TV. If kids are entertained by two letters, imagine the fun they'll have with twenty-six. Open your child's imagination. Open a book.

Author Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Cassandra Clare
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: T Nguyen
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4031 / 74
Cập nhật: 2017-05-02 19:26:31 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần 1 - Thiên Thần Hủy Diệt - 1 - Chủ Nhân
ho tôi một cốc cà phê.”
Cô phục vụ bàn nhướn đôi lông mày được kẻ vẽ cẩn thận lên. “Cậu không muốn gọi thêm đồ ăn sao?” cô ta hỏi. Giọng cô ta khá nặng, tỏ rõ sự thất vọng.
Simon Lewis trách cô ta; hẳn cô nàng mong nhận được món tiền boa hời hơn là số cô nhận được nhờ việc phục vụ một cốc cà phê. Nhưng chuyện ma cà rồng không ăn uống đâu phải lỗi của cậu. Tới nhà hàng, dăm ba lần cậu cũng gọi đồ ăn, cốt để mọi người thấy ta bình thường như bao người khác. Nhưng vào một buổi tối muộn của ngày thứ ba, khi quán Veselka gần như vắng tanh vắng ngắt thì có gọi đồ ăn cũng chẳng giúp cho cậu khỏi bị dòm ngó là mấy. “Chỉ cà phê thôi.”
Với một cái nhún vai, cô phục vụ cầm thực đơn của cậu và đánh dấu. Simon ngồi tựa vào chiếc ghế tựa bằng nhựa cứng và ngó quanh quất. Veselka, cái quán ăn nằm ở góc Đường số Chín và Đại lộ số Hai, là một trong những địa điểm ưa thích của cậu tại khu Hạ Đông - một quán ăn tại khu vực cổ xưa của New York với những bức tường được dán giấy dán tường tông màu đen trắng. Bạn có thể cà kê ở đây cả ngày chỉ cần bạn gọi cà phê sau nửa tiếng một. Họ cũng phục vụ món bánh Ba Lan[1] và súp củ cải đỏ[2] dành cho người ăn chay mà ngày xưa cậu rất thích, nhưng những ngày đó đã trôi vào quá khứ từ vài tháng trước.
[1] Nguyên văn: pierogi - một món bánh của người Ba Lan có vỏ bằng bột nhão với nhân là pho mát, khoai tây, hành, cải bắp, nấm, thịt. (ND)
[2] Nguyên văn: borscht - món súp củ cải đỏ nấu cùng thịt của người Ukraina. (ND)
Giờ mới là giữa tháng mười, vậy mà quán đã treo đồ trang trí Halloween - một tấm biển lắc lư có dòng chữ BỊ GHẸO-HAY-ĂN- SÚP! kèm theo một ma cà rồng cắt bằng bìa các-tông mang tên Bá tước Blintzula. Thời xưa xửa xừa xưa, Simon và Clary thấy những món đồ trang trí hạng bét dành cho ngày của những hồn ma này thật lố bịch, nhưng giờ Bá tước với cặp răng nanh giả và áo choàng đen không khiến Simon thích thú như xưa nữa.
Simon đưa mắt nhìn ra ngoài ô cửa sổ. Đêm lộng gió, những chiếc lá bay lạo xạo trên Đại lộ số Hai trông như những nắm hoa giấy. Một cô gái đang sải bước đi trên đường, trên người khoác chiếc áo dài có thắt đai và mái tóc dài tung bay trong gió. Mọi người quay đầu ngắm nhìn cô. Ngày xưa Simon cũng như những người đó, cũng sẽ ngắm nhìn những cô gái như thế rồi vẩn vơ suy nghĩ xem họ đi đâu và gặp ai. Và cậu thừa biết, chắc chắn đối tượng họ gặp không phải những chàng trai như cậu.
Nhưng cô gái này thì khác. Cái chuông trước cửa quán ăn kêu lanh canh khi cánh cửa được mở ra, và Isabelle Lightwood bước vào.
Cô mỉm cười khi thấy Simon, rồi tiến tới, cởi áo khoác và treo lên khoác ghế trước khi ngồi xuống. Cô nàng mặc một trong những bộ đồ được Clary gọi là “đồ Isabelle điển hình”: một chiếc váy ngắn bó bằng vải nhung, đi tất lưới và bốt. Một con dao nhét trên chiếc bốt bên trái mà Simon biết chỉ mình cậu nhìn thấy; và, mọi người trong quán đều không hề rời mắt khi cô ngồi xuống, hất tóc ra sau.
Dù mặc gì thì Isabelle cũng khiến người khác phải chú ý, hệt như một buổi bắn pháo hoa vậy.
Isabelle Lightwood xinh đẹp. Khi Simon gặp cô, cậu đã tưởng cô không có thời gian cho một chàng trai như cậu. Cậu đoán gần đúng. Isabelle thích những dạng con trai mà bố mẹ không ưa, và trong thế giới của cô thì điều đó có nghĩa là cư dân Thế Giới Ngầm - tiên, người sói và ma cà rồng. Việc họ thường xuyên hẹn hò suốt một hai tháng nay khiến cậu ngạc nhiên, thậm chí khi mối quan hệ của họ chỉ dừng lại ở những buổi gặp mặt không thường xuyên như thế này. Và cậu không thể nào không tự hỏi rằng nếu cậu không biến thành ma cà rồng, nếu cuộc đời cậu không thay đổi hoàn toàn trong khoảnh khắc đó, họ có bao giờ hẹn hò không?
Cô vén tóc sau tai, nở nụ cười tỏa sáng. “Trông cậu ổn lắm.”
Simon ngắm nhìn mình qua kính cửa sổ quán ăn. Sự ảnh hưởng của Isabelle với vẻ bề ngoài của cậu rất rõ ràng kể từ ngày họ hẹn hò. Cô bắt cậu phải chuyển từ áo hoodie sang áo khoác da và đi những đôi giày đắt tiền thay cho giày vải. Và tình cờ làm sao, một đôi tốn những ba trăm đô la lận. Cậu vẫn mặc những chiếc áo sơ mi có slogan - cái áo này có in dòng chữ KHÔNG CÓ CỬA CHO THUYẾT HIỆN SINH - nhưng chiếc quần bò thì không hề có vết rách ở đầu gối và túi thủng cũng không luôn. Cậu cũng để tóc dài đến tầm rủ xuống mắt, che đi trán, nhưng điều đó cần thiết hơn việc Isabelle có thích hay không.
Clary đã trêu chọc về bề ngoài của cậu; nhưng dù gì, Clary luôn buồn cười trước mọi thứ trong câu chuyện tình yêu của cậu. Cô không tin cậu nghiêm túc trong việc hẹn hò cùng Isabelle. Tất nhiên, cô cũng không tin cậu cũng đang hẹn hò Maia Roberts, một cô bạn tình cờ là người sói, một cách nghiêm túc hệt như thế. Và cô thật sự không tin nổi Simon chưa hề nói cho người này biết về người kia.
Simon không biết chắc chuyện xảy ra như thế nào. Maia thích tới nhà chơi Xbox cùng cậu - họ không có món đồ giải trí đó tại trạm cảnh sát bị bỏ không - nay được trưng dụng làm nơi trú ngụ cho đàn người sói - và tới lần thứ ba hay thứ tư cô gái sói ấy ghé qua chơi, cô nàng đã hôn tạm biệt cậu trước khi về. Cậu rất hài lòng, và vì thế gọi cho Clary để hỏi xem cậu có nên nói cho Isabelle biết không. “Hãy nghĩ xem tình cảm của cậu với Isabelle là thế nào,” cô đã nói. “Rồi hẵng kể.”
Hóa ra đó là một lời khuyên tồi. Cả tháng nay cậu vẫn không hiểu cậu và Isabelle đang ra sao, và vì thế mà cậu chẳng đả động tới chuyện kia. Và càng nhiều thời gian trôi qua thì nói ra chuyện đó càng khó hơn. Tới giờ cậu vẫn lo liệu ổn. Isabelle và Maia không hẳn là bạn và họ hiếm khi gặp nhau.
Thật đáng tiếc cho cậu, vì điều đó sắp thay đổi. Mẹ Clary và người bạn lâu năm của cô ấy, chú Luke, sắp sửa kết hôn trong vài tuần tới, và cả Isabelle lẫn Maia đều được mời tới dự. Và phải nói rằng đó một chuyện khiến Simon hãi hùng hơn cả bị một nhóm thợ săn ma cà rồng truy đuổi vòng vòng trên những con phố của New York.
“Vậy,” Isabelle lên tiếng, kéo cậu khỏi dòng suy nghĩ miên man. “Sao cậu chọn nơi này chứ không phải quán Taki’s? Họ phục vụ máu ở đó mà.”
Simon nhăn mặt vì cô nói quá lớn. Isabelle không được tế nhị lắm. May mà không ai có vẻ đang hóng chuyện, kể cả cô phục vụ đã quay lại, đặt đánh bịch cốc cà phê trước mặt Simon, mắt nhìn Izzy và bỏ đi không buồn hỏi xem cô chọn gì.
