Hướng tới tương lai mà chỉ dựa vào quá khứ, chẳng khác nào lái xe mà cứ chằm chằm nhìn vào kính chiếu hậu.

Herb Brody

 
 
 
 
 
Tác giả: Yury Bondarev
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Горячий Снег
Dịch giả: Nguyễn Hải Hà
Biên tập: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 811 / 8
Cập nhật: 2017-05-19 13:24:54 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 23
nh đã chú ý xem xét cẩn thận cả chưa, Ru-bin? -Tại sao đồng chí không tin tôi, đồng chí trung úy? Tôi đã lê bụng bò khắp xung quanh hố bom. Làm bẩn hết cả chiếc áo choàng. Nếu cậu ta bị giết thì chắc tuyết đã phủ trắng lên người rồi. Với lại ở đây không thấy có xác chết nào cả. Biết đi tìm ở đâu?
-Rõ rồi, Ru-bin. Chừng nào địch ngừng bắn chúng ta sẽ xem xét một lần nữa về phía khe. Có thể là khi bò ra cậu ta đã mất phương hướng và di chuyển theo hướng ngược lại. Tuy khó có thể tưởng tượng như thế. Dưới ánh sáng pháo hiệu cậu ta có thể nhận ra đâu là phía quân ta chứ.
-Phải cẩn thận hơn với cái khe đấy. Bọn Đức cũng có thể qua lại ở đó nếu chúng không ngủ khì. Lúc ấy thì khốn khổ đấy! Tôi vừa bò đi vừa ngủ, đồng chí trung úy ạ. Người tôi làm sao ấy… Lạnh toát cả, vậy mà mi mắt cứ nặng như chì.
-Anh lấy tuyết mà xoa mặt. Xoa mạnh vào.
-Tôi đã xoa ghê lắm rồi. Tôi đã sát như mài khắp mặt, đồng chí trung úy ạ. Vì suốt một ngày một đêm không ngủ rồi. Đêm nay cũng chỉ mới ngả lưng được hai tiếng đồng hồ.
Họ nằm trên miệng hố bom trống rỗng, xung quanh họ bầu không khí trên thảo nguyên đã loãng hơn và chuyển sang màu trắng; cảnh tĩnh mịch của đêm tháng Chạp vào lúc rạng sáng làm cho họ đờ người ra, buồn ngủ không dưỡng được. Rồi dần dần Cu-dơ-nét-xốp bị xâm chiếm bởi cảnh im lặng lừa dối đó ở xung quanh mình và bình minh yên tĩnh làm cho đầu óc anh trĩu nặng một cách dễ chịu, anh cảm thấy, trái với ý muốn của mình, đầu óc anh không còn cưỡng lại sự uể oải ru ngủ đang len thấm vào tấm thân lạnh cóng của anh và anh khiếp sợ cảnh thiếp lặng u mê trong chốc lát đó.
-Ta bò tới chỗ cái khe, Ru-bin!-Anh đứng lên và hiểu ngay rằng mình sẽ không bước nổi năm bước. Sau cả một đêm không ngủ, sự căng thẳng thần kinh bỗng xẹp xuống, không còn biết đến mối hiểm nguy, dìm anh trong màn sương ấm áp và anh cứ đứng như thế một lát trong cơn thiu thiu ngắn ngủi, không thật.-Ta đi đi!-Cu-dơ-nét-xốp nhắc lại to hơn và ngang ngạnh hơn và để tìm cách làm cho mình tỉnh táo như trước đây, anh ngọ nguậy những ngón tay cóng lạnh trong găng ta và đập đập tay vào báng súng tiểu liên.-Ta đi đi, đi đi!-Anh nhắc lại lần thứ ba, cốt dùng âm thanh giọng nói của chính mình để thuyết phục mình cũng như Ru-bin rằng bằng cách này hay cách khác họ phải đi tới bờ khe đó.
-Tôi đi ngay đây, trung úy…-Ru-bin ráng sức bứt tấm thân bè bè của mình khỏi mặt đất, vươn mình đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt Cu-dơ-nét-xốp, nhếch mép cười nhăn nhó.-Nói trung úy đừng giận nhé, anh lảo đảo trước gió, thế mà cứ tưởng khỏe cơ đấy… Ngó bộ anh như cái đinh ốc bị vặn chặt ấy. Anh bắt mình gắng gượng à? Hay là anh muốn ra vẻ ta đây, trung úy?...
-Ta đi đi! Anh đừng nói chuyện vớ vẩn nữa, Ru-bin. Ta đi đi. Nào, đi. Phải đi thôi, không thể nấn ná được. Phải đi thôi.
-Trung úy đừng giận nhé. Tôi đi đây…
Tuyết rơi dưới chân họ và Cu-dơ-nét-xốp vừa bước đi vừa nghe tiếng thở phì phò của Ru-bin ở ngay sau vai mình, tiếng tuyết lạo xạo dưới gót ủng của anh ta. Anh nhìn cảnh hoang vắng lạnh lùng, trắng xóa giữa đêm yên tĩnh và chợt nghĩ rằng tất cả những gì anh đang làm lúc này đều không phải do anh mà do một người nào khác làm, còn bản thân anh cũng như Ru-bin đang thực hiện những mệnh lệnh không phải của anh mà của một người nào khác như là làm một việc cần thiết để hai người yên tâm. Và giữa những cơn gió ngoằn ngoèo, chạy dài trên thảo nguyên, giữa đám tuyết hoang vắng im lìm không bị đạn tên lửa soi sáng đang đung đưa trước mắt, anh cũng cảm thấy sự khoan khoái, êm dịu nhẹ nhàng, sự thảnh thoi êm đềm sau tất cả những gì đã xảy ra từ lâu hoặc mới xảy ra và màn đêm ấm áp bồng bềnh lướt về phía anh, trùm kín lấy anh. Nhưng giữa cảm giác thảnh thơi êm đềm đó, giữa cái vỏ thiếp lặng mềm mại đó vẫn có một cái gì đó băn khoăn trăn trở rồi bật ra, sáng bừng lên như những tia nắng vàng lóng lánh xuyên qua tán lá cây rọi xuống những vũng nước xanh biếc sau cơn mưa mùa hè ở một phố nhỏ thân thương và xa xôi nào đó-phố nhỏ nào thế nhỉ?-rồi cặp lông mày của ai cong lại trên một khuôn mặt quen thuộc và giọng nói của ai vang lên ngay bên tai: “Anh Cu-dơ-nét-sích thân mến!... Anh có biết chúng ta đang đi đâu không? Anh cố bắt mình gắng gượng à? Mình là Cu-dơ-nét-sích à? Sao lại xưng hộ như trong trò chơi trẻ con thế nhỉ?... Không, chúng ta đang đi đâu? Chúng ta đi đâu mãi thế này? Đi đâu?”.
Cu-dơ-nét-xốp tỉnh dậy, mở mắt ra. Xung quanh anh là sự yên tĩnh, tuyết, những bước chân và tiếng lạo xạo ở trong tai…
Anh sợ sệt ngó nhìn xung quanh. Anh vẫn chưa tin rằng mình vừa thiếp đi trong giây lát, anh nghe thấy tiếng bước đi đều đều của Ru-bin và sợ mình bị choáng ngất, anh dừng ngay lại.
Ru-bin cũng dừng lại. Họ đưa mắt nhìn nhau, im lặng. Ru-bin thở như huýt gió.
-Ru-bin,-Cu-dơ-nét-xốp cố gắng nói.-Anh đi độ một chục mét về phía tay phải. Nhìn xem ở đó thế nào, kẻo không…
Anh không nói rõ chữ “kẻo không” đó nghĩa là thế nào tuy cả hai người đều hiểu rõ ràng: “Kẻo không chúng ta sẽ rơi vào chiến hào của bọn Đức”.
-Lúc này chúng mình chả nghĩ ngợi được gì cả, đồng chí trung úy ạ,-Ru-bin ngoan ngoãn nói rồi thọc chân vào đụn tuyết, anh bước về phía tay phải. Còn Cu-dơ-nét-xốp lại sợ mình thiếp đi, anh cố không đêể mất cảm giác về nỗi nguy hiểm khiến anh tỉnh táo sau khi thiếp đi trong khoảnh khắc, anh bước nhanh về phía trước và nghĩ:
“Tại sao anh ta lại nói: Anh cố bắt mình gắng gượng à? Đúng, đúng thế, Ru-bin ạ, tôi sợ nhất là tỏ ra yếu đuối, tôi sợ nhất là tỏ ra yếu đuối trước anh cũng như những người khác và tất cả những gì tôi đang làm đều không phải do tôi mà do một người nào khác làm còn tôi thì không biết người nào khác ở trong tôi đó là ai. Tôi không biết người đó và cũng chẳng muốn biết, muốn ra sao thì ra!... Ru-bin ạ, anh hiểu cho tôi nhé, lúc này tôi cũng chả nghĩ ngợi được cái gì nhưng chúng ta sẽ đi tới bờ khe và chúng ta sẽ yên tâm vì đã làm tất cả… Tuy tôi tin chắc rằng điều đó hoàn toàn vô nghĩa! Và vì thế tôi hiểu rằng tôi có lỗi đối với anh Ru-bin ạ!...”.
Những làn đạn khô khan xé màn đêm yên tĩnh ở phía sau lưng và những tiếng súng đó đẩy Cu-dơ-nét-xốp về phía trước. Và vẫn còn ở trong tâm trạng nửa mê, nửa tỉnh đó Cu-dơ-nét-xốp thoáng nghĩ ra rằng chúng bắn từ phía sau lưng và như thế tức là họ đã đi qua chỗ đội cảnh giới chiến đấu Đức mà không để ý, theo bản năng, anh bổ nhào xuống đất giật quai súng tiểu liên khỏi vai và gọi to:
-Ru-bin quay lại!
Nhưng ngay lúc ấy anh đã trông thấy Ru-bin đang ba chân bốn cẳng chạy từ bờ khe lại phía anh.
