We have more possibilities available in each moment than we realize.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Graham Green
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Hà Hùng
Upload bìa: Azazel123
Số chương: 14
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1302 / 24
Cập nhật: 2017-12-18 08:35:15 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2: Tỉnh Lỵ
oán quân trở về sở cảnh sát: những con người áo quần xốc xếch, súng mang lộn xộn; ở nơi đáng ra có những cái khuy áo lại lòng thòng những sợi dây; những cái xà cạp tụt xuống mắt cá chân: đó là những con người nhỏ nhắn, có những đôi mắt đen bí hiểm, mắt của người da đỏ. Trên đỉnh đồi, quảng trường được chiếu sáng bằng những bóng đèn cột lại từng chùm ba cái. Kho bạc, dinh tỉnh trưởng, phòng nha sĩ,nhà tù..những kiến trúc thấp màu trắng, đã được xây dựng từ ba trăm năm nay, và rồi con đường đổ dốc xuống, bức tường gia cố của ngôi nhà thờ hoang tàn; ở khắp mọi nơi, người ta gặp thấy nước, sông. Màu sơn hồng của những căn nhà cũ tường đất đã dần trở lại thành bùn. Chung quanh quảng trường,cuộc tuần hành ban tối đang diễn ra; đàn bà một bên, đàn ông một bên: những thanh niên mặc áo đỏ đi quanh mấy cái quán bán nước khoáng, nói chuyện lớn tiếng.
Viên trung uý đi đầu đội quân, dáng chán chường. Hình như ông ta bị buộc chặt vào đám người mà ông ta không muốn: hình như cái sẹo trên hàm là minh chứng cho một lần trốn thoát. Giày và bao súng anh ta được đánh xi bóng loáng.; áo quần không thiếu một cái cúc nào. Cái mũi nhọn và hơi khoằm nhô ra đằng trước. Bộ dạng chỉnh tề của anh, trong cái thành phố nhếch nhác nầy, chứng tỏ một tham vọng vô bờ bến.Mùi chua chua xông lên từ phía bờ sông và trên mái nhà, mấy con diều hâu nằm ngủ, đầu núp dưới cánh. Đôi khi, một khuôn mặt ngu ngơ ló ra. Đúng chín giờ ba mươi, điện trên quảng trường tắt.
Lính gác bồng súng chào và toán lính đi vào trại. Không đợi lệnh, mọi người máng súng lên và ùa ra sân tìm cái võng của mình. Một vài người đạp giày ra,nằm dài xuống. Thạch cao rơi từ trên tường xuống.Nhiều thế hệ cảnh sát đã ngoạch ngoạc những câu chử lên tường vôi. Một vài nông dân ngồi đợi trên ghế băng, tay đặt ngay ngắn trên đùi. Không ai giải quyết cho họ cả. Trong phòng, hai người đang đánh lộn.
“Ông cảnh sát trưởng đâu?” trung uý hỏi.
Không ai biết: ý kiến mọi người là ông ta chơi bi da đâu đó trong thành phố. Viên sĩ quan bực mình nhưng luôn tự chủ ngồi vào bàn của ông sếp: sau đầu ông, trên bức tường vôi màu trắng, ai đó đã vẽ hai trai tim lồng vào nhau.
“Đợi gì nữa, cho các can phạm vào”.
Những can phạm tuần tự đi vào, cúi chào, mũ cầm tay.
“ Người nầy say rượu ngoài đường...năm peso.
• Nhưng thưa ngài, tôi không có tiền.
• Vậy thì bắt nó lau nhà vệ sinh.
Người nầy tội xé bích chương bầu cử...phạt năm peso. Người kia tội mang tượng thánh trong áo..phạt năm peso.”
Công việc chấm dứt: không có gì quan trọng cả. Qua cánh cửa mở, muổi bay vào.
Bên ngoài, nghe tiếng bồng súng chào: cảnh sát trưởng đi vào. Ông ta có vẻ lơ đễnh, mặc bộ đồ lụa trắng, mũ rộng vành, băng đạn nịt quanh người và khẩu súng ngắn lớn đập lách cách vào đùi. Tay ông cầm khăn áp vào miệng, dáng đau đớn.
