This nice and subtle happiness of reading, this joy not chilled by age, this polite and unpunished vice, this selfish, serene life-long intoxication.

Logan Pearsall Smith

 
 
 
 
 
Tác giả: Yury Bondarev
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Горячий Снег
Dịch giả: Nguyễn Hải Hà
Biên tập: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 811 / 8
Cập nhật: 2017-05-19 13:24:54 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11
iếng động cơ gào rú mãnh liệt ở trên đầu, át hết mọi âm thanh trên mặt đất, rung lên, xói vào tai. Bầy máy bay đầu tiên đã thay đổi đội hình rõ rệt, vươn dài ra, xếp thành hình vòng tròn và Cu-dơ-nét-xốp trông thấy những trái hỏa tiễn của bọn Đức phụt ra những chùm ánh sáng xanh đỏ ở đằng sau những ngồi nhà trong làng. Rồi như để đáp lại, một trái hỏa tiễn phụt ra từ chiếc máy bay đi đầu, bùng lên đỏ lòe, để lại sau lưng một vệt khói, nhạt màu dần đi, rơi nhanh và tắt lụi trong không trung đang ửng hồng. Bọn Đức bắn pháo hiệu từ mặt đất và trên không xuống để xác định khu vực bỏ bom nhưng lúc này Cu-dơ-nét-xốp không còn phải tính toán xác định xem chúng sẽ bỏ bom ở đâu vì việc này đã rõ ràng. Những chiếc “Gioong-ke” lần lượt xếp thành một vòng tròn lớn, vòng quanh khu làng, toàn bộ khu bờ sông, các hào giao thông của bộ binh, các khẩu đội pháo ở bên cạnh,-tất cả các vị trí tiền tiêu của ta đã bị siết chặt trong cái vòng đai trên không trung đó, tưởng chừng như giờ đây không có thể nào thoát được ra khỏi vòng đai đó, trong khi ấy ở bờ sông bên kia thảo nguyên mênh mông đã sáng lóe lên dưới ánh mặt trời mới mọc, các điểm cao bình thản bắt nắng lúc sớm mai…
-Báo động!… Báo động!…-Người ta thét lên một cách vô nghĩa và đứt quãng trong đại đội và ở đâu đó mé dưới bờ sông.
Cu-dơ-nét-xốp đứng ở bên trái khẩu pháo, trong hào giao thông vùng với U-kha-nốp và Tri-bi-xốp, cái hào này chật chội đối với ba người. Họ cảm thấy đất rung lên ở dưới chân, tiếng gào rú của động cơ máy bay làm rung chuyển không trung, những mảnh đất cứng rơi lả tả từ thành công sự. Cu-dơ-nét-xốp nhìn thấy rất gần cặp mắt khiếp đảm đen như chì trên khuôn mặt lưỡi cày của Tri-bi-xốp đang ngẩng lên trời với vẻ nặng nề choáng váng, anh trông thấy sát cạnh mình cái cằm nghển lên, đôi mắt sáng hung dữ của U-kha-nốp đang đảo lia lịa đếm máy bay địch. Toàn thân anh co dúm lại thật chặt như trong một giấc mơ nặng nề khi người ta không thể nào nhúc nhắc rời khỏi chỗ trong khi có mối nguy cơ lớn lao, không tránh được đổ ập lên đầu. Chẳng hiểu sao anh sực nhớ tới chiếc cặp lồng đựng thứ nước thơm thơm lạnh buốt răng do Tri-bi-xốp lấy ở hố nước trên băng về và anh lại cảm thấy miệng khô cứng, khát đến cháy họng.
-Bốn mươi tám,-cuối cùng U-kha-nốp đã đếm được số máy bay địch, anh cảm thấy nhẹ nhõm và anh đưa đôi mắt trong sáng, chừng như không thông cảm nhìn Tri-bi-xốp, dùng vai khẽ hích vào bên vai đang co dúm của bác ta.-Sao run bần bật như cầy sấy thế bố già? Chẳng có cái gì khủng khiếp hơn cái chết đâu. Run rẩy như thế cũng chẳng ăn thua gì…
-Có phải tôi không biết đâu…-Tri-bi-xốp cố run rẩy mỉm cười.-Ấy thế nhưng… tự nhiên nó cứ run lên.. Giá như tôi có thể… tôi không thể trấn tĩnh được, cổ họng nghẹn lại…-Và bác chìa cổ họng ra.
-Bác cứ nghĩ là sẽ không có chuyện gì cả. Còn nếu như có xảy ra chuyện gì, thì cũng chả làm sao hết. Ngay cả sự đau đớn,-U-kha-nốp nói và không nhìn lên trời nữa, anh dùng răng rút găng tay ra, lấy túi đựng thuốc.-Làm một điếu, bác. Cho nó bình tĩnh lại. Tôi cũng hút cho bình tĩnh. Hút đi, trung úy. Sẽ cảm thấy dễ chịu hơn.
-Tôi không thích.-Cu-dơ-nét-xốp gạt túi thuốc ra.-Giá có cặp lồng nước… Tôi muốn uống.
-Chúng nó bay tới đay! Ngay trên đầu chúng mình!…
Tiếng la thét đó và cặp mắt ngây dại, nhớn nhác của Tri-bi-xốp khiến Cu-dơ-nét-xốp bất chợt ngẩng đầu lên. Tựa hồ như ngay lúc ấy hơi lửa từ trên trời phả thẳng vào mặt anh. Một vật gì đó rất to, lóe sáng với hình thập tự đen trắng trông khá rõ-Chả lẽ đó là chiếc “Gioong-ke” đi đầu?-Như thể đứng lại trong giây lát, chiếc máy bay khựng lại trong không trung rồi tàn bạo xòe những cái móng đen ngòm, tiếng gào rú như sắt nện trên sắt, nó lao hầu như thẳng đứng xuống dưới, lao thẳng vào tròng mắt Cu-dơ-nét-xốp, khối kim loại nặng hàng tấn đang lao nhanh xuống làm anh lóe mắt, nhìn từ dưới lên, chiếc máy bay bị chìm trong những tia nắng đỏ rực của vầng dương còn chưa nhô lên khỏi chân trời. Từ khối thép sáng lóe đang gào rú đó phụt ra những vật đen dài dài nặng nề rơi xuống mặt đất, tiếng rít chói tai át cả tiếng gào rú của chiếc “Gioong-ke”. Những quả bom rơi băng băng xuống mặt đất, vào các vị trí của khẩu đội, to dần lên rất rõ trước mắt mọi người, nặng nề đu đưa trong thinh không như những súc gỗ được bào nhẵn. Tiếp theo chiếc thứ nhất, chiếc “Gioong-ke” thứ hai tách ra khỏi vòng bay lao xuống phía bờ sông. Cu-dơ-nét-xốp thấy rùng mình ớn lạnh ở chỗ da bụng căng thẳng, anh tụt xuống chiến hào. U-kha-nốp vẫn theo dõi bom rơi, chốc chốc lại cúi đầu xuống như thể tránh những viên đá ném ra vung vãi.
-Nằm xuô-ống!-Cu-dơ-nét-xốp không nghe thấy tiếng rít kéo dài trong giọng nói của mình, anh chỉ cảm thấy mình đã dùng hết lực các ngón tay túm lấy tà áo choàng của U-kha-nốp kéo xuống.
U-kha-nốp ngã đè lên người anh, che khuất bầu trời và ngay lập tức một cơn bão lốc đen ngòm trùm lên chiến hào, giội hơi nóng từ phía trên xuống. Chiến hào ngả nghiêng, vặn vẹo, rung lên tưởng chừng như nó cất vó dựng đứng và chẳng hiểu sao nằm bên cạnh anh lại không phải là U-kha-nốp-bom nổ hất anh ra khỏi người Cu-dơ-nét-xốp-mà là khuôn mặt tái xám như đất với cặp mắt sững sờ của Tri-bi-xốp, miệng bác vẫn đang thều thào: “Chỉ mong sao nó đừng rơi vào đây, đừng rơi vào đây, lạy Chúa…”-và tựa hồ như từng sợi râu dựng đứng lên trên đôi má râu ria tua tủa của bác. Bác nằm lăn ra, hai cánh tay đè lên ngực Cu-dơ-nét-xốp, vai và lưng bác nép vào khoảng không gian chật hẹp không hề có giữa Cu-dơ-nét-xốp và vách hào đang đu đưa, bác rú lên cầu nguyện:
-Lũ con tôi!… Tôi còn có đàn con… Tôi không có quyền chết. Không!… Lũ con tôi!…
Cu-dơ-nét-xốp bị sặc vì mùi thuốc nổ giống như mùi hành tỏi, vì bị cánh tay Tri-bi-xốp đè nặng, anh muốn thoát ra, hớp không khí trong lành, thét lên: “Bác hãy im đi!”-nhưng hơi bom độc hại làm anh ho sặc sụa, cổ họng đau nhói. Anh chật vật gỡ tay Tri-bi-xốp ra, hất chúng khỏi ngực mình. Chiến hào ngập khói dày đặc, ngột ngạt, che lấp bầu trời. Bầu trời đen ngòm, đầy tiếng gào rú sôi sục, chỉ lờ mờ và thấp thoáng thấy thân hình những chiếc “Gioong-ke” nghiêng nghiêng, lóe sáng đang lao xuống: những chiếc móng đèn ngòm xiêu vẹo lăm lăm thò từ trên xuống qua làn khói, trong tiếng bom bổ ầm ầm, chiến hào vặn mình, cong lại, mảnh bom văng tứ tung gieo rắc cái chết, lớp lớp đất trộn với tuyết sụt lở ầm ầm.
“Sắp chấm dứt rồi,-Cu-dơ-nét-xốp tự nhủ, cảm thấy đất lạo xạo trong hàm răng, anh nhắm mắt lại, tưởng chừng như làm thế thời gian sẽ trôi qua nhanh hơn.-Còn mấy phút nữa thôi… Nhưng các khẩu pháo… các khẩu pháo thế nào nhỉ? Chúng được đưa tới đây để đánh giặc… Mảnh bom sẽ làm vỡ kính ngắm mất…”.
Anh hiểu rằng phải lập tức nhổm dậy, ngó xem các khẩu pháo thế nào, phải làm một việc gì đó ngay lúc này nhưng thân thể nặng trĩu của anh đã co dúm lại, bị ấn chặt vào lòng chiến hào, anh thấy đau ở ngực, ở tai, còn tiếng rú lồng lộn của máy bay, tiếng rít chát chúa của những mảnh bom trong bầu không khí nóng bỏng càng ngày càng đè mạnh anh xuống đáy chiến hào mong manh. Bị ám ảnh bởi ý nghĩ cần phải làm một việc gì đó, anh mở mắt ra và trông thấy gờ lũy công sự bị mảnh bom xén phẳng. Những hòm xam xám rơi trên vách hào, tung tóe xuống lòng chiến hào, lăn lông lốc trên chiếc lưng gù cong lên của bác Tri-bi-xốp đang nằm sấp mặt xuống.
Cu-dơ-nét-xốp biết rõ những hòn xám đó là cái gì nhưng không tài nào nhớ được tên gọi của chúng, nhớ được anh đã từng có lúc trông rõ thấy chúng ở đâu và ngay lúc ấy tiếng thét của U-kha-nốp vang lên qua những tiếng nổ ầm ầm: anh cũng nhìn vào lưng Tri-bi-xốp với vẻ chăm chú ngạc nhiên:
-Nhìn kìa trung úy, chúng nó ném bom làm cho chuột chạy loạn xạ! Hãy cứu lấy bác ấy! Nào!