-Trung úy, trung úy, quân ta hay cái gì thế? Anh nhìn xem kìa! Nhìn lại đằng sau mà xem!...
-Ru-bin, đi theo tôi!-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh, anh đã nghe thấy tiếng súng tiểu liên hỗn loạn ở phía sau, tiếng lựu đạn kế tiếp nhau nổ ầm ầm. Anh lao mình quay lại phía hố bom, phía hai chiếc xe vận tải bọc thép bị bắn cháy, nơi tốp Đrô-dơ-đốp-xki đã ra đi, vừa chạy anh vừa nghĩ: “Chuyện gì ở đó thế nhỉ? Họ vấp phải bọn Đức à? Chả lẽ họ lại không vượt qua được sao?”.
Tiếp đó khẩu đại liên từ rìa làng phía sau lưng lại khạc đạn ầm ầm làm thảo nguyên rung lên, chìm trong lửa, khi thì rộng mênh mông, khi thì co hẹp lại; ánh sáng lao vun vút ngay trên đầu họ, đẩy lùi, xua tan bóng tối ở trên trời. Cu-dơ-nét-xốp và Ru-bin lao về phía trước, giẫm lên bóng của chính mình đang lặng lẽ trượt ra khỏi họ.
-Ru-bin, hướng tới những chiếc xe vận tải bọc thép về phía bên phải!-Cu-dơ-nét-xốp hô to khi nhận ra hố bom ở trước mặt và những chiếc xe vận tải bọc thép sẫm đen lại ở phía bên phải nơi những làn đạ vun vút bay trong gió tuyết.
Mấy quả lựu đạn lại nổ đùng đùng ở phía trước mặt, những loạt đạn súng máy lẫn vào nhau hối hả vang lên tằng tặc. Cu-dơ-nét-xốp thở hổn hển chạy lại chỗ mấy chiếc xe vận tải bọc thép và tại đây anh đã nhìn rõ tất cả.
Có những người chạy thành một hàng dài từ những chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy tới chỗ hai chiếc ô tô chạy bằng xích ở trên gò cao, đạn pháo sáng chiếu sáng rõ mồn một mọi chi tiết, còn trên khoảng trống giữa hai chiếc xe vận tải bọc thép và mấy chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy, mấy bóng người đen sẫm đang bò trên tuyết và từ chỗ đó súng tiểu liên của ta trầm trầm nã dồn dập vào hai chiếc ô tô đó, và bọn Đức đang rời khỏi ô tô chạy về phía họ. Một chiếc ô tô chở những thân người lủng lẳng ở thành xe nổ máy chuyển bánh rồi bắt đầu quay mũi xe bò sang một phía. Chiếc thứ hai vẫn đâu nguyên như trước và từ mình nó lửa đạn điên cuồng lao vút đi: bọn Đức dùng tiểu liên bắn xối xả vào bãi đất thấp phía trước xác mấy chiếc xe tăng.
-Ru-bin! Bắn vào hai chiếc ô tô!... Nã vào chúng đi!-Cu-dơ-nét-xốp thét to, hể hả đưa ngón tay tê cứng bóp cò, báng súng tiểu liên giật mạnh thúc vào vai anh và thảo nguyên sáng lóe, chao đảo dưới ánh sáng làn đạn đó. Anh hết sức cố gắng ghìm mình lại để không nã hết cả một băng đạn tròn.
-Lũ rắn độc!...-Ru-bin nói giọng khàn khàn ngay sát vai anh.-Bóp chết bọn chúng mày cũng chưa hả, phải lấy tay bóp chết lũ bay!...
-Ru-bin, lựu đạn!... Ru-bin, ném vào ô tô!... Nhanh lên!
Ngọn lửa súng máy nhảy nhót, làm cho hàm răng chắc nịch của Ru-bin ánh hồng lên, khuôn mặt to bè, khủng khiếp của anh say sưa ép sát vào báng súng tiểu liên, thoạt đầu Ru-bin hình như không nghe thấy mệnh lệnh của anh. Cu-dơ-nét-xốp thúc vào vai anh ta và tức giận gào lên điên cuồng: “Lựu đạn! Lựu đạn!”. Và mãi đến khi dứt loạt đạn tiểu liên, tay phải Ru-bin mới thọc vào sục sạo trong túi áo choàng rồi anh nhảy ra cách chiếc xe vận tải bọc thép hai bước, nghiêng người, tháo chốt an toàn và hộc lên giọng khàn khàn ném quả lựu đạn về phía gò đất. Chộp ngay lấy quả lựu đạn thứ hai, anh vùn tay như điên ném tiếp theo luôn. Hai tiếng nổ kế tiếp nhau bùng lên đỏ lóe trên sườn gò cao: mấy quả lựu đạn không bay tới chỗ mấy chiếc ô tô.
-A-a, lũ giòi bọ!
Ru-bin gào thét, túm lấy khẩu tiểu liên, nằm xuống cạnh Cu-dơ-nét-xốp ở chân chiếc xe vận tải bọc thép, nã từng loạt đạn dài về phía những chiếc ô tô. Hiểu rằng chẳng mấy chốc cả hai sẽ bắn hết đạn vì chẳng có băng đạn dự trữ nào. Cu-dơ-nét-xốp nghĩ ngay ra là họ phải vận động về phía bãi đất thấp đó nơi tốp Đrô-dơ-đốp-xki đang nằm trong tuyết dưới làn đạn tuy anh hiểu rõ ràng làm như vậy anh và Ru-bin sẽ lôi cuốn sự chú ý của bọn Đức về phía mình. Đồng thời tai anh vẫn nghe thấy tiếng súng tiểu liên bắn trả của ta ngày càng thưa thớt từ phía bãi đất thấp. Rời ngón tay khỏi cò súng, anh nhổm người trên khuỷu tay, nhìn về phía tiếng súng đã yếu di ở gần những chiếc xe vận tải bọc thép.
-Ru-bin! Cậu ở lại đây!... Kéo đạn của địch về phía mình! Tôi lại đằng ấy với họ! Cậu có hiểu ý tôi không? Nghe rõ không? Tiết kiệm đạn nhé, tính từng viên đấy!... Tôi lại chỗ họ…
-Chạy đi, trung úy, nhanh lên. Tôi sẽ ở đây,-Ru-bin thốt lên như bị choáng và hàm răng dữ tợn của anh có thêm hai băng đạn nữa, trung úy ạ, tôi sẽ đè nát lũ khốn kiếp đó như giết rệp!
-Cậu hãy cầm lấy khẩu Pa-ra-ben-lom này! Còn nguyên đạn đấy!-Cu-dơ-nét-xốp sực nhớ ra khẩu súng ngắn chiến lợi phẩm nặng chĩu túi áo choàng, anh rút nó ra khỏi túi, ném xuống đám tuyết trước mặt Ru-bin-Mình đã có khẩu TT nạp đạn sẵn đây rồi! Nhớ tính từng viên đạn đấy, nghe rõ không, Ru-bin!
Từ phía rìa làng ở đấngu, khẩu đại liên nã về phía bãi đất bằng dày đặc, ầm ầm như sấm, át cả tiếng sủa ằng ặc của đạn tiểu liên. Từ cửa sổ các ngôi nhà ở mé bên trái ba bốn khẩu súng máy nữa cũng vội vã lên tiếng luồng đạn của chúng bay gần như sát những chiếc xe vận tải bọc thép rồi rơi xuống mất hút trong những đụn tuyết trên triền dốc gò cao hoặc chạm vào vỏ bọc thép của những chiếc xe tăng bị bốc cháy sẫm đen trên bãi đất thấp, tóe ra dựng đứng lên dưới những đám mây sáng lóa.
Cu-dơ-nét-xốp ngã rồi lại chồm dậy, băng qua các hố bom đạn, chạy ngang qua khoảng trống chừng năm mươi mét về phía bãi đất thấp, bị đạn pháo sáng từ trên cao rọi sáng, nơi bọn Đức từ ô tô nã đạn tới.Rồi bỗng nhiên anh thấy người nặng trĩu như chì, tựa như có một khối nặng nề vô cùng đè nghẹt hơi thở của anh. Có mấy lần anh vừa chạy vừa ngã quỳ xuống, xả những loạt đạn ngắn lên gò cao còn tim anh đạp liên hồi, tai ong ong như búa gõ, át cả những âm thanh xung quanh chiếc ô tô trên gò cao và cùng với tiếng tim đập thình thịch đó, một ý nghĩ cứ đại uý dứt ám ảnh anh: “Tại sao họ không chuyển tới chỗ những chiếc xe tăng? Tại sao họ không nhúc nhích? Tại sao họ nằm dưới làn đạn? Phải tiến lên chứ, tiến lên, tới chỗ những chiếc xe tăng chứ!”.
Khi Cu-dơ-nét-xốp từ triền dốc thoai thoải chạy xuống bãi đất thấp ở phía trước những chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy, người đầu tiên anh trông thấy là U-kha-nốp. U-kha-nốp nằm sau một đụn tuyết cách chân gò khoảng một trăm năm mươi mét, dùng khuỷu tay ấn chặt tên tù binh Đức xuống tuyết, đè cả ngực lên người nó và nã từng loạt đạn ngắn lên chiếc ô tô, còn nằm lại trên gò. Cứ sau mỗi loạt súng anh lại bò nhích về phía bên trái, tới chỗ mấy chiếc xe tăng, vừa văng tục, anh vừa kéo mạnh tên Đức theo mình lại ấn nó xuống tuyết và nằm đè lên nó. Một băng đạn trong đã bắn hết nằm chỏng trơ cách đụn tuyết mấy mét.
-U-kha-nốp chạy tới chỗ những chiếc xe tăng đi!-Cu-dơ-nét-xốp chỉ còn có thể khẽ la lên, ngột thở đến cùng cực, đương đà chạy anh bổ nhào xuống cạnh U-kha-nốp.-Chạy đến chỗ những chiếc xe tăng đi!... Đừng trùng trình ở đây một phút nào nữa! Chạy đến chỗ những chiếc xe tăng đi!...-U-kha-nốp, cậu có nghe thấy không?