“ Lại đau răng, ông nói, đau răng....
• Không có gì mới à, viên trung uý nói vẻ cau có.
• Ông tỉnh trưởng mới gọi tôi hôm nay, ông cảnh sát trưởng nói.
• Vụ gì, rượu à?
• Không,một linh mục.
• Ta đã tử hình tên cuối cùng cách đây nhiều tuần rồi mà.
• Ông ta nói rằng đó không phải là tên cuối cùng.
• Cái khó là chúng ta không có hình”
Ông ta nhìn lên phía tường có gắn hình James Calver,bị chính quyền Mỹ truy nã vì tội cướp ngân hàng và giết người:một khuôn mặt tàn nhẫn, không cân đối: hình được gởi cho tất cả các đồn cảnh sát Trung Mỹ; trán thấp,mắt có vẻ cuồng tín vì một nhận thức cố hữu.Viên trung uý nhìn tấm hình tiếc nuối: ít có cơ hội tên nầy xuống tận phía nam nầy, nó sẽ bị tóm trong những vùng giáp ranh, ở Juarez,Piedras Negras hay Nogoles.
“ Tỉnh trưởng nói chúng ta có…cảnh sát trưởng lại thều thào, ôi đau quá, đau quá..” Ông ta cố lấy cái gì đó từ trong túi quần nhưng cấn cái bao súng.Viên trung uý nhịp tay vẻ bất mãn.
“Đây,cầm đi: ông cảnh sát trưởng nói.
Một đám đông ngồi xung quanh một chiếc bàn; các cô gáị mặc áo mousseline trắng; các bà đứng tuổi tóc tai tề chỉnh,mặt có vẻ mệt mỏi,các ông đứng phía sau, cái nhìn rụt rè,lo lắng.Những khuôn mặt được kết thành từ nhiều điểm nhỏ: hình chụp buổi liên hoan mừng rước lễ lần đầu được cắt từ báo ra và đã chụp từ nhiều năm nay... ở giữa các bà,một linh mục khá trẻ,mang áo dòng của các linh mục công giáo La Mã.Người ta có thể hình dung con người được nuông chiều, chăm sóc tận tình bởi các bà trong một khung cảnh hết sức thân mật và trang nghiêm. Người ta chụp ảnh ông ngồi đó, béo tốt, mắt hơi xếch, tràn đầy những câu bông đùa vô hại dành cho các bà.
“ Hình nầy chụp đã nhiều năm nay rồi.
• Trông giống như những linh mục khác thôi, viên trung uý nói.
Hình hơi nhoà, nhưng ta có thể thấy được một cái cằm nhẵn thín,có xoa phấn. Những cái tốt đẹp của cuộc đời đã đến với ông ta quá sớm, sự kính trọng của giáo dân, đời sống vật chất dễ dãi. Ông ta là hạng người khi nào cũng có những lời khuyên nhân đức tầm thường, những lời bông đùa nhẹ nhàng tạo thuận lợi cho những quan hệ,chấp nhận sự kính trọng của người khác như là việc đương nhiên...Một con người hạnh phúc. Sự hằn học giữa hai con chó khác giống trào dâng trong lòng ông trung uý.
“ Chúng ta đã bắn hơn nửa tá những tên như thế nầy”. Ông nói.
• Tỉnh trưởng đã nhận được báo cáo...Tuần trước, ông ta đã muốn trốn đi Vera Cruz.
• Và tụi áo đỏ,tụi nó làm gì,sao lại nại đến chúng ta?
• Ồ,tụi nó bắt trượt. Tình cờ ông ta không lên tàu.
• Tại sao vậy?
• Người ta đã tìm thấy con lừa. Ông tỉnh yêu cầu phải bắt trong một tháng. trước mùa mưa.
• Trước đây hắn ta ở giáo xứ nào?
• Concepcion và mấy làng chung quanh.Nhưng ông ta bỏ đi từ nhiều năm nay rồi.
