To read without reflecting is like eating without digesting.

Edmund Burke

 
 
 
 
 
Tác giả: Orhan Pamuk
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Quang
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bach Ly Bang
Số chương: 46
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2494 / 47
Cập nhật: 2015-08-04 21:17:31 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 44: Hôm Nay Chẳng Ai Ở Đây Ưa Ka Nữa
ars - bốn năm sau
Ngay sau khi sân khấu đóng màn, Z. Tay Sắt và đồng bọn bắt Kadife, đưa cô qua cửa sau ra phố Kâzimbey Nhỏ "để giữ an toàn cho chính đương sự", lên chiếc xe tải quân sự về ban quân quản, nơi Lam bị giữ hôm trước. Mấy tiếng sau, khi mọi ngả đường đến Kars đều đã dọn sạch, các đơn vị được cử đến Kars để đàn áp vụ "đảo chính quân sự" vào đến thành phố mà không vấp phải bất cứ sự kháng cự nào. Viên phó thống sứ, chỉ huy quân sự và các viên chức lãnh đạo từng sao nhãng trách nhiệm trong vụ này bị bãi nhiệm ngay. Một loạt lính tráng và nhân viên Bộ an ninh quốc gia cộng tác với "bọn đảo chính" bị bắt giam, mặc cho họ cãi là đã làm việc đó "vì dân tộc và quốc gia". Mãi sau đó ba hôm Turgut Bey và Ipek mới được phép thăm Kadife. Ngay khi sự việc xảy ra, Turgut Bey đã nhận ra Sunaychết thật trên sân khấu, mặc dù vậy ông vẫn hy vọng Kadife không bị dính líu và ngay tối hôm đó đã cố xin đưa Kadife về nhà. Sau nửa đêm, khi không thành, ông bám tay con gái đi qua đường phố vắng ngắt về nhà. Trong lúc ông ngồi khóc. Ipek mở vali lấy đồ đạc cất lại vào tủ.
Hầu hết dân Kars theo dõi diễn biến trên sân khấu chỉ biết Sunay đã chết thật sau giây phút hấp hối ngắn ngủi khi đọc bài báo trên Thành phố biên giới hôm sau. Sau khi đóng màn, đám đông rời Nhà hát nhân dân đầy nghi ngại nhưng im lặng và trật tự. Ti vi không nhắc lại sự kiện của ba ngày cuối, và vì từ những ngày có thiết quân luật, dân Kars đã quen chuyện nhà nước và các đơn vị đặc nhiệm tổ chức "săn bọn khủng bố" ngoài phố, lùng quét và ra tuyên bố, chỉ vài bữa sau họ không còn nhớ đến ba ngày ấy như một giai đoạn đặc biệt nữa. Ngoài ra sáng hôm sau ban chỉ huy ra lệnh tiến hành một cuộc điều tra trách nhiệm, và bộ phận thanh tra của phủ thủ tướng bắt tay vào việc, khiến dân toàn thành phố hiểu rằng biết điều thì không tranh luận về khía cạnh chính trị của cuộc "đảo chính sân khấu" nữa, mà chỉ nói về sự kiện ở nhà hát và nội dung nghệ thuật. Mối quan tâm chủ yếu của họ là: làm sao Kadife có thể bắn chết Sunay Zaim sau khi tất cả rành rành chứng kiến ông đút ổ đạn rỗng vào súng?
Việc này có lẽ dính dáng nhiều đến ảo thuật hơn là nhanh tay, và báo cáo điều tra của viên thiếu tá do Ankara cử về đã làm sáng tỏ ít nhiều, như đã giúp tôi khi viết ra nhiều đoạn trong sách.
Sau buổi tối hôm đó Kadife không muốn nói chuyện về những gì đã xảy ra với Ipek và Turgut Bey khi họ đến thăm, với các công tố viên hay luật sư - dù chỉ để được bảo vệ trước tòa, vì vậy viên thiếu tá đã hỏi chuyện nhiều người (giống như tôi đã làm bốn năm sau), nói đúng hơn là ghi lại lời họ khai báo, thẩm tra mọi khả năng và lời đồn đại.
Để bác lại nhận định cho rằng Kadife chủ tâm làm ngược ý Sunay Zaim và giết ông, thoạt tiên viên thiếu tá chứng minh rằng tin đồn cô rút một khẩu súng khác nhanh như chớp từ trong túi hoặc lắp một ổ đạn mới vào súng là không có thật. Ngay cả khi trên mặt Sunay lộ vẻ ngạc nhiên, cuộc khám xét của lực lượng an ninh cùng các đồ vật tìm thấy trong người Kadife và băng ghi video đã xác nhận rằng tối hôm đó chỉ có một vũ khí duy nhất và một ổ đạn duy nhất được sử dụng. Giả thiết được dân Kars ưa thích - một người khác bắn Sunay từ một góc khác cùng lúc Kadife bóp cò - bị bác bỏ bởi báo cáo nghiên cứu đạn đạo và kết quả mổ tử thi từ tận Ankara gửi về. Những tài liệu nói trên chứng minh đạn găm trong cơ thể Sunay được bắn từ chính khẩu súng lục Kirikkale trong tay Kadife. Những lời cuối cùng của Kadife "Hình như tôi đã giết chết ông ấy rồi." khiến cô trở thành người hùng hay nạn nhân huyền thoại trong mắt nhiều người dân Kars, còn viên thiếu tá phụ trách điều tra thì cho đó là bằng chứng của một tai họa ngộ sát. Và tựa như muốn vạch đường cho công tố viên sắp khởi tố, ông ta đánh giá chi tiết hai khái niệm "cố sát" và "động cơ hèn hạ" theo hướng triết luận và pháp lý, rồi giải trình rằng những phát ngôn của Kadife trong vở này được bày cho cô từ trước hoặc thông qua một số mẹo để gợi ý cô nói ra - nghĩa là không phải lời cô, mà là lời của chính diễn viên Sunay Zaim. Là người lắp ổ đạn vào súng sau hai lần cả quyết là ổ rỗng, Sunay Zaim đã đánh lừa Kadife và cả thành phố. Nghĩa là "ổ đạn đầy đạn!" Đó là lời của viên thiếu tá đã bị về hưu non sau đó ba năm.
Trong cuộc nói chuyện tại nhà ông ở Ankara, khi tôi nhắc đến các tác phẩm của Agatha Christie bày đầy trên giá, ông nói chủ yếu là tiêu đề sách làm ông thích. Dĩ nhiên, để một ổ đạn đầy trông như rỗng là ngón ảo thuật cừ khôi của một diễn viên. Những màn bạo lực không run tay do Sunay Zaim và tòng phạm thi hành nhân danh một nền chính trị phương Tây và mang tư tưởng Atatürk (cộng cả Sunay, số người chết là 29) đã khủng bố người dân Kars đến mức họ sẵn sàng gọi một cốc cạn là cốc đầy. Trên quan điểm đó không chỉ Kadife là tòng phạm của sự kiện xảy ramà cả các cư dân của Kars từng đắc chí ngắm Sunay bị giết trên sân khấu và tin là đang xem kịch, mặc dù ông ta đã báo trước cái chết của mình.
Trong báo cáo của mình, viên thiếu tá cũng đề cập tới một tin đồn khác: Kadife đã giết Sunay để rửa thù cho Lam, và ông cho rằng, ta không được phép ấn một khẩu súng lục nạp đạn vào tay người khác và cả quyết rằng súng không có đạn, sau đó lại buộc tội họ. Đáp lại lời khen ngợi của đám Hồi giáo chính trị và chỉ trích của phe cộng hòa thế tục, rằng Kadife mưu mẹo giết Sunay còn chính mình không tự sát, viên thiếu tá nói, không được nhầm lẫn nghệ thuật và thực tế. Cả Sunay lẫn Kadife đều biết chiếc giá treo cổ trên sân khấu làm bằng bìa, điều đó loại trừ phỏng đoán rằng Kadife bỏ kế hoạch tự sát sau khi giả đò chọn con đường tự sát rồi giết Sunay.