“Mình thích nơi này,” cậu nói. “Clary và mình thường tới đây mỗi khi bạn ấy có lớp tại Tisch. Họ có món súp củ cải đỏ và bánh tráng[3] ngon lắm - chúng giống như những chiếc bánh bao nhân pho mát ngọt ngào vậy - thêm nữa nó mở cửa cả đêm.
Nhưng Isabelle hoàn toàn chẳng để tâm tới câu chuyện cậu vừa kể. Cô đang nhìn qua vai cậu. “Cái gì kia?”
Simon nhìn theo. “Đó là Bá tước Blintzula[4].”
[3] Nguyên văn blintz - một loại bánh kếp tráng mỏng. (ND)
[4] Lai giữa Dracula và Blintz. (ND)
Simon nhún vai. “Đồ trang trí cho ngày Halloween ấy mà. Bá tước Blintzula dành cho tụi trẻ con. Như kiểu Bá tước Chocula, hay Bá tước trong chương trình Phố Sesame ấy mà.” Cậu cười trước vẻ bối rối của cô nàng. “Cậu biết đấy. Ông ta dạy lũ trẻ toán cộng.”
Isabelle đang lắc đầu. “Có một chương trình TV thuê ma cà rồng dạy toán cho trẻ con á?”
“Cậu thấy thì hiểu ngay thôi.” Simon lầm rầm.
“Có một vài nền tảng được nhắc tới trong truyện thần thoại để giải thích cho chuyện này,” Isabelle nói, chuyển sang giọng của giảng viên Thợ Săn Bóng Tối. “Một vài truyện thần thoại kể rằng ma cà rồng bị ám ảnh bởi những con tính, và nếu cậu vãi những hạt lúa trước mặt họ, họ sẽ dừng việc đang làm và ngồi đếm. Tất nhiên, điều đó chẳng đúng hơn việc ma cà rồng sợ tỏi là mấy. Và ma cà rồng chẳng hứng thú việc dạy trẻ con. Ma cà rồng rất đáng sợ.”
“Cảm ơn,” Simon nói. “Chỉ là chơi chữ thôi mà Isabelle. Ông ta là Bá tước. Ông ta thích tính toán[5]. Cậu biết đấy. ‘Các cháu cho ta biết hôm nay Bá tước ăn gì? Một chiếc bánh quy sô cô la, hai chiếc bánh quy sô cô la, ba chiếc bánh quy sô cô la…”
[5] Nguyên văn “He’s the Count. He likes counting.” - Count vừa có nghĩa là bá tước vừa có nghĩa là tính toán. (ND)
Một luồng gió lạnh ùa vào khi cửa nhà hàng mở ra để người khách khác bước vào. Isabelle rùng mình và với lấy cái khăn quàng lụa màu đen. “Điều đó chẳng thực tế tí nào.”
“Cậu thích gì hơn nào? ‘Các em cho ta biết hôm nay Bá tước ăn gì? Một dân làng yếu xìu, hai dân làng yếu xìu, ba dân làng yếu xìu chắc…”
“Suỵt.” Isabelle đã quàng khăn xong và nhoài người tới, đặt tay lên cổ tay Simon.
Đôi mắt đen của cô đột nhiên long lanh, theo cách chúng chỉ có khi cô chuẩn bị săn hoặc nghĩ về săn quỷ. “Nhìn đằng kia kìa.”
Simon nhìn theo. Có hai người đàn ông đứng cạnh tủ bánh bằng kính, trong đó bày nào bánh phủ tuyết dày, rồi từng đĩa bánh rugelach[6], và cả những chiếc bánh su kem nữa. Nhưng cả hai gã đó đều chẳng có chút hứng thú gì với thức ăn. Cả hai đều lùn xủn, người to bè xấu xí, xương gò má nhô cao hệt như những lưỡi dao nhô lên trên khuôn mặt trắng bệch. Cả hai đều có mái tóc xám mỏng toẹt và đôi mắt xám nhạt, và cùng mặc măng tô màu xám đen dài chạm sàn.
[6] Rugelach: món bánh nổi tiếng của Pháp được làm từ nhiều nguyên liệu như kem pho mát, quả mâm xôi, mứt, hạt hồ đào… (ND)
“Giờ,” Isabelle nói, “cậu nghĩ họ là ai?”
Simon nheo mắt nhìn. Cả hai đều nhìn lại cậu bằng đôi mắt không lông mi trông như hai cái hốc rỗng không. “Trông họ giống lũ ma lùm ma bụi quỷ quyệt.”
“Chúng là người kí sinh,” Isabelle rít lên. “Chúng thuộc về một ma cà rồng.”
“ ‘Thuộc về’ theo nghĩa là…”
Cô khụt khịt tỏ ý mất kiên nhẫn. “Vì Thiên Thần, cậu không có tí kiến thức nào về giống loài của mình sao? Cậu thậm chí không hiểu ma cà rồng được sinh ra thế nào à?”
“À một ma cà rồng mẹ và một ma cà rồng bố yêu nhau tha thiết…”
Isabelle nhăn mặt. “Được rồi, cậu biết rằng ma cà rồng không cần quan hệ chăn gối để cho ra thế hệ sau, nhưng mình cá cậu không biết chuyện sinh sản trong ma cà rồng ra sao.”
“Mình có biết chứ,” Simon nói. “Mình là ma cà rồng vì mình uống ít máu của Raphael trước khi chết. Uống máu cộng chết bằng ma cà rồng.”
“Không hẳn,” Isabelle nói. “Cậu là ma cà rồng vì cậu đã uống ít máu Raphael, sau đó bị những ma cà rồng khác cắn và rồi cậu chết. Cậu cần được cắn trong quá trình đó.”
“Vì sao?”
“Nước bọt của ma cà rồng là… chất xúc tác. Chất xúc tác chuyển đổi.”
“Tởm,” Simon nói.
“Đừng có nói ‘tởm’ với mình. Cậu là người được hưởng nước bọt thần thánh mà. Một con ma cà rồng giữ con người bên mình và uống máu trực tiếp từ họ khi thiếu máu dự trữ - hắn coi người đó giống như những cỗ máy đồ ăn vặt biết đi vậy.” Izzy nói với vẻ kinh tởm. “Cậu nghĩ họ yếu đi vì mất máu liên tục, nhưng nước bọt của ma cà rồng thật ra có khả năng chữa lành vết thương. Nó giúp tăng lượng hồng cầu, khiến con người khỏe mạnh hơn và sống lâu hơn. Vì thế chuyện ma cà rồng hút máu người không hề phạm Luật. Con người thật ra không bị sao hết. Tất nhiên đôi lúc ma cà rồng muốn nhiều hơn một bữa ăn nhẹ, hắn muốn một người kí sinh - và hắn bắt đầu cho người bị cắn một chút xíu máu của mình, chỉ để khiến người kia phải ngoan ngoãn nghe lời chủ nhân, bị ràng buộc với chủ nhân. Người kí sinh tôn thờ chủ nhân, luôn muốn hoàn thành nguyện vọng của chủ nhân của họ. Tất cả những gì họ cần là được ở gần chủ nhân của mình. Giống như khi cậu trở lại Dumont vậy. Cậu bị kéo tới với ma cà rồng mà cậu uống máu.”
“Raphael,” Simon rầu rĩ nói. “Mình nói cho cậu hay, dạo gần đây mình không còn khao khát đến cháy bỏng được ở cạnh anh ta nữa rồi.”
“Đúng, cảm giác đó sẽ biến mất khi cậu trở thành ma cà rồng toàn phần. Chỉ có người kí sinh mới tôn thờ và không thể trái lời chủ nhân. Cậu không thấy sao? Khi cậu trở lại Dumont, nhóm ma cà rồng của Raphael đã hút kiệt máu cậu, cậu chết, và rồi cậu biến thành ma cà rồng. Nhưng nếu chúng không hút khô xác cậu, nếu chúng chỉ cần cho cậu uống thêm một chút máu thôi, cậu sẽ biến thành người kí sinh ngay.”
“Nghe rất ư thú vị,” Simon nói. “Nhưng chúng không giải thích chuyện hai gã kia nhìn chúng ta đến không chán mắt.”
Isabelle lại nhìn hai gã kia. “Họ đang nhìn cậu. Hoặc là chủ nhân của họ đã chết và họ muốn tìm chủ nhân mới. Biết đâu cậu sắp có thêm vài thú cưng,” Cô cười toe toét.
“Hoặc,” Simon nói, “có thể họ tới vì món khoai tây chiên.”
“Người kí sinh không ăn. Họ sống nhờ hỗn hợp giữa máu ma cà rồng và máu động vật. Nó giúp kiềm chế quá trình oxi hóa cơ thể. Họ không bất tử nhưng lão hóa rất chậm.”