• Có thêm chỉ dẫn gì không?
• Ông ta có thể được xem như là một tên Mỹ. Ông ta đã ở sáu năm trong một chủng viện Mỹ. Gì nữa? Quê ông ta tại Carmen. Con nhà buôn. Những thông tin nầy không giúp thêm gì cho ta.
• Với tôi thì họ giống nhau tất,viên trung uý nói.
Một chút gì như là sự ghê tởm trong giọng nói ông ta khi ông nhìn những cái áo trắng trong hình; ông ta nhớ lại mùi hương trầm trong nhà thờ khi ông còn bé, mùi nến, sự tự mãn ẩn mình dưới các lớp đăng ten,những đòi buộc hy sinh phát đi từ những người đứng trên bàn thờ,những người mà ngay nghĩa của từ hy sinh cũng chưa hiểu rỏ.Người nông dân già khoanh tay quỳ trước tượng thánh, kiệt sức sau một ngày lao nhọc trong các đồn điền,họ lại còn đòi ông hy sinh thêm chút nữa.Và vị linh mục đi qua với mâm dâng cúng,và lấy tiền của họ! Ông ta phê bình họ vì những tội lỗi (đúng ra đã khích lệ họ), còn linh mục thì trái lại,không mất mát gì cả,hay thật ra chỉ là chút thú vui nhục dục. Ông trung uý nghĩ, cái đó không có gì khó.Chính ông ta cũng đâu cần đàn bà.
“ Chúng ta sẽ bắt được nó, ông nói, vấn đề chỉ là sớm hay muộn.
• Ôi! Đau răng quá, ông cảnh sát trưởng rên rỉ. Mấy cái răng nầy hại tôi suốt đời. Hôm nay, điểm bi da tốt nhất của tôi chỉ được có 25.
• Anh phải đổi nha sĩ thôi.
• Ồ, tụi nó giống nhau hết.
Ông trung uý cầm cái hình ghim lên tường.James Calver, tên cướp nhà băng và giết người hung dữ nhìn cái đám tiệc rước lễ lần đầu.
“Ít ra nó cũng là một thằng người, ông trung uý gật gù.
• Ai? cảnh sát trưởng nói.
• Tên cướp Mỹ.
• Anh có biết nó đã làm gì ở Houston không? Ông cảnh sát trưởng nói. Nó đã trốn đi mang theo hai ngàn đô la. Hai cảnh sát bị giết.
• Cảnh sát à?
• Đó là một vinh dự được truy bắt những thành phần như thế.
Ông ta vẩy mạnh tay đập muổi.
“ Thật ra, ông trung uý nói thêm, một con người như thế cũng không làm gì ác lắm đâu.Một vài người bị giết...Ai mà không chết. Tiền..phải có ai đó tiêu tiền chứ. Chúng ta sẽ có ích cho xã hội nếu ta tóm được một trong những tên nầy nầy.”
Đứng giữa căn phòng vôi trắng, với đôi giày bóng loáng và cái nọc độc trong đầu, cái ý nghĩ vừa rồi cho ông ta cảm thấy có chút giá trị gì đó. Có cái gì đó vô vị lợi trong tham vọng của ông, một chút nhân đạo khi ông ta muốn bắt gọn cái đám béo tốt đang dự tiệc rước lễ lần đầu trên kia.
Ông cảnh sát trưởng nói thêm, giọng rầu rầu:
‘Ông ta phải ranh ma như quỉ mới sống sót được sau từng đó năm.
• Ai cũng làm được như thế, viên trung uý đáp lại. Chúng ta chưa bao giờ quan tâm đến việc nầy đúng mức. Chỉ trừ khi họ tự nộp mình. Tin tôi đi, tôi sẽ tóm tên nầy trong tháng nầy, với điều kiện là...
• Điều kiện gì?
• Nếu tôi được toàn quyền.
• Nói thì dễ, ông cảnh sát trưởng nói. Anh làm thế nào?
