mẽ. "Chúng tôi sẽ trói buộc nước vào đất nhờ cây cối - cây trên cao, cây dưới thấp."
"Bi-lal kaifa," đám đông ngân nga.
"Mỗi năm băng ở hai cực sẽ một lùi dần," Stilgar nói.
"Bi-lal kaifa," đám đông ngân nga.
"Chúng tôi sẽ biến Arrakis thành thế giới quê hương, có những thấu kính làm tan băng ở các cực, có những hồ nước ở vùng ôn đới, chỉ dành sa mạc sâu cho Ngài tạo và hương dược của người."
"Bi-lal kaifa."
"Và không một ai còn phải đòi nước nữa. Nước sẽ có ê hề thỏa thích cho anh ta dưới giếng, dưới hồ ao, kênh rạch. Nước sẽ từ kênh dẫn nước tuôn ra tưới cho cây trái của chúng tôi. Nước sẽ luôn sẵn đó, ai cần thì lấy. Nước là của anh ta, chìa tay ra là có."
"Bi-lal kaifa."
Jessica cảm thấy cái nghi thức tôn giáo trong những lời đó, nhận thấy phản xạ kính sợ theo bản năng của chính mình. Họ liên minh với tương lai, nàng nghĩ. Họ có ngọn núi của chính họ để trèo. Đây là giấc mơ của nhà khoa học... thế mà những con người giản dị này, những nhà nông này, lòng tràn ngập giấc mơ đó.
Ý nghĩ của nàng quay lại Liet-Kynes, nhà sinh thái học hành tinh của Hoàng đế, con người đã trở thành dân bản xứ ở đây - và nàng lấy làm lạ về ông ta. Đó là một giấc mơ xâm chiếm linh hồn con người, và nàng cảm thấy có bàn tay của nhà sinh thái học kia ở trong đó. Đó là một giấc mơ mà vì nó người ta có thể sẵn sàng chết. Đó là một thành tố khác trong những thành tố cơ bản mà nàng cảm thấy con trai nàng cần phải có: một dân tộc có chung một mục đích. Một dân tộc như vậy sẽ dễ thấm nhuần sự nhiệt thành và cuồng tín. Có thể sử dụng họ làm thanh gươm để giành lại cho Paul vị trí lẽ ra thuộc về cậu.
"Giờ chúng ta sẽ đi khỏi đây," Stilgar nói, "và đợi đến khi vầng trăng đầu tiên mọc. Khi Jamis đã lên đường an toàn, chúng ta sẽ về nhà."
Đám đông vừa xì xầm tỏ vẻ miễn cưỡng vừa theo chân ông, quay lưng lại phía hàng rào ngăn hồ nước, đi lên các bậc thang.
Và Paul, bước cạnh Chani, cảm thấy một khoảnh khắc có tầm quan trọng sống còn đã lướt qua cậu, cảm thấy cậu đã bỏ qua một quyết định hệ trọng và giờ đây cậu kẹt trong huyền thoại về chính mình. Cậu biết mình đã thấy nơi này trước đây, đã trải nghiệm nó trong một mảnh giấc mơ tiên tri từ hồi ở Caladan xa xôi, song các chi tiết về nơi đó thì hồi ấy cậu chưa nhìn thấy, mãi bây giờ, ở đây mới được thêm vào. Cậu cảm thấy một cảm giác kinh ngạc mới mẻ về những giới hạn của khả năng mình. Như thể cậu đang cưỡi trên con sóng thời gian, khi thì tụt xuống bụng sóng, khi thì trồi lên đỉnh sóng - tứ phía xung quanh cậu những con sóng khác dềnh lên hạ xuống, phơi ra rồi lại giấu đi ngay những gì chúng mang trên bề mặt.
Qua tất cả những cái đó, cuộc thánh chiến điên cuồng vẫn lù lù trước mặt cậu, bạo lực và giết chóc. Nó như một doi đất sừng sững trên đỉnh sóng.
