A book that is shut is but a block.

Thomas Fuller

 
 
 
 
 
Tác giả: Frank Herbert
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 48
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5856 / 755
Cập nhật: 2020-09-12 14:37:53 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 15
ọn chúng vừa toan lấy mạng con ta!
Trên lối ra của sân đáp tàu Arrakeen có một dòng chữ được khắc thô thiển như thể bằng một dụng cụ tồi, dòng chữ mà Muad'Dib đã nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần. Người nhìn thấy nó ngay đêm đầu tiên đến Arrakis, khi được đưa đến đồn chỉ huy của Công tước để tham gia cuộc họp toàn thể ban tham mưu đầu tiên của phụ thân người. Lời lẽ trong dòng chữ đó là lời cầu xin đối với những người rời khỏi Arrakis, song những lời mang ý nghĩa u ám đó đã đập vào mắt một cậu bé vừa thoát khỏi cái chết trong đường tơ kẽ tóc. Dòng chữ viết: "Ôi các người, nếu biết được chúng tôi đang phải hứng chịu những gì ở chốn này, xin đừng quên chúng tôi trong lời cầu nguyện của các người."
- trích "Sổ tay của Muad'Dib" của Công chúa Irulan
"Toàn bộ lý thuyết về chiến tranh là sự mạo hiểm có tính toán," Công tước nói, "nhưng khi đi đến chỗ mạo hiểm gia đình của chính ta, thì cái yếu tố tính toán đã bị nhấn chìm trong... những cái khác."
Ông biết mình không kiềm chế được cơn tức giận như lẽ ra phải thế, và ông quay người, sải bước theo chiều dài chiếc bàn dài rồi lại quay trở lại.
Trong phòng họp ở sân đáp tàu chỉ có Công tước và Paul. Đó là một căn phòng có vẻ trống trải, đồ đạc chỉ có chiếc bàn dài, mấy cái ghế ba chân kiểu cổ xếp xung quanh, một tấm bản đồ và chiếc máy chiếu đặt ở một đầu bàn. Paul ngồi bên bàn gần chiếc bản đồ. Cậu kể cho cha nghe vụ tiểu ma đao và tường trình về việc một tên phản bội đã đe dọa cậu.
Công tước ngắt ngang lời Paul, đấm tay xuống bàn: "Hawat đã bảo ta rằng ngôi nhà này an toàn kia mà!"
Paul nói ngập ngừng: "Con cũng giận - lúc đầu ấy. Và con đã đổ lỗi cho Hawat. Nhưng mối đe dọa đó đến từ ngoài ngôi nhà này. Nó đơn giản, rõ ràng, và trực tiếp. Và nếu không nhờ sự huấn luyện của cha và nhiều người khác - trong đó có Hawat - thì mối đe dọa đó hẳn đã lấy được mạng con rồi."
"Con đang bênh vực ông ấy đấy à?" Công tước hỏi.
"Vâng."
"Ông ấy già rồi. Thế đấy. Ông ấy lẽ ra..."
"Ông ấy thông thái và giàu kinh nghiệm," Paul nói. "Cha có thể nhắc lại bao nhiêu lỗi lầm của Hawat nào?"
"Lẽ ra cha mới là người bênh vực ông ấy," Công tước nói. "Không phải con."
Paul mỉm cười.
Leto ngồi xuống chỗ đầu bàn, đặt một bàn tay lên tay con trai. "Hồi này con đã... trưởng thành rồi, con ạ." Ông nhấc tay lên. "Cha rất mừng vì điều đó." Ông đáp lại nụ cười của đứa con. "Hawat sẽ tự trừng phạt mình. Về chuyện này, ông ấy sẽ dành cho mình một cơn giận dữ với bản thân còn lớn hơn những gì cả hai cha con ta có thể cùng trút lên ông ấy."
Paul liếc về phía những ô cửa sổ tối sẫm bên kia tấm bản đồ, nhìn vào màn đêm tối đen. Ánh sáng trong phòng được phản chiếu từ lan can ban công bên ngoài. Cậu nhìn thấy sự chuyển động và nhận ra hình dáng một người bảo vệ trong đồng phục Atreides. Paul quay lại nhìn bức tường trắng sau lưng cha, rồi nhìn xuống mặt bàn sáng loáng, nhìn hai bàn tay mình đang siết lại thành nắm đấm trên đó.
Cánh cửa đối diện Công tước mở sầm ra. Thufir Hawat sải bước qua cửa, trông ông già sọm và khô cứng hơn bao giờ hết. Ông đi từng bước dọc theo chiếc bàn, dừng lại đứng nghiêm trước mặt Leto.
"Thưa Chúa công," ông lên tiếng, nói với một điểm trên đầu Leto, "Tôi biết tôi đã làm ngài thất vọng đến thế nào. Điều cần thiết bây giờ là tôi xin từ..."
"Ồ, ngồi xuống đi và đừng có hành động như một tên ngốc thế," Công tước nói. Ông vẫy tay chỉ về chiếc ghế phía bên kia bàn đối diện Paul. "Nếu ông phạm lỗi, thì lỗi ấy là ông đã đánh giá bọn Harkonnen quá cao. Cái đầu ngu ngốc của bọn chúng chỉ nghĩ ra được cái âm mưu đơn giản đến thế thôi. Chúng ta đã không tính đến những âm mưu đơn giản. Và con ta đã đặc biệt lưu ý ta rằng nó an toàn thoát khỏi âm mưu này phần lớn là nhờ công dạy dỗ của ông. Về điểm đó thì ông đã không thất bại!" Ông vỗ nhẹ vào lưng chiếc ghế trống. "Ta nói rồi, ngồi xuống đi!"
Hawat hạ người xuống ghế. "Nhưng..."
"Ta sẽ không nghe thêm gì về việc ấy nữa," Công tước nói. "Vụ đó qua rồi. Chúng ta còn những việc cấp bách hơn. Những người khác đâu rồi?"
"Tôi bảo họ đợi bên ngoài trong lúc tôi..."
"Gọi họ vào đi."
Hawat nhìn vào mắt Công tước. "Thưa Ngài, tôi..."
"Ta biết ai là những người bạn thực sự, Thufir ạ," Công tước nói. "Gọi những người khác vào đây."
Hawat nuốt nước bọt. "Ngay lập tức, thưa Chúa công." Ông xoay người trong chiếc ghế, gọi với ra ngoài cánh cửa đang mở: "Gurney, đưa họ vào đi."
Halleck dẫn hàng quân vào phòng, những sĩ quan tham mưu trông vẻ nghiêm trang, theo sau là các chuyên gia và đội sĩ quan phụ tá trẻ hơn, từ họ toát lên một không khí háo hức. Tiếng kéo lê chân ghế vang dội quanh phòng khi những người này lấy chỗ ngồi. Mùi thơm của chất kích thích rachag phảng phất dưới bàn.
"Ai muốn uống thì có cả cà phê đấy," Công tước nói.
