Medicine for the soul.

Inscription over the door of the Library at Thebes

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 192 / 25
Cập nhật: 2019-12-23 22:16:25 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 20 - Chìa Khóa Âm Thanh
rong khi mặt trời chầm chậm khuất sau đường chân trời, ba đứa trẻ lấm lem bồ hóng ra khỏi Ngôi nhà Sự sống và vội vã chạy nhanh tới một mặt nước vuông tới mức hoàn hảo. Ở giữa nổi lên một bức tượng nữ thần Hathor, nữ thần tình yêu và âm nhạc, với hình dạng nửa người, nửa bò.
Chỉ đến khi tới gần chiếc bể, bọn trẻ mới dừng lại để lấy hơi.
“Cậu chắc là nó ở đây chứ?” Jason hỏi Rick.
“Cực kỳ chắc chắn. Tia nắng chiếu chính xác vào… đây!”
Rick quỳ xuống đất và dùng tay gạt bỏ lớp cỏ mọc quanh gờ đá của chiếc bể.
“Đây rồi! Chúng ta làm được rồi!” Cậu bé mừng rối rít, thọc tay xuống đất và tìm thấy một lớp đất ẩm và mềm.
Maruk và Jason quỳ xuống bên cạnh để giúp cậu. Lớp cỏ bung ra từng túm cùng với những cục đất lớn. Bên dưới bọn trẻ tìm thấy một chấn song bằng đá được khắc hình một chiếc chuông, chắn ngang bởi tám thanh gân mỏng cũng bằng đá. Nó có vẻ giống một lỗ cống, hoặc một lối thoát nước.
“Đây là ngưỡng cửa ánh sáng!” Rick kêu lên. “Cậu lấy một hòn sỏi nhỏ và ném nó vào giữa hai chấn song, để nó rơi vào khoảng không.”
Viên sỏi chạm vào thứ gì đó giống kim loại, sau đó nảy lên trên một bề mặt cứng và nảy thêm ba cái nữa.
“Có một cái cầu thang ở dưới này…” Jason đoán, cúi xuống để cố đưa ánh sáng vào khoảng không gian tối om đó.
Maruk thì đứng dậy nhìn xung quanh. Bọn trẻ đang ở trong một ốc đảo nhỏ ít người lui tới, có thể bởi vì nó ở gần Những Hành Lang Bị Bỏ Quên.
“Nó thực sự ở dưới tầm mắt tất cả mọi người,” Rick lẩm bẩm. “Ai mà biết được có bao nhiêu người đã đến gần đây để bàn bạc mà không hề nhận ra khe hở này, hoặc chỉ nghĩ nó là một đường ống thoát nước đơn giản cơ chứ.”
Dưới chấn song mở ra một lối đi rất hẹp, vừa đủ cho một người đi qua.
Jason tóm lấy một thanh đá mỏng và thử kéo nó lên cao, làm cho toàn bộ chấn song kêu leng keng một cách kỳ lạ. Tuy nhiên chấn song không nâng lên.
“Hẳn nó bị kẹt rồi,” cậu thở hổn hển, thử tiếp lần thứ hai, rồi thứ ba. “Ai biết được đã bao lâu… nó không… mở chứ!”
Sau nỗ lực thứ tư, cậu bé đầu hàng, buông người ngã ngửa ra mặt cỏ.
“Tớ nghĩ là nó đã bị đóng chặt thì đúng hơn,” Rick nhận ra vấn đề.
“Các cậu có nghe thấy tiếng động đó không?” Maruk hỏi. “Bài hát nói về một chiếc chìa khóa âm thanh…”
Trong khi cố gắng hiểu xem điều gì đã gây ra tiếng leng keng kỳ lạ đó, Rick nhận thấy dưới tám thanh mỏng bằng đá tạo nên chấn song có treo những chiếc đĩa đồng kỳ lạ, lủng lẳng trong khoảng không. Luồn những ngón tay qua những thanh mỏng, cậu lắc những chiếc đĩa đồng, tạo ra âm thanh mà chúng đã nghe thấy trước đấy.
“Chẳng có cái khóa nào cả. Chẳng có gì hết, chỉ có những chiếc… chuông kỳ lạ này,” cậu quan sát.
