Nếu bạn cứ chằm chằm nhìn vào mặt xấu của một ai đó sẽ làm anh ta càng trở nên tồi tệ hơn. Nhưng nếu khuyến khích anh ta vươn tới những điều hay mà anh ta có thể, chắc chắn anh ta sẽ làm được.

Johann Goethe

 
 
 
 
 
Tác giả: Orhan Pamuk
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Quang
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bach Ly Bang
Số chương: 46
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2494 / 47
Cập nhật: 2015-08-04 21:17:31 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3: Hãy Bỏ Phiếu Cho Đảng Của Allah!
ghèo đói và lịch sử
Thời thơ ấu của Ka không biết đến nghèo đói: cuộc sống trung lưu ở Nişantaşi với người bố luật sư, người mẹ nội trợ, đứa em gái được cưng chiều, gia nhân trung thành, đồ gỗ đầy phòng, radio và rèm cửa; nghèo đói là một cái gì đó bên kia bức tường ngôi nhà bên ngoài thế giới. Thế giới bên ngoài trong trí tưởng tượng non nớt của Ka có một tính chất siêu hình, bởi nó được bao bọc trong một sự tối tăm nguy hiểm và không sờ nắn được. Nhưng cho dù ấn tượng về nó vẫn còn nguyên trong phần đời còn lại của Ka, cũng khó tin được rằng chính khát vọng trở lại thời thơ ấu đã thôi thúc ông đột ngột nảy ra quyết định rời Istanbul để đến Kars.
Dù sinh sống xa đất Thổ Nhĩ Kỳ, Ka vẫn biết rằng trong những năm qua Kars là vùng nghèo khổ nhất và bị quên lãng nhất trong nước. Có thể hình dung sự việc như sau: sau khi từ Frankfurt quay về, trong khi đi dạo chơi với các bạn từ hồi thơ ấu ông thấy mọi đường phố, cửa hiệu, rạp phim ở Istanbul đã hoàn toàn thay đổi, và cái nào còn chưa biến mất thì đã đánh lạc đi phần hồn của chúng. Điều đó có lẽ đã thức dậy trong ông ước vọng đi tìm thời thơ ấu và sự tinh khôi ở nơi khác, và thế là ông lên đường đi Kars để bước ra thế giới bên ngoài, vượt qua những ranh giới của cuộc sống trung lưu hồi nhỏ. Và quả là được nhìn thấy giày thể thao hiệu Gislaved mà ông vẫn đi hồi bé và sau đó không bắt gặp ở Istanbul nữa, các lò sưởi mác Vezüv và những hộp tròn nổi tiếng đựng pho mát Kaşar chia thành sáu miếng hình tam giác - ấn tượng đầu tiên của mọi đứa trẻ về Kars - trong cửa kính bày hàng ở trung tâm thương mại; tất cả làm ông hạnh phúc đến nỗi thậm chí quên cả mấy cô gái tự sát và thấy thư thái trong lòng.
Sau khi chia tay với Serdar Bey và nói chuyện với những đại diện lãnh đạo của đảng Bình đẳng dân tộc, gần trưa ông đi một mình vào thành phố dưới những bông tuyết xốp. Trong khi buồn rầu đi từ phố Atatürk, qua cầu đến mấy quận nghèo kiết trong bầu không khí tĩnh mịch chỉ đôi lúc xáo động vì mấy tiếng chó sủa, ông trào nước mắt khi cảm thấy mình là người duy nhất nhận biết tuyết đang rơi xuống các sườn đồi xa xa khuất tầm mắt, rơi xuống pháo đài có từ triều đại Seljuq và khu gecekondu không khác gì các công trình lịch sử hoang phế xung quanh, tựa như định phủ kín thời đại ấy cuốn vào quá khứ vô tận. Ông ngắm nhìn các học sinh cấp ba chơi bóng đá trên một bãi trống dưới ánh đèn đường, cạnh sân chơi của quận Yusuf Paşa toàn những ghế đu đã bị tháo ra và cầu trượt đổ nát. Trong khi lắng nghe tiếng hò hét chửi rủa bạt đi trong tuyết của lũ choai choai, ông chợt cảm nhận rõ rệt trong quầng sáng vàng vọt của đèn đường trên cao và trong mưa tuyết, rằng cái xó xỉnh này mới xa vời và cô lập khỏi thế giới bên ngoài xiết bao, đến nỗi trong ông trỗi lên cảm giác về Thượng đế.
