A truly good book teaches me better than to read it. I must soon lay it down, and commence living on its hint.... What I began by reading, I must finish by acting.

Henry David Thoreau

 
 
 
 
 
Tác giả: John Dickson Carr
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Đỗ Thư
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 186 / 17
Cập nhật: 2020-07-09 16:11:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
XVII - Hoa Cẩm Chướng Trắng
ĩ quan Bostwick già hơn Elliot hai chục tuổi, nhưng ông đang đi xuống cầu thang với tốc độ chỉ sau anh khoảng một hay hai bước. Trong một phần giây Elliot đã băn khoăn không biết liệu những gì anh vừa nhìn thấy có phải là một ảo giác không, một ảo giác trong bãi cỏ sân trước đầy yên tĩnh, như một trong những ảo giác về Marcus Chesney chẳng hạn. Nhưng việc Harding bất thình lình đổ nhào xuống một bên từ ghế lái, và tiếng thét của Harding, thì không phải ảo giác.
Khi Marjorie đột nhiên lấy lại ý thức và kéo phanh, chiếc xe không có người lái ấy đang chầm chậm trượt lùi gần hết con đường. Lúc Elliot đến được nơi đó, bác sĩ Chesney đang đứng lên trên băng ghế sau, rõ ràng là hoàn toàn tỉnh táo. Elliot dự kiến sẽ tìm thấy Harding đang nằm vắt ngang qua bên hông xe với một viên đạn trong não. Nhưng những gì anh thực sự thấy là Harding, người đã lần mò chộp được cánh cửa và tìm cách mở được nó ra, đang bò trên cả bốn chân ngang qua con đường rải sỏi để đến bãi cỏ, nơi anh ta ngã quỵ xuống. Hai vai anh ta rụt lên đến tận tai. Máu đang chảy ra từ sau cổ, vòng quanh cổ áo, hẳn là anh ta có thể cảm nhận được điều đó, và nó dọa anh ta chết khiếp. Những từ mà anh ta nói nghe khá kì cục. Trong bất kì hoàn cảnh nào thì mấy từ đó nghe cũng có vẻ lố bịch hết.
“Tôi bị bắn,” anh ta đang nói với giọng cao hơn tiếng thì thầm một chút. “Tôi bị bắn. Ôi, Chúa ơi, tôi đã bị bắn.”
Sau đó anh ta chờ một lát, rồi quằn quại trên bãi cỏ. Vì thế Elliot biết rằng anh ta không phải người chết hoặc thậm chí là một người sắp chết cũng không.
“Nằm yên!” anh nói. “Nằm yên đó!”
Lời rên rỉ của Harding đã tăng đến mức khủng bố. Bác sĩ Chesney lại khác, ông nói năng mạch lạc hơn hẳn. “Bắn trật rồi,” ông ta nhấn mạnh, cầm lấy khẩu súng lục, “bắn trật rồi.” Có vẻ như điều mà ông mong muốn gây ấn tượng với tâm tưởng người nghe, hết lần này đến lần khác, là tin tức đáng kinh ngạc rằng viên đạn đã bị bắn trượt.
“Chúng tôi đã chú ý đến việc đó, thưa ông,” Elliot nói. “Đúng, anh đã bị bắn,” anh nói với Harding. “Nhưng anh vẫn chưa chết, đúng không? Anh không cảm thấy mình đang chết đúng không? Này!”
“Tôi…”
“Yên nào! Để tôi ngó qua xem.” Elliot vỗ về, đỡ lấy vai của anh ta khi Harding nhìn anh một cách đờ đẫn, khó hiểu. “Anh không thấy đau, đúng không? Tay ông ấy hẳn đã bị lắc hay sao đó. Viên đạn lệch sang một bên và sượt qua da sau cổ anh. Vùng da có bị bỏng, nhưng anh chỉ bị một vết cắt chưa tới một phần mười inch. Anh không thấy đau, đúng không?”
“Đừng bận tâm,” Harding nói khẽ. “Than vãn là không tốt. Hãy đối mặt với điều đó. Phải mạnh mẽ, đúng không? Ha, ha, ha.” Mặc dù anh ta dường như chẳng nghe Elliot nói gì, và đã thì thầm nói với vẻ gần như hoàn toàn đùa cợt, Harding vẫn cho Elliot một ấn tượng mới. Elliot nghĩ bộ não vô cùng sắc bén của anh ta đã nghe được lời chẩn đoán, ngay lập tức dịch ý nghĩa, thậm chí là dịch nghĩa trong trạng thái vô cùng sợ hãi, sau đó nhận ra rằng nó đang trên đà khiến bản thân trở nên ngớ ngẩn, và anh ta nhanh chóng giả vờ như đang ở trong trạng thái diễn xuất xuất thần.