Bàn tay hộ pháp của U-kha-nốp đeo chiếc bao tay xù xì chộp lấy những cục xam xám trên lưng Tri-bi-xốp bất chợt nhe răng giận dữ đó, rồi ném chúng ra khỏi chiến hào, vào đám khói mù mịt.
-Bác Tri-bi-xốp, nhúc nhắc người đi, lũ chuột nó ăn thịt bây giờ! Bố già không cảm thấy gì à?
-Kính ngắm!-Cu-dơ-nét-xốp thét to, không để ý tới Tri-bi-xốp và trong nháy mắt anh nghĩ rằng anh muốn và có thể ra lệnh cho U-kha-nốp-Anh có quyền làm như thế-Ra lệnh cho U-kha-nốp lên tháo kính ngắm, nghĩa là dùng quyền hành của trung đội trưởng bắt buộc anh ta phải nhảy ngay ra khỏi hầm dưới trận bom để chạy tới chỗ các khẩu pháo, còn bản thân mình thì ở lại trong chiến hào, nhưng anh không thể ra lệnh như thế được.
“Mình không có quyền,-anh nghĩ.-Làm như thế rồi mình sẽ chẳng bao giờ tha thứ được cho mình”.
Lúc này họ bình đẳng như nhau và mọi việc được đo bằng một cái duy nhất, lớn lao, dứt khoát, ngẫu nhiên và đơn giản: bằng một số nét gần hay xa, bằng sự tinh tường hay không của lũ giặc lái đang từ vòng bay gieo chết chóc lao xuống cả cái thế giới không được che đỡ, hoang vắng đến kỳ quái, không ánh mặt trời, không có con người, không có lòng tốt, không có lòng thương hại, cái thế giới đã bị thu hẹp hết mức trong khuôn khổ của một chiến hào đang bị bom đạn xô đẩy giữa ranh giới của cái sống và cái chết.
“Mình không có quyền làm như thế. Mình không có quyền! Đó là sự bất lực đáng khinh bỉ… Cần phải tháo kính ngắm ra! Mình sợ chết ư? Tại sao mình lại sợ chết? Một mảnh bom văng vào đầu chăng?… Không, mình sẽ vọt ra khỏi chiến hào ngay lúc này. Đrô-dơ-đốp-xki đâu?… U-kha-nốp biết rằng mình sắp ra lệnh… Để làm gì nhỉ? Kệ xác những chiếc kính ngắm đó! Mình không có đủ sức vọt ra khỏi chiến hào… Mình sẵn sàng ra lệnh, còn bản thân mình thì ngồi lì tại đây. Nếu mình vọt ra khỏi chiến hào, sẽ chẳng có cái gì che đỡ cho mình nữa. Và một mảnh bom nóng bỏng găm vài thái dương thì sao?… Thế là cái gì, điên à?”.
Tiếng sắt thép nổ chát chúa ở trên đầu làm cho chiến hào nghiêng vẹo đi, phả một làn khói đen ngòm xoáy tít vào mặt Cu-dơ-nét-xốp khiến anh lại ho sặc sụa, khói bom độc hại làm cho anh ngột ngạt.
Khi khói tan, U-kha-nốp lấy tay áo chùi đất khỏi môi, lắc lắc đầu. Những mảnh tuyết bẩn rơi lả tả từ mũ lông xuống. Anh lấy làm lạ, đưa mắt nhìn Cu-dơ-nét-xốp đang ho xù xụ và nhe chiếc răng thép sáng loáng, anh gào lên như thể cả hai người đều điếc:
-Trung úy!… Thở vào khăn tay ấy, sẽ thấy dễ chịu hơn.
“Đúng rồi, mình bị sặc hơi thuốc nổ. Mình quên và đã hớp phải nó vào mồm. Có mùi tỏi cháy khét và mùi sắt. Lần đầu tiên mình được ngửi thấy mùi này vào năm bốn mươi mốt. Và mình đã nhớ suốt đời… Cậu ấy nói cái gì nhỉ? Còn có thể có những chiếc khăn mùi soa nào nhỉ? Chỉ thấy ngực mình bị thắt lại, ho đến đau cả họng. Giá có tí nước, giá được hớp một ngụm nước lạnh…”.
-A-a! Vớ vẩn thật!-Cu-dơ-nét-xốp nén cơn ho, thét lên.-U-kha-nốp!… Cậu hãy nghe đây… Phải tháo kính ngắm ra! Kẻo không chúng đi đời nha ma mất! Chả biết đến bao giờ mới kết thúc?
-Tôi cũng nghĩ thế, trung úy ạ! Không có kính ngắm bọn mình sẽ trắng tay!…
U-kha-nốp ngồi trong lòng chiến hào, choãi chân ra, lấy bao tay đập đập lên mũ lông, đẩy mũ ngập sâu hơn xuống trán, anh tì tay vào lòng chiến hào định nhổm dậy, nhưng ngay lúc ấy Cu-dơ-nét-xốp ngăn anh lại:
-Dừng lại! Khoan đã! Hễ chúng dứt một đợt ném bom, chúng ta sẽ vọt ra, chạy tới chỗ khẩu pháo. Cậu chạy đến khẩu thứ nhất, mình đến khẩu thứ hai! Chúng mình sẽ tháo kính ngắm ra!… Cậu tháo ở khẩu thứ nhất, mình ở khẩu thứ hai! Rõ chưa, U-kha-nốp? Theo lệnh tôi, rõ chưa?-Và cố nén cơn ho, anh cũng choãi chân ra để dễ nhổm dậy hơn.
-Phải ra ngay, trung úy.-Cặp mắt sáng của U-kha-nốp từ dưới chiếc mũ đội sùm sụp trên trán nheo lại, nhìn lên trời.-Ra ngay…
Dựa theo tiếng những chiếc máy bay đã ngóc lên, cả hai người đều đồng thời cảm thấy rằng đã dứt một đợt bom. Khói nóng cuốn như cơn lốc từ sau bờ công sự. Sau khi lần lượt lao xuống cắt bom, những chiếc “Gioong-ke” ngóc lên phía trên bờ sông, lại xếp thành hình vòng tròn, như chiếc đu quay liên tục ở trên trời, cao hơn những đám khói đen đang cuồn cuộn bốc trên thảo nguyên. Ngôi làng ở cả hai phía bờ sông rừng rực như một đám cháy lớn, ngọn lửa loang ra khắp các đường ngõ, quay tròn, những mái nhà sụp xuống khiến tro và tàn than tung tóe lên những đám mây nóng bỏng, cửa kính vỡ nổ như súng bắn, mấy cái ô tô chưa kịp đưa xuống hầm trú ẩn, trúng mảnh bom bốc cháy ở ven làng. Xăng dầu bốc cháy và chảy lênh láng trên bờ dốc về phía sông. Làn khói dày đặc phủ trên trận địa của các khẩu đội, trên bờ sông, trên các hào giao thông của bộ binh như một bức màn tang.
Đứng trong hào, Cu-dơ-nét-xốp nhìn rõ tất cả, khi nghe tiếng động cơ đều đều của toán máy bay địch lại đang nhao từ đám khói xuống để ném bom, anh liền ra lệnh:
-U-kha-nốp!-Kịp đấy! Ta đi đi!… Cậu đến chỗ khẩu pháo thứ nhất. Mình đến khẩu thứ hai…
Cảm thấy thân mình nhẹ bỗng, anh vượt ra khỏi hào, nhảy qua bờ lũy công sự nơi đặt khẩu pháo thứ nhất, chạy băng băng trên đám tuyết đen ngòm vì hơi bom, trên khoảnh đất đầy những hố bom, lao tới khẩu pháo thứ hai, từ phía đó vọng tới tiếng thét của một người nào đó:
-Trung úy!… Lại đây với chúng tôi!
Toàn bộ hỏa điểm, các hốc trong thành công sự, các chiến hào đều bị khói dày đặc phủ kín, khắp nơi những hòn đất nóng bỏng bị hơi bom hất vung vãi, khắp nơi là tuyết đen sẫm và đất: trên tấm vải bạt phủ khẩu pháo, trên cò súng, trên những hòm đạn. Nhưng kính ngắm vẫn còn nguyên vẹn và Cu-dơ-nét-xốp vừa sặc sụa vì ho vừa đưa những ngón tay như phát sốt ra tháo kính, anh nhìn xuống các hào và thấy một mái đầu từ đó nhô lên như một cái bóng tròn trong khói rồi lại thụt xuống ngay.
-Ai đấy? Tru-ba-ri-cốp đấy à? Các anh còn sống cả chứ?
-Đồng chí trung úy, lại đây với chúng tôi!… Vọt lại chỗ chúng tôi đi!
Từ chiếc hào ở bên trái, đằng sau hốc đất đựng đạn, nhô ra một mái đầu đội chiếc mũ lông bám đầy đất, lệch hẳn về một bên tai. Mái đầu lắc lư trên cái cổ ngẳng như trên một thân cây, đôi mắt trố ra, ánh lên vẻ kích động, chào đón đó là người chỉ huy khẩu pháo thứ hai, hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp.
-Đồng chí trung úy, lại với chúng tôi đi! Có một cậu trinh sát ở chỗ chúng tôi!…
-Cái gì cơ?-Cu-dơ-nét-xốp thét to.-Tại sao các anh không tháo kính ngắm ra? Các anh tưởng có thể bắn không cần kính ngắm à?
-Đồng chí trung úy, cậu trinh sát bị thương. Cậu ấy đang nằm trong hào đây này! Cậu ấy từ đằng kia tới… Cậu ấy bị thương…
-Cậu trinh sát nào? Anh làm sao, bị chấn thương hở Tru-ba-ri-cốp?
-Không… Chỉ phải cái tai tôi bị ù như thể bị điếc ấy… Cơ mà cũng chả sao… Cậu trinh sát đã chạy đến chỗ chúng tôi!
-À! Trinh sát hả? Của sư đoàn chứ gì? Cậu ấy đâu?
Cu-dơ-nét-xốp nhìn lên trời-chiếc đu quay khổng lồ của đàn “Gioong-ke” lại siết thành những vòng tròn trên thảo nguyên. Anh nhảy qua cái hốc đất xuống hào, giúi kính ngắm vào ngực Tru-ba-ri-cốp. Anh này đưa hai tay đỡ lấy nó cặp lông mi đen nhánh như mực tàu nhấp nháy vì đà nhảy vọt đột ngột của Cu-dơ-nét-xốp, đoạn anh ta nhét kính ngắm vào bụng.
-Anh quên không nghĩ tới kính ngắm à, Tru-ba-ri-cốp? Cậu trinh sát đâu?