Ông nhìn mọi người, suy nghĩ: Họ là một đội giỏi. Với cái kiểu chiến tranh này thì người ta có thể làm tồi hơn thế nhiều.Ông chờ đợi trong lúc phòng kế bên mang cà phê vào phục vụ mọi người, để ý thấy nét mệt mỏi trên vài gương mặt.
Ngay sau đó, ông đeo cái mặt nạ điềm tĩnh vào, đứng lên, gõ tay lên bàn ra lệnh cho họ chú ý.
"Nào, thưa quý vị," ông nói, "nền văn minh của chúng ta dường như ngập quá sâu vào thói quen đi xâm lược đến nỗi chúng ta thậm chí không thể tuân theo một mệnh lệnh đơn giản của Đế chế mà những lề thói cũ lại không tự dưng xuất hiện."
Những tiếng cười khùng khục khô khan vang lên xung quanh bàn, và Paul nhận ra cha cậu đã nói đúng vấn đề bằng đúng cái giọng phù hợp để nâng cao tinh thần mọi người ở đây. Thậm chí thoáng mệt mỏi trong giọng của ông cũng phù hợp nốt.
"Tôi nghĩ đầu tiên chúng ta nên biết liệu Thufir có thêm được gì vào bản báo cáo về người Fremen không?" Công tước nói. "Thufir?"
Hawat liếc nhìn lên. "Tôi sẽ đi vào một số vấn đề kinh tế sau bản báo cáo tổng hợp, thưa Ngài, nhưng tôi có thể nói ngay là càng lúc người Fremen càng chứng tỏ họ là những đồng minh chúng ta cần. Bây giờ họ đang đợi xem liệu có thể tin tưởng chúng ta không, nhưng họ có vẻ xử sự rất thoáng. Họ vừa gửi cho chúng ta một món quà - những bộ sa phục do họ sản xuất... bản đồ một số vùng sa mạc bao quanh các đồn lũy mà bọn Harkonnen bỏ lại..." Ông liếc xuống bàn. "Những báo cáo tình báo của họ hoàn toàn đáng tin cậy và đã giúp chúng ta rất nhiều trong việc đàm phán với Phán quan Phụ trách Thay đổi. Họ cũng vừa gửi vài món phụ - nữ trang cho Lệnh bà Jessica, rượu hương dược, đường phèn, thuốc. Người của tôi đang xử lý lô hàng đó. Có vẻ như không có gì gian trá cả."
"Ông thích những người này, phải không Thufir?" một người ngồi ở bàn hỏi.
Hawat quay lại đối mặt với người hỏi. "Duncan Idaho nói rằng họ là những người đáng ngưỡng mộ."
Paul liếc cha, quay lại nhìn Hawat, rồi đánh bạo hỏi: "Thầy có thông tin gì mới về việc có bao nhiêu người Fremen không?"
Hawat nhìn Paul. "Từ việc chế biến thực phẩm và các bằng chứng khác, Idaho ước tính khu liên hợp hang động mà anh ấy đến thăm có khoảng vài chục ngàn người cả thảy. Thủ lĩnh của họ nói rằng ông ta cai trị một sietch gồm hai ngàn gia đình. Chúng ta có lý do để tin rằng có một số lượng cộng đồng hang lớn đến thế. Tất cả bọn họ dường như đều dâng lòng trung thành cho một người có tên là Liet."
"Tin này thì mới đây," Leto nói.
"Đó có thể là một sai sót về phần tôi, thưa Chúa công. Có nhiều điều để tin rằng có thể ông Liet này là một ông thánh của dân địa phương."
Một người khác ở bàn hắng giọng hỏi: "Có chắc là họ giao thiệp với bọn buôn lậu không?"
"Một đoàn buôn lậu đã rời cái hang này trong lúc Idaho ở đó, mang theo một lượng lớn hương dược. Họ sử dụng thú dữ để thồ hàng và cho biết họ đã phải trải qua một cuộc hành trình mười tám ngày ròng rã."
"Dường như bọn buôn lậu đã tăng cường hoạt động gấp đôi trong thời buổi hỗn loạn này," Công tước nói. "Việc này đáng để suy xét cẩn thận đây. Chúng ta không nên quá lo lắng về những tàu chiến không được cấp phép đang hoạt động bên ngoài hành tinh chúng ta - chuyện đó thì bao giờ bọn họ chẳng làm. Nhưng để họ hoàn toàn nằm ngoài tầm theo dõi của chúng ta - việc này cũng không tốt."
"Ngài có phương án rồi đúng không, thưa Chúa công?" Hawat hỏi.
Công tước nhìn Halleck. "Gurney, ta muốn ông dẫn đầu một phái đoàn, làm đại sứ nếu ông muốn, để tiếp xúc với những thương gia lãng mạn này. Bảo với họ là ta sẽ phớt lờ chuyện làm ăn của họ với điều kiện họ nộp cho ta một khoản thuế nhỏ. Về điểm này Hawat đã ước tính rằng khoản tiền mà xưa nay họ phải bỏ ra để đút lót và nuôi thêm quân chiến đấu hầu có thể hoạt động được cũng đã lớn gấp bốn lần khoản thuế này."
"Điều gì sẽ xảy ra nếu Hoàng đế nghe phong thanh chuyện này?" Halleck hỏi. "Ông ấy cố sống cố chết bảo vệ nguồn lợi nhuận trong công ty CHOAM của mình, thưa Chúa công."
Leto mỉm cười. "Chúng ta sẽ công khai gửi toàn bộ tiền thuế vào ngân hàng dưới cái tên Shaddam IV và sẽ khấu trừ hợp pháp các khoản chi phí hỗ trợ thu thuế của chúng ta. Cứ để bọn Harkonnen đấu tranh chống lại việc đó! Và chúng ta sẽ làm phá sản thêm ít nhiều dân địa phương đã vớ bẫm dưới chế độ Harkonnen. Không còn việc đút lót nữa!"
Một nụ cười toe toét làm biến dạng khuôn mặt Halleck. "Chà chà, thưa Chúa công, một cú đả kích ra trò đấy. Giá mà tôi có thể thấy gương mặt lão Nam tước khi lão biết chuyện này."
Công tước quay sang Hawat. "Thufir, ông đã có những bản kê khai tài chính mà ông nói là có thể mua được chưa?"
"Có rồi, thưa Chúa công. Ngay lúc này người của tôi vẫn đang nghiên cứu chi tiết. Tuy nhiên tôi đã đọc lướt qua, và có thể đưa ra một con số xấp xỉ đầu tiên."
"Vậy thì nêu ra đi."
"Cứ ba trăm ba mươi Ngày Chuẩn, bọn Harkonnen lại lấy mười tỷ solari ra khỏi đây."
Những tiếng thở hổn hển cố nén lan khắp bàn. Ngay những sĩ quan phụ tá trẻ hơn, những người vừa để lộ nỗi buồn chán, cũng ngồi thẳng hơn và mở to mắt nhìn nhau.
Halleck lẩm bẩm: "'Bởi bọn chúng sẽ hút vô vàn biển cả và châu báu ẩn dưới cát.' "
"Các vị thấy đấy," Leto nói. "Ở đây còn có ai ngây thơ tin rằng chỉ đơn thuần vì Hoàng đế ra lệnh mà bọn Harkonnen đã lẳng lặng thu dọn đồ đạc ra đi, bỏ lại tất cả?"