“Buồn là,” Simon nói và nhìn họ, “có vẻ họ không biết chăm chút vẻ bề ngoài.”
Isabelle ngồi thẳng dậy. “Họ đang tới đấy. Chắc chúng ta sắp biết họ muốn gì rồi.”
Hai gã người kí sinh tiến tới như thể đang trên bánh xe. Họ không bước mà là lướt đi êm như ru. Họ chỉ mất vài giây để đi hết chiều dài nhà hàng; khi họ tới gần bàn của Simon, Isabelle đã rút con dao ra khỏi bốt. Nó nằm trên bàn và tỏa sáng dưới ánh đèn huỳnh quang. Nó là một con dao bằng bạc, lưỡi dày và đen với những hình thập tự khắc trên cả hai mặt chuôi. Hầu hết những vũ khí chống ma cà rồng đều có trang trí hình những cây thánh giá mà theo Simon thì nguyên nhân là do hầu hết ma cà rồng đều theo đạo Thiên Chúa. Ai mà ngờ được việc mình theo một tôn giáo nhỏ lại có tác dụng lớn đến thế?
“Đến gần thế là đủ rồi,” Isabelle nói, khi hai tay người kí sinh dừng lại bên bàn, những ngón tay cô chỉ cách con dao có vài inch. “Cả hai có chuyện gì thì nói đi.”
“Thợ Săn Bóng Tối.” Sinh vật bên trái rít lên khe khẽ. “Chúng tôi không được biết cô sẽ xuất hiện trong hoàn cảnh này.”
Isabelle nhướn hàng lông mày thanh mảnh. “Và hoàn cảnh đó là?”
Tay hai người kí sinh đưa ngón tay xám dài chỉ vào Simon. Móng tay hắn vàng ệch và sắc nhọn. “Chúng tôi có vài thỏa thuận với ma cà rồng Ưa sáng.”
“Không đâu,” Simon nói. “Tôi không biết hai người là ai. Chưa từng gặp luôn.”
“Tôi là ngài Walker,” sinh vật đầu tiên nói. “Bên cạnh tôi là ngài Archer. Tôi phục vụ ma cà rồng quyền năng nhất thành phố New York. Thủ lĩnh của nhóm mạnh nhất Manhattan.”
“Raphael Santiago,” Isabelle nói. “Vậy thì hai người nên biết Simon không thuộc nhóm nào. Cậu ấy là ma cà rồng tự do.”
Ngài Walker cười mím môi. “Chủ nhân của tôi hy vọng tình thế đó có thể thay đổi.”
Simon nhìn Isabelle. Cô nhún vai.
“Không phải Raphael đã nói với cậu rằng anh ta muốn cậu tránh xa nhóm đó ra sao?”
“Có thể anh ta đổi ý,” Simon gợi ý. “Cậu biết anh ấy rồi đấy. Kiểu người sáng nắng chiều mưa trưa ẩm ướt ấy mà.”
“Mình đâu có biết. Mình chưa thật sự gặp anh ta kể từ hồi mình dọa giết anh ta bằng cái chân cắm nến. Nhưng anh ta cũng đối mặt với chuyện đó. Chẳng hề chớp mắt.”
“Tuyệt,” Simon nói. Hai tay người kí sinh đang nhìn cậu. Đôi mắt họ mang màu xám trắng nhạt, giống như màu tuyết bẩn vậy.
“Nếu Raphael muốn có tôi trong nhóm thì đó là vì anh ta muốn gì đó từ tôi. Hai người nên nói cho tôi biết đó là gì thì hơn.”
“Chúng tôi không được phép tiết lộ các kế hoạch của chủ nhân,” Ngài Archer nói bằng giọng rất ư trịch thượng.
“Vậy thì chẳng thỏa thuận gì hết,” Simon nói. “Tôi không đi.”
“Nếu cậu không đồng ý đi với chúng tôi, chúng tôi đành phải dùng bạo lực với cậu.”
Con dao dường như nhảy lên tay Isabelle; hay ít nhất, cô nàng gần như chẳng nhúc nhích mà bằng cách nào đó vẫn cầm được nó. Cô nàng nhẹ nhàng xoay nó trong tay. “Nếu tôi là hai người, tôi sẽ không làm vậy.”
Ngài Archer nhe răng với cô nàng. “Từ khi nào mà Đứa Con của Thiên Thần lại trở thành vệ sĩ cho một cư dân Thế Giới Ngầm cà chớn thế nhỉ? Tôi không nghĩ đây là việc của cô đâu, Isabelle Lightwood ạ.”
“Tôi không phải vệ sĩ,” Isabelle nói. “Tôi là bạn gái của cậu ấy. Vì thế, tôi có quyền đá mông các người nếu các người làm phiền cậu ấy. Thế có được không?”
Bạn gái? Simon giật mình ngạc nhiên nhìn cô, nhưng cô chỉ gườm gườm nhìn hai sinh vật kia, đôi mắt đen lóe sáng. Cậu chưa bao giờ nghĩ Isabelle sẽ tự xưng là bạn gái cậu. Và kì lạ là, đó mới là điều làm cậu giật mình thảng thốt, chứ không phải chuyện bị một ma cà rồng quyền năng nhất New York triệu tập.
“Chủ nhân của tôi,” ngài Walker nói bằng giọng có lẽ là để xoa dịu tình hình, “có một thỏa thuận với Ma cà rồng Ưa sáng đây-”
“Tên cậu ấy là Simon. Simon Lewis.”
“Với ngài Lewis. Tôi có thể hứa với cô rằng ngài Lewis sẽ thấy đó là một thỏa thuận rất hời nếu chịu đi cùng chúng tôi và nghe chủ nhân của chúng tôi trình bày. Tôi hứa trên danh dự của chủ nhân tôi rằng, Ma cà rồng Ưa sáng, sẽ không bị tổn hại gì, và nếu cậu muốn từ chối đề nghị của chủ nhân tôi, đó là tùy cậu.”
Chủ nhân của tôi, chủ nhân của tôi. Ngài Walker nói cụm từ đó với giọng vừa ngưỡng mộ vừa kính trọng. Simon hơi rùng mình. Thật kinh khủng khi bị ràng buộc với một ai khác tới mức đó và không hề có ý chí của riêng mình.
Isabelle đang lắc đầu; cô đang mở khẩu hình nói “không” với Simon. Có lẽ cô đúng, cậu nghĩ. Isabelle là Thợ Săn Bóng Tối xuất sắc. Cô đã săn đuổi lũ ác quỷ và những cư dân Thế Giới Ngầm phạm Luật - những ma cà chớp, những pháp sư hắc ám, những người sói bị mất kiểm soát và ăn thịt người - từ khi mới mười hai tuổi, và có lẽ giỏi hơn bất cứ Thợ Săn Bóng Tối nào cùng trang lứa, ngoại trừ ông anh Jace ra. Và kém hơn Sebastian nữa, Simon nghĩ, vì hắn ta giỏi hơn cả hai anh em họ. Nhưng hắn ta đã đi đời nhà ma rồi.
Được rồi,” cậu nói. “Tôi sẽ đi.”
Isabelle trợn tròn mắt. “Simon!”
Cả hai tay người kí sinh đều xoa tay, hệt như những nhân vật phản diện trong truyện tranh. Bản thân hành động đó không hề quái dị; chỉ là họ xoa tay hệt như đã làm động tác đó rất rất nhiều lần, như thể họ là những con rối bị người khác giật dây vậy.
“Tuyệt,” ngài Archer nói.
Isabelle ném choang con dao xuống bàn và nhoài người, mái tóc đen óng ả khẽ vuốt trên mặt bàn. “Simon,” cô nói trong tiếng thì thầm liếng thoắng. “Đừng ngốc thế chứ. Cậu chẳng có lý gì phải đi cùng họ cả. Và Raphael là đồ đểu.”
“Raphael là thủ lĩnh ma cà rồng,” Simon nói. “Máu của anh ta biến mình thành ma cà rồng. Anh ta là - họ gọi bằng gì ấy nhỉ.”
“Chủ nhân, người kiến tạo, ma cà rồng bố mẹ - có hàng triệu cái tên đặt cho việc anh ta làm với cậu,” Isabelle phân tâm nói. “Và có thể máu anh ta biến cậu thành ma cà rồng. Nhưng nó không biến cậu thành Ma cà rồng Ưa sáng.” Đôi mắt cô nhìn cậu. Jace đã biến cậu thành Ma cà rồng Ưa sáng. Nhưng cô chưa bao giờ nói ra điều đó; chỉ có vài người biết sự thật; toàn bộ câu chuyện về Jace thật sự là gì, và Simon là gì vì điều đó. “Cậu không phải làm theo điều anh ta nói.”
