The act of love . . . is a confession. Selfishness screams aloud, vanity shows off, or else true generosity reveals itself.

Albert Camus

 
 
 
 
 
Tác giả: John Dickson Carr
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Đỗ Thư
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 186 / 17
Cập nhật: 2020-07-09 16:11:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
III - Hạnh Nhân Đắng
ó thể nói Bellegarde là một căn nhà không hề chứa đựng bất cứ điều gì thừa thãi. Mặc dù có diện tích rất rộng, nó không phải là một biệt thự cổ xưa, và cũng không giả vờ mang vẻ cổ xưa. Ngôi nhà được xây dựng kiên cố từ những viên gạch Hà Lan vàng, với đầu hồi sơn màu xanh da trời, bây giờ đã phai màu ít nhiều. Đầu hồi nằm ngay cuối bức tường mặt tiền thấp, dài với một cái mái nhà dốc nghiêng thẳng đứng.
Nhưng bây giờ, thanh tra Elliot khó mà quan sát ngôi nhà chi tiết hơn được. Bầu trời hôm nay u ám và đầy mây. Phía trước nhà không có lấy một tia sáng, nhưng từ bên hông, phía góc khuất bên tay trái theo hướng đang đi, họ đã nhìn thấy ánh sáng chói chang tỏa ra khi vẫn đang ở trên đường chính. Elliot dừng xe ngay trên con đường lái xe riêng, rồi thiếu tá Crow và Bostwick bước xuống từ ghế sau.
“Xin ngài chờ một lát,” Elliot yêu cầu một cách đầy tôn trọng. “Trước khi bước vào trong đó, chúng ta nên làm rõ vài điều trước đã. Vai trò của tôi ở đây là gì? Tôi được gửi đến để giải quyết vụ án ở cửa hàng đồ ngọt, nhưng vụ này…”
Trong bóng tối anh cảm nhận được rằng thiếu tá Crow đang nhìn mình với một nụ cười dễ chịu.
“Cậu thích sắp xếp mọi việc theo trật tự, đúng không?” ngài cảnh sát trưởng hỏi. “Chà chà, việc đó tốt mà,” ông vội vàng nói thêm. “Đây là vụ án của cậu, chàng trai ạ. Cậu sẽ là người xử lí nó, đương nhiên dưới sự giám sát của Bostwick. Một khi đã biết về những việc vừa diễn ra, tôi định sẽ về nhà ngủ. Giờ đi thôi nào.”
Thay vì gõ cửa trước, Elliot bước thẳng về bên hông căn nhà và nhìn quanh chỗ góc tường. Anh có thể thấy được Bellegarde không sâu lắm. Phía bên này có ba căn phòng thẳng hàng. Mỗi phòng có hai cửa sổ kiểu Pháp nhìn ra một bãi cỏ hẹp và hàng cây dẻ chạy song song với những chiếc cửa sổ. Căn phòng đầu tiên – căn phòng ngay phía trước căn nhà – thì tối om. Từ hai căn phòng khác, đặc biệt là căn phòng thứ ba, ánh sáng đang ùa ra khỏi những chiếc cửa sổ kiểu Pháp. Thứ ánh sáng đó khiến bãi cỏ mượt mà ngả màu xanh lá giả tạo, nó cũng chiếu sáng đến từng chiếc lá vàng trên những cây hạt dẻ, và ném những khoảng bóng đổ giả tạo vào bên dưới chúng.
Elliot liếc nhìn vào căn phòng đầu tiên trong số hai phòng có phát ra ánh sáng. Nó không có ai, và cả hai khung cửa sổ kiểu Pháp với những tấm rèm nặng nề bằng nhung mịn treo phía sau, đều mở toang! Căn phòng này là một Phòng Nhạc được trang trí rất công phu với một cây dương cầm và một máy quay dĩa có radio. Hiện giờ những chiếc ghế nằm lộn xộn khắp nơi, những cánh cửa xếp (đã được đóng lại) thông Phòng Nhạc với căn phòng xa nhất. Chỉ riêng sự yên ắng thôi cũng đã đủ nặng nề để gợi lên những khả năng không được dễ chịu cho lắm.