Mọi cái đầu đều lắc, họ xì xào tán đồng.
"Chuyện này thì chúng ta sẽ phải giải quyết bằng mũi gươm thôi," Leto nói. Ông quay sang Hawat. "Giờ thì đến lúc nghe báo cáo về chuyện thiết bị rồi. Bọn chúng để lại cho chúng ta bao nhiêu con bọ cát, xưởng khai thác, nhà máy hương dược và máy móc hỗ trợ?"
"Toàn bộ các thiết bị, theo như bản kê khai tài sản của Đế quốc đã được Phán quan Phụ trách Thay đổi kiểm tra, thưa Chúa công," Hawat nói. Ông ra hiệu cho một sĩ quan phụ tá đưa cho ông một tập hồ sơ, đặt trên bàn trước mặt rồi mở ra. "Người ta bỏ qua không nhắc tới rằng chưa tới phân nửa số bọ cát còn hoạt động được, rằng chỉ chừng một phần ba trong số đó có tàu thồ để mang chúng tới các bãi chứa hương dược - rằng tất cả những gì bọn Harkonnen để lại cho chúng ta đều sắp sửa gãy đôi và vỡ ra từng mảnh. Nếu đưa vào sử dụng được phân nửa số thiết bị cũng đã là may mắn cho chúng ta lắm rồi, và sẽ còn may hơn nếu sáu tháng nữa một phần tư trong số đó vẫn còn hoạt động."
"Cũng không khác nhiều so với những gì chúng ta chờ đợi," Leto nói. "Dự đoán chính xác về thiết bị cơ bản thì thế nào?"
Hawat liếc vào tập hồ sơ. "Khoảng chín trăm ba mươi xưởng khai thác sẽ được gửi trong vài ngày nữa. Khoảng sáu ngàn hai trăm năm mươi tàu chim để khảo sát, săn tìm hương dược và quan sát khí tượng... tàu thồ thì xấp xỉ một ngàn."
Halleck nói: "Nếu tiến hành đàm phán lại với Hiệp hội để xin phép đưa một tàu chiến lên quỹ đạo làm vệ tinh khí tượng thì liệu có rẻ hơn không?"
Công tước nhìn Hawat. "Không có gì mới về chuyện đó hả, Thufir?"
"Giờ thì chúng ta phải tìm cách khác," Hawat nói. "Đại diện của Hiệp hội không thực sự đàm phán với chúng ta. Hắn ta nói huỵch toẹt ra - như một Mentat nói với một Mentat khác - rằng giá cả nằm ngoài tầm với của chúng ta và sẽ cứ như vậy dù tầm với của chúng ta có dài ra đến đâu đi nữa. Nhiệm vụ của chúng ta là tìm hiểu tại sao trước khi gặp lại hắn."
Một sĩ quan phụ tá của Halleck ngồi ở cuối bàn cựa mình trên ghế, thốt lên gay gắt: "Chẳng có công lý nào trong chuyện này cả!"
"Công lý ư?" Công tước nhìn người đó. "Ai đòi công lý vậy? Tự chúng ta làm ra công lý của riêng mình. Chúng ta làm ra nó trên Arrakis này - thắng hay là chết. Ông có hối tiếc đã đánh bạc số phận mình với chúng tôi không, thưa ông?"
Người đó nhìn chằm chằm vào Công tước, rồi nói: "Không, thưa Ngài. Ông không còn đường quay lại và tôi chẳng thể làm gì khác ngoài đi theo ông. Xin tha thứ cho sự lỡ lời, nhưng..." anh ta nhún vai, "ắt hẳn tất cả chúng ta ai cũng có đôi khi cảm thấy căm phẫn."
"Nỗi căm phẫn thì ta hiểu," Công tước nói. "Nhưng chúng ta đừng nói năng căm phẫn về chuyện công lý chừng nào ta vẫn còn đôi tay và tự do để sử dụng đôi tay. Còn ai trong các vị đang nung nấu nỗi căm phẫn không? Nếu có thì hãy nói ra. Đây là cuộc họp thân mật, ai cũng có thể nói lên cảm nghĩ của mình."
Halleck cựa mình, nói: "thưa Chúa công, tôi nghĩ vấn đề bức bối là chúng ta không có người tình nguyện từ phía các Đại Gia tộc khác. Họ gọi Ngài là 'Leto Công chính' và hứa hẹn mãi mãi duy trì tình bằng hữu, nhưng chỉ chừng nào việc đó không khiến họ phải mất bất cứ thứ gì."
"Họ còn chưa biết ai sẽ thắng trong cuộc trao đổi này," Công tước nói. "Hầu hết các Gia tộc đã vớ bở nhờ chấp nhận ít rủi ro. Thật ra cũng không thể buộc tội họ về chuyện đó; chỉ có thể coi khinh họ thôi." Ông nhìn Hawat. "Chúng ta đang bàn chuyện thiết bị. Ông có thể trình bày vài ví dụ để mọi người làm quen với các máy móc này không?"
Hawat gật đầu, ra hiệu cho một sĩ quan phụ tá đang ở cạnh chiếc máy chiếu.
Một hình chiếu ba chiều xuất hiện phía trên mặt bàn, nằm ở chừng một phần ba khoảng cách tính từ điểm đặt máy đến chỗ Công tước ngồi. Vài người ngồi xa hơn dọc chiếc bàn đứng dậy để nhìn cho rõ.
Paul cúi người về phía trước, nhìn chằm chằm vào chiếc máy.
Xét theo tỉ lệ so với những hình người nhỏ xíu đứng xung quanh cỗ máy trong hình chiếu, cỗ máy dài khoảng một trăm hai mươi mét, rộng bốn mươi mét. Nhìn chung nó là một vật thể dài, giống như con bọ, di chuyển trên những bộ xích rộng hoạt động độc lập.
"Đây là một xưởng khai thác," Hawat nói. "Chúng tôi chọn một xưởng đã được sửa chữa tốt để làm hình chiếu. Còn có một bộ thiết bị gàu xúc đã đến đây cùng với nhóm đầu tiên các nhà sinh thái học của Đế quốc, thế mà nó vẫn chạy được... mặc dù tôi không biết làm cách nào... hoặc tại sao."
"Nếu đó là cái mà người ta gọi là 'Maria Khú đế' thì nó phải vào viện bảo tàng rồi mới phải," một sĩ quan phụ tá nói. "Chắc là bọn Harkonnen coi việc trông nom nó như một sự trừng phạt, một mối đe dọa treo lơ lửng trên đầu công nhân của chúng. Hãy làm ăn cho đàng hoàng, nếu không sẽ bị giao nhiệm vụ chăm sóc Maria Khú đế."
Những tiếng cười khùng khục vang lên quanh bàn.