“Tất nhiên là không rồi,” Simon hạ giọng. “Nhưng nếu mình từ chối, cậu có nghĩ Raphael sẽ buông tha cho mình không? Không đâu. Họ sẽ còn tới tìm mình nữa.” Cậu liếc nhìn hai tay người kí sinh; họ có vẻ đồng tình, dù có thể là tưởng tượng ra. “Họ sẽ nhằng nhẵng bám theo mình mất. Khi mình ra ngoài, lúc ở trường, ở nhà Clary -”
“Và sao nào? Clary không lo liệu được sao?” Isabelle giơ tay lên trời. “Được rồi. Nhưng hãy để mình đi cùng.”
“Ồ không được đâu,” ngài Archer xen vào. “Đây không phải vấn đề của Thợ Săn Bóng Tối. Đây là vấn đề của Những Đứa Con của Màn Đêm.”
“Tôi sẽ không-”
“Luật cho chúng tôi tự xử lý vấn đề của chúng tôi,” ngài Walker cứng giọng nói. “Với những thành viên khác cùng loài.”
Simon nhìn họ. “Làm ơn cho chúng tôi một chút thời gian,” cậu nói. “Tôi muốn nói chuyện với Isabelle.”
Mấy người họ chìm trong im lặng. Xung quanh họ, những hoạt động trong quán ăn vẫn tiếp diễn. Mọi người đang nườm nượp vào quán, thưởng thức vài đồ ăn thức uống sau khi rời khỏi rạp chiếu phim cách đây một dãy nhà, và những cô phục vụ vội vã đi đi lại lại, mang theo những đĩa thức ăn bốc khói nghi ngút cho thực khách; những cặp tình nhân cười đùa nói chuyện ở những bàn bên cạnh; tiếng những đầu bếp hét tên món vang tới từ bên kia quầy phục vụ. Không ai nhìn họ hay nhận ra bất cứ sự việc kỳ lạ nào đang diễn ra. Simon đã quen với những phép ảo ảnh, nhưng cậu không thể kìm được cảm giác đôi lúc, khi cậu ở cạnh Isabelle, cậu giống đang bị nhốt sau một bức tường kính vô hình, bị tách biệt với cộng đồng loài người và cuộc sống thường nhật xung quanh.
“Được thôi,” ngài Walker nói và bước lùi lại. “Nhưng chủ nhân của tôi không thích chờ đợi lâu.”
Họ ra cửa, rõ ràng không bị mảy may hề hấn gì vì những luồng gió lạnh thổi qua khi có người ra vào, và đứng đó như những bức tượng. Simon quay sang Isabelle. “Không sao đâu mà,” cậu nói. “Họ sẽ không làm hại mình. Họ không thể làm hại mình. Raphael biết tất cả về…” cậu lóng ngóng chỉ lên trán. “Cái này.”
Isabelle đưa tay gạt tóc cậu sang bên, chạm vào trán như kiểu của một bác sĩ hơn là nhẹ nhàng âu yếm. Cô đang nhíu mày.
Simon đã nhìn cái Ấn Ký đó quá nhiều lần trong gương nên cậu quá biết là nó thế nào. Ấn Ký Cain giống như tác phẩm của một người cầm một chiếc bút vẽ ngòi nhỏ và vẽ một biểu tượng đơn giản ngay chính giữa trán cậu, hơi chếch lên phía trên mắt. Đôi lúc nó thay đổi hình dạng, giống như những đám mây hóa thành muôn hình vạn trạng vậy, nhưng nó luôn luôn sạch sẽ, đen tuyền và trông có vẻ nguy hiểm, như một dấu hiệu cảnh báo viết bằng một ngôn ngữ khác.
“Nó có… tác dụng không?” cô thì thào.
“Raphael nghĩ nó có tác dụng,” Simon nói. “Và mình không có lý do gì để nghĩ là không cả.” Cậu nắm cổ tay cô và bỏ xuống. “Mình sẽ ổn mà, Isabelle.”
Cô thở dài. “Từng tí một của những điều mình được huấn luyện đều nói rằng đây không phải ý tưởng hay.”
Simon bóp nhẹ những ngón tay cô. “Thôi nào. Cậu không tò mò về điều Raphael muốn sao?”
Isabelle vỗ vỗ tay cậu và ngồi dựa lưng vào ghế. “Kể cho mình nghe tất cả khi trở về nhé. Gọi cho mình đầu tiên đấy.”
“Ừ.” Simon đứng dậy, kéo khóa áo. “Và giúp mình một chuyện được chứ? À, hai chuyện mới đúng.”
Cô nhìn cậu với vẻ ngạc nhiên một cách cảnh giác. “Cái gì?”
“Clary nói tối nay sẽ luyện tập ở Học Viện. Nếu cậu gặp, đừng nói với Clary mình đi đâu nhé. Cậu ấy sẽ lo lắng không đâu mất.”
Isabelle đảo mắt. “Được rồi. Chuyện thứ hai?”
Simon hôn lên má cô. “Thử món súp củ cải đó trước khi về nhé. Nó ngon lắm đấy.”
Ngài Walker và ngài Archer không phải những người bạn đồng hành mồm mép nhất. Họ lẳng lặng dẫn Simon đi qua những con phố của khu Lower East Side, đi trước cậu vài bước theo cái cách lướt đi kì lạ của họ. Trời càng lúc càng tối nhưng trên hè phố, dòng người vẫn tấp nập đi lại sau giờ tan ca muộn hoặc giả vội trở về nhà từ bữa tiệc, họ cắm cúi đi, cổ áo dựng cao để che chắn trước những cơn gió lạnh. Tại St. Mark’s Place có đặt những chiếc bàn bằng bìa cứng được dựng lên dọc theo lề đường, bán mọi thứ từ những đôi tất giá rẻ tới những bức tranh thành phố New York phác chì hay những loại hương trầm đang nghi ngút khói. Những chiếc lá kêu lạo xạo trên vỉa hè như những nắm xương khô. Không khí có mùi khí thải ô tô hòa lẫn cùng mùi trầm hương, và bên dưới đó còn thoang thoảng mùi người - mùi của máu thịt.
Bụng Simon quặn lại. Cậu cố gắng giữ đủ lượng máu động vật cần dùng trong phòng - cậu có một cái tủ lạnh nhỏ ở đằng sau tủ quần áo, nơi mẹ cậu không nhìn thấy - để tránh trường hợp lên cơn khát. Máu đó có vị ghê tởm. Cậu nghĩ sẽ quen với nó, hay có thể còn bắt đầu muốn uống nó, nhưng dù nó giúp đẩy lùi cảm giác đói khát nơi cậu, cậu vẫn không tài nào thích nó như ngày xưa từng thích những thanh sô cô la hay món bánh bột ngô Mexico dành cho người ăn chay hay kem cà phê. Nó vẫn có vị như máu vậy.
Nhưng cảm giác khát còn kinh khủng hơn. Cảm giác đó làm cậu có thể ngửi thấy những mùi không muốn ngửi - mùi mằn mặn của da; mùi ngọt ngào từ máu tỏa ra qua lỗ chân lông của những người xa lạ. Nó làm cậu thấy thèm khát, ngứa ngáy và có cảm giác bản thân là một thứ quái vật. Cậu gồng người, nắm chặt hai bàn tay đang nhét trong túi áo và cố hít vào bằng miệng.
Họ rẽ phải vào Đại lộ số Ba và dừng lại trước một cửa hàng có biển hiệu QUÁN TU VIỆN. VƯỜN MỞ CỬA CẢ NĂM. Simon chớp mắt trước tấm biển “Chúng ta làm gì ở đây?”
“Đây là nơi chủ nhân của chúng tôi sẽ gặp cậu.” Giọng ngài Walker nghe sường sượng.
“Ờ.” Simon bối rối. “Tôi cứ nghĩ phong cách của Raphael phải là gặp nhau tại nóc những nhà thờ bị bỏ hoang, hay dưới một nấm mồ xương trắng cơ. Anh ta chưa bao giờ mời tôi tới một nhà hàng thời thượng thế này.”
Cả hai nô lệ đều nhìn cậu chằm chằm. “Có vấn đề gì sao, Ma cà rồng Ưa sáng?” cuối cùng ngài Archer lên tiếng hỏi.
Simon đột nhiên thấy bị đe dọa. “Không. Không có vấn đề gì.”
Bên trong nhà hàng khá tối, với một bàn bar mặt đá cẩm thạch chạy dọc một bức tường. Không có nhân viên phục vụ tới khi họ bước qua phòng tới một cánh cửa đằng sau, và qua cửa bước vào vườn.
Rất nhiều nhà hàng ở New York có một khu vườn; vài nhà hàng mở cửa tới tận giờ này. Khu vườn ba người họ vừa đặt chân vào nằm lọt giữa vài khu nhà. Những bức tường được trang trí bằng những bức bích họa sống động như thật vẽ cảnh sắc khu vườn nước Ý ngập tràn sắc hoa. Những hàng cây, giờ lá đã chuyển sang màu đỏ vàng trong tiết trời mùa thu, được trang hoàng bằng những sợi dây đèn màu trắng và những ngọn đèn hồng ngoại đặt rải rác giữa những cái bàn phát ra những quần sáng màu đỏ. Một đài phun nước cỡ nhỏ róc rách reo vui ở giữa khoảnh sân.