Elliot thả hai vai anh ta ra.
“Ông sơ cứu vết thương được chứ?” anh hỏi bác sĩ Chesney.
“Cái túi,” bác sĩ Joe nói, vừa nuốt khan một hay hai lần và phe phẩy cổ tay về hướng cửa trước, vừa nói. “Cái túi màu đen. Túi dụng cụ của tôi. Ở dưới cầu thang trong sảnh.”
“Ôi chà,” Harding hòa nhã nói.
Và Elliot buộc phải ngưỡng mộ anh ta. Bởi vì bây giờ Harding đang ngồi trên đám cỏ và phá ra cười.
Harding có vẻ rất sẵn sàng nói chuyện. Nhưng vết thương đó hẳn là rất đau, đấy là chỉ riêng từ đám bột nổ thôi. Nếu vết cắt sâu hơn chỉ nửa inch nữa thì Harding sẽ khó mà qua khỏi, và bây giờ anh ta lại đang mất máu. Tuy vậy, Harding, mặc dù trông vẫn xanh xao, dường như đã rạng rỡ hơn hẳn. Trông anh ta như thể thực sự hưởng thụ vết thương đó vậy.
“Bác là một tay súng tệ, bác sĩ Joe,” anh ta chỉ ra. “Nếu bác có thể trượt từ một vị trí như thế thì bác sẽ không bao giờ thành công được đâu. Này, Marjorie?”
Marjorie đã leo ra khỏi xe và chạy đến chỗ anh ta.
Bác sĩ Chesney – người đụng vào Marjorie khi cả hai di chuyển – đã ngừng lại ngay chỗ bậc lên xuống của xe ô tô và nhìn cô chăm chú.
“Chúa ơi, cháu không nghĩ là ta cố ý bắn cậu ta đấy chứ?”
“Tại sao không?” Harding cười toe. “Bình tĩnh nào, Marjorie. Coi chừng máu.” Đôi mắt anh ta mở lớn, kiên định và tỏa sáng lấp lánh, nhưng anh ta líu lo không ngừng trong khi vỗ nhẹ vào vai cô. “Không, không, cháu xin lỗi. Cháu biết bác không cố tình. Nhưng có một khẩu súng bắn vào sau cổ mình thì không được vui cho lắm.”
Đây là toàn bộ những điều Elliot nghe được, vì anh đã đi vào căn nhà để lấy túi dụng cụ. Khi anh trở lại, bác sĩ Chesney đang kinh hãi hỏi sĩ quan Bostwick một câu y chang.
“Anh không nghĩ tôi đã cố ý bắn cậu ta đấy chứ, sĩ quan?”
Bostwick, với khuôn mặt nặng nề hơn bao giờ hết, trả lời một cách dứt khoát.
“Tôi không biết ông có ý gì. Tôi chỉ biết những gì tôi đã thấy.” Ông chỉ ra. “Tôi đang đứng trên cái cửa sổ đó. Và tôi thấy anh cố ý rút khẩu súng đó ra khỏi túi quần và chỉ vào cổ anh Harding, và…”
“Nhưng đó chỉ là một trò đùa thôi. Khẩu súng đâu có được nạp đạn.”
“Không ư, thưa ông?”
Bostwick quay lại. Cả hai phía của cửa trước đều có cột trụ trang trí được sơn màu vàng xám xịt, tôn lên mái hiên hình tam giác dẹp nằm bên trên cửa ra vào. Viên đạn đang găm trên cây cột bên tay trái. Nhờ vào việc bàn tay bất ngờ bị xoay đi, nó đã lọt qua giữa Harding và Marjorie, tránh được kính chắn gió của chiếc xe, và, né được Marjorie một cách kì diệu.
“Nhưng nó có được nạp đạn đâu,” bác sĩ Chesney nhất quyết nói. “Tôi có thể thề đó! Tôi biết vì tôi đã nhấn cò vài lần trước đó rồi. Nó vẫn trống không khi chúng tôi ở…” Nói tới đây ông ngưng lại.
“Ở đâu?”
“Đừng bận tâm. Anh bạn, anh không nghĩ tôi sẽ làm một điều như vậy chứ, đúng không? Tại sao ư, vì nó sẽ khiến tôi trở thành một…” ông ngập ngừng, “một kẻ giết người.”