Bản tường trìnhchi tiết của viên thiếu tá do Bộ tư lệnh cử xuống được các công tố viên và thẩm phán quân đội hết sức khâm phục đón nhận. Nhờ vậy Kadife không bị tuyên án vì giết người với mục đích chính trị, mà chỉ phải nhận ba năm một tháng tù do ngộ sát. Sau khi ngồi tù hai mươi tháng cô sẽ được thả. Thượng tá Nuri Tay Vẹo không may mắn như thế, với tội danh lập băng đảng tội phạm giết người chiểu theo điều 313 và 463 Luật hình sự Thổ Nhĩ Kỳ, ông chịu án rất nặng. Sau sáu tháng nhờ luật ân xá, ông ta được thả ra. Mặc dù được thông báo hậu quả nặng nề nếu nói lộ ra vụ này, song những năm về sau mỗi khi gặp các bạn cũ và đã uống đủ mức là ông nhắc lại, "ít nhất" thì ông cũng đã dám làm cái việc mà mỗi quân nhân mang tư tưởng Atatürk đều thầm mơ ước, và ở mức không quá trớn, ông buộc tội đồng đội mình khiếp sợ bọn toàn thống, trì trệ và hèn nhát.
Các sĩ quan, hạ sĩ quan và một số viên chức bị dính líu vào vụ này - mặc dù phản kháng rằng họ là người ái quốc và làm theo lệnh - bị tòa án binh bắt chịu các mức phạt khác nhau vì tội lập băng đảng, giết người và các tội khác; họ cũng được thả trong cùng đợt ân xá. Trong số họ có một người - một trung úy đầu óc viển vông, sau này theo Hồi giáo chính trị - sau khi được ra tù đã xuất bản hồi ký nhiều kỳ ("Tôi cũng là một người Jacobin cực đoan") trong báo Hồi giáo chính trị LiênHiệp. Vì lý do nói xấu quân đội nên hồi ký này cũng bị cấm đăng tiếp. Được biết là thủ môn Vural ngay từ ngày đầu nổ ra cách mạng đã làm việc cho chi nhánh địa phương của Bộ an ninh quốc gia. Tòa án công nhận các thành viên khác của nhóm kịchchỉ là "nghệ sĩ bình thường".
Funda Eser bị suy nhược thần kinh sau khi chồng bị giết. Bà ta nổi điên chỉ trích, buộc tội và tố cáo mọi người, do đó bị đưa vào khoa thần kinh của quân y viện Ankara theo dõi mất bốn tháng.
Nhiều năm sau khi giọng bà được cả nước biết qua nhân vật phù thủy trong một bộ phim trẻ em nhiều tập do bà lồng tiếng, Funda Eser kể cho tôi nghe rằng bà vẫn còn âu sầu vì chồng bị chết do "tai nạn nghề nghiệp" trên sân khấu và sinh thời bị ghen tị gièm pha mà không được đóng vai Atatürk; bà chỉ có thể tự an ủi rằng người ta đã lấy những tư thế do ông sáng tạo ra làm mô hình cho nhiều bức tượng Atatürk trong mấy năm qua. Trong báo cáo của viên thiếu tá cũng nhắc đến sự dính líu của Ka nên thẩm phán tòa án binh đã triệu tập ông đến tòa làm nhân chứng, sau hai phiên đầu không thấy ông đâu, tòa đã ký lệnh bắt.
Thứ Bảy nào Turgut Bey và Ipek cũng đến thăm Kadife bị giam ở Kars. Vào những ngày hè và xuân đẹp trời, ông giám đốc trại giam nhân từ cho phép họ trải khăn dưới gốc cây dâu trong sân trại giam, họ ăn món ớt nhồi thịt do Zahide nấu, mời các phạm nhân khác cùng ăn thịt viên, lấy trứng luộc già chơi trò đâm trứng trước khi bóc vỏ và nghe những bản prelude của Chopin trong chiếc máy cassette Philips đã được Turgut Bey đem sửa lại.
Để khỏi phải coi trại giam của con gái mình như một nơi đáng xấu hổ, Turgut Bey coi nó là một trường nội trú mà mọi công dân khả kính đều phải trải qua trên bước đường trưởng thành, và đôi khi đem theo một người quen như nhà báo Serdar Bey. Sau khi Fazil được đến cùng vài lần, Kadife đòi cậu có mặt trong mọi dịp khác. Hai tháng sau khi ra tù, cô cưới chàng trai trẻ hơn mình bốn tuổi ấy. Nửa năm tiếp theo, họ sống trong một phòng khách sạn Lâu Đài Tuyết, và Fazil làm việc tại lễ tân. Khi tôi đến Kars họ đã cùng con chuyển đi chỗ khác. Mỗi sáng Kadife bế thằng bé Ömercan sáu tháng tuổi đến khách sạn và làm việc ở đây một chút, trong khi Ipek hay Zahide cho nó ăn và Turgut Bey chơi với cháu ngoại.
Để tránh phụ thuộc vào bố vợ, Fazil làm việc thêm ở hiệu ảnh Hừng Sáng và Truyền hình biên giới Kars. Khi kể chuyện này với tôi cậu mỉm cười: "Chức danh là 'trợ lý chương trình' nhưng thật ra tôi là thằng sai vặt hạng sang."
Một ngày sau hôm đặt chân tới Kars và được thị trưởng mở tiệc đón mừng, buổi chiều tôi gặp Fazil ở nhà mới trên phố Hulusi Aytekin. Trong khi tôi ngắm các bông tuyết chầm chậm rơi xuống lâu đài và sông Kars, Fazil ngây thơ hỏi tôi về Kars làm gì; còn tôi thì rất lúng túng vì tưởng cậu ta nói về Ipek, người đã hút hồn tôi trong bữa tiệc tối qua ở chỗ ông thị trưởng. Tôi kể hơi cường điệu về các bài thơ Ka viết ở Kars, và có thể tôi sẽ viết một cuốn sách về những bài thơ ấy.
Cậu thân mật hỏi: "Nếu những bài thơ ấy không còn nữa thì làm sao ông viết sách về chúng được?"
"Tôi cũng không biết nữa," tôi đáp. "Trong kho lưu trữ của đài truyền hình nhất định có một bài."
"Thế thì tối nay tôi sẽ tìm được nó cho ông. Hôm nay ông đã đi qua khắp các phố. Chắc ông đang định viết một tiểu thuyết về những người ở đây?"
Tôi lúng túng đáp: "Tôi chỉ đến những nơi Ka nhắc tới trong thơ thôi."
"Nhưng trông mặt ông tôi biết ông muốn kể về chúng tôi, nghèo khó và khác biệt hẳn với những người sẽ đọc tiểu thuyết này ra sao. Và tôi không muốn xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết kiểu ấy."
"Tại sao không?"
"Ông có biết gì về tôi đâu! Và ngay cả khi ông biết tôi và kể về tôi thì các độc giả phương Tây của ông cũng chẳng biết làm gì hơn là thương hại tôi nghèo khó. Ví dụ như họ sẽ cười về việc tôi muốn trở thành tác giả một truyện khoa học giả tưởng Hồi giáo.Tôi không muốn được miêu tả là một người đáng thương và bị chê cười khinh mạn."