U-kha-nốp quay bộ mặt say sưa điên cuồng, là lạ vè phía Cu-dơ-nét-xốp và chiếc răng cửa bịt bác ánh hồng lên.
-Trung úy!... Đến chỗ đại đội trưởng… chạy đến chỗ Dôi-a đi! Tôi đã cử một chiến sĩ thông tin đi nhưng chưa ăn thua gì! Hình như có người bị thương!... Tôi ở đây!... Cậu đến chỗ họ đi!
-Ai bị thương? Làm sao?
-Đến chỗ họ đi, trung úy! Đến chỗ Dôi-a, chạy đến chỗ Dôi-a đi!-Giọng nói lạc hẳn đi đến mức khó nhận ra của U-kha-nốp văng vẳng bên tai Cu-dơ-nét-xốp. Đè người lên tên Đức, ấn nó xuống tuyết, U-kha-nốp siết chặt khẩu tiểu liên, nã vào chiếc ô tô ở trên gò.
“Dôi-a ư? Cô ấy bị thương sao? Chả có lẽ nào! Không thể thế được!”.
Cu-dơ-nét-xốp thấy ớn lạnh ở lưng, không hiểu rõ lắm mình đang làm gì, không cúi người, đôi chân bủn rủn của anh lao tới những người đang nhúc nhích, rải rác trên bãi đất thấp. Anh chỉ nhận ra có một điều: ở đó đã xảy ra chuyện mà anh không muốn, chuyện đó không có quyền xảy ra và không nên xảy ra. Lòng vẫn nghi hoặc như vậy, anh bừng bừng phẫn nộ chạy tới giữa bãi đất thấp, điên khùng gạt một người nào đó lưng khòng khòng đang nghiêng mình gần đụn tuyết, hai tay đang làm gì đó ở gần miệng.
Anh không hiểu rõ rằng đó là anh chiến sĩ thông tin đang dùng răng xé cuộn băng cá nhân và ngay lúc ấy, như qua một màn sương lãng đãng, anh nhìn thấy ở lưng chừng đụn tuyết chiếc áo choàng ngắn màu trắng, đôi ủng trắng, chiếc túi cứu thương dính đầy tuyết.
-Các anh loay hoay làm gì ở đây thế, quỷ tha ma bắt các anh đi cho rồi!
-Cô ấy bị thương… phải băng bó cho cô ấy chứ!-người chiến sĩ thông tin sợ hãi la lên đáp.-Anh nhìn cô ấy kia kìa…
Dôi-a nằm nghiêng, co quắp, mắt nhắm nghiền, chân co lại như thể cô bị lạnh, tay thu vào bụng, khẩu “Van-te” nho nhỏ của Đức nằm lăn lóc gần đôi đầu gối cong lại bất động của cô và có một vật gì đó sâm sẫm chảy từ người cô xuống tuyết khiến cho Cu-dơ-nét-xốp khiếp sợ. Nhưng thoạt đầu anh tưởng rằng cái vệt sẫm khủng khiếp trên tuyết đó không phải là máu, anh không thể tưởng tượng được rằng đó là máu của Dôi-a, rằng anh đang nhìn thấy máu cô và ngay lúc ấy anh cố làm cho mình tin, thậm chí anh tự nhủ rằng không thể xảy ra câu chuyện không cứu vãn nổi đó, cô không thể nào bị tử thương hay bị giết, không thể nào ép chặt tay và bụng một cách khủng khiếp đáng sợ như vậy.
-Dôi-a…sao thế Dôi-a?...
-Cô ấy chẳng nói gì, trung úy ạ… Cô ấy bị một loạt đạn súng máy… Hình như vào bụng… Lúc đầu cô ấy bảo… anh đi đi… tôi khắc tự lo. Cô ấy không cho băng bó… Còn bây giờ cô ấy chả nói gì cả,-tiếng người chiến sĩ thông tin lắp bắp-Mọi sự đã ổn cả, nhưng khi chúng tôi đến bãi đất thấp thì bị chúng từ trên cao bắn xuống. Thế là sinh chuyện rắc rối…
-Đrô-dơ-đốp-xki đâu?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi không thành tiếng, không nghe thấy giọng của mình.-Anh ấy đâu?
-Chả lẽ anh không thấy hay sao? Anh ấy ngồi trên tuyết kia kìa… hình như anh ấy cũng bị thương. Bọn Đức ném lựu đạn.
-Đrô-dơ-đốp-xki đâu?-Cu-dơ-nét-xốp lại thì thào hỏi rồi quay người lại, mãi đến lúc đó anh mới nhận ra Đrô-dơ-đốp-xki ngồi cách đụn tuyết chừng năm mét, đầu không đội mũ.
o0o
Tay trái Đrô-dơ-đốp-xki vẫn cầm khẩu súng ngắn, còn tay phải vẫn đi găng, chốc chốc lại đưa lên cổ và sát vào mắt, anh nói gì đó nhát gừng, khó hiểu. Người chiến sĩ thông tin thứ hai cúi xuống định nâng Đrô-dơ-đốp-xki dậy, anh ta đứng ở sau lưng vụng về xốc nách anh. Khẩu tiểu liên nóng bỏng nằm ngay đó cạnh anh trinh sát bị cóng choàng chiếc áo ngụy trang mà xám trông như một nấm đất.
Đrô-dơ-đốp-xki vùng vằng cưỡng lại người chiến sĩ thông tin, anh bắt đầu lên tiếng một cách nóng nảy, với thói bướng bỉnh điên cuồng của người bị choáng:
-Băng cho tôi! Dôi-a đâu? Băng đi!... Tôi bị thương, để cô ấy băng cho tôi chứ1 Cậu đi đi-i!...
Cu-dơ-nét-xốp cởi khuy áo choàng ở ngực chẳng hiểu để làm gì và cũng máy móc như thế, anh bước về phía Đrô-dơ-đốp-xki nghiêng mình và nhìn thấy mảng da rách đẫm máu ở dưới tai anh ta, anh nói bằng đôi môi lạnh cứng:
-Đrô-dơ-đốp-xki! Anh có nghe thấy tôi nói không? Anh có đứng dậy được không? Chân còn nguyên vẹn cả chứ! Anh chỉ bị xước da thôi! Đứng dậy, đứng dậy, Đrô-dơ-đốp-xki!
-Dôi-a đâu? Dôi-a đâu hả Cu-dơ-nét-xốp? Đâu? Băng cho tôi!...
-Đứng dậy, Đrô-dơ-đốp-xki, đứng dậy!
Sau đó Cu-dơ-nét-xốp cởi áo choàng ra, trải trên tuyết. Cùng với Đrô-dơ-đốp-xki họ đặt Dôi-a co quắp vào trong áo choàng rồi cứ thế khiên cô đi. Nhưng anh không thể nào nhìn vào cô, người anh run bắn lên như cơn sốt rét. Đrô-dơ-đốp-xki đi ở phía trước, vẫn như mê man, lảo đảo một cách yếu ớt, đôi vai lúc nào cũng thẳng của anh ta còng xuống, tay chéo về phía sau để giữ mép áo choàng. Mảnh băng trắng lạ lùng làm cho cổ anh ngắ lại, băng thõng xuống cổ áo và Đrô-dơ-đốp-xki không quay cổ, không thể nhìn về phía sau được. Chốc chốc anh ta lại lắc lư như người say rượu và đôi lúc chân bị vấp nhưng chẳng thốt ra lời nào. Chỉ thỉnh thoảng lưng anh căng ra và từ họng anh bật ra chẳng rõ là tiếng rên lay tiếng ho xù xụ. Cái âm thanh nghèn nghẹn lạ lùng đó làm cho Cu-dơ-nét-xốp tan nát ruột gan. Khi họ đã vào tới khu vực mấy chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy, nơi những loạt tiểu liên của địch không bay tới được, Đrô-dơ-đốp-xki mới thì thào cầu xin:
-Ta nghỉ một tí… tôi không đi nổi nữa. Mình xin cậu, Cu-dơ-nét-xốp…
Họ đặt Dôi-a xuống tuyết. Cu-dơ-nét-xốp vẫn không đủ sức nhìn cô, cổ anh như tắc nghẹn không thở được.Anh đứng dựa vai vào vỏ bọc thép méo mó của chiếc xe tăng Đức, chân anh khuỵu xuống, anh có ý muốn ngồi xuống tuyết, nhắm mắt lại, không động đậy, không nghĩ ngợi tới cái gì hết. Đối với anh, giờ đây thì đằng nào cũng thế thôi, tất cả đã mất giá, trong một giây tất cả đều trở nên vô nghĩa: cả anh trinh sát bị cóng, cả tên tù binh Đức, cả đêm khuya sau trận đánh, giá lạnh, hố bom trước cái khe-tất cả dường như là một sự bất công quái đản, vô nhân đạo cần phải có để chuyện đó xảy ra…
“Cô ấy bị thương vào bụng,-anh điên khùng giải thích cho mình, cố uổng công sắp xếp lại mọi việc một cách lô-gich xem chuyện đó đã có thể xảy ra như thế nào.-Thoạt đầu khi họ đi tới bãi đất thấp cô đã bắn bằng khẩu “Van-te” của mình. Thế rồi sau đó?... Nhưng sao lại chính cô ấy bị thương? Sao lại chính là cô ấy?”.
-Cu-dơ-nét-xốp…
Như trong cơn mơ, anh máy móc túm lấy mép áo choàng và bước đi, không dám nhìn vào đó, phía trước mắt mình, không dám nhìn xuống dưới chỗ cô nằm, từ chỗ đó phảng phất cái hoang vắng lặng lẽ, lạnh lẽo, chết chóc. Không một lời nói, không một tiếng rên, không một hơi thở. Nhưng không, hãy còn cái cảm giác sinh động, lừa dối, ấy là thân hình cô nằm trong chiếc áo choàng nặng trĩu trên tay và đó là tất cả những gì anh cảm thấy trong giây phút ấy khi cùng với Đrô-dơ-đốp-xki khiêng cô về trận địa pháo.