“Xin chào!” Elliot gọi to.
Không có tiếng trả lời. Anh bước quá một chút để nhìn vào khung cửa sổ của căn phòng sáng đèn còn lại, căn phòng thông với Phòng Nhạc qua những cánh cửa xếp. Và anh khựng lại một chút.
Trên lối đi hẹp nằm giữa căn nhà và hàng cây hạt dẻ, ngay bên ngoài cửa sổ căn phòng xa nhất, một loạt các vật kì dị nhất mà Elliot từng thấy đang chất đống la liệt. Thứ đầu tiên anh chú ý là chiếc mũ chóp, loại mũ kiểu cũ cao và bóng loáng, bề mặt vải của nó đã bị tua trầm trọng. Bên cạnh nó là một chiếc áo mưa kiểu cổ với những chiếc túi sâu, chiếc áo cũng đã khá cũ. Nằm gần đó là một chiếc khăn choàng len màu nâu – và một đôi kính râm tối màu. Cuối cùng, nằm bừa bãi giữa đống quần áo cũ là một chiếc túi da màu đen, trông lớn hơn túi của bác sĩ nhưng lại không to bằng kích cỡ cái vali. Phía trên chiếc túi đen có một lớp sơn khô ghi, R. H. Nemo, M.D.
“Có vẻ như,” thiếu tá Crow lạnh lùng nói, “có ai đó đã cởi quần áo ở chỗ này.”
Elliot không đáp lời. Bởi vì anh mới chỉ nhìn thoáng vào căn phòng, và cái nhìn đó không được dễ chịu cho lắm.
Cả hai cửa sổ của căn phòng này đều chỉ khép hờ. Căn phòng trông như một phòng làm việc hoặc một thư phòng. Ngay chính giữa phòng có một cái bàn rộng, trên bàn có miếng thấm mực và khay đựng bút, và phía sau bàn, ngay bên tay trái của Elliot là một chiếc ghế văn phòng xoay được. Người ngồi trên chiếc ghế này sẽ đối mặt với cánh cửa đôi thông đến Phòng Nhạc. Chiếc đèn bằng đồng gắn phía trên chiếc bàn có một bóng đèn điện tròn đang phát sáng, loại ánh sáng chói chang khó nhìn thẳng mà Elliot biết thường được dùng trong nhiếp ảnh, đặc biệt là để chụp ảnh trong nhà. Bóng của ngọn đèn đang đổ nghiêng nên ánh sáng chói chang của nó sẽ hoàn toàn rơi trên khuôn mặt và cơ thể của bất kì ai đang ngồi trên chiếc ghế xoay. Và hiện tại, quả thực là có người đang ngồi trên đó.
Marcus Chesney ngồi ở một bên ghế, hai vai gập lại gần nhau và hai tay kẹp chặt vào tay vịn như thể ông ta đang cố cúi xuống phía dưới. Nhưng hình ảnh đó chỉ mang lại một ảo giác sống động. Chân ông buông thõng xuống và trọng lượng cơ thể ông tựa hoàn toàn vào lưng ghế. Khuôn mặt ông đã xanh tím, và các đường gân trán căng ra với màu xanh thẫm ghê người. Chúng tương phản một cách đáng kinh ngạc với màu xám trắng trên mái tóc ông. Mí mắt ông nhắm lại, và trên môi ông vẫn còn vương chút bọt nhẹ.
Chiếc đèn dùng để chụp ảnh, thứ đang chiếu nghiêng và tập trung vào khuôn mặt ông, đã khiến những chi tiết này hiện lên rõ ràng một cách tàn nhẫn trong ánh sáng trắng. Trên bức tường phía sau lưng Marcus Chesney có một cái bệ lò sưởi bằng gỗ bóng, và trên đó là một chiếc đồng hồ mặt trắng có quả lắc nhỏ bận rộn chuyển động qua lại tạo ra những tiếng tích tắc ồn ào. Những cây kim của nó cho họ biết bây giờ là mười hai giờ hai mươi lăm phút.