Sự hoang mang ngờ vực trong lời nói của bác sĩ Chesney, sự ám chỉ trong trận cười liên tục khi ông chế giễu bản thân mình, đều mang sức thuyết phục cao. Có điều gì đó gần như ngây ngô trong cách ông nói. Ông giữ bình tĩnh khá tốt dù bị vây quanh bởi những người buộc tội mình. Ông đã, một cách ẩn dụ, đi lòng vòng đề nghị mọi người uống với mình một li, và họ đã từ chối. Kể cả bộ râu và ria mép màu hung ngắn ngủn cũng dựng đứng lên vì sự tổn thương bất ngờ đó.
“Tôi đã nhấn cò vài lần rồi,” ông lặp lại. “Nó không có đạn.”
“Nếu ông đã làm thế,” Bostwick nói, “và có một vỏ đạn thực sự trong ổ đạn, ông chỉ phải đặt nó vào đúng vị trí. Nhưng đó không phải vấn đề, thưa ông. Ông mang theo một khẩu súng ngắn có đạn theo bên người để làm gì?”
“Nó không được nạp đạn.”
“Dù có nạp hay không, tại sao ông lại mang theo một khẩu súng lục?”
Bác sĩ Chesney mở miệng, và lại đóng lại. “Chỉ là một trò đùa thôi,” ông nói.
“Một trò đùa?”
“Một kiểu đùa giỡn.”
“Anh có giấy phép mang theo khẩu súng đó không, thưa ông?”
“Chà thì, không hoàn toàn. Nhưng tôi có thể lấy giấy phép dễ thôi,” người kia khịt mũi, đột nhiên trở nên hung hăng. Ông đè lại bộ râu của mình. “Tất cả những chuyện vớ vẩn này là sao đây? Nếu tôi muốn bắn ai đó, anh nghĩ rằng tôi sẽ chờ ngay bên ngoài căn nhà này, rút một khẩu súng ra và bắn sao? Ôi, bậy bạ. Vớ vẩn. Còn gì nữa đây, anh muốn tôi mất hết kiên nhẫn thật à? Nhìn cậu ta xem, chảy máu như một con lợn! Để tôi đi. Đưa cái túi đó cho tôi. Vào nhà với tôi, George. Đó là nếu cậu nghĩ mình vẫn có thể tin tưởng tôi được.”
“Đương nhiên rồi,” Harding nói. “Cháu sẽ nắm lấy cơ hội.”
Mặc dù Bostwick đang nổi giận, ông cũng khó mà can thiệp vào việc đó được. Elliot để ý thấy giờ đây tiến sĩ Fell đang ì ạch bước ra khỏi nhà. Cả Harding và bác sĩ Chesney đều nhìn ông với vẻ bất ngờ khi họ bước vào.
Bostwick quay sang Marjorie.
“Giờ, thưa cô.”
“Vâng?” Marjorie lạnh lùng nói.
“Cô có biết tại sao bác mình lại mang theo một khẩu súng không?”
“Ông ấy đã nói rằng đó là một trò đùa. Ông biết bác Joe rồi đấy.”
Một lần nữa Elliot lại không thể thăm dò được thái độ cô gái. Cô ấy đang dựa người vào một bên chiếc xe, và dường như đang bận cố gắng tách vài đốm trắng nhỏ xíu bám trên đế giày ẩm ướt của mình ra. Cô chỉ liếc nhìn anh trong một khoảnh khắc ngắn ngủi.
Elliot di chuyển đến chắn trước mặt người sĩ quan đang giận dữ.
“Có phải cô đã ở với bác mình suốt cả buổi chiều không, cô Wills?”
“Đúng thế.”
“Mọi người đã đi đâu?”
“Lái xe.”
“Ở đâu?”
“Chỉ… chỉ là lái xe vậy thôi.”
“Có dừng ở đâu không?”
“Ở một hay hai quán rượu. Và ghé qua chỗ của giáo sư Ingram.”
“Cô đã từng thấy khẩu súng của bác cô trước khi ông ấy rút ra và nổ súng tại đây chưa?”
“Chuyện đó anh phải hỏi ông ấy thôi,” Marjorie trả lời, với giọng điệu y như cũ. “Tôi không biết bất cứ gì về chuyện đó hết.”