Chỉ có một chiếc bàn duy nhất có người, và ngồi ở đó không phải Raphael. Một người phụ nữ thon thả đội mũ rộng vành đang ngồi tại chiếc bàn kê sát tường. Khi Simon bối rối ngó quanh, cô ta giơ tay và vẫy cậu. Cậu quay lại và nhìn ra sau; tất nhiên, ở đó chẳng có ai. Walker và Archer tiếp tục bước đi; ngạc nhiên, Simon đi theo họ qua sân và dừng lại chỉ cách người phụ nữ kia vài bước chân.
Walker cúi gập đầu. “Chủ nhân,” hắn nói.
Người phụ nữ mỉm cười. “Walker,” bà ta nói. “Và Archer. Tốt lắm. Cảm ơn đã mang Simon tới cho ta.”
“Đợi một giây.” Simon hết nhìn người phụ nữ lại nhìn hai tay người kí sinh. “Cô không phải Raphael.”
“Ôi cho tôi xin, tất nhiên tôi không phải hắn rồi.” Người phụ nữ bỏ mũ. Một mái tóc dày màu bạch kim, sáng lên dưới ánh đèn màu nhấp nháy, đổ xuống vai cô ta. Cô ta có nước da mịn màng, trắng trẻo và gương mặt trái xoan rất xinh đẹp với đôi mắt xanh lá nhạt to hút hồn. Cô ta đeo găng tay màu đen dài, mặc áo lụa đen đi cùng váy bút chì và quấn chiếc khăn lụa đen quanh cổ. Khó mà đoán ra tuổi cô ta - hay ít nhất là tầm tuổi cô ta bị Biến Đổi thành ma cà rồng. “Tôi là Camille Belcourt. Rất hân hạnh được gặp cậu.”
Cô ta giơ bàn tay đeo găng đen ra.
“Tôi được nói là sẽ gặp Raphael Santiago ở đây,” Simon nói, không định bắt tay người phụ nữ kia. “Cô làm việc cho anh ta sao?”
Camille Belcourt cười nghe như tiếng nước chảy róc rách. “Chắc chắn là không rồi! Dù từng có thời anh ta làm việc cho tôi.”
Và thế là Simon nhớ ra. Tôi tưởng thủ lĩnh ma cà rồng là người khác, cậu đã từng nói với Raphael như vậy lúc ở Idris, và chuyện đó đã xảy ra cách đây cả ngàn năm vậy.
Camille chưa trở về nhóm, Raphael đã trả lời vậy. Vì thế tôi thay cô ta chỉ huy.
“Cô là thủ lĩnh ma cà rồng,” Simon nói. “Của nhóm Manhattan.” Cậu quay lại với hai tay người kí sinh. “Hai người lừa tôi. Hai người nói tôi sẽ gặp Raphael.”
“Tôi nói cậu sẽ gặp chủ nhân của chúng tôi,” ngài Walker nói. Đôi mắt hắn mở lớn và vô hồn, quá vô hồn đến mức Simon tự hỏi liệu hai kẻ kia định làm cậu phân tâm, hay họ chỉ giống như những con rô bốt được lập trình để nói những gì chủ nhân chúng bảo và không ý thức được sự sai lệch trong lời nói. “Và chủ nhân của tôi đây.”
“Đúng thế.” Camille cười rạng rỡ với hai gã kia. “Walker, Archer, làm ơn để chúng tôi lại với nhau. Tôi cần nói chuyện riêng với Simon.” Cái cách cô ta nói điều đó - cách gọi tên cậu và cái từ “riêng” - có gì đó không bình thường, giống như một cái vuốt ve thầm kín vậy.
Hai tay người kí sinh cúi chào và rút lui. Khi ngài Archer quay đầu bước đi, Simon thoáng nhìn thấy một vết bầm tím bên cổ hắn ta, đen như mực tàu và có hai chấm đen hơn bên trong. Những cái chấm bên trong là vết cắn, bao quanh là phần da xù xì, thiếu nước. Simon đột nhiên thấy rùng mình.
“Xin mời,” Camille nói và vỗ vào cái ghế bên cạnh. “Ngồi đi. Cậu muốn dùng chút rượu không?”
Simon ngồi mem mém ở rìa cái ghế kim loại cứng. “Tôi không thật sự uống.”
“Tất nhiên,” cô ta nói, hoàn toàn thông cảm. “Cậu vẫn còn là một ma cà rồng non, đúng không nhỉ? Đừng lo lắng quá nhiều. Rồi cậu sẽ luyện uống được rượu và một số loại đồ uống có cồn khác. Một vài ma cà rồng lớn tuổi nhất còn có thể ăn thức ăn của loài người mà khôg bị tác động nhiều lắm.”
Không bị tác động nhiều lắm sao? Simon không thích điều đó. “Cuộc gặp gỡ của chúng ta có kéo dài lâu không?” Simon nhìn điện thoại, và qua đó cậu biết giờ đã quá mười rưỡi. “Tôi còn phải về nhà.”
Camille nhấp chút rượu. “Thật sao? Vì sao vậy?”
Vì mẹ tôi đang đợi. Nhưng mà, người phụ nữ này đâu cần biết điều đó. “Cô phá ngang buổi hẹn hò của tôi,” cậu nói. “Tôi chỉ muốn biết có chuyện gì quan trọng tới mức đó.”
“Cậu vẫn sống cùng mẹ, đúng không?” cô ta nói và đặt cái ly xuống. “Khá kỳ lạ, đúng không, khi một ma cà rồng giàu quyền năng lại không chịu rời nhà sống cùng bầy đàn?”
“Vậy cô xen ngang buổi hẹn của tôi để trêu cười việc tôi sống cùng bố mẹ. Cô không thể làm việc đó vào một buổi tối nào đó tôi rảnh rang hơn sao? Nói cho cô khỏi tò mò, là hầu hết các tối khác đó.”
“Tôi không chế giễu cậu, Simon.” Cô ta nếm môi dưới như thể nếm vị rượu cô ta vừa uống. “Tôi chỉ muốn biết vì sao cậu không tham gia nhóm của Raphael.”
Đó không phải là nhóm của chính cô sao? “Tôi có cảm giác cực kỳ mạnh mẽ rằng anh ta không muốn tôi tham gia cùng,” Simon nói. “Anh ta đã nhấn mạnh rất rõ rằng anh ta sẽ không động tới tôi nếu tôi không động tới anh ta. Vì thế tôi chẳng dại gì mà lao vào hang cọp sất.”
“Thật sao.” Đôi mắt xanh lá của cô ta sáng lên.
“Tôi chưa bao giờ muốn trở thành ma cà rồng,” Simon nói, hơi phân vân vì sao cậu lại nói những điều này với người phụ nữ xa lạ kia. “Tôi muốn có một cuộc đời bình thường. Khi tôi phát hiện ra mình là một Ma cà rồng Ưa sáng, tôi nghĩ tôi có thể có nó. Hoặc ít nhất gần như thế. Tôi có thể tới trường, tôi có thể sống ở nhà, tôi có thể thấy mẹ và chị gái -”
“Miễn là cậu không ăn uống trước mặt họ,” Camille nói. “Miễn là cậu che giấu sự khát máu. Cậu chưa bao giờ uống máu người phải không? Chỉ sử dụng máu đựng trong túi. Để lâu. Của động vật.” Cô ta nhăn mũi.
Simon nghĩ tới Jace và vội đẩy ý nghĩ đó sang một bên, Jace không là con người hoàn toàn. “Không.”
“Rồi cậu sẽ dùng máu người thôi. Và khi dùng rồi, cậu sẽ không thể nào quên.” Cô ta nhoài người tới, những sợi tóc khẽ lướt trên bàn tay cậu. “Cậu không thể giấu bản chất mãi được.”
“Có trẻ vị thành niên nào không có đôi lần lừa cha dối mẹ chứ?” Simon nói. “Mà dù gì, tôi không hiểu vì sao cô quan tâm tới chuyện đó. Tôi vẫn chưa biết lý do tôi tới đây.”
Camille hơi đưa người lên trước. Lúc đó, cổ áo cô ta hơi mở ra. Nếu Simon còn là người, cậu sẽ đỏ chín mặt. “Cậu sẽ để tôi thấy nó chứ?”
Simon thật sự có thể cảm nhận mắt mình lồi ra. “Thấy gì?”
Cô ta mỉm cười. “Ấn Ký chứ còn gì nữa, ngốc tử ạ. Ấn Ký Kẻ Lang Thang.”
Simon há miệng, rồi ngậm lại. Sao cô ta biết chứ? Rất ít người biết về Ấn Ký mà Clary đã vẽ lên cậu tại Idris. Raphael đã nói bóng gió rằng đó là bí mật phải mang theo xuống mồ, và Simon cũng nghĩ về nó như vậy.