• Tỉnh nầy nhỏ.Núi phía bắc, biển phía nam.Tôi sẽ lùng sục như ta lục soát một con đường, nhà này qua nhà khác.
• A,có vẻ thực tế đấy”. Và ta nghe ông cảnh sát trưởng rên nho nhỏ.
“ Nghe tôi nói đây, viên trung uý nói.Tôi dự tính sẽ bắt con tin trong mỗi làng.Nếu dân làng không nộp nó cho ta, ta sẽ bắn con tin. Rồi bắt con tin khác.
• Sẽ có nhiều người chết.
• Không đáng sao? Ông trung uý nói vẻ mãn nguyện.Nó sẽ giúp ta loại bỏ vĩnh viễn những tên như thế.
• Anh có tin là ý kiến của anh đúng không? Ông cảnh sát trưởng nói.
Để đi về nhà, viên trung uý phải đi ngang qua thành phố. Cả cuộc đời ông đã ở đây: Nhà công đoàn thợ thuyền và nông dân ngày xưa là trường học của nhà thờ. Ông đã góp tay xoá đi những tàn tích đáng ghét đó.Cả thành phố đã thay đổi: gần nghĩa trang,cái sân vận động tráng xi măng, có những dàn đu quay trông giống như những giàn treo cổ đã thay thế nhà thờ chánh toà. Thế hệ mới có thể đã có những kỷ niệm mới: không còn gì giống như ngày xưa.Dáng đi của ông trung uý gợi nhớ đến dáng đi của một linh mục: một nhà thần học đang rà soát lại những sai lầm của quá khứ để triệt tiêu chúng.
Rồi ông ta cũng về đến nhà. Tất cả đều là nhà trệt quét vôi trắng, ở trong có một khoảng sân trong đó có giếng nước và vài chậu hoa. Những cửa sổ hướng ra đường đều có song sắt.Phòng của trung uý có một cái giường làm từ thùng đựng hàng cũ, chiếu rơm, gối và chăn.. Trên tường có bức hình tổng thống và một cuốn lịch; trên nền nhà lót gạch, một cái bàn và một ghế xích đu. Dưới ánh đèn, căn phòng thật buồn thảm, giống như nhà tù hay phòng trong tu viện khổ tu.
Viên trung uý ngồi lên giường và bắt đầu cởi giày.Giờ nầy là giờ đọc kinh.Những con mối bay đụng vào tường nghe lách tách như pháo nổ. Hơn chục con rơi xuống đất,mất cánh. Viên trung uý nghĩ thầm một cách tức giận vì trong xứ sở nầy,còn có những người tin vào Chúa tình yêu và thương xót. Một vài nhà chiêm niệm cho rằng họ đã có tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa. Ông cũng vậy, ông là một người chiêm niệm nhưng ông chỉ gặp thấy hư vô..., chỉ xác tín duy nhất một điều là trong cái hành tinh đang nguội dần đi nầy, những con vật đã tiến hoá cho đến khi thành con người, tuyệt đối không biết tại sao.Ông ta thì biết.
Ông ta nằm xuống giường, áo vẫn đang mang trên người và tắt đèn. Hơi nóng tràn ngập căn phòng như sự hiện diện của kẻ thù. Đâu đó, có tiếng một cái máy hát. Nhạc từ thành phố Mêxicô đến, từ Luân Đôn hay New York tràn vào trong cái xứ tối tăm nhỏ bé bị bỏ quên nầy. Điều đó ông xem như một sự yếu đuối.: đây là quê hương ông và ông đã muốn bao bọc nó bằng những bức tường sắt cho đến khi ông ta thành công trong việc xoá đi tất cả những gì liên quan đến tuổi thơ bất hạnh của ông. Mọi sự đã bắt đầu cách đây năm năm.