Khuôn mặt của sĩ quan Bostwick nói, “Úi chà, đúng vậy không thế?” Bostwick đã cố gắng kiềm chế bản thân để không nổi điên lên. “Dù cô biết hay không, quý cô,” ông nói lớn, “có thế cô sẽ quan tâm khi biết rằng chúng tôi có một hay hai câu hỏi về cô, chính bản thân cô, những câu hỏi mà cô chắc chắn có thể trả lời được.”
“Ồ?”
Sau lưng sĩ quan, biểu cảm trên khuôn mặt tiến sĩ Fell trở nên vô cùng ác liệt. Ông đang phồng má chuẩn bị tuôn ra một tràng diễn văn, có vẻ như không còn cần thiết nữa. Sự can thiệp đến từ một nơi khác. Người giúp việc kín miệng Pamela vừa mở cửa trước, ló đầu ra ngoài làm điệu bộ chỉ vào các nhà điều tra, chuyển động môi thật nhanh mà không thốt ra bất kì lời nào, và đóng cửa lại lần nữa. Ngoại trừ Marjorie, chỉ có Elliot thấy được chính xác những chuyện đã xảy ra. Hai giọng nói gần như đồng thời vang lên.
“Vậy là các anh đã lục lọi phòng của tôi?” Marjorie nói.
“Vậy đó là cách cô thực hiện điều đó!” Elliot nói.
Nếu có chủ định khiến cô gái giật mình, anh đã không thể nào thành công hơn. Cô giật đầu quay lại. Anh chú ý thấy đôi mắt cô sáng lên một cách khác thường. Cô nhanh chóng lên tiếng:
“Cách làm điều gì?”
“Cách khiến cô như đọc được suy nghĩ của người khác. Trên thực tế, cô đang đọc môi.”
Marjorie rõ ràng đang kinh ngạc. “Ồ. Ý anh là,” cô nói thêm với vẻ thù địch, “khi anh gọi George đáng thương là một con lợn thông minh? Đúng, đúng, đúng. Tôi là một người đọc môi khá thành thạo. Có lẽ đó là điều duy nhất tôi làm tốt. Một người đàn ông già từng làm việc cho chúng tôi đã dạy tôi. Ông ấy sống ở Bath, ông ấy…”
“Có phải tên ông ấy là Tolerance không?” tiến sĩ Fell hỏi.
Đến thời điểm này, Bostwick muộn màng thừa nhận, người sĩ quan đang tiến dần đến kết luận là tiến sĩ Fell đã phát điên. Nửa tiếng trước tiến sĩ có vẻ đã phát điên đủ rồi, và Bostwick thì luôn luôn ghi nhớ một cách đầy tôn trọng công việc của ông trong vụ án Tám Thanh Kiếm và vụ án Trang viên Waterfall. Nhưng suốt cuộc đối thoại trong phòng ngủ của Marjorie Wills, dường như có thứ gì đó đã trượt vào não của tiến sĩ Fell. Không gì có thể vượt qua niềm vui, một niềm vui gần như quỷ quyệt, với cái cách mà ông phát âm cái tên Tolerance.
“Có phải tên ông ấy là Henry S. Tolerance không? Có phải ông ấy đang sống ở đường Avon không? Có phải ông ấy là bồi bàn ở khách sạn Beau Nash không?”
“Phải, nhưng…”
“Thế giới quỷ quái này nhỏ bé thật đấy, cô biết không,” tiến sĩ Fell nói qua kẽ răng. “Đừng bao giờ để những lời vô vị rơi nhẹ nhàng hơn vào tai cô. Sáng nay tôi vừa nhắc đến người bồi bàn tài giỏi, bị điếc của mình với anh bạn Elliot đây xong. Tôi đã nghe bản tường thuật đầu tiên về vụ sát hại bác của cô từ ông ấy. Nhờ vào Tolerance, thưa cô. Tolerance yêu dấu. Cô phải gửi Tolerance năm đồng shilling vào Giáng Sinh này thôi. Ông ấy xứng đáng được nhận điều đó.”
“Ông đang nói về cái quái gì thế?”
“Bởi vì ông ấy sẽ chứng minh được ai là người đã giết bác cô,” tiến sĩ Fell nói, thay đổi tông giọng của mình và nói một cách nghiêm túc. “Hoặc, ít nhất, ông ấy sẽ là người chịu trách nhiệm chứng minh điều đó.”
“Ông không nghĩ tôi là thủ phạm à?”
“Tôi biết là cô không giết người.”
“Nhưng ông biết ai làm điều đó đúng không?”