Trong chiến hào dài mấy người cố nép sát vào vách hào, chen chúc ngồi. Trắc thủ Ep-xtích-nê-ép, đám tóc bạc trắng ở thái dương và hai người mặc áo choàng bê bết đất sét đang vội vã hút lấy hút để những điếu thuốc lá to gộc. Các chiến sĩ coi ngựa Ru-bin và Xec-gu-nen-cốp không kịp ra chỗ để ngựa cũng trú ở đây. Cả hai người lầm lì cau có, căng thẳng nhìn về cùng một hướng. Họ nhìn về phía cuối hào nơi một thanh niên mặt nhợt nhạt trắng bệch nửa nằm nửa ngồi, anh mặc áo ngụy trang, không đội mũ lông, mái tóc quăn như người xư-gan rối bù lên, dính đầy đất và tuyết, đôi mắt co tròn lại trong cơn đau, gò má hẹp nhăn nhúm như những cái bướu. Cánh tay trái của chiếc áo ngụy trang và áo khoác của anh đẫm máu, người ta đã dùng dao cắt bỏ cánh tay áo đó sát tận vai, con dao cắm xuống đất gần chân anh. Miệng méo xệch, chàng thanh niên đưa những ngón tay xám ngắt, lấm máu vụng về quấn cuộn băng cá nhân vào chỗ gần vai rồi nghiến răng nói:
-Ôi, quân độc ác, quân độc ác!… Cho tôi gặp sư đoàn trưởng!… Cho tôi gặp đại tá…
-Hãy giúp đỡ cậu ấy, mau lên!-Cu-dơ-nét-xốp quát bảo Tru-ba-ri-cốp, anh này vẫn cứ lắc lắc mái đầu trên chiếc cổ ngẳng như thể anh ta định hất nước ở trong tai ra vậy.-Sao anh lại đứng đờ ra thế? Hãy băng bó lại cho cậu ấy đi!
-Cậu ấy không chịu,-chiến sĩ coi ngựa Ru-bin rầu rĩ lên tiếng, giụi điếu thuốc vào bãi nước bọt trong lòng bàn tay sần sùi rồi cất đầu mẩu thuốc lá vào điềm mũ lông.-Lính trinh sát đấy, chẳng cần ai giúp đâu! Kiêu ra phết! Đừng có mà đụng vào! Tay ấy la hét mọi người cứ như bị loạn thần kinh ấy… Trinh sa-át đấy!…
Xec-gu-nen-cốp bỗng cất tiếng nói rè rè, cặp mắt xanh thơ ngây của anh nhìn Cu-dơ-nét-xốp với vẻ ngạc nhiên và như muốn phân trần:
-Quanh đây đùng đùng náo động, lửa bùng khắo thảo nguyên… đất trời mờ mịt cả, đồng chí trung úy ạ. Còn cậu ta ấy mà, cậu ấy… đi như một người điên, người lắc lư, kêu thét gì đó… rồi ngã vật xuống… mình đẫm máu. Cậu ấy muốn gặp sư đoàn trưởng. Người của đội trinh sát đấy…
-Bọn mình là đồ ngốc hay sao mà đi tin vào lời nói. “Ở đội trinh sát đấy” thì làm quái gì!-Ru-bin nói, nhại lại Xec-gu-nen-cốp, ngoảnh khuôn mặt vuông chữ điền rám nắng của mình về phía anh trinh sát, anh này hình như không nghe được lời nào trong cuộc trò chuyện, vẫn cố gắng quấn cuộn băng bị tuột ra ở gần vai.-Phải kiểm tra giấy tờ của hắn thật nghiêm ngặt!… Chứ sao? Hắn có thể là người trong đội trinh sát của địch…
-Chuyện ngớ ngẩn! Cậu lảm nhảm cái gì thế hở Ru-bin?-Cu-dơ-nét-xốp cắt lời anh và lách mình qua nhưng người lính tới chỗ anh trinh sát, nói to:-Để tôi băng giúp cho!… Anh từ đâu tới? Anh trở về một mình à? Anh trinh sát định dùng răng siết chặt mảnh băng, giận dữ dứt băng khỏi chỗ gần vai, cặp mắt đen nhọn hoắt điên khùng xoáy vào khoảng không trên miệng hào, sùi bọt mép và mãi đến lúc này khi đã tới gần anh, Cu-dơ-nét-xốp mới nhận thấy những tia máu ri rỉ đã khô lại ở gần mang tai anh ta. Có lẽ anh ta bị chấn thương.
-Đừng đụng vào tôi! Xê ra, trung úy!-Anh trinh sát rên lên, hét to và nhe răng nói vội vã như bị sặc:-Đưa tôi tới gặp sư đoàn trưởng, anh hiểu không? Cho tôi gặp đại tá… Sao cứ nhìn tôi chằm chằm như nhìn đàn bà thế? Tôi thuộc đội trinh sát của sư đoàn, anh hiểu không? Hãy gọi điện… cho đại tá, trung úy! Sao các anh cứ nhìn tôi trừng trừng thế hở lũ khốn kiếp? Tôi mà ngất một cái là mọi tin tức đi tong! Tôi mà ngất!… Trung úy có hiểu không?-Và những gọt nước mắt đau đớn lăn ra từ cặp mắt hung dữ của anh.
Như người lên cơn thần kinh, anh ngả đầu ra đằng sau, dùng cánh tay lành rứt đứt cúc áo ở gần cỏ áo va rơi, áo bông ở trong áo ngụy trang, những ngón tay bê bết máu túm lấy xương quai xanh nhô ra sau cái áo may ô lính thủy đã sờn.
-Nhanh lên, nhanh lên! Chừng nào tôi còn tỉnh, hiểu không?… Hãy gọi điện cho đại tá, tôi là Ghê-oóc-ghi-ép. Hãy gọi điện nói là tôi cần nói chuyện với đồng chí ấy!
-Có lẽ phải đưa cậu ấy đi, đồng chí trung úy,-trắc thủ đứng tuổi Ep-xtích-nê-ép nói xen vào một cách hợp lý.
Cu-dơ-nét-xốp vẫn nhìn những ngón tay anh trinh sát đang túm chặt lấy xương quai xanh, giờ đây anh hiểu rõ rằng anh chàng lính thủy này là một chiến sĩ của đội trinh sát mà lúc rạng đông mọi người đã chờ đợi nhưng không thấy tăm hơi đâu.
-Có lẽ anh ấy bị thương ở đầu, mất máu nhiều,-hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp nói.-Làm thế nào nhỉ?… đưa anh ta về trung đoàn chứ, đồng chí trung úy? Có lẽ anh ta sẽ chết ở dọc đường…
-Chớ có gánh lấy hắn! Làm sao mà biết hắn ở đội trinh sát mới được chứ!..-Ru-bin xen vào bằng giọng thuốc lá, hằn học sau khi ục nhau một trận rồi hẵng… Lính thủy cơ đấy! Có lẽ lúc ở trên tàu chiến hắn ngốn toàn sô cô la với bánh mì trắng, còn bọn mình độc nốc canh bắp cải.. Lính trinh sát cơ đấy!…
-Ru-bin, hay là anh cõng anh ấy đi!-Cu-dơ-nét-xốp cắt ngang, nhìn sát vào khuôn mặt bè bè đỏ ửng của Ru-bin-Ai chỉ huy ở đây? Anh à, Ru-bin?
-Phải có đầu óc chứ, đồng chí trung úy…
-Có đầu óc như của anh chắc? Hay đầu óc của ai?-Cu-dơ-nét-xốp quát to và quay người về phía Tru-ba-ri-cốp:-Có liên lạc với Đrô-dơ-đốp-xki không? Điện thoại vẫn hoạt động chứ?
Tru-ba-ri-cốp chỉ hất đầu về phía vách hào ở đằng sau ra ý nói: có lẽ liên lạc ở phía đó.
-Băng bó cho anh ta, Tru-ba-ri-cốp đừng để anh ta giật băng đi! Tôi sẽ liên lạc với đài quan sát ngay bây giờ!…
-Khoan đã, đồng chí trung úy! Máy bay địch đang lao tới chỗ chúng ta! Đấy, chúng lại…-Xec-gu-nen-cốp hét to lên báo cho anh biết và bịt tai lại.
o0o
Khi đã nhảy lên vị trí đặt pháo Cu-dơ-nét-xốp ngước mắt nhìn lên trời. Chiếc đu quay khổng lồ của những chiếc “Gioong-ke” quay tròn trên phía bờ sông rồi chiếc đi đầu tách ra khỏi vòng lượn, phơi thân hình sáng lóe dưới vầng mặt trời bị che lấp, đâm bổ xuống các hào giao thông của bộ binh ở phía xa.
Khi Cu-dơ-nét-xốp nhảy xuống một chiếc hào nhỏ hẹp, nông choèn, bất tiện của bộ phận thông tin, anh lính giữ điện thoại Xvi-a-tốp đang ngồi, cúi đầu xuống máy, một tay giữ lấy ống nghe được buộc vào đầu anh ta bằng một chiếc dải nhỏ. Nép chặt mình trong chiếc hào nhỏ chật chội, Cu-dơ-nét-xốp buộc phải ép đầu gối mình sát vào đầu gối Xvi-a-tốp và bất chợt sự đụng chạm ngẫu nhiên đó khiến anh hoảng hốt: anh không hiểu được ngay là đầu gối mình hay đầu gối anh chiến sĩ thông tin đang run lên bần bật và anh cố hết sức nhích người về phía vách hào.
-Có liên lạc được với đài quan sát không? Đường dây không bị đứt chứ? Đưa ống nghe đây Xvi-a-tốp.
-Liên lạc được, đồng chí trung úy ạ. Chỉ có điều chẳng thấy ai…
Xvi-a-tốp ép chặt hai đầu gối vào nhau để khỏi run, ngẩng khuôn mặt choắt quê mùa, trăng trắng, bị giá lạnh làm cho nhăn nheo lại, kéo căng dải vải buộc ống nghe, tuy vậy anh ta vẫn không tháo dải vải ra, chỉ chìa ngón tay ra, chúi khuôn mặt choắt vào máy.
-Xe tăng!… Có ai đó trong tiểu đoàn thét to nhưng tiếng thét bị chìm lút trong tiếng gào rú ầm ầm của máy bay.
Đồng thời với tiếng thét đó, trận động đất do bom nổ rền lan theo bờ sông tới chỗ tiểu đoàn, tất cả rung lên, dựng đứng. Chiếc hào hẹp chao đảo hất tung Cu-dơ-nét-xốp khỏi mặt đất. Anh trông thấy thân hình với dấu thập ngoặc của những chiếc “Gioong-ke” lao dọc con sông giữa tiếng nổ ầm ầm ở phía dưới, lửa đạn súng máy của chúng lóe lên chói mắt. Máy bay địch xúm xụm lại bám chặt lấy bờ sông, bay dọc các hào giao thông của bộ binh xông thẳng đến các trận địa các khẩu đội. Một lát sau anh thấy đôi môi của Xvi-a-tốp thì thào gì đó trước mặt anh, đầu gối hắn run rẩy, mảnh vải quấn chân hắn tung ra một đầu lõng thõng bò như con rắn trong lòng chiến hào.
-Xe tăng! Xe tăng! Đôi môi đỏ chót của anh chiến sĩ thông tin thì thào.-Anh có nghe thấy không? Đã có lệnh.
Cu-dơ-nét-xốp muốn quát lên: “Anh hãy quấn lại giẻ quấn chân ngay!”-Và anh quay người lại để khỏi nhìn thấy cặp đầu gối run rẩy của hắn, nỗi sợ hãi không cưỡng lại được của hắn, như một cơn gió, nỗi khiếp sợ này nhói vào người anh như một căn bệnh khi nghe tiếng “xe tăng” vang lên ở đâu đó, anh cố chống lại, không để mình bị cuốn vào nỗi sợ hãi đó và nghĩ: “Chả có lẽ nào! Có người nhầm lẫn tưởng tượng ra… Xe tăng đâu nào? Ai la lên báo tin đó nhỉ? Mình sẽ ra khỏi hào ngay bây giờ… Mình muốn tự mình xác định cho rõ! Xe tăng đâu nào?”.