Khi họ đưa cô về tới trận địa pháo thì thấy khuôn mặt của Nết-trai-ép ngọ nguậy phía trên bờ công sự. Nét mặt thất sắc như có ý dò hỏi, Nết-trai-ép nhảy ra khỏi mặt bằng đặt pháo để đón họ, sải bước bên cạnh họ, sợ hãi nhìn Dôi-a rồi đưa cặp mắt bối rối chằm chằm nhìn Đrô-dơ-đốp-xki và Cu-dơ-nét-xốp dường như chờ đợi sự giải thích xem mọi việc đã xảy như thế nào, làm sao cô đến nông nỗi ấy. Nhưng cả Cu-dơ-nét-xốp lẫn Đrô-dơ-đốp-xki đều không giải thích cho anh điều gì hết.
Vẫn như trước đây, Cu-dơ-nét-xốp cố không nhìn Dôi-a. Anh không nhìn cô ngay cả khi mọi người đặt cô vào hốc đất, anh không nhớ rõ ai đã khuyên nên đặt cô vào đó để gió tuyết khỏi vùi lấp mặt cô. Anh đứng đó, để khẩu tiểu liên tụt xuống đất và nghe một giọng nói nào đó nhẹ bỗng, giống như giọng nói của Nết-trai-ép thì thào với anh: “Đồng chí cóng hết cả người rồi, đồng chí trung úy, tay chân đồng chí cứng đờ ra rồi”. Và mãi tới lúc đó anh mới chợt nhìn thấy bên bờ lũy cạnh hóc đất chiếc áo choàng của mình với những vết máu sẫm trên tà áo và chẳng hiểu sao anh nghĩ rằng có lẽ mình sẽ chẳng bao giờ mặc chiếc áo choàng thấm máu của cô, mang dấu vết cái chết của cô đó nữa.
-Các anh rút chiếc áo choàng của tôi ra làm gì?-Cu-dơ-nét-xốp thì thào bật lên.-Cứ để nó ở trong hốc đất…
-Anh run cả người trong chiếc áo bông kia kìa, đồng chí trung úy…-Nết-trai-ép cũng thì thào đáp lại bên cạnh anh.-Dôi-a làm sao thế? Cô ấy làm sao thế?
Cu-dơ-nét-xốp run bắn người lên, hàm răng anh va vào nhau lập cập, toàn thân anh tê dại và anh vẫn cứ muốn ngồi bệt xuống, nhắm mắt lại, không nghĩ tới cái gì hết-tưởng chừng như chỉ có như thế anh mới thấy dễ chịu được.
Anh vứt khẩu tiểu liên xuống chân mình, ngồi lên bờ lũy gần hốc đất-anh chẳng còn sức đi tới chỗ càng pháo-và vừa run rẩy anh vừa đưa găng tay bẩn thỉu lên cọ mặt, siết chặt và xoa cuống họng chẳng hiểu để làm gì.
“Cu-dơ-nét-sích…-Rõ ràng là anh nghe thấy tiếng nói khẽ khẽ.-Cố đuổi kịp chúng tôi nhé. Phải còn sống đấy, Cu-dơ-nét-sích ạ! Chỉ có điều là đừng rơi vào tay bọn Đức!”.
Anh rên lên trong chiếc bao tay và lần đầu tiên anh quyết định nhìn cô trong hốc đất.
Dôi-a nằm trong đó trên tấm vải bạt do Nết-trai-ép trải ra, đầu tấm vải bạt che kín đến tận ngực cô nên lúc này anh không nhìn thấy vết máu đã làm anh khiếp sợ. Đầu không đội mũ-chắc chiếc mũ đã lăn lóc ở chỗ nào đó trên bãi đất thấp,-cô nằm nghiêng, co quắp như trẻ con, tựa như nằm ngủ, lặng đi trong giấc mơ. Gió hất tung mớ tóc lên mặt cô, khuôn mặt trắng bệch như đá hoa, đã mất hết sinh khí, với cặp lông mày đặc biệt rõ nét, hơi nhíu lại vì một nỗi đau thoáng qua nào đó. Cả cặp lông mày cũng như lông mi đã cứng đơ của cô tưởng chừng như cũng khẽ nhúc nhích, động đậy, gió xua tuyết trên bờ lũy công sự xuống như rắc bột trắng lên chúng. Và Cu-dơ-nét-xốp quay ngoắt người lại ngay, nhắm nghiền mắt lại, lấy ngón tay kẹp chặt lấy cằm và môi khiến da anh nói đau dưới lần găng tay xù xì.
Anh sợ rằng lúc này mình không kiềm chế được, sẽ làm một điều gì đó điên cuồng trong lúc tuyệt vọng và trong tâm trạng cho rằng mình phạm lỗi không thể nào tưởng tượng nổi, y như thể cuộc đời đã chấm dứt và giờ đây chẳng còn có gì hết.
Những món tóc tơ nóng hổi ấy của cô đã chạm vào môi vào mắt anh khi cô ôm chặt lấy anh tìm sự che chở, nép sát vào anh trên hỏa điểm của Đa-vla-chi-an và lúc ấy anh đã ép chặt cô vào bánh xe khẩu pháo, do bản năng anh muốn tránh cho mảnh đạn khỏi bắn vào lưng cô, lúc ấy đôi môi lạnh giá, hơi thở ấm áp của cô phả vào cổ, vào má đẫm mồ hôi của anh… Chả lẽ trong những giây phút đó anh lại biết được những gì sẽ xảy ra nhiều giờ sau đó? Chả lẽ anh lại có thể biết được rằng cô sẽ bị thương trên bãi đất trống và sẽ rút khẩu “Van-te” ra khỏi chiếc túi cứu thương của mình.
Có người từ phía sau khoác chiếc áo choàng lên vai anh, còn anh vẫn ngồi trên bờ công sự như trước, không nhúc nhích, không đáp lại một lời nào đó hỏi, hình như lại là giọng của Nết-trai-ép.
-Đồng chí trung úy, đồng chí run bắn cả người kìa. Đồng chí phải đi… Tốt hơn hết là đồng chí đi vào hầm trú ẩn, chỗ những người bị thương. Ở đó có lò sưởi… Mọi người đã trở về, may quá. Đồng chí hãy nhìn xem… Đồng chí có nghe thấy tôi nói không, đồng chí trung úy? Đồng chí phải sưởi ấm mới được. Mọi người đã trở về, tôi nói rằng…
-Mọi người à?... Đã trở về à?-Cu-dơ-nét-xốp nghẹn ngào nói như bị vướng ở cuống họng, như thể anh muốn dằn mấy tiếng “mọi người đã trở về, may quá” à bất chợt anh nhìn thấy khuôn mặt xanh nhợt bối rối của Nết-trai-ép ở gần mình-Nết-trai-ép cắn chặt ria mép-anh thì thào gần như không rõ:
-Anh hãy che mặt cho Dôi-a… Gió tuyết mù mịt mà. Anh hãy che mặt ngay nhé.
Nết-trai-ép rụt rè bước vào hốc đất, kéo mép tấm vải bạt và thận trọng phủ lên người Dôi-a rồi bước tới bờ công sự.
Hình như làm thế dễ chịu hơn nên Cu-dơ-nét-xốp thử đứng dậy nhưng đôi chân không chịu nghe anh, anh lại bất lực ngồi lên thành công sự. Chiếc áo choàng do Nết-trai-ép khoác lên tuột khỏi vai, trễ xuống lưng anh.
Tất cả những gì nâng đỡ anh suốt một ngày một đêm ấy trong tình trạng căng thẳng quá sức, buộc anh làm cái điều không thể làm được, bỗng nhiên rã ra ở trong anh. Lúc này thậm chí anh không định dứng dậy mà chỉ sờ nắn và xoa cuống họng nghẹt lại như bị siết thòng lọng. Và giá như giờ đây xe tăng Đức bắt đầu tiến công hoặc bọn xạ thủ tiểu liên định tiến gần lại chỗ khẩu pháo chắc anh cũng không vượt được mình, không nhúc nhích khỏi chỗ để ra lệnh bắn…
“Tại sao mọi người đều im lặng và nhìn mình thế? Mọi người đang nghĩ gì? Họ có nhìn thấy mọi việc đã xảy ra không? Đrô-dơ-đốp-xki đâu? Anh ta ở liền bên cạnh cô ấy cơ mà…”.
Hai chiến sĩ thông tin khiêng anh trinh sát bị cóng đi ngang hốc đất băng qua gò cao, Cu-dơ-nét-xốp hiểu rằng họ khiêng anh ta vào hầm để thương binh, họ lặng lẽ đi, nghi hoặc nghiêng đầu về phía Dôi-a nằm dưới tấm áo choàng. Rồi một người nói: “Thế là cô ấy đi rồi”,-và họ dừng lại vẻ do dự tựa hồ như còn chờ đợi cô sẽ hất tấm vải bạt ra, mỉm cười, giơ tay đáp lại họ và nói bằng giọng âu yếm du dương quen thuộc với toàn đơn vị: “Các chú bé thân mến, sao các chú cứ nhìn tôi thế? Tôi còn sống mà…”. Nhưng phép lạ đã không xảy ra và họ cứ đứng đó, đưa mắt đờ đẫn, dò hỏi chằm chằm nhìn tấm vải bạt trong hốc đất, đổi chân, lúng túng họ khênh anh trinh sát đang rên không thành tiếng.
-Các anh khênh đi! Sao cứ đứng đực ra thế?-Mệnh lệnh bực bội của U-kha-nốp vang lên và sau một lát im lặng, anh nói không to lắm:-Nết-trai-ép sao cậu cũng đứng như phỗng thế? Khoác áo choàng cho trung úy. Hay là cậu Ru-bin, cậu hãy giúp một tay…
-Đồng chí trung úy, đồng chí mặc áo choàng vào,-tiếng Nết-trai-ép lại vang lên và người ta lại hất áo choàng từ phía sau lên vai anh.