“Tôi biết người làm điều đó,” tiến sĩ Fell nói, nghiêng đầu qua một bên.
Cô gái có vẻ như đang chăm chú nhìn ông trong một thời gian rất lâu, biểu cảm trong đôi mắt cô không nhiều hơn trong đôi mắt một con mèo là mấy. Sau đó, dò dẫm một cách phỏng chừng, cô với tay lên phía trước chiếc xe và rút cái túi xách của mình ra như thể cô đang chuẩn bị chạy thật nhanh về phía ngôi nhà.
“Họ có tin tôi không?” cô hỏi, bất ngờ hất đầu về phía Bostwick và Elliot.
“Những gì chúng tôi tin, thưa quý cô,” Bostwick ngắt lời, “không quan trọng. Nhưng ngài thanh tra,” ông nhìn về hướng Elliot “vượt đường xa đến đây (vượt đường xa đến đây, phiền cô lưu ý điều này) rõ ràng là để hỏi cô một vài câu hỏi.”
“Về chiếc kim tiêm dưới da đúng không?” Marjorie nói.
Sự run rẩy nơi các ngón tay giờ đây có vẻ như đã lan ra toàn bộ cơ thể cô gái. Cô nhìn chằm chằm vào cái móc khóa của chiếc túi xách, mở nó ra và đóng nó lại tạo ra một loạt tiếng cách cách căng thẳng. Đầu cô cúi thấp, do đó vành của chiếc mũ xám mềm mại che mất khuôn mặt nhỏ nhắn của cô.
“Tôi đoán các ông đã tìm thấy nó,” cô tiếp tục, cố làm thông suốt cổ họng mình một cách khó khăn. “Tự tôi đã tìm thấy nó, sáng nay. Ở đáy cái tráp đựng trang sức. Tôi đã muốn giấu nó đi, nhưng tôi không thể nghĩ ra nơi nào tốt hơn trong căn nhà và tôi sợ phải mang nó ra khỏi căn nhà. Làm sao bạn có thể làm tiêu biến hoàn toàn một đồ vật được? Làm sao bạn có thể đặt nó ở đâu đó và đảm bảo là không ai thấy bạn làm điều đó? Không có bất kì dấu vân tay nào của tôi trên đó. Nếu có thì tôi cũng đã lau đi rồi. Nhưng tôi không phải là người đặt nó vào chiếc tráp trang sức đó. Tôi không làm.”
Elliot lấy cái túi phong bì ra khỏi túi áo mình và giơ nó lên cho cô gái thấy.
Cô ấy không nhìn anh. Giờ đây không có sự giao tiếp nào diễn ra giữa họ, mặc dù trên thực tế có lẽ điều đó chưa từng tồn tại. Chỉ có một sợi dây thừng đứt gãy, một đường kẻ chết, một bức tường mới được dựng lên.
“Đây có phải là kim tiêm dưới da không, cô Wills?”
“Phải. Là nó. Tôi nghĩ thế.”
“Thứ này có phải là của cô không?”
“Không. Nó là của bác Joe. Ít nhất, nó giống như những chiếc kim mà bác ấy sử dụng. Và nó có dòng chữ ‘Cartwright & Co.,’ và có ghi loại kim cùng mã số kinh doanh trên đó.”
“Mọi người có thể,” tiến sĩ Fell mệt mỏi yêu cầu, “quên chiếc kim tiêm dưới da đó một lát hay không vậy? Thậm chí, mọi người có thể loại bỏ chiếc kim tiêm dưới da đó ra khỏi tâm trí không? Cái kim tiêm chết bầm! Việc có chữ gì trên đó hoặc là nó thuộc sở hữu của ai, hoặc làm cách nào nó lại ở trong cái tráp đựng trang sức thì có gì khác nhau chứ, nó có thể giúp các anh biết ai đặt nó vào đó được à? Không, tôi cho là không. Nhưng nếu cô Wills thực sự tin tưởng vào điều mà tôi đã nói với cô ấy một phút trước,” ông nhìn cô gái một cách kiên định, “thì thay vào đó, cô ấy có thể nói cho chúng ta, về khẩu súng lục.”
“Khẩu súng lục?”
“Ý tôi là,” tiến sĩ Fell nói, “cô có thể nói cho chúng tôi biết chiều nay cô, Harding và bác sĩ Chesney thực sự đã đi đâu.”
“Ông cũng không biết chuyện đó à?”