“Đúng! Ông ấy đi rồi,” thiếu tá Crow nói, với nỗ lực cố khiến cho giọng mình nghe có vẻ cứng rắn. “Nhưng nhìn này…”
Giọng của ông nhỏ dần. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ đang ồn ào một cách quá quắt. Thậm chí từ cửa sổ họ cũng có thể ngửi được mùi hạnh nhân đắng.
“Vâng thưa ngài?” Elliot nói, vẫn không quên kiểu lễ phép của mình.
“Trông như thể ông ấy chết rất khổ sở. Đau đớn, ý tôi là thế.”
“Đúng vậy.”
“Joe Chesney nói đó là xyanua. Và sau nữa là cái mùi đó. Tôi không chắc mình đã bao giờ ngửi thấy mùi đó trước đây chưa, nhưng tất cả mọi người đều biết mùi đó. Nhưng không phải xyanua là loại độc có tác dụng nhanh và gây chết người ngay lập tức à, loại không gây ra bất kì đau đớn nào ấy?”
“Không, thưa ngài. Không có loại độc nào như thế cả. Đúng là xyanua có tác dụng rất nhanh, nhưng nhanh với ý nghĩa là vẫn mất tới vài phút thay vì…”
Ở đây rõ ràng điều gì đó không đúng, anh phải dành thời gian suy nghĩ về việc này. Nhưng khi Elliot đứng bên cạnh cửa sổ, trí tưởng tượng của anh đã nắm lấy sự bài trí xấu xí trong căn phòng và lắp ghép chúng thành một bức tranh sống động đầy ấn tượng. Người đàn ông đã qua đời ngồi sau một cái bàn, đối mặt với cánh cửa đôi thông giữa những căn phòng, với một luồng sáng gay gắt chiếu vào người. Nó giống như một sân khấu – với hệ thống ánh sáng rực rỡ. Nếu những cánh cửa xếp đó được mở ra, và có người đang ngồi phía sau chúng và nhìn vào đây, căn phòng này sẽ trông như một sân khấu thật sự. Những cánh cửa xếp sẽ là bức màn nhung, Marcus Chesney sẽ là diễn viên. Và bên ngoài những cánh cửa sổ được bố trí những vật dụng sân khấu gây tò mò, một chiếc mũ chóp cao, một chiếc áo mưa, một chiếc khăn choàng màu nâu, một cặp kính râm, và một chiếc giỏ đen với tên của một bác sĩ bí ẩn.
Dù sao, trí tưởng tượng thì có thể chờ được.
Elliot nhìn thời gian trên chiếc đồng hồ đeo tay, nó trùng khớp với thời gian của chiếc đồng hồ đặt trên bệ lò sưởi, và ghi chú điều đó vào sổ tay. Sau đó anh bước vào phòng.
Quanh miệng Marcus, mùi đắng của hạnh nhân vẫn còn khá nồng. Hẳn ông ta mới chết được một thời gian rất ngắn. Hai tay ông vẫn còn nắm chặt tay vịn ghế vì cơn co thắt cuối cùng. Ông mặc một bộ com lê dự tiệc có phần trước của áo sơ mi phồng ra ngoài áo ghi lê và đằng sau chiếc khăn tay trong túi áo trước ngực là một mảnh giấy được xếp gọn cẩn thận.