Không đầu hàng, cậu bé đặt đèn lên chấn song và nằm úp bụng xuống đất để kiểm tra lại lần nữa: những chiếc chuông được treo trên các thanh mỏng bằng một sợi dây đồng và chúng có thể trượt từ trái sang phải, thay đổi vị trí. Và khi thay đổi vị trí, chúng thay đổi cả âm thanh nữa.
“Thế có nghĩa gì vậy?” Jason tự hỏi, gãi đầu với bàn tay dính đầy đất.
Maruk định nói gì đó, nhưng rồi cô bé cắn môi và lắc đầu.
Rick chăm chú quan sát lại những chiếc chuông: tất cả đều chuyển động, dù dường như chúng được nối với nhau theo một cách nào đó. Cậu đếm: có mười sáu chiếc, mỗi thanh ngang có hai chiếc.
“Tớ không hiểu gì cả,” cậu kết luận. “Tớ không hiểu mình nên làm gì nữa.”
“Có thể đó là… một chiếc sistrum lớn chăng?” lúc đó Maruk bạo dạn cất tiếng hỏi. Đây là lần đầu tiên cô bé thấy những người bạn của mình gặp khó khăn trước một câu đố… mà với cô bé có vẻ tầm thường.
“Cậu nói gì cơ?” Jason hỏi.
“Sistrum: một nhạc cụ ấy,” cô bé nhắc lại, tay chỉ vào bức tượng nữ thần Hathor, vị thần bảo hộ cho âm nhạc, đang cầm trong tay một chiếc sistrum. Và bởi vì hai cậu bạn không trả lời, cô bé tiếp tục. “Đó là một nhạc khí thuộc bộ gõ, có thể được sắp đặt theo cách khác nhau tùy theo bài hát mà nó đệm.”
“Và cậu biết… sắp đặt nó chứ?” Jason hỏi.
“Tớ hơi chậm một chút trong các giờ học âm nhạc, nhưng việc đó không khó lắm.”
Maruk tiến gần đến chấn song và kiểm tra vị trí của những chiếc chuông.
“Tớ phải sắp đặt nó theo bài hát nào?”
“Cho Khúc ca về hai người yêu nhau!” hai đứa trẻ đến từ Kilmore Cove đồng thanh trả lời.
Maruk áp mình xuống lỗ hổng và bắt đầu di chuyển vị trí của những chiếc chuông dọc theo những thanh xà bằng đá, cho đến khi cô bé hài lòng với âm thanh mà chúng phát ra.
“Xong rồi,” cô bé vừa nói vừa đứng dậy.
“Xong gì cơ?” Jason hỏi cô bé. “Có gì xảy ra đâu.”
“Có thể không phải xảy ra điều gì đặc biệt cả,” Rick nói. Cậu bé cúi xuống tóm lấy chấn song và kéo nó lên. Một lần nữa nó lại kêu lên leng keng, vẻ chống cự.
Nhưng khi Rick gần buông tay thì chấn song rời ra một vài phân và chầm chậm nâng lên.
Cậu bé tóc đỏ mất thăng bằng, ngã về phía sau nhưng Jason đã đỡ được và giúp cậu đặt chấn song lên cỏ, cạnh lỗ hổng.
Bọn trẻ lật ngược chấn song ra và cuối cùng chúng cũng hiểu lỗ hổng ấy hoạt động như thế nào: những chiếc chuông được nối với nhau bằng một hệ thống gồm những quả cân và dây. Nếu đặt chúng vào vị trí đúng, hệ thống dây sẽ buông ra một sợi dây lớn duy nhất, vô cùng chắc chắn, sợi dây này chặn chấn song từ phía dưới bằng cách gắn nó vào tường.
“Một chiếc khóa vô cùng khéo léo,” Rick bình luận, say mê ngắm nhìn tất cả những sợi dây.
Jason cầm lấy chiếc đèn nhựa thầu dầu và đưa nó gần đến cửa vào. Tim cậu đập mạnh liên hồi như trống nện.
“Cười vào mặt tất cả những ai đã không tin chúng ta! Đi nào!” Cậu reo lên, đặt chân lên bậc đầu tiên của chiếc thang được đục vào đá, dẫn xuống dưới theo hình xoắn ốc.