"Tất nhiên là không."
"Tôi biết ông bực mình."Fazil tiếp lời. "Xin ông đừng khó chịu về những lời tôi nói, ông là một người tốt. Nhưng bạn ông cũng là một người tốt, có thể ông ấy cũng mến chúng tôi, song rốt cuộc đã làm một điều tồi tệ."
Tôi cho rằng Fazil không chân thực khi nói việc Ka có vẻ như đã chỉ điểm Lam cũng là một chuyện tồi tệ đối với chính cậu, vì cậu ta chỉ có thể cưới Kadife khi Lam bị giết. Nhưng tôi ngậm mồm.
Sau khi nghỉ một hồi lâu, tôi hỏi: "Làm sao cậu chắc chắn lời buộc tội Ka là đúng?"
"Cả Kars đều biết," giọng Fazil nhẹ nhàng, gần như dịu dàng, không có vẻ trách móc Ka hay tôi.
Trong mắt cậu tôi thấy Necip. Tôi nói với cậu là mình sẵn sàng xem cuốn khoa học giả tưởng mà cậu muốn đưa tôi (Fazil đã hỏi tôi có muốn xem những gì cậu viết không, nhưng nói là không đưa tôi bản thảo mà muốn ngồi cạnh tôi trong khi đọc).
Buổi tối chúng tôi ngồi bên bàn, nơi Fazil và Kadife đã ăn và xem ti vi trước đó. Tôi im lặng đọc năm mươi trang đầu tiên trong tiểu thuyết khoa học giả tưởng mà Necip từng mơ đến trước đây bốn năm và hôm nay Fazil bắt tay vào viết.
"Thế nào ạ, có ổn không?"Fazil chỉ hỏi một lần duy nhất như muốn xin lỗi. "Nếu ông thấy chán thì thôi!"
"Không, hay đấy," tôi nói và tò mò đọc tiếp.
Sau đó chúng tôi cùng nhau đi dọc phố Kâzim Karabekir ngập tuyết, và tôi nhắc lại một cách chân thành là tôi thích tiểu thuyết của cậu.
"Có lẽ ông nói thế để tôi vui lòng,"Fazil nhận xét, song mặt cậu ngời hạnh phúc. "Nhưng ông đã làm một việc tốt cho tôi, và tôi muốn trả ơn. Nếu ông muốn viết tiểu thuyết thì ông được phép nhắc đến tôi. Với điều kiện tôi được nói trực tiếp với độc giả của ông một điều."
"Nói gì cơ?"
"Tôi chưa biết. Khi nào tôi nghĩ ra lúc ông còn ở Kars thì tôi sẽ nói cho ông."
Chúng tôi chia tay và hẹn tối nay gặp nhau ở Truyền hình biên giớiKars. Tôi nhìn theo Fazil vội chạy về hiệu ảnh Hừng Sáng.
Trong cậu tôi thấy bao nhiêu phần Necip? Liệu cậu có còn cảm thấy trong mình có Necip như đã nói với Ka? Con người có thể nghe tiếng nói một người khác trong mình đến mức nào?
Sáng sớm tôi đi đi lại lại trên các phố ở Kars, nói chuyện với những người đã tiếp Ka và vào các quán trà ngày xưa ông đã vào; rất nhiều khi tôi có cảm thấy mình đang chính là Ka. Tôi vào quán trà Anh Em từ sớm, nơi Ka viết bài"Toàn nhân loại và những tinh cầu" và hình dung ra vị trí của mình trong vũ trụ như bạn tôi đã làm. Cavit ở quầy lễ tân khách sạn Lâu Đài Tuyết nói là tôi cũng lấy chìa khóa phòng một cách "hấp tấp như ông Ka". Ông chủ hiệu tạp hóa gọi khi tôi đi qua một con phố nhỏ: "Có phải ông là ông nhà văn từ Istanbul đến không?"Ông chuyện trò với tôi như đãlàm với Ka ngày trước, và cũng muốn tôi viết rằng tin đăng trên báo về vụ tự sát của con gái ông, Teslime, là sai. Và ông cũng mời tôi uống Coca-cola như đã mời Ka. Bao nhiêu phần là tình cờ và bao nhiêu phần là tưởng tượng của tôi? Có lần tôi nhận ra mình đang đi qua ngõ Baytarhane và ngó lên cửa sổ bí thất của trưởng lão Saadettin, rồi leo lên những bậc thang dốc mà Muhtar nói đến trong bài thơ của mình để hiểu ra Ka nghĩ gì lúc ông tới đây.
Vì đã tìm được những bài thơ Muhtar đưa Ka trong chỗ giấy tờ của ông ở Frankfurt, tôi chắc ông đã không gửi chúng cho Fahir. Vậy mà Muhtar ngay sau khi chúng tôi làm quen nhau được năm phút đã kể Ka là một người "khả kính" ra sao, rồi nói ngay là Ka rất khen ngợi thơ ông trong thời gian ở Kars và đã nồng nhiệt giới thiệu cho một nhà xuất bản quan trọng ở Istanbul.
Về mặt buôn bán thì ông hài lòng, và hy vọng trong kỳ bầu cử tới sẽ được một đảng Hồi giáo chính trị mới thành lập (đảng Phồn vinh ngày xưa đã bị cấm) bầu làm ứng viên thị trưởng, cũng như sẽ trúng cử. Nhờ sự tiếp đón thân mật và trang trọng của Muhtar, chúng tôi được vào thăm Sở cảnh sát (có điều không được xuống tầng hầm) và nhà thương an sinh xã hội, nơi Ka từng hôn Necip đã chết. Trong khi chỉ cho tôi xem những phòng còn sót lại của Nhà hát nhân dân mà ông đã biến thành kho để đồ gia dụng, Muhtar thú nhận một phần" trách nhiệm" về chuyện phá dỡ ngôi nhà cả trăm năm tuổi này, song ông cố an ủi tôi rằng ngôi nhà này đằng nào cũng không phải "kiến trúc Thổ, mà là Armenia". Ông lần lượt đưa tôi đi xem tất cả những nơi Ka từng nhớ lại mỗi lần tha thiết mong tái ngộ Ipek và Kars, chợ rau quả phủ tuyết, xưởng đóng móng ngựa và bán đồ kim khí ở phố Kâzim Karabekir. Rồi ông giới thiệu tôi với địch thủ chính trị của mình, Muzaffer Bey, ở khu thương mại Halit Paşa và từ biệt. Nghe xong lịch sử cộng hòa của Kars do cựu thị trưởng kể như đã kể với Ka, khi về qua hành lang tối tăm khó chịu của tòa nhà, tôi gặp một người ở cạnh cửa Hội những người yêu súc vật ra bắt chuyện, gọi tôi là "Orhan Bey", mời tôi vào nhà và kể chuyện trước đây bốn năm chứng tỏ anh ta có trí nhớ tuyệt vời. Tôi nghe chuyện ông hiệu trưởng đại học sư phạm bị bắn chết,chuyện Ka đến đây và ngồi vào góc phòng chọi gà để suy tư.