Nếu ông ấy bị đầu độc, Elliot lại không thể tìm thấy bất kì chiếc bình hay hộp chứa thuốc độc nào. Chiếc bàn, gọn gàng với miếng thấm mực và khay đựng bút, đã được lau chùi sạch sẽ. Chỉ có hai vật dụng khác đang nằm trên bàn. Một là cây bút chì gỗ, có dạng dẹp chứ không phải hình tròn hay lục giác, và có màu xanh sẫm. Nó không nằm trong khay bút mà được đặt ở ngay trên miếng thấm mực. Vật còn lại là một hộp sô cô la rẻ tiền nặng hai pound. Nắp hộp đóng kín, bìa hộp bằng giấy cứng bóng lộn được trang trí với mẫu thiết kế hình hoa trông như giấy dán tường màu xanh dương, và dòng chữ Kem Bạc Hà Cay của Henry được mạ vàng trên nắp hộp.
“Xin chào!” có tiếng rống ầm ĩ vang lên từ căn phòng bên kia.
Những tấm thảm lót sàn quá dày, nên họ đã không nghe được tiếng bước chân. Khu vực ngoài phạm vi chiếu sáng của ánh đèn cũng quá tối nên họ chỉ có thể lờ mờ thấy được dáng người của ai đó đang lần mò chỗ những cánh cửa xếp và mở chúng ra. Nhưng bác sĩ Joseph Chesney nhanh chóng bước vào phòng, và khựng lại một chút.
“Ôi trời,” bác sĩ Joe nói. Ông ấy đang thở hổn hển rất mạnh. “Là anh, thiếu tá. Và Bostwick. Cảm ơn Chúa.”
Thiếu tá cộc cằn đáp lại lời chào hỏi của ông.
“Chúng tôi đang băn khoăn không biết anh ở đâu,” ông nói. “Đây là thanh tra Elliot, người được Scotland Yard cử đến để giúp chúng tôi một tay. Tôi nghĩ anh nên kể với cậu ấy những gì đã xảy ra ở đây.”
Bác sĩ Joe nhìn Elliot với vẻ thăm dò đầy tò mò. Bầu không khí thoáng chút lúng túng, nhẹ như một cơn gió. Trên người Joe có mùi rượu brandy trộn lẫn với mùi hạnh nhân đắng trong căn phòng. Bộ râu màu hoe ngắn ngủn và bộ ria mép của ông phập phồng theo rìa môi và theo nhịp ông thở. Ở đây, tại nhà của mình chứ không phải tại Italy, trông ông có vẻ ít hung hăng và có lẽ thậm chí còn ít vạm vỡ hơn mặc dù ông đang mặc một bộ com lê bằng vải tuýt. Ông có mái tóc hoe trông lôi thôi và đôi lông mày đỏ lòa xòa phía trên đôi mắt rất ôn hòa, mỗi khi ông cử động, những vết nhăn trên mặt ông cũng di chuyển theo như thể cả phần dưới của khuôn mặt ông được cố định trên một tấm bản lề vậy. Nhưng khuôn mặt tròn trịa đó lúc này trông chẳng vui vẻ chút nào.
“Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra nữa,” ông thuật lại, đúng hơn là than thở. “Lúc đó tôi không có ở đây. Và tôi không thể ở nhiều nơi cùng một lúc được. Tôi vừa mới lên lầu để chăm sóc cho một bệnh nhân khác”
“Một bệnh nhân khác? Ai thế?”
“Wilbur Emmet.”
“Wilbur Emmet!” thiếu tá thốt lên. “Cậu ta không phải đã…”
“Ồ, không, cậu ta không chết. Dù vậy, cậu ta bị đánh mạnh ở sau đầu. Chấn động não,” Bác sĩ Joe giải thích, đan hai tay vào nhau và chà xát như thể đang rửa tay. “Nghe này, mọi người có muốn vào phòng khác không? Không phải là tôi không thích ở lại đây với cái xác,” ông chỉ tay vào anh trai mình, “nhưng những chiếc đèn chụp ảnh đó không sáng được bao lâu nữa đâu. Nếu chúng ta cứ bật liên tục thì nó sẽ ngừng cháy nhanh thôi, và sau đó các anh sẽ phải làm việc trong bóng tối để,” ông làm hành động rửa tay lần nữa, “truy tìm manh mối và những việc tương tự như thế. Đúng không?”