“Ôi, Chúa ơi, tôi không biết!” tiến sĩ Fell gầm lên, làm một vẻ mặt nhăn nheo xấu xí. “Có thể tôi đoán sai lắm chứ. Tất cả chỉ là câu hỏi về bầu không khí đang bao quanh mọi người. Bác sĩ Chesney có bầu không khí riêng, theo cách riêng của mình. Harding có theo cách của anh ta. Cô cũng có, theo cách của riêng cô. Nhìn cô đi. Làm ơn đừng nói với tôi rằng tôi là một con lừa ngớ ngẩn. Có những dấu hiệu rõ rành rành ở đây.”
Nâng cây gậy của mình lên, ông chỉ vào bông cẩm chướng trắng đang nằm trên đường, bông cẩm chướng mà bác sĩ Chesney đã lấy ra khỏi khuyết áo và ném bỏ khi chiếc xe tiến đến gần căn nhà. Sau đó tiến sĩ Fell dịch chuyển cây gậy chống của mình xuống chạm vào giày của Marjorie. Theo bản năng, cô giật giày ra, kéo bàn chân tránh đi, nhưng những đốm màu trắng đang bám chặt vào đế giày cô giờ đã nhanh chóng bám vào vòng sắt bịt đầu của chiếc gậy.
“Họ đã không ném hoa giấy vào cô, dĩ nhiên,” tiến sĩ nói. “Nhưng hình như tôi nhớ rằng mặt đường lát bên ngoài văn phòng đăng kí trên đường Castle thường phủ thứ này rất dày. Và hôm nay là một ngày ẩm ướt. Tôi có phải nói toẹt loại chuyện này ra không?” ông nói thêm một cách gay gắt.
Marjorie gật đầu.
“Đúng vậy,” cô lạnh lùng nói. “George và tôi vừa kết hôn tại văn phòng đăng kí ở Bristol chiều nay.”
Vì vẫn không có ai lên tiếng, suốt đoạn thời gian tạm ngừng họ có thể nghe thấy những tiếng ồn bên trong ngôi nhà, cô gái cố gắng giải thích lần nữa.
“Nó là một giấy phép đặc biệt. Chúng tôi đã có nó vào ngày hôm kia.” Giọng cô gái hơi cao lên một chút. “Chúng tôi… chúng tôi định tuyệt đối giữ bí mật chuyện đó. Trong vòng một năm.” Giọng cô vẫn còn cao. “Nhưng vì các ông là những vị thám tử thông minh, còn chúng tôi là một đám tội phạm rác rưởi mà các ông đang nghi ngờ, nên vậy đó. Các ông biết rồi đấy.”
Sĩ quan Bostwick nhìn cô chằm chằm.
Sau đó ông kích động tuôn ra một bài nói chuyện chân thành.
“Cô gái của tôi,” ông nói với giọng không thể tin được, “Trời ạ! Tôi không tin nổi. Tôi không thể tin nổi. Thậm chí cả khi tôi đang nghi ngờ cô – nhưng chúng ta sẽ không thảo luận điều đó bây giờ. Nghe này, ngay cả khi như vậy tôi cũng không thể tin rằng cô sẽ làm một chuyện như thế này, hay là gã bác sĩ đó sẽ cho phép cô làm vậy. Điều đó khiến tôi choáng đấy.”
“Ông không chấp thuận cuộc hôn nhân của tôi sao, ông Bostwick?”
“Chấp thuận cuộc hôn nhân?” Bostwick lặp lại, như thể những từ ngữ đó hoàn toàn vô nghĩa với ông ấy. “Cô quyết định và thực hiện điều này khi nào?”
“Chúng tôi dự định thực hiện việc đăng kí hôm nay. Đó là điều chúng tôi đã lên kế hoạch rồi. Dù sao thì chúng tôi cũng định sẽ kết hôn một cách yên tĩnh tại văn phòng đăng kí nào đó, bởi vì George ghét nhà thờ và các hoạt động phiền phức khác. Rồi bác Marcus chết, và tôi cảm thấy quá… quá… mà thôi, dù sao đi nữa, sáng nay chúng tôi đã quyết định là dù có chuyện gì xảy ra, chúng tôi cũng sẽ đi và kết hôn. Và tôi có lí do của mình. Tôi nói cho ông biết, tôi có những lí do riêng của mình để làm điều đó!”
Cô gái gần như hét vào mặt ông.