Nhưng anh không thể bò ra khỏi hào được: máy bay địch lần lượt bay nghiêng và thấp, ánh lửa mù mịt che khuất khoảng trời trên đầu họ, chúng lượn ngoằn ngoèo, loanh quanh, xả súng máy cỡ lớn xuống.
-Xvi-a-tốp!-Cu-dơ-nét-xốp quát to giữa những loạt đạn súng máy đùng đùng của địch và lay vai anh chiến sĩ thông tin đang gục giấu mặt trong đầu gối.-Bắt liên lạc với đài quan sát, với Đrô-dơ-đốp-xki! Ở đằng ấy ra sao? Nhanh lên!
Xvi-a-tốp ngẩng khuôn mặt choắt sững sờ, cặp mắt đảo lia lại, loay hoay vận hành chiếc máy điện thoại dã chiến, thổi vài ống nghe, gào lên: “Đài quan sát, đài quan sát đâu? Ồ, sao không thấy trả lời?… Nhưng tiếng gào rú nóng bỏng của một chiếc máy bay đang bổ nhào đã ép sát cả hai người xuống mặt đất, thân hình đồ sộ, tối thẫm của nó bay ở ngay phía trên cái hào nhỏ. Nó nã một tràng súng máy trên đầu họ, đất đá rơi rào rào vào vách hầm, vào máy điện thoại. Đồng thời một ý nghĩ hầu như đắc thắng lóe lên trong đầu Cu-dơ-nét-xốp vốn đang chờ đợi đạn địch xói vào lưng, vào đầu: “Trượt rồi, trượt rồi!”.
Bàn tay Xvi-a-tốp lật bật giũ những mảnh đất vụn khỏi máy, môi anh hé mở, liên tục thở phù phù vào ống nghe: “Đài quan sát… đài quan sát… Các đồng chí không làm sao chứ?” Và bống nhiên cặp mắt anh lác xệch và dại đi.
-Xe tă-ăng!-Có tiếng kêu hoảng hốt ở phía trên thành công sự.
Đôi môi Xvi-a-tốp thều thào mấy tiếng nhát ngừng:
-Đồng chí trung úy… đã tới bên máy. Liên lạc được rồi… Đrô-dơ-đốp-xki đang nghe. Mệnh lệnh: xe tăng, xe tăng địch đang tiến. Chuẩn bị chiến đấu!… Đồng chí, đồng chí!… Đại đội trưởng gọi!-Anh đưa tay giũ chiếc mũ lông nhàu nát, làm đứt sợi dây buộc ống nghe vào mái đầu trẻ thơ trong trắng của mình anh chìa cái ống nghe cùng với đoạn dây rợ lằng nhằng đó cho Cu-dơ-nét-xốp…
-Tôi nghe. Trung úy Cu-dơ-nét-xốp đang ở bên máy!
Qua ống nghe thấy rõ hơi thở hổn hển của Đrô-dơ-đốp-xki như sau một cuộc chạy đường dài, hơi thở đó như thể bật ra khỏi màng rung, nóng hổi xuyên vào lỗ tai:
-Cu-dơ-nét-xốp!… Xe tăng địch đang tiến thẳng tới đấy! Các khẩu pháo sẵn sàng chiến đấu! Có tổn thất không? Cu-dơ-nét-xốp!… Người và pháo thế nào?
-Cho tới lúc này tôi vẫn chưa thể nói chính xác được.
-Hiện nay anh ngồi ở đâu?… Anh có biết tình hình ở chỗ Đa-vla-chi-an không?
-Tôi đang ngồi ở chỗ cần phải ngồi, đồng chí đại đội trưởng,-ở gần các khẩu pháo,-Cu-dơ-nét-xốp đáp, làm đứt quãng hơi thở hổn hển đang réo trong màngrung.-Cho tới bây giờ chưa liên lạc được với Đa-vla-chi-an. Những chiếc “Gioong-ke” đang bay trên đầu.
-Bom địch rơi thẳng vào vị trí của Đa-vla-chi-an, phá hủy một khẩu pháo,-giọng của Đrô-dơ-đốp-xki rít lên.-Hai người chết. Năm người bị thương. Toàn bộ anh em pháo thủ ở khẩu thứ tư.
“Thế là bắt đầu rồi! Bắt đầu nhanh quá.-Đầu Cu-dơ-nét-xốp ong ong lên nóng ran.-Nghĩa là đơn vị của đơn vị đã bị tổn thất, mất bảy người. Và một khẩu pháo. Bắt đầu rồi!”.
-Những ai chết?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi, tuy anh chỉ biết mặt và họ tên anh em thuộc khẩu pháo thứ tư chứ không am hiểu cuộc sống của từng người trong bọn họ.
-Biết hay không cũng thế thôi!-giọng Đrô-dơ-đốp-xki ngạt đi trong ống nói.-Chuẩn bị chiến đấu, Cu-dơ-nét-xốp! Xe tăng địch đang tiến!
-Rõ,-Cu-dơ-nét-xốp nói.-Tôi muốn báo cáo anh một việc. Có một cậu trinh sát bị thương lần về được chỗ chúng tôi.
-Cậu trinh sát nào nữa thế?
-Cái cậu ở trong đội trinh sát mà người ta đã chờ đợi ấy. Cậu ta yêu cầu chuyển cậu ta tới ban tham mưu sư đoàn.
-Chuyển ngay lập tức!-Đrô-dơ-đốp-xki hét lên.-Đến chỗ đài quan sát của tôi!
Cu-dơ-nét-xốp ném ống nghe vào tay Xvi-a-tốp, vụt đứng dậy trong cái hào nhỏ, nhìn về bên tay phải nơi đặt các khẩu pháo của Đa-vla-chi-an. Một ô tô chờ đầy đạn bốc cháy ở đó, khói chùm kín bờ sông, che lấp các vị trí, tỏa ra sông, quyện vào ngọn lửa đám cháy các ngôi nhà ở ven làng. Đạn để trong xe nổ bùng bục, vọt lên trời thành hình vòng cung như những pháo hoa.
Chiếc đu quay gồm các máy bay địch đã chuyển chỗ, giờ đây đang quay tít ở phía sau, bên kia sông, những chiếc “Gioong-ke” đảo lên đảo xuống trên những con đường qua thảo nguyên ở đằng sau các điểm cao, sau khi bỏ bom, một bộ phận máy bay địch với tiếng gào mệt mỏi bay về phương trời phía Nam ánh nhe đồng thau, phía trên ngôi làng đang bốc cháy.
Và mặc dầu những chiếc “Gioong-ke” vẫn còn bỏ bom ở phía sau, và ở đó vẫn còn có người chết, Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy dễ chịu trong chốc lát, tựa hồ như anh đã thoát ra khỏi cái trạng thái u uất, bất lực và bị lăng nhục trái tự nhiên mà trong chiến tranh người ta gọi là sự đợi chờ cái chết.
Nhưng ngay giây phút đó anh trông thấy những trái hỏa tiễn màu đỏ và xanh lam vụt lên trên thảo nguyên ở phía trước và rơi xuống như những chiếc cầu vồng vào các đám cháy ở gần đó.
Toàn bộ cái chóp rộng và mặt dốc thoai thoải của bình nguyên trên khe ở phía trái ngôi làng bị phủ kín trong màn khói xanh lam, hòa lẫn vào nhau, động đậy, thay đổi đường nét rõ rệt vì sự chuyển động dày đặc và chậm rãi của những khối màu xám và vàng vàng gì đó ở phía ấy, chừng như những khối này hoàn toàn không nguy hiểm, chúng hòa thành một cái bóng khổng lồ trên tuyết, được ánh sáng ban mai của cái vầng mặt trời đã vươn khỏi chân trời trên thảo nguyên chiếu rọi lờ mờ qua sương mù.
Cu-dơ-nét-xốp hiểu rằng đó là xe tăng địch, tuy nhiên anh còn chưa cảm thấy thật sắc bén mối nguy cơ mới đó sau khi vừa trỉ qua đợt oanh kích của những hiếc “Gioong-ke” và còn chưa tin rằng có nguy cơ đó.
Cảm giác sắc nhọn về nguy cơ đó đến ngay trong giây phút sau: tiếng gào rú trầm trầm run rẩy, tiếng rung của rất nhiều động cơ đột nhiên vang lên, xuyên qua màn sương phủ trên những dải đất thấp và đã thấy rõ hơn đường nét của những khối hình vuông đó, của cái bóng đen lớn, sít chặt, hình tam giác kéo dài mà đỉnh xuyên vào làng, vào đỉnh của bình nguyên.
Cu-dơ-nét-xốp trông thấy những chiếc xe tăng đi đầu nặng nề lắc lư, những đám tuyết tả tơi vun vút bốc lên mù mịt, quay tròn quanh xích sắt của những chiếc đi ở bên cạnh đang phụt những tia lửa ra khỏi các ống xả.
-Về vị trí!-Cu-dơ-nét-xốp hét to ra lệnh bằng cái giọng hết sức vang mà anh thấy dường như đáng sợ, xa lạ, đanh thép đối với chính mình và với những người khác.-Chuẩn bị chiến đấu!…
Ở khắp mọi chỗ, những mái đầu nhô lên khỏi chiến hào, đụng đậy trên thành công sự. Rút chiếc kính ngắm ở bụng ra, hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp là người đầu tiên leo lên vị trí đặt pháo. Anh vươn cái cổ dài, đôi mắt trố ra, sợ sệt nhìn bầu trời bên kia sông nơi những chiếc “Gioong-ke” còn lại vẫn nã súng máy xuống những con đường ở phía sau trên thảo nguyên.
-Chuẩn bị chiến đấu!…
Tựa như được mệnh lệnh đó thúc đẩy, các chiến sĩ bắt đầu lao tới các khẩu pháo. Lúc này không ai có thể đánh giá đúng tình hình một cách thực tế, họ chỉ đưa tay máy móc lột vải bạt che pháo, mở các hốc để hòm đạn, gạt những mảnh đất do trận ném bom làm vung vãi, kéo các hòm đạn lại gần càng pháo đã giương ra.
Hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp tháo găng tay, các ngón tay nhanh nhẹn của anh lắp kính ngắm vào ổ, đưa mắt giục giã các pháo thủ đang loay hoay với những quả đạn. Trắc thủ Ep-xtích-nê-ép đã bắt đầu lau chùi cẩn thận và kiên nhẫn chỗ men đen ở kính ngắm, như thể giờ đây đó là việc cần thiết.
-Có chuẩn bị đạn phá không, đồng chí trung úy?-Có người từ trong hốc để đạn thét hỏi bằng giọng đứt quãng.-Có cần không? Hả? Đạn phá ấy mà?…
-Nhanh lên, nhanh lên!-Cu-dơ-nét-xốp giục giã, không để ý là anh đang đập găng tay nọ vào tay kia đến đau cả lòng bàn tay.-Để đạn phá lại đó! Chỉ đem đạn chống tăng ra thôi! Chỉ lấy đạn chống tăng thôi!
Lúc ấy anh nhìn thấy hai mái đầu từ chiến hào nhô lên, trông như một trở ngại đáng chán ngán. Đó là các chiến sĩ coi ngựa Xec-gu-nen-cốp và Ru-bin đang vươn thẳng mình trong hào, đứng nhìn cáo pháo thủ chứ không leo ra ngoài. Xec-gu-nen-cốp do dự, thở hổn hển để nén xúc động. Ru-bin ngước nhìn lên, cặp mắt nhỏ nặng trĩu trên khuôn mặt to bè màu hung.