Paul giữ mình tách ra khỏi sự hài hước, cậu tập trung chú ý vào hình chiếu và vào câu hỏi đã choán hết tâm trí cậu. Cậu chỉ vào hình ảnh trên bàn, nói: "Thầy Thufir, có những con sâu cát đủ lớn để nuốt chửng toàn bộ cái xưởng này phải không ạ?"
Sự im lặng nhanh chóng bao trùm lên chiếc bàn. Công tước rủa thầm, rồi nghĩ: Không - ở đây họ phải đối mặt với thực tế.
"Ở sâu trong sa mạc có những con sâu cát có thể nuốt toàn bộ cái xưởng này chỉ trong một miếng," Hawat nói. "Trên chỗ này, gần Tường Chắn, nơi sản xuất hầu hết hương dược, có cả đống sâu cát có thể làm hỏng và ngấu nghiến cái xưởng này tùy thích."
"Tại sao chúng ta không chặn chúng lại?" Paul hỏi.
"Theo báo cáo của Idaho," Hawat nói, "những tấm chắn gây nguy hiểm trong sa mạc. Một tấm chắn có kích thước bằng thân người sẽ thu hút tất cả bọn sâu cát ở chu vi hàng trăm mét. Có vẻ như tấm chắn sẽ khiến chúng điên cuồng giết chóc. Người Fremen đã nói với chúng ta về việc này và không có lý do gì để nghi ngờ họ. Idaho không nhìn thấy ở sietch có dấu vết gì của tấm chắn hết."
"Không chút gì sao?" Paul hỏi.
"Che giấu những thứ kiểu như thế giữa vài ngàn người không phải chuyện dễ," Hawat nói. "Idaho được tự do ra vào mọi chỗ trong sietch. Anh ta không nhìn thấy tấm chắn nào cũng như không thấy bất cứ dấu hiệu nào cho thấy họ có sử dụng tấm chắn."
"Thật là một vấn đề nan giải," Công tước nói.
"Chắc chắn bọn Harkonnen đã sử dụng nhiều tấm chắn ở đây," Hawat nói. "Bọn chúng thì ở làng đồn trú nào cũng có trạm sửa chữa, và các báo cáo của chúng cho thấy chúng phải chi rất nhiều để thay thế và cung cấp phụ tùng cho tấm chắn."
"Liệu người Fremen có cách nào để vô hiệu hóa tấm chắn không?" Paul hỏi.
"Có vẻ là không," Hawat nói. "Dĩ nhiên về nguyên tắc thì có thể - người ta cho rằng một phản điện tích tĩnh có kích thước cỡ shire thì có thể làm chuyện đó, nhưng chưa ai tiến hành thử nghiệm được cả."
"Trước đây chúng ta đã nghe nói về chuyện đó rồi," Halleck nói. "Bọn buôn lậu giao thiệp mật thiết với người Fremen cho nên nếu có một thiết bị như vậy thật thì hẳn chúng đã mua rồi. Và cũng chẳng ai ngăn cản chúng bán nó ra ngoài hành tinh này."
"Ta không thích một câu hỏi hệ trọng đến thế mà lại chưa có lời đáp," Leto nói. "Thufir, ta muốn ông dành ưu tiên số một để giải quyết vấn đề này."
"Chúng tôi đang tiến hành việc đó, thưa Chúa công." Hawat hắng giọng. "À-à, Idaho có nói điều này: anh ta bảo rằng không thể nhầm lẫn về thái độ của người Fremen đối với tấm chắn. Anh ta nói hầu như tất cả bọn họ đều rất thích thú về chúng."
Công tước cau mày rồi nói: "Chủ đề thảo luận là thiết bị khai thác hương dược."
Hawat ra hiệu cho viên sĩ quan phụ tá ở cạnh máy chiếu.
Hình ảnh ba chiều của xưởng khai thác được thay thế bằng hình chiếu của một thiết bị có cánh, xung quanh là những hình người nhỏ tí xíu. "Đây là một chiếc tàu thồ," Hawat nói. "Về cơ bản nó là một tàu chim lớn, chức năng độc nhất là chuyển một xưởng khai thác đến những vùng cát giàu hương dược, sau đó thì giải thoát cho nhà xưởng khi sâu cát xuất hiện. Bọn sâu cát thì luôn luôn xuất hiện. Thu hoạch hương dược là một quá trình tiến vào và thoát ra càng nhiều càng tốt."
"Thật quá phù hợp với nguyên tắc ứng xử của bọn Harkonnen," Công tước nói.
Tiếng cười ồ lên thật đột ngột và quá lớn.
Một chiếc tàu chim thay thế chiếc tàu thồ trong hình ảnh ba chiều.
"Những chiếc tàu chim này là loại khá thông thường," Hawat nói. "Nếu có những điều chỉnh lớn thì phạm vi hoạt động của chúng sẽ xa hơn. Người ta đã bổ sung thêm biện pháp bảo vệ bằng cách hàn kín những phần thiết yếu để chống lại cát và bụi. Chỉ khoảng một phần ba mươi được trang bị tấm chắn - có lẽ nếu loại bỏ trọng lượng của bộ phát trường chắn thì tầm hoạt động của tàu sẽ tăng lên."
"Ta không thích việc cắt giảm tấm chắn này," Công tước lẩm bẩm. Và ông nghĩ: Liệu có phải đây là bí mật của bọn Harkonnen không? Phải chăng như vậy nghĩa là chúng ta thậm chí sẽ không thể thoát khỏi đây trên những chiếc tàu chiến được trang bị tấm chắn nếu mọi chuyện đều bất lợi cho chúng ta? Ông lắc đầu quầy quậy để rũ bỏ những ý nghĩ như vậy, rồi nói: "Hãy chuyển sang các dự toán thực tế nào. Lợi nhuận của ta sẽ là bao nhiêu?"
Hawat lật hai trang trong cuốn sổ của ông. "Sau khi đánh giá các sửa chữa và thiết bị có thể vận hành, chúng tôi đã có được ước tính đầu tiên về chi phí hoạt động. Lẽ đương nhiên con số này được tính toán dựa trên số liệu đã khấu hao để cho mức lãi an toàn nhất." Ông nhắm mắt, đi vào trạng thái nửa nhập định của một Mentat, miệng nói: "Dưới thời Harkonnen, phí bảo dưỡng và lương được giữ ở mức mười bốn phần trăm. Chúng ta sẽ may mắn nếu ban đầu giữ được ở mức ba mươi phần trăm. Nếu tính tới khoản tái đầu tư và các nhân tố tăng trưởng, kể cả phần trăm cho CHOAM và chi phí quân sự, mức lãi của chúng ta sẽ bị giảm xuống rất thấp, chỉ khoảng sáu, bảy phần trăm cho tới chừng nào chúng ta thay được các thiết bị đã quá cũ kỹ. Đến lúc đó chúng ta có thể tăng mức lãi lên mười hai hay mười ba phần trăm, như lẽ ra phải thế." Ông mở mắt. "Trừ phi Công tước muốn áp dụng những phương pháp của nhà Harkonnen."
"Chúng ta đang cố nhằm tới một nền tảng vững chắc và lâu bền cho hành tinh này," Công tước nói. "Chúng ta phải duy trì tỷ lệ người dân hạnh phúc ở mức cao - nhất là người Fremen."