Mắt mở, viên trung uý vẩn nằm ngữa,những con mối chạm vào trần nhà. Ông nhớ lại tên linh mục mà bọn “áo đỏ” đã bắn dưới chân tường nghĩa địa nằm phía trên đồi. Đó là con người tròn trịa,nhỏ thó, mắt lồi. Đó là một đức ông và ông ta nghĩ rằng, chức vụ đó sẽ che chở được cho mình; do đó ông tỏ ra khinh rẻ đám tu sĩ cấp thấp và đến phút chót, ông ta vẩn nại đến chức vụ của mình.Chỉ đến lúc tận cùng, ông ta mới nhớ đọc kinh. Ông ta quì gối xuống và người ta cho ông một vài phút để đọc kinh ăn năn tội. Ông trung uý đã tham dự như một khán giả, ông ta không quan tâm lắm. Ông ta đã tự tay bắn năm linh mục,hai hay ba ông gì đó đã trốn thoát, ông Giám mục thì đang yên ổn tận thành phố Mêxicô, chỉ duy nhất một linh mục nghe lời tỉnh trưởng buộc các linh mục phải lấy vợ. Hiện nay ông ta sống gần bờ sông với bà giúp việc trước kia. Giải pháp nầy, theo ông,là giải pháp tốt nhất: tránh đổ máu và người nầy là một tấm gương sống động chứng minh cho đức tin hèn yếu của họ. Điều đó chứng minh trong nhiều năm, đương sự chỉ là một tên lừa bịp vì ông ta chẳng tin có thiên đàng cũng như hỏa ngục, nếu không ông ta đã dám chấp nhận một phút đau đớn để đạt được hạnh phúc muôn đời…Nằm trên cái giường cứng, trong màn đêm nóng ẩm, viên trung uý không thấy một chút thèm khát xác thịt.
Ở khu thương mại, trong căn phòng nhỏ phía sau, một bà đang đọc truyện cho con nghe.Hai đứa con gái sáu và mười tuổi ngồi ở mép giường,còn cậu con trai mười bốn tuổi thì dựa lưng vào tường, có vẻ chán nản.
“Từ khi còn rất nhỏ, bạn trẻ Juan, bà mẹ đọc, đã tỏ ra rất khiêm nhường và sùng đạo. Trong đám bạn học hung bạo, trẻ Juan nghe theo lời Chúa và đưa má bên kia.Ngày kia, cha bạn tưởng rằng bạn nói dối và đánh bạn; nhưng sau đó, ông biết là con ông nói thật, ông xin lỗi con.Nhưng Juan nói:”Ba thân yêu ơi, Cha chúng ta trên trời có quyền trách phạt con cái mà…”
Bồn chồn, cậu bé trai gãi má trong lúc bà mẹ đọc giọng đều đều. Hai cô bé mắt tròn xoe uống từng lời thánh thiện nầy.
“ Chúng ta cũng biết rằng cậu bé Juan cũng có những lúc cười đùa với các bạn khác, nhưng có những lúc cậu tránh xa nhóm bạn chơi và mang một cuốn truyện thánh bằng hình vào trong chuồng bò để xem”.
Với cái chân trần, cậu bé nghiền nát một con mối, và càng lúc càng sốt ruột,cậu nghĩ rằng, rồi thì cái gì cũng đến hồi kết, đến cái ngày cậu Juan đi đến với cái chết, đứng dựa lưng vào tường miệng hô: Hoan hô Chúa Kitô là Vua!” Vâng, cậu tự nhủ, phải có đoạn kế tiếp chứ”; sẽ có một quyển sách mới khác. Những quyễn sách chuyển lậu từ thành phố Mêxicô đến: nếu không bị mấy ông hải quan phát hiện.
“Không, cậu Juan chỉ là một trẻ em Mêxicô như những trẻ khác,có điều cậu biết suy nghĩ hơn các bạn khác. Năm đó,lớp cậu sẽ trình diễn trước mặt Đức Giám mục địa phận một vở kịch ngắn về những cuộc bắt đạo đầu tiên và không ai cười nhiều hơn Juan khi cậu được chọn vào vai Nêron. Và cậu đã rất khôi hài trong vai diễn của mình, đứa bé đã đựoc chọn để chết vì Chúa lúc còn trẻ dưới tay một con người còn tàn bạo hơn cả Nêron. Một bạn đồng môn của cậu, sau nầy là cha Miguel Cerra, dòng Tên đã viết: ”Không ai ở đó có thể quên được cái ngày hôm đó…”
Một cô gái liếm mép. Đời phải thế.