-Gì thế?-Cu-dơ-nét-xốp vội bước về phía hào.-Cậu trinh sát thế nào rồi?
-Chúng tôi đã băng bó lại cho cậu ta.. có lẽ cậu ấy mất máu nhiều.-Cậu ấy đang hấp hối. Nằm lặng đi…
-Cậu ấy có hấp hối đâu! Tại sao cậu ấy lại hấp hối?-Ru-bin gầm lên với vẻ dửng dưng của con người chán ngán chuyện này.-Cậu ấy vẫn mê sảng, nói rằng hãy còn bảy người nữa ở lại đằng ấy, phía trước mặt bọn Đức. Những người yêng hùng đấy!… Thế mà cũng gọi là đi trinh sát. Thật nực cười.
Anh trinh sát vẫn nửa nằm nửa ngồi trong hào như trước, đầu gục xuống, mắt nhắm nghiền, tất cả chiếc áo ngụy trang dính đầy những vết máu sẫm màu, chỗ bả vai anh đã được băng bó lại.
-À này, hai anh nâng cậu trinh sát lên và đưa tới đài quan sát, chỗ Đrô-dơ-đốp-xki!-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh.-Ngay lập tức!
-Thế còn ngựa thế nào, đồng chí trung úy?-Xec-gu-nen-cốp kêu lên.-Chúng tôi phải đến với lũ ngựa… Khéo chúng bị bom cũng nên. Chúng đứng một mình ở đó…
-Nghĩa là xe tăng địch đang tiến à?-Ru-bin cau có hỏi.-Bây giờ người ta đem đến cho một con sáo! Thế mà cũng gọi là đội trinh sát!-Và anh đưa đôi vai vuông vức thô lỗ hích Xec-gu-nen-cốp.-Ngựa nghẽo gì! Im đi cho được việc. Cứ lải nhải mãi! Rồi người ta sẽ hỏi anh về ngựa ở thế giới bên kia, ở trên thiên đường, trước mặt Chúa!…
Cu-dơ-nét-xốp chưa kịp trả lời Ru-bin những điều anh nghĩ về số phận các chiến sĩ trinh sát, về sự hằn học của Ru-bin thì bất chợt thấy khuôn mặt của Tru-ba-ri-cốp hướng về anh, như có ý hy vọng tìm tòi gì đó. Rôì anh trông thấy các pháo thủ ấp mình vào càng pháo, cò pháo, những quả đạn xếp chật cứng vào đầu gối họ, những tấm lưng lom khom dưới lá chắn và trắc thủ đứng tuổi Ep-xtích-nê-ép đang hà hơi sưởi ấm các ngón tay đặt trên máy. Quang cảnh đó vừa có cái gì yếu đuối tội nghiệp trước khi bắn phát súng đầu tiên và đồng thời cũng thể hiện sự sẵn sàng hết mức chấp hành mệnh lệnh đầu tiên như sẵn sàng đón nhận số phận đang chuyển dịch từ từ về phía họ cùng với tiếng rú của xe tăng đang lăn trên thảo nguyên.
o0o
-Đồng chí trung úy! Tại sao chúng không bắn?… Tại sao chúng im lặng? Chúng đang tiến đến chỗ chúng ta!…
Tiếng động cơ ngày càng rộ to, vẻ mặt thăm dò của Tru-ba-ri-cốp cùng giọng nói của anh ta, tư thế trầm uất của anh em binh sĩ và mệnh lệnh phát hỏa sẵn sàng bật ra từ cổ họng khô cháy của anh-chỉ mong sao không phải chờ đợi lâu!-cơn ớn lạnh ở sống lưng, cơn khát nước lại haàn hạ anh-tất cả những cái đó tựa hồ siết chặt lấy ngực Cu-dơ-nét-xốp và anh ráng sức thét bảo Tru-ba-ri-cốp:
-Chớ có hấp tấp!… Chỉ bắt đầu nổ súng khi đã ngắm bắn cố định! Thước ngắm cố định, anh có nghe rõ không?… Phải chờ đợi! Anh có nghe rõ không? Chờ đợi!…
Vừa lúc ấy toàn bộ khoảng không gian ở phía bên trái ngôi làng đang rực cháy đã mù mịt khói dày đặc, đen sẫm lại vì mũi nhọn của khối xe tăng khổng lồ hình tam giác thọc tới. Những khối vuông màu xám vàng vàng thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, tháp pháo xe tăng lắc lư trên làn khói. Xích xe tăng cuốn tuyết bay mù mịt như bão trên thảo nguyên, tốc độc xe đi như cơn lốc, những tia lửa bay tới tấp. Tiếng sắt thép va nhau ken két, nóng bỏng, nhích dần lại và giờ đây đã nhìn thấy rõ hơn những nòng pháo xe tăng lắc lư, những vết tuyết bám trên bỏ xe.
Nhưng lạ một cái là bọn địch ngồi sau kính ngắm trong những chiếc xe tăng đang tiến lại gần họ vẫn kiên trì chờ đợi, không nổ súng, tin chắc vào sức tiến công của chúng, buộc các khẩu đội của ta phải lộ mình trước tiên.
Một quả pháo hiệu đỏ bất ngờ vọt lên từ khối xe tăng đang ầm ầm lăn đi đó và khối xe tăng hình tam giác bắt đần tản ra thành đội hình chữ chi ngoằn ngèo. Đèn pha như những mắt chó sói xuyên thủng màn sương lóe lên rồi tắt ngấm.
-Tại sao chúng lại bật đèn pha nhỉ?-Tru-ba-ri-cốp hỏi, quay khuôn mặt ngơ ngác lại. Chúng muốn khiêu chiến à? Để làm gì cơ chứ?…
-Lũ chó sói,-trắc thủ Ep-xtích-nê-ép nói nhẹ như hơi thở, anh đang quỳ trước kính ngắm.-Hệt như một bầy thú đang vây lùng chúng ta!…
Cu-dơ-nét-xốp nhìn vào ống nhòm: khói của các đám cháy từ trong làng tỏa ra thảo nguyên, lay động một cách kỳ lạ, tàn nhang nhấp nháy man rợ như những tròng mắt đỏ; tiếng gào rú rung chuyển của động cơ; đèn pha tắt rồi lại bật, những cái bóng thấp và rộng thấp thoáng giữa màn sương xuệch xoạc, di động dưới làn khói về phía các hào giao thông của đội cảnh giới chiến đấu. Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy căng thẳng đến nỗi các cơ bắp cứng đờ ra, anh hối hả muốn nổ súng mau mau, chỉ cốt sao không phải chờ đợi, không phải ngồi đếm những giây phút ngắn ngủi chết người này, miễn là làm một việc gì đó!
-Đồng chí trung úy!…-Tru-ba-ri-cốp không chịu đựng được nữa, anh trườn sấp trên thành công sự tránh những cặp mắt rực lửa đang bò tới, lại quay khuôn mặt trẻ trung dươờn như lạnh cóng của mình lại, đầu anh lúc lắc trên chiếc cổ mảnh khảnh.-Chín trăm mét… đồng chí trung úy… ta vẫn cứ đợi à?…
-Tôi chưa thấy rõ xe tăng, hạ sĩ ạ! Khói che mắt tôi…-Ep-xtích-nê-ép la lên, rời kính ngắm.
-Còn phải chờ địch tiến gần thêm hai trăm mét nữa.-Cu-dơ-nét-xốp đáp bằng giọng khản đặc, tự thuyết phục mình rằng dù thế nào cũng phải chờ đợi, không nổ súng vội và đồng thời anh ngạc nhiên trước sự ước đoán chính xác của cặp mắt Tru-ba-ri-cốp.
-Đồng chí trung úy! Đại đội trưởng gọi đồng chí… Đồng chí ấy hỏi: tại sao không nổ súng? Có chuyện gì xảy ra vậy? Tại sao không nổ súng?
Chiến sĩ thông tin Xvi-a-tốp nhổm mình lên, nhô người ra khỏi hào của mình, chiếc mũ lông lắt lẻo trên mái đầu trắng, bị vướng chiếc dải buộc vào ống nghe. Anh đưa bao tay lên bịt một tai lại và như thể dùng mồm hớp lấy mệnh lệnh truyền qua điện thoại rồi ngâm nga nhắc lại:
-Lệnh nổ súng! Lệnh nổ súng!
“Không, hãy đợi đã. Còn phải chờ đợi! Ở đằng ấy, cậu ấy không trông thấy gì hay sao? Cậu ấy không biết thế nào là những phát bắn đầu tiên à?… Chúng ta phơi mình ra ngay-và thế là hết!”
-Đưa đây, để tôi nói, Xvi-a-tốp!-Cu-dơ-nét-xốp lao mình về phía hào thông tin, dứt chiếc ống nghe khỏi vành tai đỏ ửng của anh chiến sĩ thông tin, sau khi nghe những mệnh lệnh nóng hổi bật lên từ màng rung, anh hét to:-Bắn vào đâu? Vào đám khói à? Bộc lộ vị trí của trung đoàn trước hay sao?
-Anh có trông thấy xe tăng không, trung úy Cu-dơ-nét-xốp? Hay là anh không trông thấy?-Đrô-dơ-đốp-xki đùng đùng nổi cáu trong ống nghe.-Bắn! Tôi ra lệnh: bắn!… Ngay lập tức! Bắn!
-Ở đây tôi nhìn rõ hơn!-Cu-dơ-nét-xốp khẽ trả lời rồi ném ống nghe vào tay Xvi-a-tốp.
Anh ném ống nghe cho Xvi-a-tốp và lại nghĩ như trước đây: “Nếu chúng mình không kiên nhẫn chờ đợi và bộc lộ vị trí của đại đội trước thì địch sẽ nghiền nát chúng mình ở đây”,-anh vừa mới nghĩ thế thì ở phía bên phải tiểu đoàn không khí bị xé tung ra vì quầng sáng và tiếng ầm ầm. Quả đạn trái phá lao vút đi trên thảo nguyên rồi đâm bổ xuống đất, lụi đi trong ánh đèn nhấp nháy như mắt cho sói ở phía trước. Đó là phát đạn của một khẩu đại bác ở chỗ Đa-vla-chi-an. Và lập tức ở phía bên phải, nơi ta vừa bắn, vang lên phát đạn bắn trả của xe tăng địch. Những ánh lửa đỏ khè của xe tăng địch nảy xóc lên xuyên thủng màn sương lễnh loãng trước mặt tiểu đoàn, bóng dáng nặng nề của một vài chiếc đã trườn ra khỏi làn khói. Đèn pha của chúng nhấp nháy một cách hung ác, quay về phía các hỏa điểm của Đa-vla-chi-an và khẩu pháo để ở chỗ xa nhất của anh chìm lút ngay vào những tiếng nổ ầm ầm sôi sục, mịt mù lửa khói.
-Đồng chí trung úy… Hình như trung đội hai đã nổ súng!…-Có tiếng người thét to từ một chiến hào.