"Nhất là người Fremen," Hawat tán đồng.
"Hồi ở Caladan, chúng ta có uy thế là nhờ sức mạnh trên biển và trên không. Còn ở đây, chúng ta phải phát triển cái mà tôi muốn gọi là sức mạnh sa mạc. Nó có thể bao hàm sức mạnh không quân, nhưng cũng có thể không. Tôi muốn quý vị lưu ý tới việc thiếu lá chắn cho tàu chim." Ông lắc đầu. "Bọn Harkonnen trước đây sử dụng người tuyển từ ngoài hành tinh để đảm trách một số vị trí chủ chốt của chúng. Còn ta thì không dám. Nếu không thì cứ mỗi đợt người mới thể nào cũng sẽ có dăm ba thằng nội gián gây chia rẽ."
"Vậy thì ta sẽ buộc phải hài lòng với mức lãi thấp hơn nhiều và sản lượng ít hơn," Hawat nói. "Sản lượng của chúng ta trong hai mùa đầu sẽ giảm còn một phần ba so với mức bình quân của bọn Harkonnen."
"Đúng là như thế," Công tước nói, "đúng như chúng ta mong đợi. Chúng ta sẽ phải hành động nhanh với người Fremen. Ta muốn có năm tiểu đoàn đầy đủ lính Fremen trước khi CHOAM tiến hành kiểm tra sổ sách lần đầu tiên."
"Không còn nhiều thời gian cho việc đó nữa đâu, thưa Chúa công," Hawat nói.
"Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa, các vị biết rõ rồi đấy. Ngay khi có cơ hội, bọn chúng sẽ có mặt ở đây với quân Sardaukar giả trang thành Harkonnen. Ông nghĩ bọn chúng sẽ chuyển đến đây bao nhiêu quân hở Thufir?"
"Bốn hoặc năm tiểu đoàn cả thảy, thưa Chúa công. Không nhiều hơn, chi phí vận chuyển quân của Hiệp hội thế nào thì mọi người cũng biết đấy."
"Sau đó năm tiểu đoàn Fremen cộng với lực lượng của chúng ta phải hành động ngay. Chúng ta sẽ cho vài tên tù nhân Sardaukar diễu hành trước mũi Hội đồng Landsraad và mọi chuyện sẽ khác hẳn - lợi nhuận hoặc không lợi nhuận."
"Chúng ta sẽ làm hết sức mình, thưa Chúa công."
Paul nhìn cha, rồi quay lại Hawat, đột nhiên nhận ra tuổi tác của vị Mentat này, ý thức được rằng ông lão đã phục vụ ba thế hệ nhà Atreides. Tuổi già. Nó hiện lên trong ánh sáng ướt át của đôi mắt nâu, trong gò má khô sạm và nứt nẻ vì khí hậu ở những nơi xa lạ, trong đường cong của hai vai và trong đôi môi mỏng có màu đỏ của nước ép sapho đã bị biến màu.
Quá nhiều việc phụ thuộc vào ông già này, Paul nghĩ.
"Hiện chúng ta đang trong một cuộc chiến tranh sát thủ," Công tước nói, "nhưng nó chưa đạt tới quy mô trọn vẹn. Thufir, tình hình bộ máy Harkonnen ở đây thế nào rồi?"
"Chúng ta vừa loại trừ hai trăm năm mươi chín người chủ chốt của bọn chúng, thưa Chúa công. Còn lại không quá ba phòng giam Harkonnen - có lẽ một trăm người cả thảy."
"Những tên Harkonnen mà ông trừ khử," Công tước nói, "bọn chúng thuộc tầng lớp giàu có phải không?"
"Hầu hết đều lắm tiền nhiều của, thưa Chúa công - thuộc tầng lớp doanh nhân."
"Ta muốn ông hãy làm giả chứng thư tuyên thệ trung thành có chữ ký của từng tên một," Công tước nói. "Gửi năm bản sao cho Phán quan Phụ trách Thay đổi. Ta sẽ có lý do hợp pháp rằng chúng đã thề trung thành một cách giả dối. Hãy tịch thu tài sản của chúng, tịch thu mọi thứ, đuổi gia đình chúng đi, lột mũ áo chúng. Và hãy bảo đảm là Hoàng Đế có được mười phần trăm tài sản của chúng. Phải hoàn toàn hợp pháp đấy."
Thufir mỉm cười, để lộ hàm răng nhuộm đỏ dưới đôi môi màu đỏ son. "Một động thái xứng đáng với tổ tiên Ngài, thưa Chúa công. Điều này khiến tôi thấy hổ thẹn vì đã không nghĩ ra nó trước tiên."
Halleck cau mày nhìn sang phía bên kia bàn, bắt gặp vẻ giận dữ sâu xa trên mặt Paul. Những người khác vừa cười vừa gật gù.
Thật sai lầm. Paul nghĩ. Việc này chỉ khiến những người khác đấu tranh dữ dội hơn thôi. Bọn họ chẳng thu được gì từ việc đầu hàng.
Cậu biết cái quy ước bất thành văn tự-do-vô-giới-hạn vốn chi phối luật kanly, nhưng đây là một kiểu hành động có thể tiêu diệt họ ngay cả khi nó trao cho họ chiến thắng.
" 'Ta là một người lạ trên mảnh đất lạ,' " Halleck trích dẫn.
Paul nhìn ông chằm chằm, nhận ra lời trích dẫn từ Kinh thánh Màu Cam, băn khoăn: Phải chăng cả Gurney cũng muốn chấm dứt những mưu mô xảo quyệt?
Công tước liếc nhìn bóng đêm bên ngoài cửa sổ, rồi nhìn Halleck. "Gurney, trong số những thợ cát đó ông thuyết phục được bao nhiêu người ở lại với chúng ta?"
"Hai trăm tám mươi sáu người tất cả, thưa Chúa công. Tôi nghĩ nắm được họ là chúng ta có thể tự cho mình may mắn rồi. Tất cả bọn họ đều thuộc hạng lành nghề."
"Không nhiều hơn sao?" Công tước mím môi, rồi nói: "Được rồi, chuyển lời này đến..."
Tiếng ồn ào ngoài cửa ngắt lời ông. Duncan Idaho len qua đội bảo vệ trước cửa, đi vội vã dọc theo bàn và cúi xuống tai Công tước.
Leto phẩy tay ra hiệu cho anh ta lùi lại, nói: "Nói to lên, Duncan. Anh có thể thấy đây là ban tham mưu chiến lược."
Paul quan sát Idaho, chú ý những chuyển động như mèo và cái phản xạ mau lẹ đã giúp anh thành một thầy dạy vũ khí khó ganh đua đến thế. Khuôn mặt tròn đen sạm của Idaho quay về phía Paul, đôi mắt của người trông hang động không để lộ chút dấu hiệu quen biết nào, nhưng Paul nhận ra chiếc mặt nạ trầm tĩnh phủ ngoài sự kích động.