Nhận được cái gật đầu đồng ý của cảnh sát trưởng, Elliot dùng một chiếc khăn bao quanh những ngón tay của mình và tắt đèn. Joseph Chesney vội vàng chạy nhanh vào căn phòng bên kia. Trong Phòng Nhạc, ông ấy đối mặt với họ với cảm xúc mà Elliot nhận ra là sự hung hăng vì quá căng thẳng.
Thiếu tá Crow khép hờ cánh cửa đôi lại.
“Nào, bây giờ,” ông nhanh nhẹn nói. “Nếu họ không phiền cho anh mượn điện thoại thì Bostwick, anh có thể gọi đến đây một bác sĩ và yêu cầu anh ta…”
“Anh cần một bác sĩ để làm gì? Tôi là một bác sĩ. Tôi có thể nói cho anh rõ là anh ấy chết rồi.”
“Chỉ là vấn đề thủ tục thôi, Chesney. Anh biết mà.”
“Nếu anh có phản đối gì về chức nghiệp của tôi…”
“Vớ vẩn quá, ông bạn. Đến lượt anh, thanh tra.”
Bác sĩ Joe quay sang Elliot. “Vậy là cậu đến từ Scotland Yard hả?” Ông gặng hỏi, và sau đó mới phản ứng lại. “Ngừng một chút đã! Làm sao cậu xuống đây nhanh dữ vậy?” Ông lại phản ứng lại lần nữa. “Đâu thể nào.”
“Tôi đến vì một vụ án khác, bác sĩ. Vụ đầu độc đám trẻ.”
“Ồ,” bác sĩ Joe nói, và thay đổi thái độ. “Chà, anh sẽ có một công việc khó khăn đây.”
“Tôi nhận thức rõ điều đó,” Elliot thừa nhận. “Bây giờ, bác sĩ, ông có thể cho tôi biết vài điều về những chuyện đã xảy ra tối nay không?”
“Nơi đây đã xảy ra một màn trình diễn ngớ ngẩn,” bác sĩ Joe lập tức gầm lên. “Ngớ ngẩn. Marcus muốn đem đến cho mọi người một màn trình diễn. Và, trời đánh thánh vật, anh ấy đã làm được!”
“Một màn trình diễn?”
“Tôi không thể nói cho anh biết những chuyện họ đã làm,” bác sĩ Joe chỉ ra, “bởi vì khi ấy tôi không có mặt ở đây. Nhưng tôi có thể kể cho anh, về những chuyện họ định làm, bởi vì họ tranh luận về vấn đề đó trong suốt bữa tối. Chỉ là một cuộc tranh luận cũ kĩ thôi, nhưng trước đây nó chưa bao giờ đẩy đi theo hướng này. Marcus nói rằng, trong một trăm người thì có đến chín mươi chín người là hoàn toàn không có khả năng làm nhân chứng. Anh ấy cho rằng họ không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và nếu có một vụ hỏa hoạn, một tai nạn xe cộ, một cuộc bạo động hay bất cứ vụ việc nào tương tự, cảnh sát sẽ thu được những lời khai cực kì mâu thuẫn và không có giá trị làm bằng chứng.” Ông đột nhiên chăm chú nhìn vào Elliot với vẻ tò mò. “Nhân tiện thì, có đúng là như thế không?”
“Thông thường thì đúng. Nhưng chuyện đó có vấn đề gì sao?”
“Chà, tất cả bọn họ đều không đồng ý với Marcus. Mỗi người lại có lập luận khác nhau, nhưng tất cả mọi người đều cho rằng họ chẳng dễ bị lừa đến thế. Bản thân tôi cũng nói vậy,” bác sĩ Joe đề cập đến bản thân một cách cẩn trọng. “Đến giờ tôi vẫn giữ quan điểm của mình. Nhưng cuối cùng Marcus nói rằng anh ấy sẽ tiến hành một bài kiểm tra nhỏ. Anh ấy đề nghị họ thử một bài kiểm tra tâm lí đã được sử dụng tại vài trường đại học và nhiều tổ chức khác. Anh ấy nói sẽ tổ chức một màn trình diễn nhỏ cho họ. Cuối buổi diễn họ sẽ phải trả lời một danh sách các câu hỏi về những điều họ đã nhìn thấy. Và anh ấy muốn cược rằng sẽ có đến sáu mươi phần trăm câu trả lời là sai.”