“ Khi màn kéo lên, Juan xuất hiện trong cái áo choàng ( là tấm khăn đẹp nhất của mẹ mình), với đôi ria mép vẽ bằng than, đầu đội triều thiên cắt từ hộp thiếc. Vị Giám mục già cũng phì cười khi Juan trịnh trọng tiến về phía trước và bắt đầu tuyên bố….”
Cậu con trai quay mặt vào tường che dấu cái ngáp.
“ Juan có thực sự là một vị thánh không mẹ? nó hỏi cách mệt mỏi.
• Juan sẽ là thánh một ngày gần đây thôi, khi ĐứcThánh Cha quyết định.
• Và mọi người đều sẽ như thế sao?
• Ai?
• Những người chết vì đạo.
• Vâng,tất cả mọi người.
• Kể cả cha Josê?
• Đừng nói đến ông ấy.Con không thấy xấu hổ sao? Đó là một kẻ đáng khinh bỉ. Ông ta là đồ chối Chúa.
• Nhưng ông ta nói là ông ta còn chịu cực hình nhiều hơn những người khác.
• Mẹ cấm con nói chuyện với ông ta, con ạ….
• Và vị kia? Ông cha đến nhà mình hôm trước đó.
• Không không. Ông cha nầy không giống Juan.
• Ông cha đó có đáng khinh bỉ không?
• Không,không đáng.
• Ông cha đó có mùi hôi khó chịu. Đột nhiên cô gái nhỏ nhất lên tiếng.
Bà mẹ tiếp tục đọc:
“ Ngày đó, Juan có linh cảm là một vài năm sau cấu sẽ được diễm phúc tử đạo.Chúng ta không biết, nhưng cha Miguel Cerra kể rằng,buổi tối, Juan quỳ cầu nguyện lâu hơn thường lệ, và khi các bạn trong lớp trêu chọc cậu, như thói thường của tụi nhất quỷ nhì ma...”
Giọng đọc đều đều không dứt, nhẹ nhàng nhưng dứt khoát: hai cô bé nghe chăm chú và chuẩn bị sẵn trong đầu những câu hỏi đạo đức làm cho mẹ ngạc nhiên, cậu con trai thì ngáp. Rồi cũng hết chuyện.
Lúc sau,bà mẹ đi ra tìm chồng. Bà nói:
• Tôi lo cho con trai mình quá.
• Tại sao không phải là mấy đứa con gái?Con nào cũng phải lo.
• Hai con bé là hai vị thánh sống,nhưng thằng con trai mình!...Nó đặt cho tôi những câu hỏi khó về vị linh mục nghiện rượu. Tiếc rằng mình đã cho ông ta tá túc.
• Nếu mình không làm như thế, ông ta đã bị bắt, và trở thành một trong những thánh tử đạo của bà. Người ta sẽ viết sách về ông ta và bà sẽ đọc cho con nghe.
• Ông cha đó ư?Không bao giờ.
• Thôi, kết cục lại, ông ta đã không bỏ cuộc. Anh không tin vào những gì viết trong những quyển sách nầy. Chúng ta đều là người cả.
• Anh có biết hôm nay người ta kể với nhau chuyện gì không? Bà kia mang con trai đến nhờ ông cha đó rửa tội. Bà ta muốn đứa bé có tên thánh là Phêrô.Nhưng ông cha say quá, ông không nghe gì hết và đặt cho thằng bé tên thánh là Brigitte. Brigitte.
• Đó cũng là tên một nữ thánh tốt. Ông cha nói
• Có nhiều lúc anh làm em bực mình. Con trai mình lại còn nói chuyện với cha Jôsê.