“Chúa lòng lành,” Bostwick nói. “Đó chính là chuyện đã khiến tôi choáng đấy. Tôi đã biết gia đình cô trong mười sáu năm. Tôi nói thẳng với cô như vậy. Và rằng dù bác sĩ đã để cô làm điều này, thì ông Chesney trong mộ thậm chí cũng không…”
Cô quay lưng đi.
“Thôi,” Marjorie nói, với đôi mắt ầng ậc nước, “Ít nhất thì cũng phải có ai đó chúc mừng tôi, hoặc ít nhất sẽ nói hi vọng tôi được hạnh phúc chứ?”
“Tôi hi vọng thế,” Elliot nói. “Cô biết mà.”
“Bà Harding,” tiến sĩ Fell nghiêm nghị bắt đầu, và cô gái run lên vì tên gọi bất ngờ, “Tôi mong cô thứ lỗi. Sự thiếu tế nhị của tôi đã quá hiển nhiên, đến nỗi việc tôi quá ngớ ngẩn cũng sẽ không gây ngạc nhiên cho mọi người lắm. Tôi chúc mừng cô. Và tôi không chỉ hi vọng cô sẽ hạnh phúc. Tôi hứa với cô rằng cô sẽ được hạnh phúc.”
Ngay lúc đó tâm trạng của Marjorie đã thay đổi trong nháy mắt.
“Và dù vậy, không phải chúng ta đang ủy mị quá à?” cô kêu lên, với một nụ cười châm biếm trên mặt. “Và đây là một người cảnh sát vụng về,” cô nhìn Bostwick, “bất ngờ nhớ ra ông ta biết rõ gia đình tôi đến mức nào, ý tôi là gia đình Chesney. Và xem ông ấy thích siết một sợi thòng lọng quanh cổ tôi chưa kìa! Tôi đã kết hôn. Tôi đã kết hôn được chưa. Tôi có lí do của mình. Ông có thể không hiểu, nhưng tôi có những lí do của riêng tôi.”
“Tôi chỉ nói…” Elliot bắt đầu.
“Quên đi,” Marjorie cắt ngang với vẻ vô cùng lạnh lùng. “Anh đã nói tất cả những gì cần nói. Vậy nên bây giờ anh có thể đứng quanh xem với khuôn mặt bảnh chọe và tỏ vẻ uy nghiêm như một con cú. Giống như giáo sư Ingram. Anh nên thấy khuôn mặt ông ấy khi chúng tôi lái xe ghé qua nhà và nhờ ông làm người chứng hôn thứ hai. Không, không, ồ, không. Hết sức khó chịu. Ông ấy thậm chí còn không thể tán thành chúng tôi.
“Nhưng tôi đã quên hết rồi. Tất cả những gì các ông muốn là biết về khẩu súng lục, đúng không? Tôi có thể dễ dàng nói với anh điều đó, và nó thực sự là một trò đùa. Có lẽ khiếu hài hước của bác Joe không được tế nhị như đáng ra nó phải thế, nhưng ít nhất ông ấy cũng đã trấn tĩnh lại khi mọi người không được như thế. Bác Joe nghĩ sẽ là một trò đùa rất tuyệt nếu giả vờ rằng đây là thứ mà bác ấy gọi là đám cưới ‘súng săn’. Và ông ấy sẽ cầm khẩu súng đó theo cách mà người nhân viên đăng kí không thể thấy nhưng chúng tôi có thể, và ông ấy có thể giả vờ là ông ấy ở đó để ép buộc George cưới tôi.”
Bostwick chậc lưỡi.
“Ồ!” ông lẩm bẩm, với một tia sáng trông như nhẹ nhõm lướt qua trên mặt. “Tại sao trước đây cô lại không nói thế? Ý của cô là…”
“Không, tôi không có ý gì cả,” Marjorie nói một cách gần như dịu dàng. “Ông thật là một bậc thầy nói giảm nói tránh đấy! Sao ông không nói toạc ra rằng tôi kết hôn để tránh bị treo cổ về tội giết người đi? Thậm chí ông còn thông cảm rằng tôi kết hôn chỉ… chỉ để cưới vậy thôi. Điều này tốt đẹp thật.” Cô reo lớn một cách vui vẻ. “Không, ông Bostwick. Sau tất cả những điều ông nghĩ tôi đã làm, hẳn là chuyện đó đã khiến ông giật mình ghê gớm. Nhưng (như ông sẽ nói) sự trong sạch của tôi vẫn không bị bôi bẩn. Một thế giới kiểu gì chứ. Dù sao chăng nữa, đừng bận tâm điều đó. Ông muốn biết về khẩu súng lục, và tôi đã nói cho ông. Tôi không biết làm sao một viên đạn lại tìm được cách nằm trong đó. Có lẽ là do sự bất cẩn của bác Joe. Nhưng nó chỉ đơn thuần là một vụ tai nạn, và không ai có ý định giết ai cả.”