Tôi thấy khó nhọc khi nghe kể chi tiết khoảnh khắc Ka nhận ra mình yêu Ipek trước khi chính tôi sắp gặp cô. Vì thế trước khi lên đường đến tiệm bánh ngọt Đời Mới tôi ghé vào quán bia Đất Xanh và uống một ly Raki, hy vọng tìm được sự thư thái và rũ bỏ được nỗi sợ bị lôi cuốn vào một chuyện tình. Song vừa ngồi đối diện Ipek trong tiệm là tôi nhận ngay ra những biện pháp cẩn trọng ấy còn gây ra nhiều nguy hiểm hơn. Ly Raki trong dạ dày rỗng làm tôi điên đảo hơn là thư thái. Mắt Ipek rất to trên khuôn mặt trái xoan mà tôi rất ưa. Trong lúc cố gắng thấu hiểu vẻ đẹp của cô, một vẻ đẹp kỳ lạ hơn nhiều so với các tưởng tượng của tôi về cô từ hôm qua khi mới gặp, tôi càng vô vọng thêm khi nhớ lại những điều tôi đã biết cặn kẽ về mối tình Ka đã trải qua cùng Ipek.Nhưng nó chỉ đau đớn gợi ra một mặt yếu khác của tôi: trong khi Ka là một thi sĩ thực thụ, sống hoàn toàn hợp lẽ với bản lĩnh mình, thì tôi chỉ là một người viết tiểu thuyết với tâm hồn tương đối đơn giản, mỗi sáng mỗi tối làm việc vào các giờ nhất định như một thư ký đánh máy. Có thể vì thế mà tôi thuật lại bằng những màu sắc êm mắt cuộc sống điều độ của Ka ở Frankfurt, sáng nào cũng dậy đúng giờ,đi qua những con phố đó, ngồi bên chiếc bàn đó trong thư viện đó và làm việc.
"Thực sự là tôi đã quyết tâm đi cùng anh ấy về Frankfurt,"Ipek nói và kể ra một loạt chi tiết chứng minh cho quyết định của cô kết thúc bằng việc xếp vali. "Nhưng hôm nay tôi khó có thể nhớ lại vì sao tôi lại thấy anh ấy dễ thương."Cô nói. "Tôi cũng rất tôn trọng tình bạn của ông và sẵn sàng giúp ông khi viết sách."
"Nhờ chị mà Ka đã viết được một cuốn sách tuyệt vời ở Kars." Tôi nói để tìm cách gợi cô kể nhiều hơn. "Anh ấy đã nhớ lại từng phút trong ba ngày ấy và chép lại đầy nhiều cuốn vở, chỉ thiếu mấy giờ cuối cùng trước khi rời thành phố thôi."
Với sự cởi mở đến kinh ngạc, không hề giấu giếm gì, vẻ khó nhọc vì phải bày ra đời tư của mình và tính thật thà khiến tôi khâm phục, Ipek thuật lại cặn kẽ những giờ cuối cùng của Ka ở Kars, như cô đã trải qua hay hình dung ra.
"Chị không có bằng chứng chính đáng nào để bỏ quyết định đi Frankfurt," tôi nhận định và cố không nói giọng trách cứ.
"Có những việc người ta hiểu ngay bằng cảm tính."
"Chị là người đầu tiên nhắc đến cảm tính," tôi nói và kể cho cô nghe, tựa như muốn xin lỗi, rằng theo các lá thư Ka viết cho cô nhưng không bao giờ gửi đi và tôi buộc phải đọc để viết được sách thì trong năm đầu tiên trở về Đức mỗi đêm Ka phải uống hai viên thuốc ngủ vì ông không chợp mắt được mỗi khi nghĩ đến cô; ông uống rượu đến say mèm và mỗi khi đi trên các phố Frankfurt thì chốc chốc lại tưởng một người phụ nữ phía xa là Ipek, cho đến cuối đời, hằng ngày những khoảnh khắc hạnh phúc được trải nghiệm bên Ipek luôn hiện ra và kéo dài hàng giờ như một cuốn phim quay chậm, ông cảm thấy rất hạnh phúc những lúc quên được cô trong chỉ năm phút, cho đến lúc chết ông không có quan hệ với một phụ nữ nào nữa. Sau khi mất cô, ông thấy mình "không phải là người mà là ma". Khi nhận ra ánh mắt của cô nhìn mình dịu lại đầy thông cảm, đồng thời van vỉ: "Xin ông đừng nói tiếp nữa!" và cặp mày cô nhíu lại như được nghe một câu hỏi khó, tôi kinh hoàng nhận ra mình đã không kể tất cả những chuyện ấy để Ipek chấp nhận Ka, mà chấp nhận chính tôi.
"Cứ cho là anh bạn ông rất yêu tôi," cô nói, "nhưng không đủ để tìm cách quay lại Kars lần nữa."
"Có lệnh bắt anh ấy."
"Không quan trọng. Anh ấy sẽ ra tòa và khai báo, và sẽ không bị vấn đề gì hết. Xin ông đừng hiểu sai, anh ấy không về đây là đúng, nhưng Lam đã nhiều lần bí mật quay về Kars để gặp tôi mặc dù đã có lệnh xử bắn anh ấy."
Tôi vô cùng đau khổ khi nhận ra nét buồn bã thực sự trên mặt cô, và cặp mắt nâu nhạt của cô sáng lên khi nhắc đến tên Lam".
"Nhưng anh bạn ông không phải sợ ra tòa." cô nói như có ý định an ủi tôi,"nói cho đúng, anh ấy quá rõ tội thực sự của anh ấy là gì, lý do thực sự tôi đã không ra ga."
"Chưa bao giờ có bằng chứng là anh ấy có tội." tôi nói.
"Tôi hiểu rõ, đó cũng chính là lý do ông thấy mình có tội," cô nói giọng thâm hiểm trong khi đút thuốc lá và bật lửa vào túi, ra dấu là cuộc trò chuyện của chúng tôi đã kết thúc. Tôi nói "thâm hiểm" vì khi nghe cô nói xong thì tôi hiểu là mình chịu thua, và cô biết rằng tôi không ghen với Ka, mà thật ra với Lam.
Sau này tôi kết luận là Ipek không nói bóng gió đến chuyện ấy mà là tôi đã tự để cảm giác tội lỗi áp đảo mình quá mức.
Ipek đứng dậy. Cô thật cao lớn, chưa kể đến những nét đẹp khác. Cô khoác áo choàng lên vai.
Tôi cực kỳ rối trí. "Tối nay chúng ta sẽ gặp lại nhau, đúng không ạ?"Tôi luống cuống hỏi một câu hỏi hoàn toàn thừa.
"Tất nhiên, bố tôi rất mong ông đến."Cô nói rồi đi khỏi với dáng đi tuyệt vời chỉ mình cô có.
Tôi tự nhủ, tôi buồn là vì cô thật sự tin Ka "có tội". Nhưng tôi đã tự dối lòng. Mục đích chính của tôi khi nói về Ka như "một người bạn thân đã khuất", chẳng qua là để dần dần sáng tỏ những khiếm khuyết, tính cứng đầu và "tội" của ông, để trong khi xua đuổi những ký ức về ông tôi sẽ cùng cô bước lên một con tàu và lần đầu tiên cùng nhau vượt sóng. Nhưng giấc mơ đưa Ipek đến Istanbul hôm đầu tiên của tôi đã xa vời lắm rồi. Những gì tôi mong ước lúc này chỉ là nỗ lực chứng minh bạn tôi "vô tội". Ở mức độ nào đó, nỗ lực ấy đồng nghĩa với chuyện tôi đã chấp nhận rằng mình không ghen với Ka, mà với Lam.
Tôi càng đau khổ hơn khi dạo trên đường phố Kars lúc bóng đêm buông xuống. Đài Truyền hình biên giới Kars đã chuyển về một tòa nhà mới, đối diện trạm xăng trên phố Montenegro. Trong vòng hai năm, không khí bẩn thỉu, ướt át, tối tăm và tù hãm của thành phố này đã ngự trị trong các lối đi của tòa nhà bê tông ba tầng được người dân Kars coi là dấu hiệu của sự chuyển mình.