Trong khoảnh khắc đầu tiên, đó chưa hẳn là một cảm giác đậm đặc mà mới chỉ là một hình ảnh nhạt mờ, như sau khi đi lướt qua các phòng tranh trong bảo tàng định phục hồi lại một bức tranh nào đó trong trí nhớ mà vô ích. Nó có thể xuất hiện trong nháy mắt đấy nhưng chỉ để rồi biến mất ngay. Đây không phải lần đầu tiên Ka có cảm giác ấy. Ông lớn lên ở Istanbul trong một gia đình có tư tưởng cộng hòa thế tục, ngoài mấy giờ học về tôn giáo ở tiểu học ông không được dạy dỗ gì thêm về đạo Hồi. Những năm gần đây khi những cảm giác như lúc này thỉnh thoảng hiện lên, chúng cũng chẳng làm ông giật mình kinh sợ, mà ông cũng không coi đó là một cảm hứng thi ca đáng bỏ công lần theo. Cùng lắm thì trong đầu ông nảy nở ý nghĩ lạc quan rằng thế giới này là một chốn tươi đẹp.
Ông quay về phòng khách sạn cho ấm người lên và chợp mắt vài phút. Tràn ngập cảm giác hạnh phúc, ông giở xem mấy quyển sách về lịch sử Kars đem theo từ Istanbul. Và để chúng gợi ông nhớ đến những chuyện đã biết từ thời thơ ấu, quyện lẫn với những gì ông được nghe hôm nay.
Ngày xưa ở Kars từng có một lớp trung lưu sung túc. Cho dù thời ấy qua đã lâu, nó cũng từng chứng kiến khung cảnh giống như tuổi thơ Ka từng có: trong những dinh thự bề thế diễn ra các vũ hội và tiệc tùng kéo dài mấy ngày liền. Đó là nhờ vị thế ngày xưa của Kars trên những tuyến đường giao thương quan trọng tới Georgia. Tabriz, Caucasus và Tbilisi, và cũng nhờ thành phố nằm trên biên giới giữa để chế Ottoman và nước Nga Sa hoàng, hai vương quốc từng làm mưa làm gió vào thế kỷ trước, luôn lo lắng đặt những đội quân bảo vệ ở đây. Thời Ottoman, Kars là nơi quần tự đủ các chủng tộc: người Armenia đã xây nhà thờ trước đây hàng nghìn năm mặc dù cộng đồng đông đảo ngày xưa giờ đã vắng bóng; người Ba Tư chạy trốn quân Mông Cổ và sau này là Iran, người Hy Lạp sót lại từ các triều đại Byzantine và Pontus, người Georgia, người Kurd và các bộ tộc Çerkez. Năm 1878, ngôi thành năm trăm năm thất thủ dưới tay quân Nga, và một phần tín đồ Hồi giáo bị xua đuổi, nhưng sự sung túc và phong phú của thành phố vẫn tiếp tục tồn tại. Dưới thời Nga, các kiến trúc sư của Sa hoàng xây trên bình nguyên phía Nam sông Kars một đô thị mới, bao gồm năm tuyến phố chính chạy song song và các ngõ cắt vuông góc - một quy hoạch chưa từng thấy trong các thành phố phương Đông. Trong khi lâu đài của các Paşa, bể tắm và những công trình kiểu Ottoman ở quận phía dưới thành cổ đổ nát hoang phế thì thành phố mới, được xây lên với tài lực mạnh mẽ, ngày càng giàu hơn. và Sa hoàng Alexander đệ tam thường xuyên lui tới đi săn cũng như thăm người tình bí mật của mình. Đó cũng là một phần trong kế hoạch của người Nga bành trướng về phía Nam, tới Địa Trung Hải, nhằm kiểm soát con đường thương mại.
Hai mươi năm trước trong chuyến đi đến Kars, Ka đã lặng người trước thành phố sầu tư với những đường phố lát đá phiến to bản, những hàng cây trúc đào và cây hạt dẻ do Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ trồng. Khác hẳn những đô thị Ottoman với những ngôi nhà thô kệch đã cháy trụi và hoang tàn sau nhiều cuộc chiến bộ tộc và hoạt động của những người theo đường lối dân tộc.
Sau những cuộc chiến tranh, tàn sát và nổi dậy liên miên, sau khi sa vào tay người Armenia, người Nga và thậm chí có lần cả người Anh, sau khi Kars trở thành quốc gia độc lập trong thời gian ngắn không ai tranh giành ngay sau Thế chiến thứ nhất, tháng Mười 1920 quân Thổ Nhĩ Kỳ dưới sự chỉ huy của Kâzim Karabekir tiến vào thành phố - tượng kỷ niệm ông nay ở quảng trường trước nhà ga. Tái chiếm được Kars sau bốn mươi ba năm, người Thổ tiếp quản luôn thiết kế đô thị của Sa hoàng và chuyển đến ở thành phố mới. Văn hóa do các Sa hoàng mang đến rất phù hợp với niềm phấn khích thời cộng hòa đối với các hình mẫu phương Tây, do vậy người Thổ tiếp nhận nó và đặt tên năm phố chính do người Nga xây dựng theo các Paşa lớn trong lịch sử Kars. vì họ không biết đến vĩ nhân nào khác ngoài các chiến binh.