Idaho đưa mắt dọc chiếc bàn, nói: "Chúng tôi vừa bắt được một nhóm lính đánh thuê Harkonnen giả trang thành người Fremen. Chính người Fremen đã cử một người liên lạc đến để cảnh báo cho chúng ta về nhóm giả mạo này. Tuy nhiên, trong cuộc tấn công, chúng tôi thấy bọn Harkonnen đã phục kích người liên lạc - khiến anh ta bị trọng thương. Chúng tôi đang trên đường đưa anh ta về đây khám bác sĩ thì anh ta chết. Tôi đã thấy tình trạng nguy kịch của anh ta và dừng lại ngay để làm những gì có thể. Tôi bắt gặp anh ta đang cố gắng ném một cái gì đó đi." Idaho liếc xuống Leto. "Một con dao, thưa Chúa công, một con dao thuộc loại ngài chưa bao giờ nhìn thấy."
"Dao pha lê à?" có người hỏi.
"Không nghi ngờ gì," Idaho nói. "Màu trắng sữa, dường như tỏa sáng, lấp lánh thứ ánh sáng của riêng nó." Anh cho tay vào trong áo, rút ra một chiếc vỏ màu đen có tay cầm hình sống gợn.
"Hãy giữ dao trong vỏ!"
Một giọng nói cất lên từ cánh cửa mở phía cuối phòng, một giọng nói to, ngân vang làm mọi người đứng cả lên, nhìn chăm chăm.
Một người cao lớn, mặc áo choàng dài đứng bên cửa, bị chặn lại bởi những lưỡi gươm bắt chéo nhau của đội bảo vệ. Chiếc áo choàng màu nâu vàng phủ kín ông ta, chỉ trừ một kẽ hở giữa mũ trùm đầu và mạng che mặt màu đen để lộ đôi mắt toàn màu xanh nước biển - bên trong không có chút màu trắng nào.
"Để ông ta vào," Idaho nói khẽ.
"Cho người đó qua đi," Công tước nói.
Đội bảo vệ lưỡng lự, sau đó hạ thấp lưỡi kiếm xuống.
"Đây là Stilgar, thủ lĩnh của sietch mà tôi đã đến thăm, chỉ huy của những người đã cảnh bảo chúng ta về nhóm giả trang," Idaho nói.
"Xin chào mừng ngài," Leto nói. "Tại sao chúng tôi không nên rút con dao này ra khỏi vỏ?"
Stilgar liếc Idaho, nói: "Ông đã quan sát phong tục về sự thanh sạch và danh dự của chúng tôi. Tôi sẽ cho phép ông nhìn thấy lưỡi dao của người mà ông đã giúp đỡ." Ông ta nhìn lướt qua những người khác trong phòng. "Nhưng tôi không biết những người này. Ông sẽ để họ làm ô uế một thứ vũ khí danh dự sao?"
"Ta là Công tước Leto," Công tước nói. "Ông sẽ cho phép ta nhìn thấy lưỡi dao này chứ?"
"Tôi sẽ cho phép ông có quyền rút dao ra khỏi vỏ," Stilgar nói, và ngay khi tiếng thì thầm phản đối vang lên quanh bàn, ông giơ bàn tay đen sạm, gầy guộc, gân guốc lên. "Tôi xin nhắc quý vị, đây là lưỡi dao của một người đã giúp đỡ quý vị."
Trong sự im lặng chờ đợi, Paul quan sát người đàn ông, cảm thấy một vầng uy lực tỏa ra từ ông ta. Ông ta là một thủ lĩnh - một thủ lĩnh Fremen.
Một người ngồi quãng giữa bàn phía đối diện với Paul lẩm bẩm: "Hắn ta là ai mà lại bảo chúng ta rằng chúng ta có quyền gì với không có quyền gì ở Arrakis chứ?"
"Người ta nói Công tước Leto cai trị theo sự đồng thuận của những người bị trị," người Fremen nói. "Do đó tôi phải nói cho ông biết lề thói của chúng tôi: những ai đã nhìn thấy dao pha lê đều phải mang một trách nhiệm nào đó." Ông ta ném một cái liếc nhìn u tối sang Idaho. "Họ thuộc về chúng tôi. Có thể họ sẽ không bao giờ được rời khỏi Arrakis nếu chúng tôi không cho phép."
Halleck và vài người khác bắt đầu đứng dậy, nét giận dữ hiện rõ trên mặt. Halleck nói: "Công tước Leto mới là người quyết định được hay không..."
"Xin hãy đợi đã," Leto nói, và chính sự ôn hòa trong giọng ông đã kiềm chế họ lại. Không thể để chuyện này vuột ra ngoài tầm kiểm soát, ông nghĩ. Ông nói với người Fremen: "Thưa Ngài, tôi tôn kính và trân trọng phẩm giá cá nhân của bất cứ người nào tôn trọng phẩm giá của tôi. Quả thật tôi hàm ơn quý vị. Và tôi luôn luôn trả các món nợ của mình. Nếu theo tập quán của quý vị con dao này vẫn nằm trong vỏ ở đây, thì lệnh - của chính tôi - sẽ được ban truyền y như thế. Và nếu có bất kỳ cách nào khác để chúng tôi tỏ lòng tôn kính đối với người đã chết vì phụng sự chúng tôi, Ngài chỉ việc nói ra."
Người Fremen nhìn Công tước chằm chặp, rồi từ từ kéo mạng che mặt sang bên, để lộ chiếc mũi mảnh và cái miệng có cặp môi dày, lọt thỏm giữa bộ râu đen nhánh. Một cách chủ tâm, ông ta cúi xuống phía cuối bàn, nhổ nước bọt lên mặt bàn sáng bóng.
Khi những người ngồi quanh bàn đứng phắt dậy, giọng Idaho vang khắp phòng: "Bình tĩnh."
Trong cái yên lặng đột ngột đầy sôi sục, Idaho nói: "Chúng tôi cám ơn Ngài, Stilgar, về món quà hơi ẩm cơ thể của Ngài. Chúng tôi xin nhận nó theo đúng tinh thần mà nó đã được trao." Và Idaho nhổ nước bọt lên bàn trước mặt Công tước.
Quay về phía Công tước, anh ta nói: "Xin hãy nhớ nước quý giá đến nhường nào ở xứ này, thưa Chúa công. Đó là dấu hiệu tỏ lòng tôn kính."
Leto ngả người vào ghế, bắt gặp ánh mắt Paul, một nụ cười phiền muộn trên mặt con trai ông, cảm thấy sự căng thẳng quanh bàn giảm dần khi thuộc hạ của ông bắt đầu hiểu ra sự tình.
Người Fremen nhìn Idaho nói: "Duncan Idaho, ông đã cân nhắc cẩn thận khi ở sietch của tôi rồi. Liệu có giao ước nào về lòng trung thành của ông đối với Công tước không?"
"Ông ta đang mời tôi gia nhập lực lượng của ông ta, thưa Chúa công," Idaho nói.
"Ông ta chấp nhận một lòng trung thành hai mang sao?" Leto hỏi.
"Ông có muốn tôi đi cùng ông ta không, Công tước?"