Fazil thân mật chào tôi trên lầu hai, giới thiệu ngay tám nhân viên của nhà đài rồi nới: "Các đồng nghiệp của tôi muốn phỏng vấn ngắn cho chương rình thời sự buổi tối." Tôi nghĩ là chuyện này có ích cho công việc của tôi ở Kars. Trong khi ghi băng cuộc trò chuyện năm phút, có thể vì được nghe Fazil kể trước nên người dẫn chương trình thanh niên Hakan Özge đột ngột hỏi: "Nghe nói ông đang viết một cuốn tiểu thuyết về sự kiện ở Kars?"Nhưng tôi chỉ trả lời một cách mập mờ. Chúng tôi không hề đả động đến Ka.
Chúng tôi vào phòng giám đốc, tìm ra cuốn băng ghi hai tối truyền hình trực tiếp từ Nhà hát nhân dân - theo quy định, trên gáy băng video có ghi ngày tháng - và cầm đi. Tôi ngồi vào một phòng nhỏ bí hơi, trước chiếc tivi cũ, vừa uống trà vừa xem trước tiên Bi kịch ở Kars với Kadife, khâm phục những "Tiểu phẩm phê phán" của Sunay Zaim và Funda Eser nhạo báng mấy mẩu phim quảng cáo rất thịnh hành hồi đó. Tôi tua lại và xem nhiều lần cảnh Kadife bỏ khăn ra rồi ngay sau đó bắn chết Sunay. Cái chết của ông quả thật như một phần của vở kịch. Ngoài hàng ghế đầu tiên, không ai trong khán phòng có thể thấy được ổ đạn rỗng hay đầy.
Khi xem băng kia, tôi nhận ngay ra nhiều cảnh nhỏ trong Tổ quốc hay khăn trùm, cảnh nhái, chuyện phiêu lưu của thủ môn Vural, múa bụng của Funda Eser đáng yêu là những trò giải trí mà đoàn kịch lặp đi lặp lại trong các chuyến lưu diễn. Hầu như không hiểu được lời thoại vì tiếng hò hét, hô khẩu hiệu và ồn ào trong khắp khán phòng. Tuy nhiên sau khi tua lại băng nhiều lần tôi vẫn chép ra giấy được bài thơ mà Ka trình bày và sau này đặt đầu đề "Nơi không có Allah". Fazil hỏi tại sao Necip đứng dậy và định nói gì đó trong khi Ka đọc thơ, và tôi đưa cậu đọc những gì từ bài thơ tôi đã chép lại được.
Chúng tôi xem hai lần đoạn binh lính bắn vào khán giả.
"Ông đã tới nhiều nơi ở Kars,"Fazil nói, "bây giờ tôi chỉ cho ông một nơi nữa." Cậu nói với vẻ mặt hơi ngượng nghịu nhưng đầy bí mật, có thể tôi cũng đưa cả Necip vào sách, vì vậy cậu muốn chỉ cho tôi xem nhà ngủ đã bị đóng ở trường tôn giáo, nơi Necip đã sống phần lớn những năm cuối đời mình.
Khi chúng tôi đội tuyết đi dọc phố Gazi Ahmet Muhtar, tôi thấy một con chó đen như than với vết trắng trên trán, nhận ra đó là con chó trong một bài thơ của Ka.Ở hiệu tạp hóa gần đó tôi mua bánh mì và trứng luộc già, bóc trứng thật nhanh để ném cho con chó. Nó vui sướng vẫy cái đuôi cụp ngọn.
"Thấy con chó chạy theo. Fazil nói: "Con chó này ở ga đấy.Lúc nãy tôi không nói vì ngại ông sẽ không đi cùng: nhà ngủ bây giờ trống trơn. Sau đêm cách mạng bọn chúng đã đóng cửa, bảo đây là ổ chứa khủng bố và phản cách mạng. Từ bữa đó không ai ở đây nữa, do đó tôi cầm theo một chiếc đèn pin của phòng ghi băng." Cậu bật đèn, và con chó vẫy đuôi khi ánh đèn chiếu vào cặp mắt buồn bã của nó. Cánh cửa vào sân bị khóa. Nhà ngủ này ngày xưa là một lâu đài Armenia, sau đó là phòng lãnh sự Nga và cũng là nhà ở của viên lãnh sự cùng con chó của mình.Fazil nắm tay tôi nhảy qua một bức tường thấp. "Ngày xưa, đêm đến là chúng tôi hay trốn qua chỗ này."Cậu nói và chỉ vào một khung cửa sổ cao đã vỡ kính. Cậu khéo léo trèo qua, chiếu đèn loang loáng trong đó rồi kéo tôi vào cùng. "Ông đừng sợ, trong này chỉ có chim thôi," cậu nói. Các tấm cửa kính phủ đầy bụi và tuyết không cho ánh sáng lọt qua, một số cửa bị đóng ván kín.
Bên trong ngôi nhà tối như mực, song Fazil leo lên cầu thang một cách thành thạo, và hắt ánh đèn pin về phía sau chiếu sáng đường đi cho tôi như nhân viên rạp phim. Khắp nơi có mùi bụi bặm và ẩm mốc. Chúng tôi đi qua những cánh cửa đã bị đạp toang ra, tàn tích của cuộc cách mạng trước đó bốn năm, luồn giữa những chiếc giường tầng gỉ sét. Tường phòng lỗ chỗ vết đạn, những con bồ câu làm tổ trong góc tường và ống lò sưởi đập cánh bay loạn xạ. Fazil chỉ tôi xem hai chiếc giường tầng trên cạnh nhau: "Đây là giường tôi, giường kia của Necip. Để những người khác không bị thức giấc khi chúng tôi thủ thỉ, đôi khi chúng tôi nằm cùng giường, cùng ngắm bầu trời sao và nói chuyện với nhau."
Qua khe hở giữa một tấm kính bị vỡ có thể thấy những bông tuyết lớn chầm chậm rơi trong ánh sáng từ một ngọn đèn đường.
Tôi ngắm nhìn chăm chú và sùng kính.
Mãi rất lâu sau Fazil mới cất tiếng: "Và đây là tầm nhìn từ giường Necip." và chỉ vào một lối đi nhỏ xíu bên dưới. Tôi nhìn xuống một lối đi rộng hai thước, có lẽ không thể gọi là ngõ, kẹp giữa ngân hàng nông nghiệp và bức tường hậu không cửa sổ của một nhà hàng xóm. Một chiếc đèn ống trên lầu nhà băng tỏa ánh sáng tím xuống nền đất lầy lội. Người ta đặt một tấm bảng đỏở giữa lối đi với dòng chữ "Cấm đi" để tránh nhầm lẫn lối đi với đường phố. Tận cuối lối đi - mà Fazil nói rằng Necip đã lấy cảm hứng từ đó cho khung cảnh "Tận cùng thế giới" - có một cái cây đen trụi lá; đúng lúc chúng tôi nhìn ra thì nó sáng đỏ lên một giây như bốc cháy. "Đèn quảng cáo màu đỏ của hiệu ảnh Hừng Sáng bị hỏng từ bảy năm nay."Fazil thì thầm. "Thỉnh thoảng nó nháy sáng lên rồi lại tắt. Từ giường Necip trông ra, gốc cây trúc đào kia tựa như bắt lửa. Đôi khi Necip mơ về hình ảnh đó cho đến sáng và thả hồn mình vào tưởng tượng. Nó gọi những gì mình nhìn thấy là 'thế giới kia' và thỉnh thoảng sau một đêm mất ngủ như thế lại nói với tôi: 'Tớ đã quan sát thế giới kia suốt đêm!' Nó đã kể lại chuyện đó với bạn ông, nhà thơ Ka, và ông ấy đưa ý ấy vào bài thơ của mình. Khi xem băng video, tôi nhận ra ngay điều đó, vì vậy tôi đưa ông tới đây. Nhưng bạn ông đặt đầu đề bài thơ 'Nơi không có Allah' là một sự xúc phạm Necip."