-Anh nên đứng dậy, trung úy ạ,-tiếng Ru-bin rầu rĩ ngay trên đầu anh.-Ngồi trên đất anh sẽ tê dại hết cả người.
-Cứ để áo choàng đấ. Không cần, tôi đã bảo mà. Cứ để áo đấy. Các anh hãy để…
Tuy vậy anh vẫn đứng dậy, qua sự khẩn khoản của Nết-trai-ép và Ru-bin anh lờ mờ hiểu rằng đứng bên ngoài quan sát họ đã nhận thấy cái gì đó ở trong anh, họ đã nhận thấy có điều gì mới mẻ, đáng sợ, khác thường mà trước đây họ chưa thấy. Anh rùng mình, răng anh vẫn run lập cập như trước, anh cố làm động tác nuốt nhưng không tài nào bắt mình nuốt được cơn nghẹn làm ngột thở.
Xung quanh anh mọi vật đã rõ dần đường nét trong cảnh tranh tối tranh sáng loãng dần và vẻ im lìm trước bình minh đã trùm lên trận địa pháo, lên thảo nguyên và lên những chiếc xe tăng bị cháy. Tuyết bám vào quần áo làm cho U-kha-nốp và Ru-bin trắng xóa từ đầu đến chân nhưng mặt họ đen nhẻm vì khói súng, họ ngồi trên càng pháo, đặt những khẩu tiểu liên còn nóng hổi trên đùi, chừng như họ đặc những ngón tay không rút khỏi bao tay lên đó để sưởi và cả hai không rời mắt khỏi Cu-dơ-nét-xốp.
Tên tù binh Đức nằm nghiêng trên mặt bằng đặt pháo cách họ hai bước, tay bị trói giật cánh khuỷu bằng dây lưng, toàn thân cũng đẫm tuyết. Nó vươn đầu ra, than vãn giọng khàn khàn, hình như nó cầu xin gì đó nhưng không ai cởi trói cho nó. Không ai để ý nghe nó nói. Tựa như không có nó. Những âm thanh khàn khàn đó của tên Đức, nỗi sợ hãi của nó, những đau khổ của nó chẳng có ý nghĩa gì lúc này, chẳng có giá trị gì. Và chẳng hiểu sao Cu-dơ-nét-xốp thoáng ngạc nhiên không biết vì sao hắn còn sống, vì sao hắn vẫn còn nói giọng khàn khàn và vẫn còn vườn đầu được ở đây, bên cạnh hốc đất nơi Dôi-a nằm dưới tấm vải bạt. “Người ta đã giữ gìn hắn!-Anh nghĩ và bất ngờ nổi cơn điên khùng.-Giá mình biết thì mọi việc đã không như thế! Đrô-dơ-đốp-xki có trông thấy cô ấy bị thương không?...”.
-Đại đội trưởng!...-Cu-dơ-nét-xốp gọi rồi anh bước đi không vững, đi tới căn hầm.-Anh có nghe thấy không, đại đội trưởng?
Đrô-dơ-đốp-xki ngồi ở cuối hầm xoay lưng lại phía anh, không ngửng đầu lên; cuộn băng do anh chiến sĩ thông tin quấn vôi lúc ở bãi đất thấp trắng lạ lùng trên cổ anh ta, làm cho cổ to xù ra, che lấp đôi vai; xương quai xanh của anh ta cong lại và nhô ra nhòn nhọn dưới lần áo choàng, đôi cánh tay lủng lẳng không tự giác.
-Cậu muốn gì ở tôi?-Anh ta hỏi khẽ.
-Chỉ có thế này thôi… Anh đi cùng với Dôi-a phải không?
-Mình đã đi cùng với cô ấy.
-Anh có trông thấy cô ấy bị thương không?
-Bọn mình cùng bị một lúc.
-Thế khi cô ấy rút khẩu “Van-te” ra? Cô ấy đã bắn chứ, đại đội trưởng?
-“Van-te” à? Khẩu “Van-te” nào? Cậu hỏi gì thế?-Anh ta quay người lại, cặp mắt xanh ướt tròn xoe trên khuôn mặt trái xoan trắng trẻo.-Cậu có chuyện gì với cô ấy thế, Cu-dơ-nét-xốp?... Mình đoán ra rồi… Mình biết cậu muốn gì? Chỉ có điều cậu hy vọng vô ích, vô ích!...
Hàm dưới của Đrô-dơ-đốp-xki run bắn, giật nảy lên, anh ta bị choáng và đã thốt ra những lời nhát gừng đó trong trạng thái trầm uất nghen tuông điên cuồng mà lúc này Cu-dơ-nét-xốp đang tựa mình vào vách hầm, mắt nhắm lại, không hiểu nổi; anh không thể chịu được cái nhìn sững sờ, ốm yếu của Đrô-dơ-đốp-xki, dải băng lòng thòng trên cổ và những vết máu trên cổ áo anh ta. Một giây trước đây Cu-dơ-nét-xốp sẵn sàng thông cảm, tha thứ, quên đi nhiều điều xảy ra giữa họ, nhưng vì Đrô-dơ-đốp-xki bị thương cùng với cô, không thấy Dôi-a đã hy sinh như thế nào, vì cơn ghen này của anh ta-giờ đây không ai có quyền ghen như thế-nên Cu-dơ-nét-xốp sực tỉnh. Chờ một lát rồi anh nói giọng khản đặc:
-Tốt hơn hết là anh đừng trả lời, đại đội trưởng!-Rồi anh đi khỏi để không hỏi nữa, để dập tắt cơn giận chống lại anh ta ở trong lòng mình, để không nghe, không nhìn thấy anh ta, không tiếp tục chuyện trò.
-Tất cả là do cái thứ rắn độc này! Tất cả là do anh ta!... Do cái thứ rắn độc này mà cô ấy bị chết!
Bỗng nhiên Đrô-dơ-đốp-xki huých mạnh khuỷu tay gạt Cu-dơ-nét-xốp vào vách hầm, vùng ra khỏi hầm, miệng méo xệch lại như lên cơn điên, vọt tới chỗ tên tù binh Đức nằm dưới chân bờ công sự đang ì ạch rống lên trong cổ áo. Rồi có tiếng thét vang trên trận địa pháo:
-A-a, quân súc sinh!...
Vai anh ta giật nảy vẹo hẳn đi, lưng đu đưa bằng động tác máy móc, tay anh ta cố rút khẩu T.T ra khỏi bao và Cu-dơ-nét-xốp hiểu ý nghĩa của cử chỉ đó, vội lao đến chỗ anh ta.
-Dừng lại! Quay đằng sau!...-Anh vừa kịp túm lấy cổ tay Đrô-dơ-đốp-xki, dùng hết sức đẩy anh ta sang một bên. Đrô-dơ-đốp-xki đập lưng vào thành hầm, vội vã đứng thẳng dậy, khuôn mặt trắng nhợt dăn dúm.
-Xéo đi, Cu-dơ-nét-xốp! Xéo đi-i!...
Từ hai phía U-kha-nốp và Ru-bin lao tới Đrô-dơ-đốp-xki túm lấy khuỷu tay anh ta và dùng thân mình ép anh ta vào góc hầm, còn đầu anh ta hết toài sang phải lai sang trái, ve vẩy cuộn băng sổ tung rồi không kìm được những giọt nước mắt bất lực anh ta cứ luôn miệng kêu;
-Vì nó đấy!... Vì nó mà cô ấy chết!...
-Đại đội trưởng xông vào kẻ đã bị tước vũ khí à?-U-kha-nốp nhắc nhở, lay mạnh vai Đrô-dơ-đốp-xki như lay người say rượu,-Việc đó thằng ngốc nào cũng có thể làm được! Thôi, bình tĩnh lại đi, bình tĩnh lại, đại đội trưởng! Anh bị choáng hở? Thằng giặc Đức này thì có nghĩa lý quái gì ở đây? Tỉnh lại đi! Thằng giặc Đức này thì có nghĩa quái gì.
Đrô-dơ-đốp-xki chợt xẹp ngay, rũ người ra và mệt mỏi trườn ra khỏi cánh tay U-kha-nốp và Ru-bin, co giật thở dốc mấy cái rồi nói:
-Đúng, mình bị choáng. Đầu cứ ong ong. Nuốt cũng đau, nghẹt thở…-Rồi anh yếu ớt nói thêm, giọng rã rời:-RỒi sẽ qua thôi. Mình về đài quan sát…
-Băng của anh bị tuột đại đội trưởng ạ,-U-kha-nốp nói.-Ru-bin cậu hãy dẫn đại đội trưởng về đài quan sát và băng bó lại cẩn thận.
-Ta đi đi, đồng chí trung úy-Ru-bin mời và mắt nhìn xuống đất, đi theo sau Đrô-dơ-đốp-xki trong hào giao thông.
Tên Đức vặn vẹo người dưới chân bờ lũy, thều thào rền rĩ.
Còn Nết-trai-ép nét mặt thay đổi đến lạ lùng, không nhận ra được, tựa như nét mặt của người khác, anh ngồi trên lối ra vào hốc đất, nhìn chằm chằm vào chiếc đồng hồ nhỏ xíu mạ vàng mắc vào sợ dây chuyền ngoằn ngoèo mỏng manh, chiếc đồng hồ tròn xoe xinh xắn trên bao tay của anh rồi im lặng.
-Sao cậu im lặng đi thế?-U-kha-nốp nghiêm khắc hỏi.-Cậu xem giờ à? Để làm gì? Thời gian là cái gì đối với cậu?