Bác sĩ Joe quay sang thiếu tá Crow.
“Anh biết Marcus mà. Tôi luôn luôn bảo rằng anh ấy giống y chang tên mình vậy – anh biết đấy, nhà văn mà chúng ta phải học ở trường ấy – người sẽ đi bộ hai mươi dặm để tìm hiểu và mô tả chính xác một bông hoa mà bất chấp mọi lời nguyền. Và, ngay lúc Marcus nghĩ ra ý tưởng gì đó, anh ấy sẽ phải đi thực hiện ngay mà không ngần ngừ gì cả. Vậy nên họ chơi trò chơi nhỏ này. Ngay giữa màn trình diễn – chà, ai đó đã đến và giết Marcus. Nếu tôi hiểu đúng, tất cả bọn họ đều đã trông thấy kẻ giết người và theo dõi từng cử động của hắn ta. Và họ vẫn chưa thể thống nhất về bất cứ việc gì đã xảy ra khi đó.”
Bác sĩ Joe ngừng lại. Giọng nói của ông đã khàn như sấm, khuôn mặt ông thì đỏ bừng, và khi nhìn vào biểu hiện trong đôi mắt ông, Elliot sợ rằng ông sẽ suy sụp và bật khóc mất. Cảnh tượng đó trông sẽ hoàn toàn kì cục nếu như biểu hiện của ông không chân thành đến thế.
Thiếu tá Crow xen vào.
“Nhưng họ không thể miêu tả được bất kì chi tiết nào về kẻ giết người sao?”
“Không. Gã được bọc lại như Người Vô Hình ấy.”
“Như gì cơ?”
“Anh biết đấy. Áo khoác dài, cổ áo dựng lên, khăn choàng quấn quanh đầu và mặt, đeo kính đen, mũ sụp xuống. Trông khá xấu xí, họ nói, nhưng họ nghĩ đó là một phần của màn trình diễn. Trời ạ, thật đáng sợ! Con yêu tinh – Con yêu tinh này bước vào…”
“Nhưng…”
“Xin ngài thứ lỗi,” thanh tra Elliot xen vào. Anh muốn thu thập các sự kiện theo đúng trình tự thời gian của chúng, vì anh ngờ ngợ cảm thấy rằng vụ này sẽ rất khó chịu đây. Anh quay sang bác sĩ.
“Ông nói rằng ‘họ’ đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Vậy họ là ai?”
“Giáo sư Ingram, Marjorie, và chàng thanh niên George gì đấy, tôi không nhớ tên.”
“Còn ai nữa không?”
“Không, theo tôi biết thì không. Marcus cũng muốn tôi tham gia. Nhưng, như tôi đã nói với anh lúc nãy, tôi có vài cuộc điện thoại gấp. Marcus bảo rằng dù sao thì anh ấy cũng sẽ bắt đầu buổi diễn vào lúc khuya, và anh ấy sẽ đợi nếu tôi hứa trở về trước nửa đêm. Dĩ nhiên là tôi không thể hứa bất cứ điều gì như vậy được. Tôi bảo sẽ cố gắng, nhưng nếu tôi không trở lại sau mười hai giờ kém mười lăm thì họ cứ bắt đầu mà không có tôi.”
Sau khi khịt mũi một hay hai lần gì đó, bác sĩ Joe đã khống chế được cảm xúc cá nhân. Ông ngồi xuống. Ông giơ cánh tay và hai bàn tay to lớn trông như móng gấu của mình lên, và để chúng lên đầu gối.
“Buổi biểu diễn bắt đầu lúc mấy giờ?” Elliot tiếp tục hỏi.