Khi cảm thấy bàn tay của cô bé người Ai Cập trên vai, cậu quay lại:
“Cậu tuyệt thật ấy!” Cô bé nói với cậu.
Jason mỉm cười.
“Cậu mới tuyệt, với cái đàn sistrum đó…”
“Vậy thì, tất cả chúng ta đều tuyệt!” Cô bé tuyên bố, đặt bàn tay kia lên vai Rick.
“ Chỉ là may mắn thôi,” cậu tự giễu.
“May mắn!” Jason nhận xét, nhấc chiếc đèn lên. “Lá Ẩn chính số 10.”
“Vậy có nghĩa là may mắn cũng là một phần của trò chơi này,” Maruk kết luận.
Bọn trẻ bắt đầu đi xuống.
Cầu thang rất dốc và không chắc chắn. Các bậc thang gần như chỉ chừa đủ chỗ để đặt gót chân và cao không đều nhau, đến mức khiến mỗi bước chân trở thành một cú bước hú họa vào trong bóng tối.
“Tuy nhiên bài hát không nói về điều này,” Jason càu nhàu, cậu dẫn đường với chiếc đèn đang lung lay như đèn tàu trong cơn bão.
Có một mùi bức bí, ngột ngạt và ẩm mốc. Chiếc đèn làm rách toạc những tấm mạng nhện, dày và nặng như những chiếc rèm. Và rồi bọn trẻ nghe thấy tiếng động nhốn nháo chạy trốn trong bóng tối, bị làm phiền bởi sự đột nhập không mong đợi này. Không biết hàng bao nhiêu năm trời mới có ai đó đặt chân vào trong này.
“Chúng ta đến nơi rồi!” Jason thình lình nói, khi cậu bé không tìm thấy bậc thang tiếp theo nữa. “Chúng ta đã đến cuối đường rồi!”
Cậu bé giơ cao chiếc đèn phủ đầy mạng nhện và cuối cùng, soi sáng Căn phòng không tồn tại.
Julia đứng sau cửa sổ nhìn ra. Và khi nhìn thấy Nestor ngã xuống đất, cô bé không kịp nghĩ ngợi gì nữa, lao vội ra khỏi phòng khách và nhảy xuống cầu thang, chạy qua sân hiên lắp kính, hướng thẳng đến chiếc xe của Manfred. Julia phải tìm ra một cách nào đó để làm hắn phân tán và cô đã làm điều duy nhất xuất hiện trong đầu: leo lên xe hắn, vừa tắt đèn pha vừa tắt thứ nhạc chói tai đó đi, sau đó cô chuồn ra ngoài, trốn sau tấm chắn bùn.
“Á!” Manfred kêu lên dưới cơn mưa lạnh giá. “Ta nghĩ là con mèo nhỏ đã ra khỏi cũi rồi…”
“Julia, không!” Nestor hét lên từ dưới mặt đất. “Quay trở vào trong ngay! Đóng cửa lại! Đừng để hắn vào trong!”
Cách cô bé vài bước chân, cánh cửa Biệt thự Argo mở toang, nhưng Julia vẫn trốn sau tấm chắn bùn.
“ĐÓNG CỬA LẠI!” Nestor hét lên lần nữa.
Manfred bắt đầu chạy để thử xông vào trong ngôi nhà.
Julia ở yên cho đến phút cuối cùng, khi cô bé nhìn thấy bóng gã đàn ông mặc áo mưa lao gần đến cạnh tấm chắn bùn của chiếc xe.
Chính lúc đó, cô bé nhảy bật ra như một chiếc lò xo, ngáng chân hắn.
Manfred một lần nữa không hiểu vì sao mình lại ngã nhào. Vừa lúc trước hắn vẫn còn đang chạy. Lúc sau hắn đã nằm sấp trên đất, thở hổn hển. Khi mở mắt ra, hắn thấy trước mặt là một vũng nước giữa đám sỏi. Và ở giữa vũng nước đấy, nhìn giống như xác một con tàu nhỏ, là chiếc chìa khóa mà hắn đã rút trộm từ bàn làm việc của người làm vườn bị văng ra từ túi áo mưa.