Tiến sĩ Fell lịch sự nói:
“Đó là cảm giác của cô à?”
Với tất cả sự thấu hiểu nhanh chóng, cô ấy không lập tức hiểu được điều này. “Ý ông là việc George bị bắn không phải là một…” cô bắt đầu, và sững lại. “Ông không định nói kẻ sát nhân lại dính líu đến việc này lần nữa đấy chứ?”
Tiến sĩ Fell nghiêng đầu.
Bóng tối đang đổ lên Bellegarde. Ở hướng đông ngọn đồi thấp đang chuyển thành màu xám, nhưng bầu trời phía tây vẫn đỏ như lửa. Đó là bầu trời đối diện với những cánh cửa sổ của Phòng Nhạc, văn phòng làm việc, và những cánh cửa sổ ở phòng ngủ của Wilbur Emmet phía bên trên. Một trong những cửa sổ đó, Elliot lơ đãng nhớ lại, chính là cái cửa sổ mà bác sĩ Chesney đã thò đầu qua vào tối qua.
“Ông có cần tôi làm gì nữa không?” Marjorie trầm giọng nói. “Nếu không, làm ơn để tôi đi.”
“Dĩ nhiên,” tiến sĩ Fell nói. “Nhưng tối nay chúng tôi sẽ muốn gặp cô.”
Cô gái đã đi rồi, và ba người còn lại im lặng đứng cạnh lỗ đạn ghim trên cây cột trang trí màu vàng. Elliot hầu như đã không hề chú ý đến cô. Có lẽ, sau đó anh nhớ tại, có lẽ là do cảnh tượng những cánh cửa sổ đối mặt với ánh hoàng hôn đã khiến tâm trí anh được rộng mở. Hoặc có thể là do cú sốc từ sự kết hợp của các tình huống, từ những điều mà Marjorie Wills đã nói và nghĩ và làm. Sự kết hợp đó đã đưa anh ra khỏi trạng thái tê liệt thần kinh. Sức phán đoán của anh đã trở lại, như một người mù được khai mắt, với một tiếng tách nhỏ. Và, trong khi những khám phá bật ra một cách rõ ràng, anh đâm ra tự nguyền rủa mình và tất cả những việc mình đã làm. Trong đầu anh, A, và B, rồi C, cùng D lần lượt sắp xếp lại và hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Anh đã không phải là một người cảnh sát, anh đã hoàn toàn là một tên ngốc đáng nguyền rủa. Bất cứ hướng đi nào có khả năng là sai lầm thì anh lại đâm đầu vào. Bất cứ chỗ nào có khả năng hiểu sai ý nghĩa thì anh lại hiểu sai. Nếu mỗi người đàn ông được phép điên rồi một lần trong đời, vậy thì lạy Chúa, đó chính là lần này! Nhưng giờ tiến sĩ Fell đã quay lại. Elliot cảm thấy đôi mắt nhỏ sắc bén của tiến sĩ đang chạy trên người mình.
“Ồ!” tiến sĩ đột nhiên nói. “Anh đã nhận ra rồi đúng không?”
“Vâng, thưa ông. Tôi nghĩ tôi đã hiểu mọi chuyện.”
Và anh làm cử chỉ như giơ nắm tay lên với ai đó.
“Trong trường hợp đó,” tiến sĩ Fell nhẹ nhàng nói, “chúng ta tốt hơn nên trở lại khách sạn và nói về chuyện đó. Sẵn sàng chưa, sĩ quan?”
Elliot lại nguyền rủa bản thân lần nữa, anh sắp xếp lại số lượng chứng cứ, và chìm vào đó quá sâu đến nỗi anh chỉ mơ hồ nghe thấy tiến sĩ Fell huýt sáo một giai điệu khi họ đi về phía chiếc xe. Nó là một giai điệu mà bạn có thể bước đi đồng nhịp. Thực ra, nó là giai điệu bài hát đám cưới của Mendelssohn. Nhưng là nó chưa bao giờ nghe xấu xa hay quái gở như thế này.
Vụ Án Viên Nhộng Xanh Vụ Án Viên Nhộng Xanh - John Dickson Carr Vụ Án Viên Nhộng Xanh