Nhưng đôi mắt của Camille rất xanh và chân thành, và vì lý do gì đó cậu muốn làm theo lời cô ta.
Có gì đó về cách cô ta nhìn cậu, về tiếng nhạc trong giọng nói cô ta. Cậu giơ tay và vén tóc sang bên, để lộ vầng trán tùy cho cô ta xem xét.
Mắt cô ta mở to, môi hé mở. Cô ta chạm nhẹ những ngón tay lên cổ, như thể tìm kiếm mạch đập không còn tồn tại ở đó. “Ồ,” cô ta nói. “Cậu thật may mắn, Simon. Thật may mắn.”
“Đó là một lời nguyền,” cậu nói. “Không phải một lời chúc phúc. Cô biết thế, đúng không?”
Đôi mắt cô ta lóe sáng. “ ‘Và Cain thưa cùng Đức Jehovah rằng: Sự hình phạt tôi nặng quá mang không nổi.’[7] Cậu có mang nổi không, Simon?”
[7] Sáng Thế ký 4:13 (ND)
Simon dựa lưng vào ghế, để tóc lại xòa về như cũ. “Có.”
“Nhưng cậu không muốn.” Cô ta đưa ngón tay di quanh vành ly, đôi mắt vẫn dán vào cậu. “Vậy nếu tôi có thể cho cậu một thứ để biến lời nguyền thành lợi thế thì sao?”
Tôi đã nói rồi cô sẽ cho tôi biết lý do đưa tôi đến đây, và cô đã bắt đầu rồi. “Tôi đang nghe.”
“Cậu nhận ra tên tôi khi tôi nói cho cậu biết,” Camille nói. “Raphael đã nhắc tới tôi, đúng không?”
Giọng cô ta mang âm điệu địa phương, rất nhẹ nên Simon không nhận ra được của vùng nào.
“Anh ta nói cô là thủ lĩnh ma cà rồng và anh ta chỉ đang thay thế trong khi cô đi vắng. Điều hành giùm cô như - một dạng phó thủ lĩnh hay gì đó đại loại.”
“À.” Cô ta cắn nhẹ môi dưới. “Điều đó thật ra không đúng lắm. Tôi muốn nói cho cậu nghe sự thật, Simon ạ. Tôi muốn cho cậu một đề nghị. Nhưng trước hết tôi muốn nghe cậu nói đã.”
“Và cô muốn nghe gì nào?”
“Rằng những chuyện giữa chúng ta vào tối nay sẽ mãi là bí mật. Không ai được biết. Không phải cô bạn tóc đỏ bé nhỏ của cậu, Clary. Cũng chẳng phải những cô bạn gái dễ thương kia. Không một người nhà Lightwood nào hết. Không một ai.”
Simon ngồi xuống. “Và nếu tôi không hứa?”
“Thì cậu có thể đi nếu cậu muốn,” cô ta nói. “Nhưng cậu sẽ không biết tôi muốn nói gì với cậu. Và đó là một sự mất mát khiến cậu phải nuối tiếc.”
“Tôi tò mò rồi đấy,” Simon nói. “Nhưng tôi không chắc mình có tò mò tới mức đó không.”
Đôi mắt cô ta ánh lên sự ngạc nhiên, hứng thú và Simon nghĩ trong đó thậm chí còn có một chút tôn trọng. “Không một điều gì tôi nói với cậu có liên quan tới họ hết. Nó sẽ không ảnh hưởng tới sự an toàn hay sức khỏe của họ. Tôi buộc cậu giữ bí mật là để bảo vệ chính tôi.”
Simon nhìn cô ta một cách nghi hoặc. Cô ta nói thật sao? Ma cà rồng không giống tiên - những sinh vật không thể nói dối. Nhưng cậu phải thừa nhận rằng cậu có tò mò. “Được rồi. Tôi sẽ giữ bí mật cho cô, trừ khi tôi nghĩ điều cô nói đặt bạn bè tôi vào vòng nguy hiểm. Còn lại đều được.”
Nụ cười của cô lạnh băng; cậu biết cô ta không thích bị người khác nghi ngờ. “Được thôi,” cô ta nói. “Chắc tôi không có nhiều lựa chọn vì tôi rất cần cậu giúp.” Cô ta nhoài người tới, một bàn tay thon dài nghịch ngợm vành ly. “Tới rất gần đây, tôi vẫn còn lãnh đạo nhóm Manhattan, rất hạnh phúc. Chúng tôi sống trong những khu phố xinh đẹp tại những tòa nhà xây thời trước Thế chiến II ở khu Upper West Side, chứ không phải khu ổ chuột mà Santiago hiện đang bắt những người của tôi sống. Santiago - Raphael, như cậu gọi - là phó thủ lĩnh của tôi. Một trong những ma cà rồng trung thành nhất - hay đó là điều tôi tưởng. Rồi một đêm tôi phát hiện ra hắn ta giết người, lôi họ tới cái khách sạn cũ kỹ tại Spanish Harlem và lấy việc uống máu họ làm vui. Vứt xương họ vào thùng Dumpster ở ngoài. Làm những trò liều lĩnh ngu ngốc, phá vỡ Luật Hiệp Ước.” Cô ta nhấp một ngụm rượu. “Khi tôi hỏi tội hắn, tôi nhận ra hắn đã nói với cả nhóm rằng tôi là kẻ giết người, kẻ phá luật. Hắn đã giăng bẫy lừa tôi vào tròng. Hắn muốn giết tôi để tiếm quyền. Tôi bỏ chạy, chỉ mang theo Walker và Archer để bảo vệ tôi.”
“Vậy mà suốt thời gian đó anh ta đều nói anh ta chỉ lãnh đạo thay cho tới khi cô trở về?”
Cô ta nhăn mặt. “Santiago nói dối thành thần rồi. Hắn ước tôi quay lại chứ - để hắn giết tôi và thật sự nắm quyền.”
Simon không chắc cô ta muốn nghe gì. Cậu không quen với chuyện nữ giới nhìn cậu bằng đôi mắt ầng ậng nước, hoặc kể lể câu chuyện cuộc đời họ cho cậu.
“Tôi rất tiếc,” cuối cùng cậu nói.
Cô ta nhún vai, một cái nhún vai đầy tính biểu đạt khiến cậu tự hỏi liệu cô ta có phải người Pháp không. “Đó là chuyện quá khứ rồi,” cô ta nói. “Suốt thời gian đó tôi trốn ở Luân Đôn, tìm kiếm đồng minh và chờ đợi thời cơ. Sau đó tôi được nghe về cậu.” Cô ta giơ một bàn tay lên. “Vì đã thề giữ bí mật nên tôi không thể nói cho cậu vì sao tôi biết. Nhưng ngay lập tức, tôi nhận ra cậu là người tôi đang chờ đợi.”
“Tôi ư? Thật sao?”
Cô ta nhoài người tới và chạm vào tay cậu. “Raphael sợ cậu, Simon ạ, và hắn ta sợ cũng đúng thôi. Cậu và hắn đều là ma cà rồng, nhưng cậu không thể bị thương hay bị giết; hắn không thể động một ngón tay tới cậu mà không phải chịu cơn thịnh nộ của Đức Chúa.”
Im lặng. Simon có thể nghe thấy tiếng rì rì của những dây đèn Giáng Sinh trên đầu, tiếng nước róc rách chảy trên đài phun nước bằng đá ở giữa sân, tiếng ù ù của thành phố. Khi cậu nói, giọng cậu thật nhẹ nhàng. “Cô nói từ đó.”
“Nói gì, Simon?”
“Từ đó. Cơn thịnh nộ của -” Từ đó cắn và đốt bỏng miệng cậu, như thường lệ.
“À. Đức Chúa.” Cô ta rút tay lại, nhưng ánh mắt rất ấm áp. “Loài chúng ta có rất nhiều bí mật, rất nhiều điều tôi có thể nói với cậu nghe, chỉ cho cậu thấy. Cậu sẽ hiểu ra rằng mình không hề bị nguyền rủa gì cả.”
“Thưa cô -”
“Cứ gọi tôi là Camille. Cậu phải gọi tôi là Camille đấy nhé.”
“Tôi vẫn không hiểu cô muốn gì từ tôi.”
“Không sao?” cô ta lắc đầu, và mái tóc vàng rực rỡ nhảy múa quanh gương mặt. “Tôi muốn cậu về cùng phe với tôi, Simon. Ủng hộ tôi chống lại Santiago. Chúng ta sẽ cùng nhau tới cái khách sạn lúc nhúc chuột của hắn; khi những kẻ theo đuôi hắn thấy cậu đi cùng tôi, họ sẽ rời bỏ hắn và tới với tôi. Tôi tin họ trung thành với tôi, nhưng chỉ vì sợ hắn mà không dám tìm tôi mà thôi. Khi họ thấy chúng ta cùng nhau, nỗi sợ đó sẽ biến mất, và họ sẽ về phe chúng ta. Con người không thể chiến thắng thần thánh.”