"Tôi tin chắc Necip đã thuật lại cho Ka hình ảnh này là 'Nơi không có Allah'" tôi trả lời.
"Tôi không thể tin là Necip đã chết như một người vô thần,"Fazil nói dè dặt. "Mặc dù quả là nó vẫn có những hoài nghi."
"Cậu không nghe thấy tiếng Necip trong mình nữa à?" tôi hỏi. "Cậu không sợ dần dần biến thành người vô thần mà không biết, như người đàn ông trong truyện à?"
Fazil không hài lòng thấy tôi biết những hoài nghi mà trước đây bốn năm cậu ta đã kể cho Ka hay. "Bây giờ tôi đã có vợ, và một đứa con," cậu nói. "Tôi không quan tâm đến mấy chuyện ấy như ngày xưa nữa." Tuy nhiên cậu hối hận ngay vì đã đối xử với tôi như với một người từ phương Tây tới với ý định dụ dỗ cậu theo chủ nghĩa vô thần. "Ta nói chuyện ấy sau,"Fazil thân mật nói. "Bố vợ tôi đợi chúng ta đến ăn, ta không nên đến muộn."
Tuy vậy trước khi xuống tầng dưới cậu vẫn chỉ cho tôi những mảnh vỡ của chai Raki và mấy chiếc ghế đẩu trong góc phòng làm việc rộng rãi ngày xưa của viên lãnh sự Nga. "Z. Tay Sắt và đội đặc nhiệm của hắn còn trụ lại đây mấy hôm sau khi đường thông trở lại và giết thêm nhiều người Hồi giáo chính trị và người Kurd theo chủ nghĩa dân tộc." Cho đến phút ấy tôi đã cố quên được chi tiết này, nó khiến tôi sợ, tôi không muốn nhớ đến những giờ cuối cùng của Ka ở Kars.
Con chó đen thui đợi chúng tôi ở cổng và đi theo đến tận khách sạn.
"Ông đã mất vui,"Fazil nói. "Tại sao vậy?"
"Trước bữa ăn cậu lên phòng tôi nhé? Tôi muốn đưa cậu một thứ."
Khi lấy chìa khóa ở chỗ Cavit, tôi nhìn qua khe cửa để ngỏ vào phòng Turgut Bey sáng đèn, bàn ăn đã bày biện xong. Tôi nghe tiếng khách khứa nói chuyện và cảm thấy Ipek đã có mặt.
Trong vali tôi có bản sao do Ka chụp lại những lá thư của Necip viết cho Kadife trước đây bốn năm. Tôi đưa chúng cho Fazil. Về sau tôi mới hiểu ra, tôi làm việc ấy để hồn ma của Necip ám ảnh cậu ta, hệt như hồn ma của bạn tôi vẫn làm tôi xáo động.
Trong khi Fazil ngồi ở mép giường đọc thư, tôi lấy một cuốn vở của Ka trong vali và xem lại hình tinh thể tuyết mà tôi đã thấy trước đó ở Frankfurt. Thế là tôi được tận mắt trông thấy những gì lẽ ra đã phải biết từ lâu trong thâm tâm. Ka đặt bài thơ "Nơi không có Allah" đúng lên trục HỒI ỨC. Có nghĩa là ông đã đi vào nhà ngủ có Z. Tay Sắt đang ở đó, nhìn qua cửa sổ của Necip và phát hiện ra nguồn gốc thực sự của "khung cảnh" đó ngay trước khi rời khỏi Kars. Những bài thơ mà ông đặt trên trục HỒIỨC đều nói về kỷ niệm riêng về Kars của Ka hoặc về thời thơ ấu. Vậy là rốt cuộc tôi đã tin một điều mà cả Kars đã tin chắc từ lâu: sau khi không thuyết phục được Kadife ở Nhà hát nhân dân, bạn tôi đã đến nhà ngủ này để tiết lộ nơi trú ẩn của Lam cho Z. Tay Sắt đang đợi ở đó, trong khi Ipek bị khóa trong phòng ông.
Tôi tin chắc là trông mình cũng ngơ ngác như Fazil lúc ấy.
Có thể nghe bập bõm tiếng khách khứa ở phòng dưới, tiếng thở dài sầu muộn của thành phố Kars từ ngoài phố vọng vào. Fazil và tôi cả hai đều im lặng đắm chìm trong ký ức riêng, cúi tình trước sự tồn tại áp đảo của những nguyên bản đam mê hơn, phức tạp hơn và hiện thực hơn của mình.
Tôi nhìn ra cửa, ngắm tuyết rơi và nói với Fazil, ta phải đi thôi Fazil đi trước, vai rũ xuống như vừa gây một tội ác. Tôi nằm ra giường và tưởng tượng Ka nghĩ gì trên đường từ cửa Nhà hát nhân dân đến nhà ngủ, cảnh ông không nhìn nổi vào mắt Z. Tay Sắt trong khi nói chuyện, cùng lên đường đến đó với nhóm tập kích vì không biết địa chỉ, đứng từ xa miêu tả ngôi nhà nơi Lam và Hande ẩn náu. Những hình dung đó khiến tôi thật sự đau buồn. Hay là còn tệ hơn? Liệu có thể nào gã "tiểu thuyết gia thư ký" đang ngấm ngầm hởi dạ trước sự sa ngã của thi sĩ cao siêu?
Nhưng càng nghĩ thế chỉ tổ làm tôi thêm căm ghét mình hơn, vậy nên tôi vội hối mình nghĩ sang chuyện khác.
Đi xuống nhà Turgut Bey theo lời mời của ông, tôi còn bối rối hơn nữa bởi sắc đẹp của Ipek. Tôi xin nhắc đến buổi tối ấy một cách ngắn gọn. Giám đốc Sở bưu chính Recai Bey - con người văn minh quan tâm đến hồi ký và sách vở nói chung - Serdar Bey, Turgut Bey và tất cả mọi người đối xử với tôi cực kỳ thân thiện, trong khi tôi uống quá nhiều. Cứ mỗi lần ngắm nhìn Ipek ngồi đối diện là có gì đó trong tôi tan vỡ. Tôi ngượng ngùng xem mình được phỏng vấn trong chương trình thời sự, hoa tay hoa chân vụng về. Như một phóng viên mệt mỏi và không tin vào công việc của mình, tôi lấy máy thu âm luôn mang theo người trong thời gian ở Kars ghi lại các cuộc đàm đạo với chủ nhà và khách khứa khác về lịch sử Kars, công tác làm báo ở Kars hoặc đêm nổ ra cách mạng trước đó bốn năm. Vừa ăn món xúp đậu của Zahide nấu, tôi vừa cảm thấy mình đang trong một tiểu thuyết về tỉnh lẻ hồi thập kỷ bốn mươi. Tôi nhận thấy Kadife chín chắn hơn và trầm lặng hơn sau khi ra tù. Không ai nhắc đến Ka - và cái chết của ông - khiến tôi tuyệt vọng hơn nữa. Giữa buổi Kadife và Ipek có lần đứng dậy để trông chừng thằng bé Ömercan đang ngủ trong phòng sau. Tôi toan theo chân họ song văn sĩ của chúng ta - vốn uống "như một nghệ sĩ" - đã say mèm đến nỗi không nhấc nổi chân nữa.