• Thành phố nầy quá nhỏ, ông cha nói. Không nên tự dối mình. Chúng ta bị bỏ rơi. Mình phải cố tự xoay xở thôi. Còn Giáo Hội…Giáo Hội, đó là cha Jôsê, đó cũng là ông cha nghiện rượu, anh không biết còn giáo hội nào khác.Nếu em không thích Giáo Hội đó, thì chúng ta xin ra thôi.”
Ông kiên nhẫn quan sát bà vợ: Ông có học hơn bà. Ông biết dùng máy đánh chử và biết một chút kế toán. Có lần ông đã đi đến tận thành phố Mêxicô. Ông ta đọc được bản đồ. Ông ta biết rỏ mình bị bỏ rơi như thế nào, mười giờ để xuôi dòng sông ra bến cảng, rồi hai mươi bốn giờ lênh đênh trên vịnh Veracruz... Đó là lối thoát duy nhất.Phía bắc, đầm lầy và những con sông ngăn cách tỉnh nầy với tỉnh khác.Và phía bên kia,không có đường sá gì...chỉ có những con đường mòn dành cho lừa và đôi lúc có máy bay từ trên cao có thể nhìn thấy một vài làng của người da đỏ, một vài cái chòi của người chăn súc vật và sau đó hai trăm dặm là Thái Bình Dương. Bà vợ nói:
“ Tôi muốn chết quách cho rồi”
• A, đúng thế, ông chồng đáp lại. Miễn bàn.Nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục sống.
Ông già ngồi trên cái thùng gổ trong sân trong. Ông mập mạp và thở khó khăn: cái nóng làm ông hơi ngột thở như sau khi ta làm việc gì qúa sức. Ngày xưa, ông cũng có biết chút ít về thiên văn, và tối hôm đó, ông ngồi cố gắng nhận diện những chòm sao trên bầu trời đêm. Ông ta chỉ mặc một cái áo sơ mi và quần tây dài,chân trần,nhưng trong bộ dạng ông ta chắc chắn có nét gì đó của một cố đạo. Bốn mươi năm linh mục đã in dấu trên ông mãi mãi. Im lặng tuyệt đối bao trùm thành phố: tất cả đều ngủ say.
Thế giới những tinh hà làm tràn đầy vô tận với một lời hứa hẹn: thế giới của chúng ta không phải là độc nhất.Có lẽ còn một nơi nào đó mà Đức Kitô không chết. Thật khó tin nếu nói rằng từ những vì sao kia, trái đất của chúng ta cũng chiếu sáng rực rỡ: trái đất đang trôi nổi trong vũ trụ.bao bọc bởi một làn sương mù giống như một con thuyền bị hoả hoạn bị bỏ rơi trên biển. Toàn thể trái đất đang ngột ngạt vì tội lỗi của chính mình.
Trong căn phòng độc nhất, một giọng đàn bà the thé gọi ông:” Jôsê,Jôsê!” Tiếng gọi làm ông co rúm lại như một người tù khổ sai bị đày đi chèo thuyền.Mắt ông rời bầu trời và đột nhiên, các vì sao biến mất lên trời: những con mối bò trên mặt sân:” Jôsê, Jôsê!”. Ông ta ước mơ được như những người đã bị tử hình: thật mau lẹ. Người ta đưa họ đến bức tường nghĩa địa và hành quyết: chỉ hai phút thôi, cuộc đời chấm dứt.Và người ta gọi đó là tử đạo! Ở đây,cuộc sống tiếp tục không ngừng; ông ta mới chỉ sáu mươi hai tuổi. Ông ta có thể sống đến chín mươi tuổi. Hai mươi tám năm...thời gian từ khi ông được sinh ra cho đến khi nhận giáo xứ đầu tiên: tuổi thơ,tuổi thanh niên và cả chủng viện.