-Đây là chiếc đồng hồ chiến lợi phẩm… ở trong cái túi sắc, thượng sĩ nhớ không?-Nết-trai-ép đap, cắn ria mép, nhếch miệng cười buồn bã, cay đắng.-Chả biết tặng cho ai. Biết làm gì với chiếc đồng hồ này? Chả là tôi định tặng Dôi-a… và tôi nghĩ thế này: mình thật là đứa vô vị. Sao mình lại cứ ngầm thêu dệt cho cô ấy đủ mọi chuyện, cứ coi cô ấy như mọi người đàn bà mà mình đã gặp. Nói dóc. Toàn là chuyện nói dóc cả, thượng sĩ ạ. Chả có một câu chuyện nào thật cả…
-Vứt cái đồng hồ đi, đủ rồi đấy! Vứt ra ngoài công sự kia kìa! Để cho tôi không phải trông thấy cái thứ chiến lợi phẩm ấy nữa!
Quay người khỏi Nết-trai-ép, tránh nhìn nụ cười lặng lẽ và cay đắng đó của anh ta, U-kha-nốp rút bao thuốc lá đã nhầu nát của tên Đức, chẳng hiểu để làm gì, anh hít hít bao thuốc, khinh bỉ nhìn nhãn hiệu vẽ một đàn lạc đà đang đi trên cát vàng nóng bỏng ngang qua các kim tự tháp Ai Cập và nói:
-Như làm bằng rơm ấy,-anh rút mấy điếu thuốc lên, chìa cho Cu-dơ-nét-xốp:-Này, hút đi…
Cu-dơ-nét-xốp lắc đầu từ chối.
-Chịu thôi. Mình không muốn hút. U-kha-nốp này, phải giải thằng Đức này về sư đoàn. Ta cử ai đi áp giải hắn nhỉ?
U-kha-nốp cúi gập hẳn người xuống dưới chân công sự, dùng tà áo bông phanh ra che chiếc bật lửa, châm thuốc hút rồi nheo mắt nhìn về phía bờ bên kia.
-Bọn Đức ở đó ngủ hay thức?-Sau khi rít hơi thuốc đầu tiên, anh trầm ngâm nói và lập tức nhổ nước bọt ngay.-Khiếp, quỷ quái thật, cái thứ cỏ gì ấy! Như thuốc độc ấy!
-Ta cử ai áp giải tên Đức đi, U-kha-nốp?-Cu-dơ-nét-xốp nhắc lại.-Ru-bin hay là Nết-trai-ép? Hay là các cậu thông tin này?
U-kha-nốp lại phình ngực ra rít thuốc thật mạnh rồi thởi khói qua lỗ mũi.
-Chả có vấn đề gì đặc biệt trung úy ạ. Phải giải tên Đức về sư đoàn. Chả làm thế nào khác được. Chúng mình săn sóc nó để làm gì nào? Anh ở lại trận địa pháo cùng với Nết-trai-ép và Ru-bin. Có thể cần phải bắn. Bản thân tôi sẽ liệu tìm cách giải hắn đi. Chỉ có điều thế này trung úy ạ…-U-kha-nốp rít lên mấy hơi, điếu thuốc cháy đến sát móng tay, anh giẫm đầu mẩu thuốc rồi chậm rãi, đau khổ chăm chú nhìn về phía hốc đất.-Thôi, mọi việc thế là xong, trung úy chắc anh khắc hiểu…
-Cậu hãy đem Ru-bin theo,-Cu-dơ-nét-xốp khuyên, giọng hơi trầm.-Cậu đi với cậu ta. Sang bên kia phải cẩn thận đấy kẻo vấp phải bọn Đức. Mình ghé vào hầm để thương binh.
-Được, tôi không thích đàn ông ôm hôn, ta sẽ không tạm biệt nhau, trung úy ạ!-U-kha-nốp vung tay hất khẩu tiểu liên, lên vai, đôi mắt cười cười.-Chúc may mắn nhé, trung úy! Tôi sẽ lấy Ru-bin đi theo.
Nụ cười trấn tĩnh của U-kha-nốp sau khi anh bày tỏ ý kiến cho rằng dẫu sao cũng giải thích “cái lưỡi” về sở chỉ huy sư đoàn, việc U-kha-nốp sẵn sàng giải tên Đức đi về bờ sông bên kia, trong tình hình như thế này, liều mình không biết lần thứ bao nhiêu trong suốt ngày đêm hôm đó, cơn căm thù muốn báo oán bùng lên trong Đrô-dơ-đốp-xki, sự chấn động của Nết-trai-ép khi ngây người ngắm nghía chiếc đồng hồ nữ nhỏ nhắn trên chiếc bao tay to của mình-tất cả những cái đó như đều thuộc về một cuộc đời xa lạ, không thực nhìn thấy trong cơn mê sảng lúc ốm đau còn cuộc đời thật với ông mặt trời bình thường. Và ánh sáng rõ ràng bình thản, với những âm thanh bình thường, thì đã lùi xa tít vào bóng đêm đen hôm đó, cái bóng đem không thể đo được bằng giờ giấc và anh muốn ngồi trên càng pháo hoặc kiệt lực nằm trên tuyết, nhắm mắt lại mà im lặng.
“Đúng rồi, mình phải đến chỗ anh em bị thương. Đa-vla-chi-an ở đó… Cậu ấy còn sống không nhỉ? Mình phải ghé tới chỗ những người bị thương. Ghé ngay bây giờ!...”-Cu-dơ-nét-xốp tự nhủ rồi anh nhấc khẩu tiểu liên tưởng chừng như nặng không thể tưởng tượng nổi khỏi mặt đất, tay thõng xuống chúc nòng súng xuống đất và bất giác nhìn vào hốc đất.
Cơn gió tuyết thổi làm nhăn nhúm tấm vải bạt phủ mặt Dôi-a, và Cu-dơ-nét-xốp lo ngại cơn gió bất ngờ rứt tấm vải bạt ra, phơi trần một cách tàn nhẫn vóc dáng Dôi-a không còn sinh khí, tội nghiệp, nằm co quắp ở trong đó, trong cái hốc đựng đạn lãnh lẽo đó. Kéo lê nòng súng tiểu liên trên đụn tuyết, anh run bắn người vì ớn lạnh, lưng còng xuống, lê bước trên những bậc trổ vào dốc bờ sông.
Trên ngưỡng cửa căn hầm ngầm lờ mờ dưới ánh sáng hai ngọn đèn dầu bốc khói, trái với không khí lạnh giá ở bên ngoài mùi chua loét ngột ngạt, có vị sắt, mùi mồ hôi, mùi những cuộn băng bẩn, mùi áo choàng được sưởi nóng đập vào mũi anh. Đó là mùi mồ hoi bốc ra từ sự bất lực, từ cơn đau của con người nhưng trong đó người ta vẫn còn cảm thấy sự sống và niềm hy vọng sống.
Toàn bộ căn hầm ngầm đều chật ních: những người bị thương nằm trên những chiếc sạp bằng đất nện, trên nền, trong các góc-người ta đã đưa tới đây tất cả những ai bị thương trong suốt ngày hom ấy, từ trận ném bom, cuộc tiến công đầu tiên của xe tăng địch hoặc bị thương ngay bên khẩu pháo.
Hơi nước từ cửa ra vào tuồn xuống phía dưới, làn không khí lạnh ùa vào căn hầm ngột ngạt, trong cảnh tranh tối tranh sáng những thân người ngọ nguậy dưới những tấm áo choàng, nghe rõ tiếng thở, tiếng rên, tiếng nói yếu ớt, kiệt sức do vật lộn lâu dài với cơn đau.
-Ai đến thế? Cô cứu thương à?... Lại đây cô, tôi lại bị ướt, vết thương cứ rỉ máu mãi… Phải buộc cái thắt lưng vào chân, chứ không tôi cứ như bơi trong vũng nước ấy.
-Dôi-a, Dôi-a này, ở tiểu đoàn có ai còn sống không? Tình hình ngoài đó như thế nào? Sao tiếng súng rộ lên rồi lặng đi thế?
Cu-dơ-nét-xốp đứng trong căn hầm ngột ngạt bởi tiếng người vang lên khắp tứ phía và tựa như anh bị đu đưa trên những làn sóng nóng bỏng: chưa một ai trong những người nằm đây hay biết gì hết. Một tiếng nói khẽ từ xa lan khắp căn hầm ngầm làm ngực anh khẽ nhói lên:
-Không phải Dôi-a các cậu ạ, trung úy đến đấy.
-Trung úy nào, ở chỗ bọn mình ấy à?
-Trung đội trưởng trung đội một. Có lẽ anh ấy bị thương. Đứng không vững. Hình như là người duy nhất còn sống sót hay sao ấy. Thế Dôi-a đâu nhỉ?
Cu-dơ-nét-xốp im lặng.
Trong hầm ngầm chỉ có hai người còn đi lại được: Xvi-a-tốp, chiến sĩ thông tin bị thương ở vai, đó chính là chú bé tóc trắng đã từng vụng về che giấu nỗi khiếp sợ đầu tiên của mình trong chiến đấu, khi Cu-dơ-nét-xốp nhảy vào hầm thông tin của anh ta trong lúc địch ném bom và Tri-bi-xốp với cánh tay băng bó treo lủng lẳng bằng một tấm băng bẩn đeo chéo.
Tri-bi-xốp hoạt động bằng cánh tay lành, bác bê hòm đạn để gần chiếc lò sưởi bị nung đỏ rừng rực, phía trên lò những chiếc cặp lồng đựng tuyết đang reo. Trông thấy Cu-dơ-nét-xốp khoác áo bông, đứng không vững ở gần phía cửa ra vào, mắt quầng thâm vì mỏi mệt, bác lập tức rụt đầu lại, mắt nhấp nháy chờ đợi bị đánh hoặc bị la ó, bác thì thào bào chữa lảm nhảm làm như thể Cu-dơ-nét-xốp biết hết mọi điều.