“Tôi không biết nữa,” Simon nói. “Kinh thánh có kể Jacob đã vật nhau với một thiên thần, và anh ta đã thắng.”
Camille nhướn mày nhìn cậu.
Simon nhún vai. “Tôi theo đạo Do Thái mà.”
“ ‘Và Jacob đặt tên nơi đó là Peniel: có nghĩa là tôi đã đối mặt với Chúa.’ Cậu thấy đấy, cậu không phải người duy nhất thuộc biết về Thánh Kinh của mình.” Vẻ thù địch của cô ta đã biến mất và cô ta đang mỉm cười. “Có thể cậu không nhận ra, Ma cà rồng Ưa sáng ạ, nhưng miễn cậu còn Ấn Ký đó, cậu chính là cánh tay báo thù của thiên đường. Không ai có thể chống nổi cậu. Chắc chắn không một ma cà rồng nào rồi.”
“Cô có sợ tôi không?” Simon hỏi.
Cậu ngay lập tức hối hận về điều vừa nói. Đôi mắt xanh lá của cô ta tối lại như đám mây dông. “Tôi, sợ cậu?” Rồi cô ta lấy lại bình tĩnh, gương mặt bình thản, biểu cảm tươi sáng trở lại. “Tất nhiên là không rồi,” cô ta nói. “Cậu rất thông minh. Và tôi tin cậu sẽ nhìn ra sự thông thái trong đề nghị của tôi và về phe tôi.”
“Và chính xác thì đề nghị của cô là gì? Ý tôi là, tôi hiểu phần chúng ta sẽ đối mặt với Raphael, nhưng sau đó thì sao? Tôi không thật sự ghét Raphael, hay muốn loại bỏ anh ta. Anh ta chẳng động tới tôi. Thế là đủ cho tôi rồi.”
Cô ta đan tay đặt lên bàn. Cô ta đeo một chiếc nhẫn bạc mặt đá xanh trên ngón giữa bên trái, bên trên lớp găng tay. “Cậu nghĩ đó là điều cậu muốn, Simon. Cậu nghĩ Raphael đang gia ân cho cậu khi để yên cho cậu. Thực tế hắn ta đang đầy đọa cậu. Giờ cậu nghĩ cậu không cần đến những ma cà rồng khác. Cậu chỉ cần những người bạn cậu có - thuộc giống nòi Thợ Săn Bóng Tối. Cậu giấu máu trong phòng và lừa dối mẹ cậu về bản chất thật của cậu.”
“Sao cô…”
Cô ta nói tiếp, kệ cậu. “Nhưng rồi mười năm nữa, khi cậu đáng ra phải hai mươi sáu tuổi thì sao? Rồi hai mươi năm nữa thì sao? Ba mươi năm thì sao đây? Cậu nghĩ là chẳng ai nhận thấy rằng họ già đi và thay đổi, còn cậu thì không ư?”
Simon không nói gì. Cậu không muốn thừa nhận rằng cậu chưa nghĩ xa tới vậy. Rằng cậu không muốn nghĩ xa tới vậy.
“Raphael đã dạy cậu rằng các ma cà rồng khác là thuốc độc với cậu. Nhưng chuyện không cần đi theo hướng đó. Thời gian sống của cậu là vĩnh viễn, và vĩnh viễn là một khoảng thời gian rất dài, chẳng ai có thể qua nổi khoảng thời gian đó khi không có những kẻ giống mình ở bên. Những người hiểu cậu. Cậu có thể kết bạn với Thợ Săn Bóng Tối, nhưng cậu không thể là một trong số họ. Cậu sẽ luôn luôn là người khác và người ngoài. Nhưng cậu là một trong số chúng tôi.” Khi cô ta nhoài người tới, ánh sáng trắng lấp lánh trên chiếc nhẫn của cô ta khiến Simon nhức mắt. “Chúng tôi có hàng ngàn năm kiến thức có thể chia sẻ cùng cậu, Simon ạ. Cậu có thể học cách giữ bí mật, học cách ăn và uống, học cách gọi tên Chúa. Raphael thật độc ác khi giấu không cho cậu biết những thông tin đó và thậm chí còn để cậu tin rằng nó không tồn tại. Nhưng chúng có tồn tại chứ. Tôi có thể giúp cậu.”
“Nếu tôi giúp cô trước.”
Cô ta mỉm cười, khoe hàm răng trắng và sắc nhọn. “Chúng ta giúp lẫn nhau.”
Simon dựa người vào ghế. Cái ghế sắt thật cứng và không thoải mái, và đột nhiên cậu thấy mệt mỏi. Nhìn xuống, cậu thấy những mạch máu đang đen lại, lan khắp mu bàn tay. Cậu cần uống máu. Cậu cần nói chuyện với Clary. Cậu cần thời gian suy nghĩ.
“Có thể tôi làm cậu choáng váng,” cô ta nói. “Tôi biết. Đây là một vấn đề lớn không thể quyết định ngay một sớm một chiều. Tôi sẽ rất vui được cho cậu bao nhiêu thời gian nếu cậu muốn để suy nghĩ về vấn đề này và về tôi. Nhưng chúng ta không có quá nhiều thời gian đâu, Simon. Khi tôi còn ở thành phố này, tôi luôn bị Raphael và những kẻ đồng lõa đe dọa.”
“Những kẻ đồng lõa?” Dù cho mọi chuyện đã xảy ra, Simon vẫn nhe răng cười chút xíu.
Camille có vẻ lúng búng. “Sao?”
“À, chỉ là… ‘kẻ đồng lõa’ nghe giống với ‘kẻ xấu’ và ‘tay sai’.” Cô ta nhìn cậu ra chiều không hiểu. Simon thở dài. “Xin lỗi. Chắc cô không xem nhiều phim xã hội đen như tôi.”
Camille hơi nhíu mày, một đường hằn sâu xuất hiện giữa hai lông mày. “Tôi nghe nói cậu có phần hơi đặc biệt. Có lẽ là do tôi không quen nhiều ma cà rồng thuộc thế hệ cậu lắm. Nhưng tôi cảm thấy có lẽ sẽ tốt cho tôi khi được ở gần những thành viên… còn rất trẻ.”
“Luồng gió mới,” Simon nói.
Nghe tới đó, cô ta mỉm cười. “Vậy cậu sẵn sàng rồi chứ? Đã chấp nhận lời đề nghị của tôi? Bắt đầu hợp tác chứ?”
Simon ngước nhìn bầu trời. Những luồng ánh sáng trắng dường như đã làm lu mờ các vì sao. “Nghe này,” cậu nói. “tôi rất cảm ơn lời đề nghị của cô. Thật đấy.” Chết tiệt, cậu nghĩ. Phải có cách khác nói ra điều này sao cho nghe không giống cậu đang từ chối một cô gái vừa mở miệng mời cậu tới vũ hội trường học chứ!... Mình thật sự, thật sự hãnh diện vì bạn đã mời mình, nhưng… Camille, giống như Raphael, luôn nói chuyện một cách khô khan, khách sáo, như thể cô ta đang ở trong một câu chuyện thần tiên vậy. Có lẽ cậu có thể thử cách đó. Cậu nói, “Tôi cần thời gian để cân nhắc. Tôi chắc là cô hiểu thôi.”
Rất lịch thiệp, cô ta mỉm cười, để lộ những đầu răng nanh. “Năm ngày,” cô ta nói. “Và không lâu hơn.” Cô ta giơ bàn tay đeo găng ra. Có gì đó sáng lấp lánh trong lòng bàn tay cô ta. Đó là một cái lọ nhỏ, bằng cỡ một mẩu thử nước hoa, chỉ có điều nó đựng một chất bột màu nâu xỉn. “Bụi nghĩa địa,” cô ta giải thích. “Đập vỡ cái lọ này và tôi sẽ biết cậu cần gặp tôi. Nếu cậu không gọi tôi trong vòng năm ngày, tôi sẽ cho Walker tới nghe câu trả lời từ cậu.”
Simon cầm cái lọ và nhét vào túi áo. “Và nếu câu trả lời là không?”
“Vậy tôi sẽ rất thất vọng. Nhưng chúng ta vẫn là bạn.” Cô ta gạt cái ly rượu sang bên. “Tạm biệt, Simon.”
Simon đứng dậy. Cái ghế bằng kim loại kêu cót két ầm ĩ tiếng như thể bị kéo lê trên đất. Cậu có cảm giác nên nói gì đó, nhưng cậu không biết nên nói gì. Dù, trong một lúc cậu có cảm giác như bị đuổi. Cậu quyết định thà hành xử giống một ma cà rồng hiện đại dở dở hâm hâm không biết quy tắc hơn là phải tiếp tục cuộc nói chuyện này. Cậu rời đi mà không nói thêm một lời gì nữa.