“ Jôsê, đi ngủ thôi,”
Ông run lên: ông biết ông thật lố bịch.Một ông già lấy vợ đã là khôi hài, nhưng một linh mục già... Ông tự xét lương tâm, như một người ngoài, và tự hỏi không biết mình có đáng được xuống hoả ngục không. Trên giường, ông chỉ là một ông già nặng nề,bất lực đáng xấu hổ. Nhưng ông lại nhớ lại cái hồng phúc mà ông đã lãnh nhận và không ai có thể lấy lại được. Đó là điều làm ông đáng phải bị luận phạt...cái năng quyền mà ông vẫn còn có là biến bánh thành Thịt và rượu thành Máu Chúa. Ông là một linh mục phạm thánh: dù ông đi đâu dù ông làm bất cứ điều gì, ông làm nhục danh Chúa.Một ngày kia,một người công giáo chối đạo, bị chính sách của ông tỉnh trưởng kích động, đã nhào vào nhà thờ ( hồi còn có nhà thờ) và cướp Mình Thánh Chúa..Nó nhổ vào Mình Thánh rồi lấy chân giẫm lên; khi đó các tín hữu đã bắt ông ta lại và treo cổ lên tháp chuông như có nơi người ta treo hình nộm Judas trong ngày thứ sáu tuần thánh.
Con người đó, cha Jôsê nghĩ, tội của nó cũng chưa nặng lắm, ông ta chỉ hành động vì lý tưởng chính trị,còn mình, mình tệ hơn nhiều...mình là tấm gương ô nhục treo lên cao để làm hư trẻ con.
Ngồi trên cái thùng, dạ dày đầy hơi, ông nấc cụt.
“ Jôsê,anh làm gì đó?Vô ngủ đi.”
Cả ngày, ông không phải làm gì cả.Không còn phụng vụ, không thánh lễ,không giải tội,và cầu nguyện cũng không còn cần thiết: cầu nguyện là một hành vi, và ông thì không muốn làm gì cả. Hai năm nay, ông sống trong tội trọng và không ai có thể giải tội cho ông; không phải làm gì hết, chỉ có ăn, ăn quá nhiều; bà ta nuôi ông,vổ béo ông,chăm sóc ông như một con heo.” Jôsê.” Ông lại nấc cụt vì ý tưởng phải đối đầu lần thứ bảy trăm ba mươi bảy bà giúp việc uy quyền của ông mà nay là vợ ông. Ông lại sắp thấy bà nằm trên cái giường to lớn, trơ trẽn chiếm gần hết diện tích căn phòng, cái bóng xương xương nằm trong mùng, khuôn mặt ốm và lọn tóc ngắn màu xám, đầu đội một cái mũ xấu xí. Bà ta nghĩ rằng mình có địa vị cần được bảo vệ: được quan đầu tỉnh trợ cấp,vợ của linh mục duy nhất phá giới.Bà ta rất hãnh diện. “Jôsê...
-Anh...hic..anh đến đây, em yêu.” Ông ta đứng dậy và nghe đâu đó có tiếng cười nhạo.
Ông ngước nhìn lên: hai con mát đỏ sọc giống như mắt con heo khi biết người ta đưa nó đến lò sát sinh.Một giọng trẻ con ré lên: “Jôsê!” Ông dáo dác nhìn quanh khu nhà. Phía đối diện, sau song cửa sổ, ba thằng nhóc nhìn ông. Ông quay lưng lại, đi một hai bước nặng nề vào nhà vì ông quá mập.
“ Jôsê” một giọng the thé cất lên:”Jôsê!”. Ông nhìn ngoái lại và bắt gặp những khuôn mặt trẻ con khoái trá. Hai con mắt đỏ sọc của ông không diễn tả sự giận dữ, ông không có quyền tức giận; miệng ông cười méo xệch. Lũ trẻ bắt đầu gào lên không kiêng kỵ gì nữa:” Jôsê, Jôsê, đi ngủ thôi, Jôsê!” Tiếng kêu la của chúng vang khắp khu nhà; ông cười khiêm tốn, khoát tay xin chúng im lặng. Không còn ai kính trọng ông nữa, cả trong nhà, cả trong thành phố hoặc bất cứ nơi đâu trên cái trái đất khốn khổ nầy.
Vinh Quang Và Quyền Năng Vinh Quang Và Quyền Năng - Graham Green Vinh Quang Và Quyền Năng