-Đồng chí trung úy… Tôi đã không chịu nổi, tôi không tự chủ được… Tôi có con, đồng chí trung úy ạ…
-Đa-vla-chi-an đâu?-Cu-dơ-nét-xốp khẽ hỏi, vứt khẩu tiểu liên vào vách hầm như thể trút một gánh nặng trĩu đè lên mình và giật cổ áo ra, một lần nữa anh lai đưa găng tay lạnh cóng lên xoa cổ họng.-Trung úy Đa-vla-chi-an đâu?
-Ở đây, đồng chí trung úy ạ, trên sạp ấy, xin đồng chí đi lại đây,-có tiếng thì thào mời mọc từ trong bóng tối lờ mờ của căn hầm-Anh ấy còn sống… cứ hỏi anh luôn.
Chiến sĩ thông tin Xvi-a-tốp băng bó cho một người bị thương ở trên nền hầm-cổ và vai anh ta quấn băng-chùi tay vào áo bông, mỉm cười với Cu-dơ-nét-xốp một cách trong sáng, vui vẻ như trẻ con, y như thể Cu-dơ-nét-xốp đem theo sự êm dịu vào hầm ngầm. Cách nói và cách nhìn của Xvi-a-tốp thể hiện niềm vui không che giấu của một con người biết rằng mình thoát chết.
-Đồng chí trung úy, trung đội trưởng trung đội hai nằm ở đây.
Cu-dơ-nét-xốp bước ngang qua những người bị thương, lại gần những tấm sạp và trong bóng tối anh đã nhận ra Đa-vla-chi-an qua ánh mắt hừng hực khác thường lộ ra sau những giải băng trắng cuốn trên đầu.
-Gô-ga, còn sống chứ?-Cu-dơ-nét-xốp lên tiếng.-Thế là mình đã đến được với cậu đây, Gô-ga. Mình không thể đến được sớm hơn…
Toàn thân Đa-vla-chi-an đều bọc trong màu trắng kỳ lạ của bệnh viện: cả cái đầu lẫn hông đầu quấn băng to xụ, chân phủ áo choàng, còn dưới chân anh là chiếc mũ lông, chiếc túi bằng vải bạt được phát lúc thành lập đơn vị, bao súng rỗng với chiếc dây lưng, chiếc cặp lồng đựng nước tuyết.
-Cô-li-a,-Đa-vla-chi-an thều thào như gió thoảng.-Cậu đã đến đấy à? Cậu không biết mình vui mừng biết chừng nào khi thấy cậu đến, Cô-li-a ạ. Mình đã nhờ Dôi-a nói với cậu. Thậm chí mình còn viết mấy chữ!
Đôi mắt Đa-vla-chi-an mở to, đen láy, khô khan, ánh lên trên khuôn mặt trẻ thơ giờ đây nhỏ hẳn đi vì băng quấn xung quanh, đã mất đi màu rám nắng, vẻ linh hoạt đầy sinh khí quen thuộc; đôi môi khô vều lên vì mất máu thốt ra những lời nói đó. Nhưng trong giọng nói khác lạ của anh không còn cái trong sáng, cảm động như một hồi ức, không còn cái vẻ học trò, thời bình, trước chiến tranh, đã từng làm cho Cu-dơ-nét-xốp ngạc nhiên sửng sốt. Và chẳng biết để làm gì, có lẽ trong tiềm thức Cu-dơ-nét-xốp mong muốn được nghe cái giọng học trò êm ái trước đây của bạn, anh hỏi.
-Cậu cảm thấy dễ chịu hơn chứ, Gô-ga?
-Ừ, mình thấy dễ chịu hơn,-Đa-vla-chi-an vội vã thì thào, đầu hơi quay lại.-Bây giờ mình sẽ sống, mình tin chắc như vậy… Hiện nay chỉ đau thôi, cậu biết không! Cơn mê sảng quái quỷ đã chấm dứt. Nhưng chuyện vớ vấn ấy mà… Tiếc là mình không thể ngồi dậy được vì cái mảnh đạn khốn kiếp ấy!... Mình không thể tha thứ cho mình, mình thương anh em trong đơn vị. Mọi việc bắt đầu từ trận ném bom… Ở trên ấy thế nào Cô-li-a? Cậu hãy kể tất cả đi…
-Ổn cả, Gô-ga ạ. Trận đánh đã kết thúc. Đêm rồi. Cậu đừng nghĩ đến chuyện đó nữa. Mọi việc đã kết thúc.
-Đã kết thúc rồi ư… Cậu hạ được mấy xe tăng? Cậu hãy kể xem mọi việc xẩy ra như thế nào?
-Mình chẳng biết. Mình không đếm. Xe tăng địch nhiều lắm. Chúng tiến công mấy lần. Chúng rút về chỗ cái khẽ rồi lại bắt đầu…
-Tổn thất lớn hả? Đúng không? Cậu hãy nói thật đi. Mình van cậu… Cậu hãy kể lại mọi chuyện đi! Cố nhiên nếu cậu có thể nói được.
-Đúng, có tổn thất.
-Tại sao cậu lại trả lời thế? Cậu không muốn nói à?
-Không, Gô-ga ạ. Để sau… Mình chịu thôi. Mình mệt.
Trong hầm trở nên im lặng; những tiếng rên bật ra một cách dè dặt. Anh em thương binh chăm chú lắng nghe cuộc trò chuyện khe khẽ giữa hai đồng chí trung úy. Những ai còn sức nhổm người lên một tí thì cố căng mình ra để nắm bắt cho được những tiếng nói còn đôi chút hy vọng làm êm dịu lòng người phát ra từ đồng chí trung úy chưa bị thương chút nào vừa đi tới. Con người này có cái may mắn vẫn nói bằng cái giọng bình thường, vẫn đi lại, cảm thấy thân thể mình còn nguyên vẹn đã làm nảy sinh trong anh em niềm hy vọng được giải thoát khỏi đau khổ; bởi vì như thế có nghĩa là đơn vị vẫn còn sống, ở phía trên đó vẫn còn người. Họ chăm chú lắng nghe hai vị chỉ huy trung đội nhưng không ai nói xen vào, làm đứt quãng câu chuyện chỉ có những người bị thương nặng, bất tỉnh là vẫn rên đều đều trong các góc hầm.
-Họ chờ đợi điều gì đó ở mình,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ.-“Nhưng bản thân mình không biết một giờ nữa tình hình sẽ ra sao. Mình không biết khi nào có khả năng đưa tất cả bọn họ tới trạm quân y, mình không biết lúc này trạm quân y ở đâu”.
Còn Đa-vla-chi-an gần như điếc vì băng quấn quanh tai, có lẽ anh không cảm thấy không khí trong hầm trở nên trầm lắng một cách thận trọng; cặp mắt mở to yếu, lơ láo nhìn lên nóc hầm, nhìn vầng trán Cu-dơ-nét-xốp, tìm ánh mắt của anh và hỏi một cách ngượng ngùng xem anh nghĩ gì về mình: anh lên án, thương hại, thông cảm chăng? Rồi Đa-vla-chi-an bắt đầu nói một cách sôi nổi nhưng không rành mạch lắm:
-Cậu hiểu cho mình, Cô-li-a, lần thứ hai mình không gặp may… Mình là kẻ bất hạnh. Dạo ấy, ở Vô-rô-ne-giơ, mình đã mắc phải cái bệnh quái quỷ ấy còn bây giờ bị thương… Như thế là thế nào? Mình không gặp may, không gặp may! Ấy thế mà mình đã ước mơ được lao ra tiền tuyến, muốn hạ ít nhất là một chiếc xe tăng địch! Mình đã chẳng kịp làm được gì cả. Như cậu đấy, cậu không bị thương, cậu thực rất may mắn. Còn trung đội mình… bắt đầu từ trận ném bom… cậu có hiểu là vô nghĩa, vô nghĩa! Tại sao mình lại không gặp may? Tại sao mình lại xúi quẩy hở Cô-li-a?
Cu-dơ-nét-xốp im lặng. Qua cặp mắt ươn ướt, qua giọng nói của Đa-vla-chi-an, anh hiểu rằng cậu ta có vì sự bực tức của mình và anh lờ mờ cảm thấy rằng giữa họ có sự ngăn cách về tuổi tác. Họ vừa gắn bó với nhau, vừa khác biệt nhau vì những năm tháng dài vô tận… Đa-vla-chi-an đã ở lại đâu đó ở chỗ chân trời mềm mại, trong suốt, thú vị, đã ở lại trong cái dĩ vang trẻ con, thơ ngây trước đây-trong trường pháo binh. Không, cậu ta không được thấy cái chết của trắc thủ Ca-xư-mốp, cái chết của Xec-gu-nen-cốp lẫn sự hy sinh của anh em pháo thủ ở khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp ngay dưới xích xe tăng địch, cậu ta không được thấy cả tên tù binh Đức, anh chiến sĩ trinh sát trong hố bom cũng như Dôi-a nằm co quắp trong tuyết trên bãi đất thấp, có những vết máu lênh láng từ dưới sườn cô và khẩu “Van-te” mạ kền, nhỏ bé như một thứ đồ chơi nằm lăn lóc ở bên cạnh. Chỉ có một ngày một đêm thôi mà tưởng chừng như hai mươi năm vô tận đã ngăn cách họ và hạnh phúc của Đa-vla-chi-an lại là nỗi bất hạnh của Cu-dơ-nét-xốp bởi vì ký ức của anh đã không được giải thoát, nó giữ lại trong mình tất cả.
“Cậu ấy bảo: vô nghĩa ư? Vô nghĩa… Nhưng có thể là trong sự vô nghĩa của những gì đã xảy ra vẫn có ý nghĩa thì sao? Sự đời là như vậy đấy và Đa-vla-chi-an không biết tới điều đó. Không, không, không thể nào vô nghĩa được! Tại sao lúc ấy lại xảy ra những việc đó và để làm gì? Tại sao lúc ấy mình đã bắn và thấy ý nghĩa trong việc làm đó? Mình căm thù chúng, mình đã hạ, đã bắn cháy xe tăng địch và mình mong muốn cái ý nghĩa đó! Và khi bọn mình đến chỗ hố bom cũng thế. Đúng vậy, có ý nghĩa chứ, mình biết. Nhưng cái chết của Dôi-a là vô nghĩa, đó là sự vô nghĩa không thể có được! Tại sao lại như vậy? Vừa có ý nghĩa lại vừa vô nghĩa ư?... Đúng, sự đời là như vậy. Chẳng hiểu sao mình không thể nói điều đó với Đa-vla-chi-an được. Giá cậu ta trông thấy cô ấy nằm co quắp ở đó, trên bãi đất thấp, tay thu vào bụng!...”.