Trên đường trở qua nhà hàng, cậu đi qua Walker và Archer, hai kẻ đang đứng cạnh quầy bar lớn, đôi vai dồ lên dưới cái áo khoác dài. Cậu cảm thấy sức nặng của ánh mắt họ lên cậu khi cậu đi qua và vẫy mấy ngón tay với họ, vừa như thân thiện chào tạm biệt vừa như trêu ngươi họ. Archer nhe răng - hàm răng đều đặn của loài người - và đi lướt qua cậu để về khu vườn với Walker bám sát gót. Simon quan sát họ ngồi xuống ghế đối diện Camille; cô ta không buồn ngước mắt nhìn, nhưng những luồng ánh sáng trắng chiếu sáng khu vườn đột nhiên tắt ngóm - không phải từng cái mà là đồng loạt - để lại Simon nhìn chăm chăm vào trong bóng tối đặc quánh như thể chính ánh sao cũng chẳng còn tồn tại. Khi những người phục vụ nhận ra và vội ra ngoài bật đèn để khu vườn lại tràn ngập ánh sáng trắng, Camille và những kẻ tay chân của cô ta đã biến mất.
Simon mở cửa nhà mình - một trong nhiều ngôi nhà xây bằng gạch giống y chang chạy dọc theo tuyến phố Brooklyn - và để hơi he hé, cẩn thận nghe ngóng.
Cậu đã nói với mẹ rằng tối nay cậu cần đi luyện tập cùng Eric và các thành viên khác trong ban nhạc để chuẩn bị cho buổi trình diễn vào thứ bảy.
Từng có thời cậu nói gì mẹ đều tin, và chắc có lẽ sẽ vẫn như vậy; bà Elaine Lewis luôn luôn là bậc phụ huynh dễ tính, chưa bao giờ ra lệnh giới nghiêm đối với Simon hay với chị gái cậu và cũng chẳng bao giờ bắt họ về nhà sớm sau những lớp học thêm buổi tối. Simon đã quen với việc đi chơi cùng Clary, sau đó tự mình dùng khóa mở cửa vào nhà, và ngả lưng trên giường vào lúc hai giờ sáng, vậy mà mẹ cậu chẳng phàn nàn gì nhiều.
Nhưng giờ mọi chuyện đã đổi khác. Cậu đã ở Idris, quê hương của Thợ Săn Bóng Tối, trong gần hai tuần. Cậu đã biến mất khỏi nhà mà chẳng có cơ hội để giải thích hay xin lỗi. Pháp sư Magnus Bane đã vào nhà và sử dụng thần chú trí nhớ lên mẹ Simon để bà không còn nhớ gì về việc cậu con trai đã mất tích. Hay ít nhất, không phải nhớ thật sự. Thái độ của mẹ thay đổi. Giờ mẹ đa nghi, luôn lượn lờ quanh, luôn theo dõi cậu, lúc nào cũng bắt cậu ở nhà. Lần cuối cùng cậu về nhà sau buổi hẹn với Maia, cậu đã thấy mẹ ngồi ở tiền phòng, trên chiếc ghế đối diện với cửa, tay khoanh trước ngực và vẻ mặt cực kỳ giận dữ.
Đêm đó, cậu nghe thấy tiếng thở của mẹ trước khi nhìn thấy mẹ. Giờ cậu chỉ nghe thấy âm thanh nho nhỏ của tiếng TV vọng ra từ phòng khách. Chắc mẹ vẫn thức đợi cậu, có lẽ đang xem một trong những bộ phim dài tập lấy bối cảnh trong bệnh viện mà mẹ yêu thích. Simon đóng cửa lại và dựa người vào cửa, cố lấy sức mà nói dối.
Tránh ăn uống cùng gia đình thật sự khó. Cũng may là mẹ cậu đi làm sớm và về nhà muộn, còn Rebecca, hiện giờ đang theo đại học tại New Jersey và chỉ thi thoảng về để giặt quần áo nên chẳng ở gần cậu nhiều để nhận ra sự kì quặc. Mẹ cậu thường xuyên đi làm vào lúc cậu thức giấc, và bữa sáng cùng bữa trưa mẹ ân cần chuẩn bị cho cậu luôn đặt trên bàn bếp. Cậu sẽ đổ chúng vào thùng rác trên đường đi học. Bữa tối thì khó hơn. Trong những tối mẹ ở nhà, cậu phải chọc chọc thức ăn, ra vẻ không đói hoặc cậu muốn mang thức ăn lên phòng để ăn trong lúc học. Một hai lần cậu buộc phải nuốt đồ ăn xuống, chỉ để làm vui lòng mẹ, và dành hàng giờ trong phòng tắm, mồ hôi lạnh túa đầm đìa và nôn ọe cho bằng hết.
Cậu ghét phải nói dối mẹ. Ngày trước cậu luôn thấy có chút tiếc nuối cho Clary vì mối quan hệ khá khăng khít giữa bạn mình và cô Jocelyn, người phụ huynh bảo bọc con cái quá mức nhất mà cậu biết. Giờ hoàn cảnh đã đổi khác. Từ ngày Valentine chết, cô Jocelyn đã thoải mái hơn và ở một vài điểm cô đã trở thành một người mẹ bình thường. Trong khi đó, mỗi khi Simon ở nhà, cậu có thể cảm nhận sức nặng từ ánh mắt của mẹ lên cậu, cứ như một lời buộc tội tới bất cứ nơi nào cậu đặt chân tới.
Gồng vai, cậu treo cặp lên cửa và đi vào phòng khách để chuẩn bị nghe bài ca bất hủ. TV vẫn bật và đang trong khung giờ thời sự. Biên tập viên đài địa phương đang kể một câu chuyện thú vị - cơ quan chức năng tìm thấy một đứa bé bị bỏ rơi tại một con hẻm đằng sau một khách sạn ở khu phía nam Manhattan. Simon ngạc nhiên; mẹ cậu ghét nghe thời sự. Mẹ thấy nó quá làm con người ta rầu thối ruột. Cậu liếc nhìn ghế dài, và sự ngạc nhiên giảm dần. Mẹ đang ngủ, cặp kính đặt trên bàn, chiếc cốc đã vơi hết nửa đặt trên sàn. Simon có thể ngửi thấy nó từ đây - có lẽ là whiskey. Cậu thấy sốc. Mẹ cậu chẳng bao giờ uống rượu.
Simon vào phòng ngủ của mẹ và mang ra một cái chăn len. Mẹ vẫn ngủ, nhịp thở chậm rãi và đều đặn. Elaine Lewis là một người phụ nữ nhỏ nhắn với những lọn tóc đen xoăn điểm sợi bạc nhưng không chịu nhuộm. Mẹ làm việc ban ngày cho một tổ chức phi lợi nhuận vì môi trường, và toàn bộ quần áo của mẹ đều có in hình những loài động vật khác nhau. Giờ mẹ đang mặc chiếc váy in hình cá heo và những con sóng, đeo ghim cài áo hình từng có thời là một con cá sống, giờ nằm trong nhựa thông. Đôi mắt được phủ sơn của nó đang nhìn Simon với vẻ buộc tội khi cậu cúi xuống và trùm chăn quanh vai mẹ.
Mẹ nhúc nhích người, chập chờn thức giấc, quay đầu về hướng kia. “Simon,” mẹ thì thào gọi. “Simon, con ở đâu?”
Giật mình, Simon buông rơi cái chăn và đứng thẳng. Có lẽ cậu nên đánh thức mẹ, để mẹ biết rằng cậu vẫn ổn. Nhưng rồi có quá nhiều câu hỏi cậu không muốn trả lời và vẻ tổn thương trên gương mặt mẹ khiến cậu không chịu nổi. Cậu quay người và đi vào phòng ngủ.
Cậu chui vào chăn và nắm lấy cái điện thoại ở tủ đầu giường, định nhấn số Clary trước khi kịp suy nghĩ. Cậu ngừng lại một lúc, lắng nghe tiếng bíp bíp đều đặn. Cậu không thể nói cho cô nghe về Camille; cậu đã hứa giữ bí mật về lời đề nghị của ả ma cà rồng, và dù cậu không cảm thấy mình tôn trọng Camille nhiều nhặn gì cho cam nhưng qua mấy tháng vừa rồi cậu đã học được rằng: không nên phản bội lời hứa với những sinh vật siêu nhiên. Nhưng, cậu vẫn muốn nghe giọng Clary như cậu luôn muốn mỗi khi gặp khó khăn. Và thường, cái khó khăn đó luôn luôn là về câu chuyện tình yêu tình báo của cậu; vấn đề đó luôn khiến cô hứng thú mãi không chán. Lăn mình trên giường, cậu úp gối lên đầu và nhấn số Clary.
Vũ Khí Bóng Đêm 4 - Thiên Thần Sa Ngã Vũ Khí Bóng Đêm 4 - Thiên Thần Sa Ngã - Cassandra Clare Vũ Khí Bóng Đêm 4 - Thiên Thần Sa Ngã