Mặc dù vậy tôi vẫn nhớ rõ một chi tiết trong buổi tối này.
Lúc đã rất khuya, tôi nói với Ipek là rất muốn xem phòng 203 của Ka ngày trước. Tất cả im lặng nhìn hai chúng tôi.
"Được," Ipek nói. "Ông đi với tôi!"
Cô lấy chìa khóa ở lễ tân. Tôi theo cô lên tầng. Cửa phòng mở. Rèm cửa, cửa sổ, tuyết. Mùi giấc ngủ, xà phòng và chút bụi bặm. Lạnh căm. Trong khi Ipek săm soi tôi một cách ngờ vực song vẫn thân thiện, tôi ngồi xuống mép giường, nơi bạn tôi từng sống những giờ phút hạnh phúc nhất đời mình, khi ông và chính người đàn bà này yêu nhau. Nếu đúng lúc này tôi chết ở đây? Tỏ tình với Ipek? Cứ đứng đây mà nhìn ra cửa sổ? Vâng, mọi người đợi ta ở bàn tiệc. Vâng, chúng ta sẽ xuống ngay bây giờ. Tôi nói mấy câu vô nghĩa khiến Ipek mỉm cười thích thú. Trước nụ cười dịu dàng của cô, tôi thốt ra những lời xúc động mà trong khi nói tôi nhớ là đã chuẩn bị chúng từ trước.
Khônggìtrongcuộcsốnglàmconngườihạnhphúctrừtìnhyêukể cảnhữngcuốntiểuthuyếtanhtaviếtrahaynhữngthànhphốanhtađến thăm...tôicôđơnquánếutôinóivớichịrằngtôimuốnởlạithànhphốnày bênchịsuốtđờithìchịnóisao?
"Ông Orhan," cô nói. "Tôi cũng định yêu Muhtar lắm nhưng không thành, tôi đã rất yêu Lam nhưng không thành, tôi tưởng mình sẽ rất yêu Ka nhưng không thành, tôi ước gì có một đứa con nhưng không thành. Tôi không tin mình sẽ yêu say đắm được ai đó nữa. Tôi chỉ muốn chăm sóc thằng cháu Ömercan nữa thôi. Tôi cảm ơn ông, cho dù chắc ông cũng không hẳn thực sự nghĩ vậy."
Tôi cảm ơn cô đã lần đầu không dùng chữ "anh bạn ông" mà nói ra tên "Ka". Tôi muốn hẹn cô trưa mai ở tiệm bánh ngọt Đời Mới, hoàn toàn chỉ để nói về Ka.Tiếc thay, cô bận, nhưng là một chủ nhà tử tế cô hứa sẽ cùng mọi người tối mai ra ga tiễn và chia tay tôi.
Tôi nồng nhiệt cám ơn cô và thú thực là không đủ sức quay lại bàn nữa (thêm nữa tôi sợ sẽ bật khóc). Tôi vật ra thường và thiếp đi ngay.
Sáng sớm tôi ra khỏi khách sạn, không người nào thấy và đidạo khắp Kars, đầu tiên với Muhtar, sau đó với Serdar và Fazil. Ít nhất thì hình ảnh tôi trong mục thời sự buổi tối trên tivi cũng làm dân Kars khá yên tâm nên tôi đã dễ dàng thu thập được một số chi tiết cần thiết cho cuốn sách. Muhtar giới thiệu tôi làm quen một ông dược sĩ về hưu, tổng biên tập của Ngọn giáo - tờ báo Hồi giáo chính trị đầu tiên của Kars với 75 ấn bản bán ra. Sau khi nghe kể về sự suy thoái của phong trào Hồi giáo bởi các biện pháp phi dân chủ và trường tôn giáo cũng không thu hút được nhiều học sinh như ngày xưa, tôi lại nhớ đến chuyện Necip và Fazil lập kế hoạch giết ông già dược sĩ, vì ông này đã hai lần hôn Necip một cách kỳ quái. Cả ông chủ khách sạn Vườn Hoa Kars từng hớt lẻo về khách của mình với Sunay nay cũng viết cho báo này. Khi người ta kể chuyện cũ, ông nhắc tôi nhớ đến một chi tiết mà tôi suýt quên: kẻ sát hại ông hiệu trưởng đại học sư phạm trước đây bốn năm may sao, không phải người ở Kars. Ngoài những hình ảnh ghi lại trong khi diễn ra hành động đẫm máu ấy. danh tính anh ta, một người làm quán trà ở Tokat, còn được xác định bởi bản nghiên cứu đạn đạo của Ankara, vì vũ khí ấy cũng được sử dụng trong một vụ giết người khác và người ta đã bắt được chủ sở hữu vũ khí. Người đàn ông sau khi khai Lam đã mời anh ta đến Kars đã được xác nhận trước tòa là bị bệnh thần kinh. do vậy bị đưa vào bệnh viện tâm thần Bakirkôy ba năm; sau đó anh ta được thả, chuyển đến Istanbul, mở quán trà Vườn Hoa Tokat, viết chuyên mục cho một tờ báo ủng hộ các thiếu nữ trùm khăn.
Có lẽ phong trào đối kháng của nhóm thiếu nữ trùm khăn ở Kars trước đây bốn năm suy yếu dần sau khi Kadife để lộ tóc ra, và nếu sau này có dấu hiệu phục hồi thì cũng không mạnh như ở Istanbul vì những người trung thành với ý tưởng ấy đã bị đuổi khỏi trường đại học hoặc chuyển sang các trường khác trong nước.
Gia đình Hande cự tuyệt không tiếp tôi.
Do những bài hát được trình bày trong những ngày cách mạng trở thành nổi tiếng khắp nơi, nhân viên cứu hỏa với giọng hát khỏe ngày xưa nay là ngôi sao trong chương trình "Bài ca từ biên giới Thổ" phát hàng tuần trên Truyền hình biên giớiKars.Chương trình này được thu tối thứ Ba và phát ra vào cuối chiều thứ Sáu. Khi biểu diễn, ông được người bạn thân đệm đàn dây saz. Đó là nhân viên thường trực yêu nhạc của bệnh viện Kars và khách quen tại bí thất của trưởng lão Saadettin. Nhà báo Serdar cũng giới thiệu tôi với "Bốn mắt", cậu bé đã lên sân khấu trong đêm nổ ra cách mạng. Sau đó bố cậu cấm cậu tham gia diễn kịch ở trường. Hôm nay đó là một chàng trai chững chạc, tuy vẫn làm nghề giao báo. Nhờ anh ta mà tôi biết những người xã hội chủ nghĩa chuyên đọc báo chí in ở Istanbul nay đang làm gì: vẫn luôn kính trọng - như từ xưa đến nay - cuộc đấu tranh sinh tử của người Hồi giáo chính trị và người Kurd dân tộc chủ nghĩa với nhà nước, thảo ra những nghị quyết nửa vời không ai thèm đọc. và vỗ ngực khoe những gian khổ và chiến công ngày xưa. Hầu như mỗi người mà tôi tiếp chuyện đều có vẻ mong đợi một người hùng giàu tinh thần hy sinh sẽ ra tay cứu mọi người trước nạn thất nghiệp, nghèo đói, tham nhũng và đổ máu. Và do tôi là một tiểu thuyết gia ít nhiều có tên tuổi nên cả thành phố đánh giá tôi bằng thước đo tưởng tượng dành cho nhân vật vĩ đại đó, họ khiến tôi cảm nhận rằng họ không ưa gì một số thói tật mà tôi đã mắc phải ở Istanbul: tính phiêu lãng vô lo, chỉ tập trung vào việc riêng, và tật đãng trí. Đáng lẽ tôi còn theo ông thợ may Maruf về nhà sau khi ngồi cùng ông ở quán trà Thống Nhất và nghe hết chuyện đời của ông, để làm quen với các cháu ông và uống rượu với chúng, rồi thì phải ở lại thành phố thêm hai hôm nữa để thuyết trình ở buổi họp do các môn đệ trẻ của Atatürk tổ chức vào các tối thứ Tư, hút hết những điếu thuốc lá được người ta thân mật mời và hàng trăm tách trà (mà tôi cũng cố làm được một phần). Đồng đội của bố Fazil trong quân ngũ, một người quê Varto, kể trong bốn năm qua nhiều người Kurd dân tộc chủ nghĩa đã bị giết hoặc tống vào ngục, và không ai theo du kích nữa. Không một ai trong số những thanh niên có mặt tại buổi họp ở khách sạn Châu Á còn ở lại thành phố trừ đứa cháu thiện cảm và mê cácược của Zahide đã giới thiệu tôi với những người mê chọi gà. Và tôi uống luôn hai cốc trà đựng Raki được mời ở đó.