Đúng lúc đó Julia rời khỏi chỗ ẩn náu và cúi xuống nhặt lấy chiếc khóa. Sau đó cô bé quay lại để trở vào nhà. Nhưng giữa cô bé và lối vào duy nhất đang mở của Biệt thự Argo là tay tài xế của Oblivia Newton.
Ánh hải đăng quay quay.
“Julia!” Ông Nestor hét lên dưới mưa. “Hãy chạy ra đằng kia! Trốn đi!”
Julia không để ông lặp lại đến lần thứ hai. Cô bé quay người và bắt đầu chạy dưới cơn mưa. Cô bé nghe thấy Manfred đứng dậy, gầm gừ điều gì đó.
Julia chạy cho tới khi thấy mình mặt đối mặt với biển. Cô đã đến bờ vách đá Salton Cliff, nơi bắt đầu những lối thang đi xuống.
Là nơi mà hôm trước Jason đã rơi xuống.
Cô bé quay người, nheo mắt lại để nhìn rõ bóng dáng của Manfred dưới cơn mưa, sau đó giơ chiếc chìa khóa lên quá đầu.
“Hãy đến đây mà lấy nó này, nếu ông thực sự muốn nó!” Cô bé hét lên. “Hãy đến đây mà lấy nó nếu ông có can đảm!”
Gió thổi tung tóc cô bé.
Trong vườn, gã đàn ông nhìn cánh cửa mở toang của Biệt thự Argo trước tiên, sau đó nhìn cô. Trông hắn như thể một con voi ma mút cuộn trong chiếc áo mưa vậy.
“Julia, không! Hãy chạy ra đằng kia!” Ông Nestor cũng đã đứng dậy được.
Manfred suy nghĩ một lúc, sau đó đưa ra quyết định. Hắn bắt đầu tiến lại gần.
“Đưa tao chiếc chìa khóa!”
Julia mỉm cười với hắn. Thực ra tim cô nhóc chỉ chực nổ tung vì sợ hãi, nhưng người làm chủ cuộc chơi là cô.
“Đưa tao chiếc chìa khóa… đồ oắt con! Manfred lặp lại trong khi một tiếng sấm nổ lớn trên đầu.”
Ánh hải đăng quay quay.
“Nếu ông tiến thêm một bước nữa, tôi sẽ ném nó xuống biển!”
Manfred dừng lại cách cô bé ba bước, với chiếc áo mưa lấp lóa trong cơn mưa.
“Cẩn thận với những gì mày đang làm đấy, nhóc con…” Hắn đe dọa.
“Ngươi mới cần phải cẩn thận, Julia trả lời, đầu ngón tay lúc lắc chiếc chìa khoá để nó không bị rơi xuống…”
“ Julia!” Phía sau Manfred, Nestor gào lên.
“Người ông yêu quý của ngươi đang gọi kìa, nhóc,” Manfred cười nhăn nhở. “Sao ngươi không trả lời lão đi?”
“Bởi vì tôi đang bận nói chuyện với một con lợn to béo mặc áo mưa,” cô bé đáp trả.
Con lợn lao lên phía trước. Gã nhảy qua ba bước ngăn cách hắn với Julia chỉ trong nháy mắt.
Nhưng cô bé đã lường trước được việc này, và cô bé đích thị là Julia Convenant, vô địch thể dục nghệ thuật dụng cụ, người chạy nước rút không thể đánh bại trong các cuộc đua tốc độ và là tay đập bóng số một trong đội bóng chuyền của trường.
Với một động tác uyển chuyển, cô bé dịch người qua một bên và ném chiếc chìa khóa qua vách đá. Một đống ướt nhẹp lập tức sượt qua mặt cô bé.
Ánh hải đăng quay quay.
Và khi lao qua phía bên kia, Manfred biến mất vào khoảng không.
Ulysse Moore Tập 2 - Ở Tiệm Những Tấm Bản Đồ Bị Lãng Quên Ulysse Moore Tập 2 - Ở Tiệm Những Tấm Bản Đồ Bị Lãng Quên - Pierdomenico Baccalario Ulysse Moore Tập 2 - Ở Tiệm Những Tấm Bản Đồ Bị Lãng Quên