"Chuyện này tôi muốn anh tự quyết định lấy," Leto nói, và ông không kìm nổi sự khẩn nài trong giọng mình.
Idaho quan sát người Fremen. "Ông sẽ cho phép tôi làm theo các điều kiện này chứ Stilgar? Sẽ có những lúc tôi cần phải quay về phục vụ Công tước."
"Ông giỏi chiến đấu và đã làm hết sức mình vì người bạn của chúng ta," Stilgar nói. Ông nhìn Leto. "Thôi thì hãy thế này: Người đàn ông Idaho giữ lại con dao pha lê mà anh ta đang cầm như một biểu hiện cho lòng trung thành của anh ta đối với chúng tôi. Tất nhiên anh ta phải được làm cho tinh khiết và nghi lễ phải được tiến hành, nhưng điều này có thể thực hiện được. Anh ta sẽ vừa là người Fremen vừa là lính của Atreides. Có một tiền lệ cho việc này: Liet cũng phục vụ cho hai chủ."
"Thế nào Duncan?" Công tước hỏi.
"Tôi hiểu, thưa Chúa công," Idaho nói.
"Vậy thì điều này được tán thành," Leto nói.
"Nước của anh là của chúng ta, Duncan Idaho," Stilgar nói. "Thân thể của người bạn chúng ta vẫn ở bên Công tước. Nước của anh ta là nước Atreides. Đó là giao ước giữa chúng ta."
Leto thở dài, liếc Hawat, bắt gặp ánh nhìn của vị Mentat già nua. Hawat gật đầu, nét mặt tỏ ý hài lòng.
"Tôi sẽ đợi ở dưới trong lúc Idaho chào tạm biệt bạn bè," Stilgar nói. "Turok là tên người bạn đã chết của chúng ta. Xin hãy nhớ điều đó khi đến lúc giải thoát cho linh hồn anh ấy. Quý vị là bạn của Turok."
Stilgar bắt đầu quay ra.
"Ông không ở lại một lúc nữa sao?" Leto hỏi.
Người Fremen quay lại, hất khăn che mặt vào đúng chỗ bằng một động tác tự nhiên, điều chỉnh cái gì đó ở bên dưới nó. Paul thoáng thấy cái gì đó trông giống một cái ống mỏng trước khi chiếc khăn che mặt phủ vào đúng vị trí.
"Có lý do nào để tôi ở lại không?" người Fremen hỏi.
"Chúng tôi muốn thể hiện lòng kính trọng đối với ngài," Công tước nói.
"Sự kính trọng đòi hỏi tôi nên sớm có mặt ở nơi khác," người Fremen nói. Ông liếc nhìn Idaho lần nữa, quay người, rồi sải bước đi qua đội bảo vệ canh cửa.
"Nếu những người Fremen khác tương xứng với ông ta thì chúng ta sẽ hỗ trợ nhau rất tốt đấy," Leto nói.
Idaho nói bằng giọng khô khốc: "Ông ta là mẫu điển hình đó, thưa Chúa công."
"Anh hiểu điều anh phải làm chứ Duncan?"
"Tôi là đại sứ mà ngài cử sang chỗ người Fremen, thưa Chúa công."
"Trông đợi cả vào anh đấy, Duncan ạ. Chúng ta sẽ cần ít nhất năm tiểu đoàn người Fremen trước khi bọn Sardaukar bất ngờ tấn công chúng ta."
"Về chuyện này sẽ cần làm vài việc, thưa Chúa công. Fremen là nhóm người rất độc lập." Idaho ngập ngừng, rồi nói: "Và, thưa Ngài, còn một chuyện nữa. Một tên trong đám lính đánh thuê mà chúng ta hạ gục đã cố gắng lấy lưỡi dao này từ người bạn Fremen đã chết. Tên lính đánh thuê này nói, gia tộc Harkonnen sẽ thưởng một triệu solari cho bất cứ ai mang về cho họ dù chỉ một con dao pha lê."
Leto ngước cằm lên, vẻ ngạc nhiên rõ rệt. "Tại sao bọn chúng lại muốn một trong những con dao đó đến thế?"
"Con dao được mài từ răng sâu cát; nó là dấu hiệu của người Fremen, thưa Chúa công. Có nó, một người mắt xanh có thể xâm nhập vào bất cứ sietch nào trên xứ này. Bọn họ sẽ hỏi tôi trừ phi họ nhận ra tôi. Tôi không giống người Fremen. Nhưng..."
"Piter de Vries," Công tước nói.
"Một con người xảo trá gian tà, thưa Chúa công," Hawat tiếp.
Idaho đút nhanh con dao nằm trong vỏ vào dưới bộ quân phục.
"Bảo vệ con dao đấy," Công tước nói.
"Tôi hiểu, thưa Ngài." Anh ta vỗ nhẹ vào thiết bị thu phát tín hiệu trên bộ dây lưng. "Tôi sẽ báo cáo về trong thời gian sớm nhất. Thufir có mã liên lạc của tôi. Hãy sử dụng ngôn ngữ chiến trận." Anh ta chào tạm biệt rồi quay người vội vã đi theo người Fremen.
Họ nghe tiếng bước chân anh ta nện thình thịch xuôi theo hành lang.
Leto và Hawat nhìn nhau tỏ vẻ đầy thấu hiểu. Họ mỉm cười.
"Chúng ta có nhiều việc phải làm, thưa Chúa công," Halleck nói.
"Còn ta sẽ tách ông ra khỏi công việc của ông," Leto nói.
"Tôi có báo cáo về những căn cứ tiền tiêu," Hawat nói. "Tôi sẽ trình bày vào lúc khác chứ, thưa Chúa công?"
"Có mất nhiều thời gian không?"
"Không thể trình bày tóm tắt được. Người Fremen kháo nhau rằng có hơn hai trăm căn cứ tiền tiêu xây dựng trên Arrakis này trong suốt thời kỳ Trạm Kiểm tra Thực vật Sa mạc. Nghe nói tất cả đều đã bị bỏ hoang, nhưng có nhiều báo cáo nói chúng được bịt kín trước khi bị bỏ hoang."
"Trong đó có thiết bị chứ?" Leto hỏi.
"Theo những báo cáo tôi lấy từ Duncan."
"Chúng nằm ở đâu?" Halleck hỏi.
"Câu trả lời cho câu hỏi đó luôn luôn là: 'Liet biết'," Hawat nói.
"Thượng đế biết," Leto lẩm bẩm.
"Có thể không, thưa Chúa công," Hawat nói. "Ngài đã nghe ông Stilgar này nói đến cái tên đó. Có thể ông ta đang ám chỉ một người có thực chăng?"
"Phục vụ hai chủ," Halleck nói. "Nghe như một trích dẫn tôn giáo."
"Và ông nên biết," Công tước nói.
Halleck mỉm cười.
"Vị Phán quan Phụ trách Thay đổi này," Leto nói, "nhà sinh thái học của Đế chế - Kynes... ông ta không biết những căn cứ đó ở đâu sao?"