“Đúng mười hai giờ đêm, họ bảo tôi thế. Đó là điểm duy nhất mà tất cả đều đồng thuận.”
“Về vụ án mạng vừa rồi, bác sĩ, ông không có điều gì để nói với chúng tôi dưới góc độ cá nhân sao?”
“Không! Lúc mười hai giờ đúng tôi mới vừa kết thúc một ca bệnh ở đầu kia thị trấn. Một ca khó khăn: tôi hầu như bị giam ở đó. Tôi đã nghĩ mình nên lái xe lại đây và xem liệu tôi có thể tham dự bữa tiệc kịp lúc hay không. Nhưng không kịp. Tôi đến đây vào khoảng mười hai giờ mười, đúng lúc phát hiện ra rằng đã quá trễ để tôi hay bất kì ai khác cứu anh ấy.” Nói tới đây dường như có điều gì đó hiện về trong tâm trí ông, và nó khiến ông sáng suốt hơn. Ông nhướn vành mắt đỏ hoe của mình lên. “Và tôi sẽ nói với anh điều khác,” ông tiếp tục, với giọng nhẹ nhàng. “Chuyện này chỉ đem đến duy nhất một thứ có vẻ tốt đẹp. Tôi sẽ có thể phủ định điều mà mọi người đang bàn tán. Đúng không?
“Nghe này, thanh tra. Anh nói rằng mình xuống đây để giải quyết vụ án tại cửa hàng của bà Terry vậy nên có thể anh đã biết những điều tôi dự định sẽ nói với anh sau đây, nhưng dẫu thế nào tôi cũng sẽ nói lại lần nữa. Trong hơn ba tháng, gần bốn tháng, mọi người cứ xì xào rằng cháu gái tôi là kẻ giết người. Đó là điều họ đã nói: họ bảo rằng con bé đầu độc người ta để thấy họ quằn quại trong đau đớn. Họ không hề nói với tôi. Không hề nói! Nhưng họ có xì xào bàn tán, và bây giờ tôi có thể lột những điều đó ra khỏi họng họ, đúng không? Bởi vì vụ đầu độc này đã chứng minh được một điều: Dù bất cứ ai là hung thủ giết anh trai tôi, người đó không thể nào là Marjorie được. Và thậm chí nếu Marcus phải chấm dứt cuộc đời để chứng minh điều đó, nó vẫn đáng giá. Anh có hiểu không? Nó đáng giá.”
Ông ấy có vẻ giật mình, sau đó cảm thấy chút tội lỗi, và hạ nắm tay xuống. Cánh cửa phía bên kia căn phòng, rõ ràng là dẫn đến một lối đi, đột nhiên mở ra, và Marjorie Wills bước vào.
Phòng Nhạc có một chùm đèn bằng pha lê, trong đó tất cả các cây nến điện đều đang thắp sáng. Mắt của Marjorie chớp một chút khi cô mở cửa. Cô đi dép lê đen, di chuyển rất nhanh qua căn phòng mà không gây ra bất kì tiếng động nào trên thảm trải sàn, và cô nhẹ nhàng đặt tay lên vai bác sĩ Joe.
“Bác lên lầu ngay nhé,” cô nói. “Cháu không thích cách mà Wilbur đang thở hiện giờ.”
Sau đó cô nhìn lên, giật mình, và nhìn những người khác. Đầu tiên đôi mắt xám đó hoàn toàn trống rỗng, nhưng rồi khi cô nhìn thấy Elliot, đôi mắt ấy dường như đã nắm bắt được điều gì đó, và dần có tiêu cự trở lại. Giống như một sự tập trung quyết liệt đã tụ lại ở đó, nhưng khi cô thẳng người lên, nó lại biến mất.
Cô nói:
“Có phải chúng ta đã gặp nhau trước đây rồi không?”
Vụ Án Viên Nhộng Xanh Vụ Án Viên Nhộng Xanh - John Dickson Carr Vụ Án Viên Nhộng Xanh