Trời đã tối, trước giờ tàu khởi hành rất lâu tôi chầm chậm đi như một du khách quá đỗi cô đơn và bất hạnh về khách sạn dưới trời mưa tuyết, lên phòng mình xếp hành lý. Khi đi qua cửa bếp, tôi làm quen mật vụ Saffet đang được Zahide múc cho một đĩa xúp như mọi tối. Ông ta hôm nay đã về hưu, biết tôi là ai vì tối qua có xem ti vi và muốn nói với tôi vài câu. Chúng tôi cùng nhau đến quán trà Thống Nhất, và Saffet kể rằng ông vẫn làm việc theo hợp đồng cho nhà nước. Ở Kars, ai làm mật vụ thì không bao giờ có điểm dừng, ông mỉm cười kể, các tổ chức an ninh ở thành phố rất tò mò muốn biết tôi sẽ kích động chuyện gì trong chuyến đi này (những "vụ Armenia" ngày xưa, cuộc nổi dậy của người Kurd, các nhóm toàn thống, đảng chính trị?) và ông sẽ kiếm được ít tiền nếu tôi thật thà kể cho ông nghe đôi điều.
Tôi ngập ngừng kể cho ông về Ka, nhắc lại chuyện ông theo Ka sát từng bước trước đây bốn năm và hỏi ông chuyện Ka.
"Ông ấy là người rất tốt, yêu mọi người và chó," Saffet nói.Nhưng trong tâm trí thì ông ấy ở Đức. Một người rất kín đáo.Hôm nay ở đây chẳng ai ưa Ka nữa cả."
Chúng tôi lặng yên một hồi. Tôi thận trọng hỏi ông có biết gì về Lam không và được biết là cách đây mấy năm có một số người từIstanbul tới đây hỏi về Lam, giống như tôi về đây vì Ka.
Nhưng kẻ thù Hồi giáo chính trị của nhà nước đã cố đi tìm mộ Lam vô ích, xác anh ta chắc đã bị vứt từ máy bay xuống biển để tránh biến nấm mộ thành điểm hành hương. Fazil đến ngồi cùng bàn chúng tôi và kể, cậu cũng nghe được những tin đồn tương tự và thấy nói là những thanh niên Hồi giáo chính trị ấy đã trốn sang Đức, vì họ nhớ rằng Lam đã từng làm một cuộc hành hương tới đó. Ở Berlin họ lập ra một nhóm Hồi giáo chính trị cực đoan phát triển mạnh; tờHành hương xuất bản ở Đức in trên trang nhất tuyên ngôn của họ thề sẽ trả thù những người chịu trách nhiệm về cái chết của Lam. Có thể phỏng đoán rằng chính họ đã giết Ka.
Tôi nhìn ra tuyết rơi ngoài trời và hình dung ra bản thảo viết tay duy nhất cho tập thơ Tuyết của bạn tôi nằm trong tay một phần tử của nhóm Hành hương ở Berlin.
Một mật vụ khác ra ngồi cùng bàn nói với tôi rằng mọi tin đồn đại về ông ta đều là chuyện bịa. Ông ta đã yêu chân thành Teslime và chắc chắn sẽ cưới cô làm vợ nếu cô không tự sát. Ông ta khẳng định mình không "thong manh" và không hiểu vì sao Teslime lại không chịu cưới mình. Tôi chợt nhớ ra chuyện Saffet tịch thu thẻ học sinh của Fazil ở thư viện thành phố trước đây bốn năm. Ka đã ghi lại trong vở, nhưng chắc họ đã quên vụ này từ lâu. Khi Fazil và tôi trở ra đường phố phủ tuyết, hai cảnh sát ấy cũng theo cùng - tôi không rõ vì họ có cảm tình với chúng tôi hay vì thói quen nghề nghiệp - và kêu ca về cuộc sống, sự trống trải, rắc rối về tình yêu và tuổi già. Họ không đội mũ, và tuyết đọng trên mái tóc bạc lưa thưa của họ mà không tan đi. Tôi hỏi, thành phố trong bốn năm qua có nghèo đi hoặc xơ xác hơn. Fazil nói, người ta xem tivi nhiều hơn, người thất nghiệp ngồi nhà thay vì ra quán trà, xem phim nước ngoài miễn phí qua chảo vệ tinh. Ai cũng tiết kiệm để đủ tiền mua một ăng-ten vệ tinh màu trắng to như cái chảo lắp cạnh cửa sổ - sự thay đổi duy nhất trong cơ cấu thành phố. Mỗi người chúng tôi mua ở hẻm Đời Mới một bánh sừng bò nhân hồ đào ngon tuyệt - từng là cái giá phải trả cho mạng sống của ông hiệu trưởng đại học sư phạm - và ăn thay cho bữa tối.
Sau khi hai cảnh sát chắc chắn rằng chúng tôi ra ga và chia tay, chúng tôi đi trên đường phố Kars u sầu, thoáng vài ánh đèn tuýp dưới hàng cây dẻ và trúc đào với những cành trĩu tuyết, qua mặt tiền các cửa hiệu đóng cửa, quán trà không khách, nhà Armenia bỏ hoang và các tấm cửa kính bày hàng đóng băng. Do không có cảnh sát bám đuôi, chúng tôi rẽ vào những đường ngang. Tuyết hầu như đã ngừng rơi nay lại đổ mạnh hơn. Đường phố không người và phút chia tay Kars đau buồn khiến tôi cảm thấy có lỗi, tựa như tôi bỏ lại Fazil ở thành phố hoang này. Một con chim sẻ chập chờn liệng ra sau tấm màn băng rủ xuống từ hai cành trúc đào trần trụi bay giữa những bông tuyết chậm chạp rơi, lướt trên đầu chúng tôi rồi biến mất. Đường phố trống trơn dưới một lớp tuyết mới và mềm lặng im đến nỗi chúng tôi không nghe được tiếng động nào ngoài hơi thở của mình ngày càng to vì mệt, và tiếng chân bước. Trong một đường phố chạy giữa nhà ở và cửa hiệu, sự im lặng này tạo ấn tượng như ta đang di chuyển trong mơ.
Có một lúc tôi dừng bước giữa đường và dõi mắt theo một bông tuyết mà tôi chọn ra giữa trời cho đến khi nó chạm đất, đúng lúc Fazil chỉ cho tôi một tấm áp phích bợt bạt treo từ nhiều năm bên trên cửa quán trà Chào Mừng.
Tuyết Tuyết - Orhan Pamuk Tuyết