“Sao cậu ấy nổ súng sớm thế nhỉ,-Cu-dơ-nét-xốp tức giận khi anh trông thấy những chiếc xe tăng ấy xông ngay tới chỗ tiếp giáp giữa các khẩu pháo của anh và trung đội Đa-vla-chi-an, tuy nhiên anh vẫn không tin rằng địch lại có thể tiêu diệt được hết mọi người ở chỗ đó nhanh đến thế. Trong khoảnh khắc anh hình dung ra các pháo thủ nằm ép sát xuống đất ở chân bờ công sự dưới ngọn lửa và những mảnh đạn đang văng ở trên đầu và bỗng nhiên anh nghe thấy giọng nói chói tai của mình:
-Nhằm vào những chiếc xe tăng phía bên phải… ngắm chiếc đi đầu… thước ngắm mười hai, đạn chống tăng…-Trong giấy phút ngắn ngủi đó anh khó chịu cảm thấy mình không kiên trì được, đã hô “bắn”, khiến đơn vị phơi mình ra trước địch, anh hiểu rằng anh đã không chờ được cho địch đến gần hơn nữa, rằng giờ đây anh đã bộc lộ trước vị trí các khẩu pháo của mình trước xe tăng địch, nhưng bây giờ anh không có quyền chờ đợi nữa. Và Cu-dơ-nét-xốp lấy hơi hô lên tiếng cuối cùng trong mệnh lệnh:-Ba-ắn!…
Sóng của quả đạn giội vào tai anh đau nhói nóng bỏng.
Anh không nhìn rõ đường đi chính xác quả đạn của mình. Quả đạn lóe lên như một tia lửa màu tím rồi tắt lụi trong đám xe tăng xám xịt đang ngọ nguậy như những con nhện lớn bám lấy nhau. Không thể căn cứ vào quả đạn đó để hiệu chỉnh chính xác được, anh vội vã hô lệnh mới vì biết rõ rằng chậm trễ tức là chết. Và khi quả đạn thứ hai lao đi, xoát vào đám khói nóng bỏng, mọi vật ở phía trước bỗng cùng một lúc nhấp nháy, lóe sáng dữ dội và những quả đạn khác bùng lên tới tấp hỗn loạn. Tiếp theo sau Cu-dơ-nét-xốp và gần như cùng một lúc với anh, các khẩu đội bên cạnh từ toàn tuyến bờ sông đều nhả đạn, không trung vang ầm, vỡ ra, xoáy tít và vụn nát. Những đường đạn chống tăng lao đi và mất hút giữa những chớp lửa đùng đùng đỏ lòe của pháo xe tăng địch bắn trả.
Với niềm vui điên cuồng vì đã thoát khỏi cảnh cô độc, với cổ họng bỏng rát vì hô mệnh lệnh, Cu-dơ-nét-xốp chỉ nghe thấy những phát súng bắn từ các khẩu pháo của mình chứ không nghe thấy những tiếng nổ gần ở sau bờ công sự. Gió nóng quất vào mặt anh. Cùng với những chấn động nóng bỏng đó, mảnh đạn rít viu víu ở trên đầu. Anh chỉ vừa kịp cúi mình xuống: hai miệng phễu đen ngòm, bốc khói cách lá chắn của khẩu pháo hai mét, toàn bộ anh em pháo thủ nằm nhoài ra, úp mặt xuống đất, lưng họ rung lên sau mỗi tiếng nổ ở ngoài bờ công sự. Chỉ có một mình trắc thủ Ep-xtích-nê-ép không có quyền rời bỏ kính ngắm, anh quỳ lom khom trước lá chắn, đưa thái dương tóc lốm đốm bạc lên cọ một cách kỳ quặc vào mắt kính ngắm còn tay anh cứng đờ ra nắm chặt lấy bộ phận xoay kính ngắm. Anh liếc cặp mắt rực lửa nhìn anh em pháo thủ đang nằm như có ý muốn dùng mắt để thét hỏi một điều gì đó.
-Hạ sĩ…
Hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp nhô đầu ra khỏi hầm chỉ huy, vọt ra ngoài, khom người lại làm đất rơi lả tả, chiếc ống nhòm đeo lủng lẳng trên ngực, anh khuỵu xuống gần chỗ khẩu pháo, bò lại phía Ep-xtích-nê-ép, lay vai anh ta y như định đánh thức anh ta vậy.
-Ep-xtích-nê-ép, Ep-xtích-nê-ép!
-Ù tai à?-Cu-dơ-nét-xốp hét to, anh bò lại phía trắc thủ.-Sao thế, Ep-xtích-nê-ép? Anh có ngắm được không?
-Được, tôi ngắm được…-Ep-xtích-nê-ép thốt lên một cách chật vật, lắc lắc mái đầu.-Tai tôi ù đặc rồi. Anh hãy ra lệnh to lên, thật to!… Rồi anh đưa tay áo lên lau tia máu đỏ từ tai rỉ ra và không nhìn vết máu, anh lại dán mắt vào kính ngắm.
-Đứng dậy! Tất cả lại bên pháo!-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh, giọng sốt ruột giận dữ, sẵn sàng dùng tay đẩt các chiến sĩ đến cạnh khẩu pháo, cảm thấy có cái gì nhoi nhói, ngột ngạt ở cổ họng.-Tất cả đứng dậy! Đứng dậy!… Tới bên pháo!… Tất cả đến bên pháo!… Nạp đạn!…
Đội hình khổng lồ của xe tăng địch nhô ra, chuyển dịch trên toàn mặt trận tới tuyến phòng ngự của ta từ phía bên phải vây bọc rìa làng đang cháy rực. Những cái đèn pha vẫn nhấp nháy giữa làn khói như trước đây. Những đường đạn trái phá tóe lửa đan chéo nhau, chụm lại và tỏa ra như những hình chóp nón, vấp phải những ánh lửa dồn dập, gay gắt của xe tăng địch bắn trả.
Giữa tiếng đại bác bổ vang trời, tiếng súng chống tăng ở các chiến hào bộ binh vang lên ùng ục, khô khan, yếu ớt. Ở phía bên trái, xe tăng địch đã vượt qua được cái khe, tiến về phía bờ sông, bò trên hào giao thông của đội cảnh giới chiến đấu. Các khẩu đội ở bên cạnh và các khẩu đội bố trí ở bên kia sông đã linh hoạt bắn chặn địch. Còn có thể thấy rõ ở phía trước, đằng sau làng, các tốp máy bay tiêm kích của ta lặng lẽ bay trong bầu trời mờ mịt khói, từ trên không tiến công vào lớp xe tăng thứ hai của địch lúc này còn chưa trông rõ. Nhưng những gì không xảy ra ngay trước mặt tiểu đoàn chỉ được phản ánh vào ý thức lúc này như một mối nguy hiểm xa xôi. Tốp xe tăng thứ nhất vận động theo đường chữ chi, tạo thành hình vòng cung bao vây trận địa phòng ngự ở bờ sông, giờ đây đèn pha của chúng rọi thẳng vào mắt, vào các khẩu pháo. Và Cu-dơ-nét-xốp đã phân biệt được rất rõ trong làn khói những thân hình xam xáp của tốp xe tăng đi đầu, anh thét to khẩu lệnh cho anh pháo thủ đang lao tới bên pháo, và sau khi phát đạn được bắn đi, anh lập tức thấy ngay trong ống kính ngắm là đường đạn đi thấp hơn khối xe tăng đang ầm ầm từ sương mù xông ra.
-Cao hơn! Nhanh lên, Ep-xtích-nê-ép! Cao hơn! Bắn!
Tuy nhiên anh chẳng cần phải giục giã mọi người. Anh đã thấy những quả đạn trái phá thấp thoáng ở phía trên ổ cò súng, những bàn tay đang kéo tay xoay cò súng về phía sau, những thân hình với tiếng khụt khịt và hự hự nằm đè lên càng súng lúc súng giật. Hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp tiếp nhận và nhắc lại mệnh lệnh, anh quỳ bên Ep-xtích-nê-ép đang không rời mắt khỏi kính ngắm.
-Ba quả đạn… bắn nhanh!…-Cu-dơ-nét-xốp thét lên trong niềm hân hoan hung dữ, trong sự gắn bó say sưa, mãnh liệt với anh em pháo thủ, như thể trên đời này không có cái gì có thể gắn bó họ lại với nhau một cách thân thiết như vậy.
Trong giấy phút đó anh tưởng như chiếc xe tăng đi đầu, tháp pháo cắt ngang làn khói, đang đi bỗng nhiên vấp phải cái gì đó, động cơ của nó điên cuồng rú lên, nó quay đi quay lại tại chỗ tựa hồ như một mũi khoan cùn khổng lồ đang khoan xuống đất vậy.
-Trúng xích xe tăng rồi!…-Tru-ba-ri-cốp ngạc nhiên, vui sướng hét lên, đầu lắc lư trên chiếc cổ dài ngoẵng và anh vỗ bao tay vào sườn bồm bộp như kiểu các bà.-Đồng chí trung úy!
-Bốn quả đạn, bắn nhanh!-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh trong trạng thái ngây ngất, anh nghe nhưng không hiểu Tru-ba-ri-cốp nói gì và anh chỉ nhìn thấy những chiếc vỏ đạn bốc khói vọt ra từ ổ đạn, sau mỗi lần bắn anh em pháo thủ lại đè người lên càng pháo nảy chồm chồm khi súng giật.
Còn chiếc xe tăng vẫn cứ quay tại chỗ, dải xích đứt bật phăng ra. Tháp của nó cũng quay, giật mạnh nòng pháo dài nhằm về phía hỏa điểm của ta. Nòng súng của nó khạc ra ngọn lửa tạt nghiêng và đồng thời với tiếng nổ, với tiếng rít nóng bỏng của những mảnh đạn trái phá, một khối lửa sáng chói trùm lên vỏ xe tăng. Tiếp đó ngọn lửa trườn đi như những con rắn nhanh nhẹn. Và cũng với vẻ say sưa cuồng nhiệt, hân hoan và căm thù như thế, Cu-dơ-nét-xốp thét lên:
-Ep-xtích-nê-ép!… Cậu cừ quá! Hoan hô!... Cừ quá!…
Chiếc xe tăng mù quáng giật nhanh về phía trước và nghiêng sang một bên, nó rùng mình như một sinh vật bị ngọn lửa thiêu đốt ruột gan, rồi khựng lại, phơi cái sườn màu vàng có vẽ cây thập tự trắng ra trước họng súng của anh. Trong khoảnh khắc đó chiến trường đầy ắp xe tăng địch đang xông lên tiến công, tiếng súng bắn của các khẩu đội bên cạnh-tất cả dường như đã lùi xa, biến mất, tất cả đều hòa vào một điểm, đều chỉ chụm lại trên chiếc xe tăng đi đầu và khẩu pháo của anh nã không ngừng vào sườn xe hãy còn sống đó có vẽ cây thập tự trắng, tưởng như nã vào một con nhện khổng lồ, gây nguy hiểm chết người từ hành tinh khác tới.
Cu-dơ-nét-xốp chỉ ngừng bắn khi chiếc xe tăng thứ hai ngoi ra từ làn khói, trong mấy giây trông to hẳn lên, nó tắt đèn pha, nấp sau chiếc xe tăng đi đầu đang bốc khói mù mịt, ngoặt sang phải, sang trái để tránh đạn của ta nhưng Cu-dơ-nét-xốp đã kịp bắn nó trước.