Đám người lũ lượt kéo qua cánh cửa sau cùng dẫn vào hang chính. Cánh cửa bị niêm phong. Đèn đã tắt hết, màn che được tháo khỏi cửa hang, để lộ màn đêm và những ngôi sao đã xuất hiện phía trên sa mạc.
Jessica tiến lại chỗ mép cửa hang khô khốc, nhìn lên những vì sao. Chúng trông thật gần, thật sắc nét. Nàng cảm thấy đám đông rục rịch quanh mình, nghe thấy đâu đó cạnh nàng có tiếng lên dây đàn baliset, và giọng Paul ngân nga từng nốt. Trong giọng cậu có một nỗi u sầu mà nàng không thích.
Giọng Chani vang lên từ bóng tối dày đặc của hang: "Kể cho em nghe về nước ở quê hương anh đi, Paul Muad'Dib."
Và giọng Paul: "Khi khác nhé, Chani. Tôi hứa."
Buồn quá đỗi.
"Cây đàn tốt đấy," Chani nói.
"Rất tốt," Paul nói. "Theo em, nếu tôi dùng nó thì liệu Jamis có phiền lòng không?"
Nó nói về người đã khuất như thể anh ta vẫn đang sống, Jessica nghĩ. Ẩn ý trong câu nói khiến nàng thấy bứt rứt.
Một giọng đàn ông cất lên: Thỉnh thoảng anh ta thích nhạc, Jamis ấy.
"Vậy thì hát em nghe một bài của anh đi," Chani nói.
Cái giọng trẻ con-thiếu nữ kia có sức quyến rũ thật đàn bà, Jessica nghĩ. Mình phải cảnh cáo Paul về đám phụ nữ Fremen... mà phải nhanh lên.
"Đây là bài hát của một người bạn tôi," Paul nói. "Chắc lúc này ông ấy chết rồi, ông ấy là Gurney. Ông ấy gọi đây là bài hát nguyện buổi chiều."
Đám đông nín lặng, lắng nghe Paul cất giọng nam cao thiếu niên ngọt ngào, với tiếng cửu huyền cầm bập bùng, lảnh lót đệm theo:
"Đây là lúc nhìn rõ nhất những mẩu than âm ỉ
Mặt trời vàng biến mất trong bóng chiều chạng vạng.
Ôi cảm xúc điên cuồng, mùi xạ hương nồng nặc
Là bạn đời của nỗi nhớ nhung."
Jessica cảm thấy cái âm nhạc bằng lời đó trong ngực mình - ngoại giáo và đầy những âm thanh khiến nàng ý thức về chính mình một cách đột ngột và mạnh mẽ, cảm thấy cơ thể mình và những nhu cầu của nó. Nàng lắng nghe với sự im lặng căng thẳng.
"Lễ cầu hồn lư hương ngọc trai của bóng đêm...
Dành cho chúng ta!
Niềm vui nào lướt qua mau -
Sáng trong cặp mắt em...
Tình yêu dát hoa nào
Làm thắt tim ta...
Tình yêu dát hoa nào
Choán ngợp lòng khao khát của ta."
Và Jessica nghe thấy cái dư-âm-im-lặng kêu o o trong không khí cùng nốt nhạc cuối cùng. Tại sao con ta hát một bản tình ca cho đứa trẻ-thiếu nữ đó? nàng tự hỏi. Nàng đột nhiên thấy sợ. Nàng cảm thấy sự sống tuôn chảy quanh mình mà nàng không sao kiểm soát được. Tại sao nó lại chọn bài ấy? nàng tự hỏi. Đôi khi bản năng cũng đúng. Tại sao nó làm vậy?
Paul ngồi câm lặng trong bóng tối, một ý nghĩ nghiệt ngã duy nhất ngự trị trong ý thức cậu: Mẹ ta là kẻ thù của ta. Bà không biết điều đó, nhưng bà chính là như vậy. Bà đang mang lại cuộc thánh chiến. Bà sinh ra ta; bà huấn luyện ta. Bà là kẻ thù của ta.
Xứ Cát Xứ Cát - Frank Herbert Xứ Cát