"Thưa Chúa công," Hawat cảnh báo, "vị Kynes này là bầy tôi trung thành của Đế quốc."
"Nhưng ông ta đang ở xa Hoàng đế," Leto nói. "Ta muốn những căn cứ này. Chắc hẳn chúng chứa rất nhiều vật liệu mà chúng ta có thể tận dụng để sửa chữa các thiết bị đang hoạt động của chúng ta."
"Công tước!" Hawat nói. "Xét về phương diện pháp lý, những căn cứ này vẫn thuộc thái ấp của Hoàng đế."
"Khí hậu vùng này đủ khắc nghiệt để có thể phá hủy bất cứ thứ gì," Công tước nói. "Lúc nào chúng ta cũng có thể đổ lỗi cho khí hậu. Hãy đi tìm vị Kynes đem về đây và ít nhất cũng cố tìm ra liệu những căn cứ này có thật hay không."
" '... Trưng dụng chúng là nguy hiểm'," Hawat nói. "Duncan đã nói rõ một điều: các căn cứ đó hay ý nghĩ về chúng có tầm quan trọng sâu xa nào đó đối với người Fremen. Chúng ta có thể sẽ khiến người Fremen xa lánh nếu chiếm lấy các căn cứ đó."
Paul nhìn gương mặt những người xung quanh, quan sát mức độ cảm xúc của họ trong khi họ nghe từng lời nói. Có vẻ như họ bị xáo động dữ dội vì quan điểm của cha cậu.
"Hãy lắng nghe ông ta, thưa Cha," Paul nói khẽ. "Ông ấy sẽ nói sự thật."
"Thưa Chúa công," Hawat nói, "những căn cứ đó có thể cho ta vật liệu để sửa chữa từng thiết bị mà nhà Harkonnen để lại cho ta, tuy nhiên chúng vẫn nằm ngoài tầm tay vì những lý do chiến lược. Nếu không tìm hiểu kỹ hơn mà lại hành động ngay thì thật thiếu suy nghĩ. Vị Kynes này được Đế quốc trao toàn quyền hành động. Chúng ta không được quên điều này. Còn người Fremen thì tuân theo ông ấy."
"Nếu vậy hành động nhẹ nhàng thôi," Công tước nói. "Ta chỉ muốn biết liệu những căn cứ đó có tồn tại không thôi."
"Sẽ theo ý ngài, thưa Chúa công." Hawat ngồi xuống phía sau, cụp mắt xuống.
"Vậy thì tốt rồi," Công tước nói. "Chúng ta biết chúng ta có cái gì ở phía trước - công việc. Chúng ta đã được huấn luyện để làm việc. Chúng ta có vài kinh nghiệm trong việc này. Chúng ta biết phần thưởng là gì và những lựa chọn thì cũng khá rõ rồi. Mỗi người trong các vị có nhiệm vụ của mình." Ông nhìn Halleck. "Gurney, hãy xem xét tình hình tàu buôn lậu trước tiên."
" 'Tôi sẽ đi đến chỗ những người nổi loạn sống trên mảnh đất khô cằn này,' " Halleck ngâm nga.
"Một ngày nào đó ta sẽ tóm được gã kia khi không có một câu trích dẫn nào và chừng đó ông ta chẳng khác nào không mặc áo quần vậy," Công tước nói.
Những tiếng cười kìm nén vang khắp bàn, nhưng Paul nhận thấy sự gượng gạo trong những tiếng cười đó.
Công tước quay sang Hawat. "Hãy thiết lập thêm một trạm chỉ huy để liên lạc và truyền tin ngay trên sàn này, Thufir. Khi nào mọi thứ đã sẵn sàng thì ta muốn gặp ông."
Hawat đứng dậy, liếc nhìn quanh phòng như thể tìm sự ủng hộ. Ông quay đi, dẫn đoàn người ra khỏi phòng. Những người khác lục tục đứng dậy, kéo ghế kèn kẹt trên sàn, tụm lại thành từng nhóm nhỏ đầy vẻ bối rối.
Mọi chuyện kết thúc trong cơn bối rối, Paul nghĩ trong khi nhìn theo lưng những người cuối cùng rời khỏi phòng. Từ trước đến nay, cuộc họp Ban tham mưu luôn kết thúc trong bầu không khí đầy quyết đoán. Nhưng cuộc họp này thì cứ dường như thẩm lậu ra ngoài, bị bào mòn bởi chính sự bất quyết, bất tự tin của nó, đã vậy còn thêm một cuộc tranh cãi nữa.
Lần đầu tiên Paul tự cho phép mình nghĩ đến khả năng thực tế là họ sẽ thất bại - không nghĩ về nó vì sợ hãi hay vì những lời cảnh báo chẳng hạn như của Mẹ Chí tôn, mà đối mặt với khả năng đó bởi cách đánh giá của chính cậu về tình thế.
Cha ta thật liều lĩnh, cậu nghĩ. Mọi chuyện sẽ không diễn ra tốt đẹp chút nào cho chúng ta.
Còn Hawat - Paul nhớ lại vị Mentat già đã hành động thế nào trong suốt cuộc họp - sự lưỡng lự khó thấy, những dấu hiệu bồn chồn lo lắng.
Hawat rất băn khoăn lo lắng về chuyện gì đó.
"Tốt nhất là con hãy nghỉ lại đây cho hết đêm, Con trai," Công tước nói. "Dù sao thì cũng sắp bình minh rồi. Ta sẽ báo cho mẹ con biết." Ông bước đi, chậm rãi, cương quyết. "Tại sao con không kê mấy cái ghế lại với nhau rồi nằm nghỉ một lát nhỉ."
"Con không mệt lắm, thưa cha."
"Cứ làm như con muốn."
Công tước chắp tay sau lưng, bắt đầu đi đi lại lại dọc chiều dài chiếc bàn.
Giống như một con thú bị giam cầm, Paul nghĩ.
"Cha sẽ thảo luận với Hawat về khả năng có kẻ phản bội trong hàng ngũ chúng ta chứ?" Paul hỏi.
Công tước đứng lại phía bên bàn đối diện con trai, nói với những khung cửa sổ tối đen. "Chúng ta đã tranh luận về khả năng đó nhiều lần rồi."
"Bà già đó có vẻ rất tin chắc về những điều mình nói," Paul nói. "Còn lời phán truyền mà Mẹ..."
"Các biện pháp phòng ngừa đã được tiến hành," Công tước nói. Ông nhìn quanh phòng, và Paul để ý thấy mắt ông như mắt con thú dữ bị săn đuổi... "Hãy ở lại đây. Có vài vấn đề về các trạm chỉ huy mà ta muốn thảo luận với Thufir." Ông quay người, sải bước ra khỏi phòng, khẽ gật đầu với đội gác cửa.
Paul nhìn chằm chằm vào chỗ cha cậu vừa đứng. Cái khoảng không trống rỗng ngay cả khi Công tước chưa rời phòng. Cậu nhớ lại lời cảnh báo của bà lão: "... còn người cha, không cách gì cứu được."
Xứ Cát Xứ Cát - Frank Herbert Xứ Cát