-Đạn chống tăng, nhằm vào chiếc thứ hai!…
Phát đạn xe tăng địch bắn trả gầm lên xé tung mặt đất phía trước bờ công cự. Sợ rằng xe tăng địch đã ở gần khẩu pháo của mình quá, Cu-dơ-nét-xốp bổ nhoài trên mặt bằng, bò về phía anh em pháo thủ đang nằm trong khói đạn mịt mù tỏa từ bờ công sự xuống, anh không nhận ra được ngay những khuôn mặt ám khói đen kịt quay lại phía anh, sững sờ sợ hãi chờ đợi phát đạn thứ hai của xe tăng địch, anh trông thấy Ep-xtích-nê-ép đang lảo đảo rời kính ngắm, vội phều phào, giọng khản đặc:
-Ngắm bắn đi! Không được chờ đợi!… Ep-xtích-nê-ép! Tru-ba-ri-cốp!…
Hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp nằm nghiêng trên bờ sông sự, đưa hai tay giụi mi mắt, bối rối nhắc lại:
-Tôi nhìn không rõ nữa… Cát bay vào mắt. Tí nữa tôi sẽ…
Phát đạn thứ hai của xe tăng làm cho những mảnh đất đá bay rào rào, mảnh đạn văng vào lá chắn và Cu-dơ-nét-xốp bị nghẹt thở vì khói súng gây buồn nôn cuồn cuộn bốc lên, anh đứt hơi, bò trên bờ công sự để quan sát xe tăng địch nhưng chỉ vừa ngó thấy nó thì một ý nghĩ xuyên vào anh như một dòng điện nóng bỏng: “Thế là hết! Bây giờ mọi việc sẽ kết thúc… Chả lẽ bây giờ ư?”.
-Ep-xtích-nê-ép, bắn! Bắn!
Anh em pháo thủ mặt đen bóng như mỡ tất bật vừa nằm vừa nạp đạn trong khói súng mịt mù, đè người lên càng pháo. Tưởng chừng như đôi bàn tay to bè đỏ lựng của Ep-xtích-nê-ép, đang dán chặt một mắt vào kính ngắm, đã bị tê cóng trên tay quay, thôi không cử động nữa. Cái mũ lông cản trở anh. Anh vẫn cứ ngọ nguậy và sau cùng đã dùng gờ cao su của kính ngắm hất được nó xuống. Cái mũ lông tuột khỏi mái đầu đẫm mồ hôi của anh, lăn trên lưng, rơi xuống. Ep-xtích-nê-ép lom khom quỳ xuống, hơi nước bốc ra từ cái gáy rộng mềm mại, từ mái tóc bết lại của anh. Rồi vai động đậy. Tay phải anh chới với trên không, mò mẫm tìm cò súng. Bàn tay nhúc nhích chậm chạp lạ thường. Nó khoan khoái chậm rãi tìm cò súng tựa hồ như không có trận chiến đấu, không có xe tăng địch và chỉ cần mò mẫm vuốt ve, tin chắc rằng chiếc cò đó hãy còn.
-Ep-xtích-nê-ép!… Hai quả đạn!… Bắn!
Những tràng súng máy cắm phầm phập vào bờ công sự làm đất bắn tung lên lá chắn. Tiếng gào rú lộng óc của động cơ ở ngay trên đầu hòa lẫn với tiếng xả hơi phùn phụt, tiếng sắt thép nghiến ken két dội vào ngực, vào tai, vào mắt, đè ép mọi người xuống đất, không thể ngóc đầu lên được. Trong nháy mắt Cu-dơ-nét-xốp hình dung ngay ra quang cảnh: thế là bây giờ xe tăng địch sẽ hùng hổ, tàn bạo xông vào vị trí khẩu pháo của anh, xích sắt của nó như những cái cẳng thép chà nát bờ công sự và sẽ không có ai kịp bò đi, bỏ chạy, la hét… “Mình làm sao thế nhỉ? Đứng dậy, đứng dậy, đứng dậy”.
-Ep-xtích-nê-ép, hai quả đạn, bắn!…
Hai phát đạn vọt liền ra một lúc, tiếng nổ đập dữ dội vào màng nhĩ, những cái vỏ đạn bốc khói bay từ ổ nạp đạn vào đống vỏ đạn đã nguội. Cu-dơ-nét-xốp bò lên thành công sự để kịp quan sát và hiệu chỉnh đường đạn của mình.
Có một cái gì đó nóng bỏng, rực lửa, nhọn hoắt tung tóe ập vào mặt anh, tựa hồ như có một hòn đá mài rất lớn quay tít trước mắt anh. Những tia lửa lớn bùng lên, bật ra từ vỏ xe tăng, những đường đạn khác ở chỗ khẩu pháo của U-kha-nốp nã vào phía sườn trái xe tăng, tiếp đó là một tiếng nổ khiến xe tăng rung lên, lùi lại, một cuộn khói dầu dày đặc bốc lên từ mình nó.
Với niềm tin mãnh liệt vào vận may của mình, Cu-dơ-nét-xốp ứa nước mắt, cảm thấy cổ họng nóng bỏng, dịu dàng nghẹn lại khi nhận ra tình đồng đội trong giây phút đó. Anh nhìn và hiểu ra ngày: khẩu pháo của U-kha-nốp đã tiêu diệt chiếc xe tăng địch sau khi nó đã bị khựng lại vì hai quả đạn bắn thẳng chính xác của Ep-xtích-nê-ép.
Ở phía trước, tất cả đều quyện lại thành một khối sẫm màu máu, đỏ khè, những đám cháy đã chùm lên khắp cả bờ sông bên trái, những loạt đạn liên tiếp của các khẩu đội đã chọc thủng khối lửa, tạo ra những lồ hổng đen ngòm, những tiếng nổ liên miên: khói của ngôi làng đang bốc cháy hòa lẫn với khói dầu mỡ đặc xịt tỏa lên phía trên vòng cung xe tăng lớn của địch, liên kết lại thành màn khói dày đặc trên thảo nguyên, dưới màn khói đó những cái xe bị cháy vẫn phụt lửa rừng rực, những chiếc xe tăng địch vẫn không dừng lại, kiên trì bò tới tấp lên, thu hẹp vòng cung xung quanh trận địa phòng ngự của ta trên bờ sông phía Nam. Cuộc tiến công của xe tăng địch không bị chặn lại, không yếu đi dưới hỏa lực liên tục của pháo binh ta, nó chỉ hơi bị chậm lại ở đỉnh vòng cung, chúng tăng cường và đồng thời tập trung các đòn đánh vào hai bên sườn. Ở đó các quả pháo sáng tới tấp vọt lên hết chiếc này đến chiếc khác và từng bầy xe tăng vươn dài quay ngoắt về bên phải, về điểm cao nơi đặt đài quan sát của đại đội và về phía bên trái, hướng tới chiếc cầu, nơi các đại đội bên cạnh bố trí ở phía trước.
-Xe tăng ở bên phải! Chúng đã thọc sâu vào!…
Tiếng thét đó như xuyên nhói vào ý thức Cu-dơ-nét-xốp và anh vẫn còn chưa tin khi anh đã nhìn thấy rõ điều mà anh không chờ đợi.
-Xe tăng xông đến đại đội!…-Lại có tiếng người la lên.
Khói trên thảo nguyên đã bao phủ bầu trời, đè bẹp và che khuất mặt trời, khói bị những phát đạn xé rách sôi sục lên vì những cột lửa như vọt ra từ lòng đất, khói tỏa trên các bờ công sự, bò vào vị trí đại đội và từ trong cái khối hỗn loạn sục sôi đó bỗng xuất hiện những bóng đen to lớn của ba chiếc xe tăng, ở phía bên trái trước mặt vị trí của Đa-vla-chi-an. Còn khẩu pháo của Đa-vla-chi-an thì câm bặt.
o0o
“Đằng ấy không còn ai ư? Họ còn sống không?”-Cu-dơ-nét-xốp thoáng nghĩ và tiếp đó là một ý nghĩ hết sức rõ ràng: nếu xe tăng địch vào được phía sau đại đội thì chúng sẽ lần lượt nghiền nát hết các khẩu pháo.
-Nhằm vào những chiếc xe tăng ở bên phải!…-anh thở dốc, nghẹn ngào thét to, hiểu rằng anh sẽ không thể làm gì được hết nếu như Đa-vla-chi-an giờ đây không nổ súng.-Quay nòng pháo lại!… Về bên phái, về bên phải! Nhanh lên! Ep-xtích-nê-ép! Tru-ba-ri-cốp!…
Anh lao đến chỗ anh em pháo thủ đang nhoai người ra lấy vai đẩy bánh xe, lá chắn, vừa văng tục vừa dùng hết sức giật đi giật lại càng pháo: họ cũng đã trông thấy xe tăng địch ở phía đó và định quay nòng pháo chếch bốn mươi lăm độ về phía tay phải. Những cánh tay vung lên tíu tít, những đôi ủng bước đi, ngọ nguậy, trượt trên nền đất. Cu-dơ-nét-xốp trông thấy những cặp mắt vằn tia máu đỏ, căng thẳng, trố ra, khuôn mặt đẫm mồ hôi của Ep-xtích-nê-ép dùng toàn thân đẩy bánh xe khẩu pháo, một dòng máu nhỏ vẫn chảy từ tai anh xuống cổ áo choàng, hình như màng nhĩ bị rách.
-Nhanh tí nữa!-Ep-xtích-nê-ép nói giọng khàn khàn.-Nào, nào! Dô ta nào!
-Quay nòng pháo sang phải!… Nhanh lên!
-Tí nữa!… Nào, nào!
Những chiếc xe tăng đã thọc sâu được về phía đại đội, từ những đám khói lửa đỏ quạch chúng xông ra, tiến thẳng tới hỏa điểm của Đa-vla-chi-an, theo đà xe đi, khói quyện chặt vào vỏ xe.
-Chả lẽ tất cả anh em ở đó bị giết cả rồi hay sao? Tại sao họ không bắn nhỉ?-Có người hằn học kêu lên.-Họ đâu?
-Nhanh nhanh tay lên! Tất cả hè nhau vào cùng đẩy một lúc!
-Sang phải tí nữa!… Tí nữa-Ep-xtích-nê-ép nhắc lại, giọng khản đặc.
Khẩu pháo đã được quay về bên phải, các súc gỗ đã được lèn vào dưới chân chống, Ep-xtích-nê-ép vội vã xoay xoay tay lái và máy móc cho nòng súng trườn nhanh lên bờ công sự. Đôi gò má bẩn, đẫm mồ hôi của anh bạnh ra. Nhưng lúc ấy tưởng như không thể nào chịu đựng nổ những giây phút chỉnh pháo kéo dài hầu như vô tận đó. Trong những giây phút qua đi nhoang nhoáng đó, Cu-dơ-nét-xốp chỉ nghe thấy tiếng hô ra lệnh của mình: “Bắn! Bắn! Bắn!”-Và mệnh lệnh khiến chính anh ù tai đó tựa hồ như dội vào lưng, vào gáy, vào vai, vào những cánh tay anh em pháo thủ đang làm việc ráo riết, không kịp vượt lên trước đà tiến của xe tăng.
“Chả lẽ bây giờ tất cả chúng ta đều phải chết hay sao?-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ.-Xe tăng địch đang đột nhập vào khẩu đội và chúng sẽ nghiền nát anh em pháo thủ cùng các khẩu pháo!… Tình hình Đa-vla-chi-an thế nào? Tại sao các cậu ấy không bắn? Ở đằng ấy họ còn sống không?… Không, không, mình phải làm một cái gì đó mới được!… Mà chết nghĩa là gì? Không, không nên giết mình!… Không, chỉ cần nghĩ rằng mình không bị giết, thế là mình sẽ không chết! Mình phải quyết định làm một cái gì đó! Ngay cả khi ở đằng ấy không còn ai gần chỗ khẩu pháo nữa!…”
Tiếng thét của Tru-ba-ri-cốp dội vào tai anh:
-Quay nòng súng thế chưa đủ… Đồng chí trung úy ạ!-Tru-ba-ri-cốp như thể ứa những giọt nước mắt đỏ lừ, lấy ngón tay giụi mi mắt và lắc lắc đầu nhìn Cu-dơ-nét-xốp.