-Mình ghen tị với cậu đấy, Gô-ga ạ,-Cu-dơ-nét-xốp chật vật nói rồi đứng lên, miệng thoáng mỉm cười lặng lẽ, anh chẳng bao giờ mỉm cười như thế cả.-Có thể là cậu gặp may đấy… bởi chiến tranh chưa kết thúc kia mà, Gô-ga. Người ta sẽ điều trị cho cậu ở quân y rồi tất cả những chiếc xe tăng mà cậu mong ước…
Tại sao anh lại nói như vậy và an ủi Đa-vla-chi-an?
-Cậu bảo là mình gặp may à?-Đa-vla-chi-an la lên the thé như tiếng gà trống và ngọ nguậy mái đầu quấn băng.-Cậu nói như vậy để làm gì? Để làm gì hả? Thật là trớ trêu, trớ trêu đối với mình… Mình đã bắn được bốn lần!... Mình chẳng kịp làm được gì cả, mình không muốn sự may mắn kiểu đó! Cậu không hiểu mình, mình không muốn sự may mắn kiểu đó! Chẳng qua là cái số mình như thế!
-Mau chóng bình phục nhé, Gô-ga… Xin lỗi, mình phải về chỗ khẩu đội đây,-Cu-dơ-nét-xốp nói.-Mình sẽ còn ghé đến nữa. Mình hy vọng rằng tới sáng người ta sẽ chuyển tất cả đến trạm quân y. Chuyển tất cả mọi người!-Anh quả quyết nói thêm để đáp lại phần nào những ánh mắt buồn bã, sốt ruột của anh em thương binh từ các góc hầm hướng về anh, không làm gián đoạn câu chuyện của anh và sau khi nói xong anh dđ ra cửa hầm bởi vì anh không còn đủ lời để nói những câu khích lệ khác làm cho họ hy vọng.
-Cô-li-a,-Từ chỗ nằm Đa-vla-chi-an la lên, giọng cầu khẩn.-Mình mong đợi cậu. Rất mong đợi!... Cô-li-a, cậu hiểu cho nhé, có thể mong đợi đến phát điên lên đấy! Ít ra cũng mau chóng đưa bọn mình tới trạm quân y! Và Dôi-a, các cậu để Dôi-a đến chỗ bọn mình. Ở trận địa pháo đằng ấy có ai bị thương không?
-Mình sẽ ghé lại, Gô-ga ạ. Đúng thế, mình sẽ ghé lại… sau này.. bọn mình sẽ chuyển tất cả mọi người tới trạm quân y hễ có ô tô.
Xvi-a-tốp và Tri-bi-xốp đứng sát cạnh nhau gần cửa ra vào, chừng như một số phận giống nhau đã gắn chặt họ lại. Khuôn mặt trẻ trung không biết giấu giếm điều gì, tràn ngập niềm vui sướng của chiến sĩ thông tin Xvi-a-tốp, cái cổ ngẳng của anh ta vươn dài ra từ cổ áo bông, chẳng hiểu sao gợi nhớ tới Xec-gu-nen-cốp. Phải, mọi cái trong người Xvi-a-tốp đều toát ra niềm hy vọng không che giấu muốn được sống, đều nói lên rằng, lạy Chúa, anh ta chỉ bị thương nhẹ, vì vậy anh sẵn sàng vui lòng, xởi lởi chăm nom, săn sóc mọi người, băng bó cho họ và tận tâm hoàn thành bất kỳ mệnh lệnh gì của Cu-dơ-nét-xốp. Nhưng Cu-dơ-nét-xốp không phát ra mệnh lệnh nào cả, anh bước ra cửa hầm ngầm, dừng lại một lát trước cửa ra vào, như thể nhìn không rõ, anh đưa tay quờ quạng vách hầm, mò mẫm khẩu tiểu liên của mình rồi anh mở cánh cửa kêu cót két bước ra ngoài.
-Đồng chí trung úy…
Sau lưng anh lại có tiếng cửa cọt kẹt, tiếng bước chân của ai đó như tiếng chân chó đi trên tuyết.
-Gì thế? Bác đấy à, Tri-bi-xốp. Trong không khí trắng nhờ nhờ lúc rạng sáng, bóng dáng Tri-bi-xốp đi theo anh trông nhòe nhoẹt, không rõ. Ép cánh tay đeo băng trắng vào ngực, bác lảo đảo bước, khuôn mặt nhỏ lem luốc và cặp lông mày giật nảy lên như thể bác bị nỗi đau khổ hành hạ và không thể chịu đựng được, bác quyết định bộc lộ kín đáo nỗi đau khổ đó với Cu-dơ-nét-xốp ở chính chỗ này chứ không phải ở trong hầm.
-Gì thế hả bác Tri-bi-xốp? Bác muốn nói gì nào?
-Đồng chí trung úy… Vì Chúa, xin đồng chí hãy tha thứ cho tôi…-Tri-bi-xốp bắt đầu nói, giọng nghẹn ngào vì nước mắt… Tôi xấu hổ lắm… Tôi biết làm gì bây giờ? Đồng chí trung úy, nào tôi có muốn thế đâu. Chắc thượng sĩ đã nói lại tất cả cho đồng chí biết. Tôi đã sợ hãi, sợ hãi, lạy Chúa!...
Rồi bác túm lấy ống tay áo Cu-dơ-nét-xốp, ấp môi vào đó, khẽ giật nảy người lên.
-Bác sao thế? Bác thôi ngay đi!-Cu-dơ-nét-xốp nói và rút tay ra.-Bác hãy đi vào hầm ngầm và chăm sóc anh em thương binh. Đi đi, Tri-bi-xốp, đi đi…
-Tôi thật xấu hổ, xấu hổ. Tôi sẽ nhớ đồng chí suốt đời, đồng chí trung úy ạ. Hãy giết chết tôi đi, giết ngay tại chỗ cũng còn là nhẹ! Tôi đã không tự chủ được…
“Bác ấy làm sao thế nhỉ? Mong sao bác ấy đi nhanh nhanh lên cho!”.
-Bác về hầm ngầm đi. Đi đi, tôi đã bảo mà… bác sao thế?
Lại có tiếng bước chân, tiếng huýt lạo xạo ở liền bên cạnh. Cánh cửa cọt kẹt. Căn hầm ngầm yên tĩnh. Bờ sông yên tĩnh. Không một chỗ nào có tiếng súng. Gió tuyết nhảy nhót, xua những gợn trắng lăn tăn trên mặt sông đã đóng băng màu xanh nhợt nhạt với những lỗ hổng đen ngòm to tướng do bom đạn đào khoét, Cu-dơ-nét-xốp tưởng như anh nghe tiếng những mản băng nhọn sắc cọ sát vào nhau, vang lên tí tách như lúc ấy, lúc Dôi-a từ trong hầm của anh em pháo thủ gọi với theo anh và anh đã đưa tiễn cô trên bờ sông, không đi tới căn hầm ngầm.
Chao ôi, đêm tháng Chạp sao mà não ruột và hoang vắng giữa cảnh tĩnh mịch không một phát súng, trên dải bờ tuyết trắng không có bóng dáng một người lính, giữa cơn gió, tiếng băng tí tách, những cành liễu sần sùi, chọc thủng bóng tối trong bầu không khí bất động, xám xịt, chết lặng trước lúc rạng đông và anh cảm thấy khó thở trong cái giá lạnh kìm hãm vạn vật đó. Anh đứng đó, mắt nhắm lại, chúc tiểu liên xuống đất.
“Tại sao lúc đó cô ấy lại nói: “Anh hãy hôn tôi đi, như hôn em gái ấy. Anh có em gái chứ?”. Và mình đã trả lời như thế nào nhỉ? ”Tôi không có em gái!...”. Tại sao mình lại nói như vậy?.
Anh nghĩ như vậy và anh tưởng chừng như cô đang ở đâu đó cạnh đây, cô vẫn còn sống và đêm nay chẳng xảy ra chuyện gì cả, tất cả đều do anh tưởng tượng ra, cô sắp từ bóng tối nhô ra, chiếc dây lưng sĩ quan siết chặt hầu như đến gẫy eo lưng, vận áo choàng ngắn, cô ngước cặp mắt đen láy lên, sương giá trên lông mi lấp lánh, đôi môi và cặp lông mày lá liễu của cô khẽ rung lên vì nụ cười và cô khẽ thì thào: “Cu-dơ-nét-sích, anh và tôi nằm mê thấy tôi đã chết. Anh sẽ thương tôi chút ít chứ?”.
Nhưng xung quanh hoang vắng, im lìm chết lặng. Chân bị vấp, anh leo lên các bậc trổ trên dốc bờ sông, đi vào hào giao thông và đến cách chỗ khẩu pháo mấy mét anh bỗng chúi ngực xuống thành hào. Sau đó trong cơn tuyệt vọng ngây dại anh ép trán vào những chiếc bao tay sần sùi lạnh giá, có cái gì đó đăng đắng, nóng hổi dội lên trong họng anh, anh chau mày, nghiến răng lại. Lần đầu tiên trong đời anh đã khóc một cách đơn độc, một cái khóc tâm tình và tuyệt vọng. Và khi anh lau mặt, tuyết trên tay áo bông đã nóng rực lên vì nước mắt của anh.
Tuyết Bỏng Tuyết Bỏng - Yury Bondarev Tuyết Bỏng