-Bắn! Bắn! Bắn vào hai xe tăng! Cu-dơ-nét-xốp thét to và bỗng nhiên như có cái gì nâng anh đứng thẳng người lên, anh nhảy bổ ra, lao tới chiếc hào giao thông đào chưa xong, nông choèn.-Tôi tới đằng ấy! Tới trung đội hai! Tru-ba-ri-cốp chỉ huy thay tôi! Tôi đến chỗ Đa-vla-chi-an!…
Anh chạy trong hào giao thông nông choèn dẫn đến chỗ những khẩu pháo câm lặng của trung đội hai, lách mình qua những vách đất chật chội, vẫn chưa biết rõ mình sẽ làm được gì và có thể làm được gì ở chỗ Đa-vla-chi-an. Hào giao thông chỉ nông đến thắt lưng anh vì thế quang cảnh trận đánh rực lửa run rẩy hiện ra trước mắt anh: tiếng súng bắn, đường đạn bay, tiếng nổ, những cuộn khói dựng đứng trên bầy xe tăng, đám cháy ở trong làng. Còn ở phía bên phải ba cái xe tăng lắc lư đi vào cửa đột phá đã mở, đi tự do trong cái gọi là “khoảng không gian chết” nghĩa là chúng nằm ở ngoài khu vực bắn có hiệu lực của các đại đội bên cạnh. Chúng còn cách các vị trí của Đa-vla-chi-an chừng hai trăm mét, những chiếc xe tăng to rộng, sơn màu vàng như cát, nguy hiểm vì có vỏ thép dày. Tiếp đó ngọn lửa phụt ra từ những nòng súng dài của chúng. Tiếng đạn nổ ở bờ công sự dường như át cả tiếng gào rú của xe tăng và lập tức những loạt đạn súng máy bay rào rào ngay trên đầu Cu-dơ-nét-xốp.
“Miễn là không phải lúc này… chỉ cốt sao mình đừng bị thương trong hào giao thông!… Mình có thể làm được gì lúc này, làm được gì trong những giây phút này? Chỉ chạy đến chỗ khẩu pháo là xong hết sao?…”
Tuyệt vọng vì giờ đây anh không thể, không có quyền quay trở lại mà phải đâm đầu chạy vào đám xe tăng, chạy về phía cái chết tưởng như gần gũi của mình, Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy máu ớn lạnh, anh thét gọi to khủng khiếp:
-Đa-vla-chi-an!… Tới bên pháo!…-Và toàn thân đẫm mồ hôi, người đen nhẻm trong cái áo choàng lấm đất sét, anh chạy từ cuối hào giao thông ra, nhoài mình trên mặt bằng hỏa điểm, nói giọng khàn khàn:-Tới bên pháo! Tới bên pháo!
Cảnh tượng anh trông thấy trên hỏa điểm này và những cảm xúc của anh lúc đó thật đáng sợ. Hai cái hố sâu như miệng phễu còn mới, một đống xác người nẳm giữa càng phái, giữa những vỏ đạn đã bắn, ở bên cạnh lũy đất. Anh em pháo thủ nằm trong tư thế bị chèn ép, không tự nhiên: những khuôn mặt trắng bợt với bộ râu đen trông như râu giả úp sấp xuống đất, những ngón tay trắn xòe ra, những cẳng chân gấp lại dưới bụng, những đôi vai co ro như muốn giữ lại hơi ấm cuối cùng của cuộc sống. Mùi tử khí lạnh lẽo bốc lên từ những xác chết ngoắc chặt vào nhau, từ những khuôn mặt trắng và đen đó. Nhưng ở đây hình như có người hãy còn sống. Anh nghe thấy tiếng rên, tiếng hừ hừ từ dưới hầm, tuy nhiên anh không kịp nhìn vào đó.
Anh nhìn vào bánh xe khẩu pháo bị trúng mảnh đạn: có hai người động đậy ở đó, dưới chân bờ công sự. Trắc thủ Ca-xư-mốp từ mặt đất thong thả trỗi mình dậy, khuôn mặt với gò má cao đẫm máu, đôi mắt hầu như chỉ còn lòng trắng, không nhìn rõ, một tay anh run rẩy bám lấy bánh xe, những móng tay đen ngòm bập vào lốp cao su. Hình như Ca-xư-mốp định đứng dậy, vươn mình về phía khẩu pháo nhưng không được, các ngón tay anh cào cào trên lớp cao su rách, không bám chặt được nhưng anh cúi người xuống, lại cố bám lấy bánh xe và kêu kêu lên những tiếng không ăn nhập đâu vào đâu:
-Đi đi, cô em, đi đi! Phải bắn… Sao lại chôn tôi? Tôi còn trẻ!… Đi đi! Tôi hãy còn sống… Tôi sẽ sống!
Tấm thân cường tráng của anh như thể bị gãy đôi ra ở thắt lưng, có cái gì đó chảy ra từ dưới sườn quấn băng, anh là một người bị thương đang lên cơn sốt, đang lâm vào trạng thái bất tỉnh dường như ngăn cách anh với cái chết.
-Dôi-a!…-Cu-dơ-nét-xốp kêu lên.-Đa-vla-chi-an đâu?
Dôi-a nằm bên cạnh Ca-xư-mốp ở dưới chân bờ công sự, cô giữ chặt lấy anh, vén tà áo bông của anh ra, vội vã đặt cuốn băng sạch lên bụng anh, ngay phía trên áo va rơi ướt đẫm những vết máu đỏ. Khuôn mặt cô nhợt nhạt, choắt lại với những vết muội khói đen sẫm, môi mím chặt, mái tóc buột ra khỏi mũ lông-một khuôn mặt xa lạ, thiếu đi sự nhẹ nhõm, một khuôn mặt không đẹp, trông như không quen biết.
Nghe tiếng kêu của Cu-dơ-nét-xốp, cô giật mình ngước ngay đôi mắt lên, kêu goi sự giúp đỡ, đôi môi mất sinh khí khẽ mấp máy nhưng Cu-dơ-nét-xốp không nghe thấy âm thanh nào cả.
-Đi đi, đi đi, cô! Tôi sẽ sống!…-Ca-xư-mốp la hét trong cơn mê sảng.-Tại sao cô lại chôn tôi? Cần phải bắn!…
Vì Cu-dơ-nét-xốp không nghe tiếng cô mà chỉ nghe tiếng la hét của Ca-xư-mốp đang giãy giụa trong cơn sốt, vì cả cô cũng như Ca-xư-mốp đều không thấy, không biết rằng những chiếc xe tăng thọc sâu của địch đang đi thẳng đến vị trí của họ cho nên anh lại cảm thấy cảm giác lạ lùng về sự huyễn hoặc không có thật. Tựa hồ như chỉ cần mình cố gắng một tí, lắc lắc mái đầu là anh sẽ có thể thoát khỏi cơn ác mộng để đắm mình vào buổi sớm mai yên tĩnh, thanh bình với ánh nắng rọi ngoài cửa sổ có giấy dán tường và anh thở dài nhẹ nhõm vì những điều anh vừa trông thấy chỉ là một giấc mộng.
Nhưng đó không phải là một giấc mộng.
Anh nghe thấy tiếng động cơ xe tăng xả hơi phùn phụt, lộng óc, gần sát ngay trên đầu mình và ở đó, ở phía đằng trước mặt khẩu pháo, loạt đạn súng máy vẫn tành tành chói tai như thế, tưởng như chúng bắn từ khoảng cách năm mét ở ngoài bờ công sự. Và chỉ có một mình anh ý thức được rõ ràng những âm thanh đó báo hiệu cái chết đang tới gần.
-Dôi-a, Dôi-a! Lại đây, lại đây! Nạp đạn đi! Tôi ngắm bắn, cô nạp đạn! Tôi yêu cầu cô!… Dôi-a!…
Cán trục kính ngắm trơn như mỡ, điểm cao su ẩm của kính ngắm dính vào phía trên lông mày, tay quay của bộ máy điều khiển trượt khỏi tay Cu-dơ-nét-xốp vì máu của Ca-xư-mốp túa ra trên tất cả các bộ phận đó, nhưng Cu-dơ-nét-xốp chỉ thoáng nghĩ tới điều ấy: những vạch đen cắt chéo lệch lên trên, xuống dưới rồi xoay nghiêng; bỗng nhiên anh nhìn rõ mồn một qua kính ngắm xích sắt xe tăng đang quay, trông to lạ lùng, với những mắt xích khi thì bám đầy tuyết, khi thì làm tuyết bay lả tả, trông nó gần đến nỗi tưởng như mọi vật nhòa đi, nó bò thẳng vào kính ngắm, che lấp, thậm chí như cào vào mắt. Giọt mồ hôi nóng bỏng che mắt anh và tất cả run lên trong kính ngắm, như trong màn sương vậy.
-Dôi-a, nạp đạn đi!
-Tôi không thể làm được… Tôi sẽ làm ngay bây giờ. Chỉ có điều… để tôi kéo anh ấy ra khỏi đây…
-Nạp đạn đi, tôi bảo mà! Một quả đạn!… Một quả đạn!
Và anh quay ngoắt người khỏi kính ngắm, cảm thấy bất lực: cô kéo thân hình nặng trĩu của Ca-xư-mốp ra khỏi bánh xe của khẩu pháo, đặt anh nằm dọc dưới chân bờ công sự và mãi đến lúc ấy cô mới đứng thẳng người lên, tựa hồ như không hiểu gì cả, nhìn vẻ mặt Cu-dơ-nét-xốp nhăn nhó vì bất lực và sốt ruột.
-Nạp đạn đi, tôi bảo kìa! Cô có nghe thấy không? Một quả đạn, một quả đạn!… lấy ở hòm đạn ấy! Một quả đạn!…
-Vâng, vâng, trung úy!…
Cô lảo đảo bước về phía hòm đạn đã mở nắp để gần càng pháo, đưa những ngón tay bám chặt móc quả đạn ra và lóng ngóng đẩy quả đạn vào ổ nạp đạn để ngỏ và khi đóng cò súng lạch cạch cô quỳ sụp xuống gần càng pháo, nhoe mắt lại.
Anh không nhìn thấy những hoạt động đó của cô-vòng xích xe tăng đen ngòm, to tướng lọt hẳn vào kính ngắm, ngọ nguậy trước mắt anh, tiếng động cơ xe tăng gào rú rộ lên ép chặt anh vào khẩu pháo, nhói vào ngực anh nóng bỏng, ngột ngạt, mặt đất rung lên, rền lên như tiếng gang vỡ. Anh tưởng như đó là đầu gối anh tựa vào mô đất đang run lên hoặc giả cánh tay anh sẵn sàng ấn cò súng đang run và những giọt mồ hôi run rẩy trên cặp mắt anh, cặp mắt không thể thấy được khi nheo mắt lại chờ đợi quả đạn lao đi. Tựa hồ như cô không trông thấy và không muốn trông thấy những chiếc xe tăng đang đột phá vào, chỉ còn cách khẩu pháo có năm mươi mét.
Kính ngắm đã không còn có thể bắt được một điẻm nào nữa: cái bóng đen to tướng và nghiến ken két đã trùm lên tất cả, che lấp cả thực hiện.
Anh siết cò súng và không nghe thấy tiếng súng bắn trả từ trên xe tăng địch.
Tuyết Bỏng Tuyết Bỏng - Yury Bondarev Tuyết Bỏng