Cựu thị trưởng Muzaffer Bey của đảng Dân tộc đã hăng hái và tự hào kể cho Ka nghe về những năm Tây hóa ấy. Trong các tòa nhà cộng đồng tổ chức vũ hội, và dưới cây cầu sắt mà sớm nay khi đi qua Ka thấy có mấy đoạn gỉ sét diễn ra các cuộc thi trượt băng nghệ thuật. Lớp trung lưu cộng hòa ở Kars nồng nhiệt vỗ tay đón nhóm diễn viên sân khấu từ Ankara về diễn "dipe làm vua, quên mất rằng chiến tranh chống Hy Lạp chưa lùi xa đến hai chục năm. Lớp giàu có ngày xưa trong áo choàng cổ lông thú đi dạo trên xe trượt tuyết trang điểm hoa hồng và vàng lá do những con ngựa Hungary mập mạp kéo. Người ta nhảy những điệu nhảy thời thượng nhất trong tiếng nhạc dương cầm, phong cầm và clarinette ở vũ hội tổ chức tại Công viên quốc gia để chúc tụng đội tuyển bóng đá quốc gia. Các cô gái Kars mùa hè mặc áo ngắn tay, thoải mái lượn xe đạp trong thành phố. Lũ con trai đi giày trượt băng tới trường trong mùa đông và, như rất nhiều người khác phấn khởi đón mừng nền cộng hòa, đeo cà vạt khi mặc áo vest.
Vài năm sau, khi luật gia Muzaffer Bey trong không khí tranh cử đầy phấn khích ở Kars - ông là ứng viên ghế thị trưởng - cũng thắt cà vạt như hồi còn trẻ, các bạn trong đảng khuyên rằng "trò rởm"ấy sẽ làm ông mất phiếu bầu, song ông đã không nghe họ.
Hình như có mối liên quan nào đó theo Muzaffer Bey, giữa việc những mùa đông dài lê thê dần dần mất đi và sự tụt dốc, nghèo khổ, bất hạnh gia tăng của thành phố. Sau khi nhắc đến những mùa đông đẹp trong quá khứ và các diễn viên Ankara bán khỏa thân với khuôn mặt đánh phấn diễn kịch Hy Lạp, ông cựu thị trưởng quay sang nói về tác phẩm sân khấu mang tính cách mạng mà đám thanh niên, trong đó có ông, hồi cuối thập kỷ bốn mươi trình diễn ở Nhà hát nhân dân: "Vở kịch nói về sự thức tỉnh của một cô gái trẻ trong chúng ta đã trùm khăn đen cả đời và đến cuối vở kịch quyết định để đầu trần, đem chiếc khăn đốt trên sân khấu." Họ đã đi hỏi khắp Kars nhưng không tìm đâu ra một chiếc khăn đen cho buổi diễn, sau đó phải gọi điện tới Erzurum để kiếm về một chiếc. "Hôm nay, ngoài đường phố ở Kars đầy những phụ nữ với mạng che mặt hay khăn trùm đầu." Muzaffer Bey nói thêm. "Và vì không được phép đến trường với biểu tượng của Hồi giáo chính trị trùm trên đầu, họ theo nhau tự tử."
Ka cố nén lại những câu hỏi luôn chực thoát ra khỏi miệng mỗi khi ở Kars hay nơi khác phải đối diện với thế thượng phong của Hồi giáo chính trị hay vụ các "Cô gái trùm khăn". Ông cũng chẳng bình luận chuyện tại sao thanh niên cần hăng máu diễn vở kịch phản đối mạng che mặt dù ở Kars cuối những năm bốn mươi không có phụ nữ nào trùm mạng. Ka không hề để ý đến phụ nữ trùm đầu hay che mặt mà ông nhìn thấy ban ngày ngoài phố, vì trong vòng một tuần mới trở về quê hương ông chưa thể có ý thức và phản xạ như những nhân sĩ thế tục vốn ghi nhận ngay có bao nhiêu phụ nữ trùm khăn và lập túc rút ra kết luận chính trị. Thêm vào đó, từ nhỏ đến giờ phụ nữ trùm khăn hay che tóc bằng kiểu nào đó không có gì quá lạ với ông cả. Trong giới trung lưu Tây hóa của Istanbul, nơi Ka sống thời ấu thơ, vẫn có những phụ nữ trùm khăn, hoặc là người từ ngoại ô, ví dụ như từ Kartal, vào thành phố bán nho hoặc là vợ ông hàng sữa. đại loại là thuộc tầng lớp thấp.
Sau này tôi còn nghe nhiều chuyện về các chủ nhân ngày xưa của khách sạn Lâu Đài Tuyết, nơi Ka đến trọ: một giáo sư đại học chuộng phương Tây mà Sa hoàng thay vì đày đến Siberia đã chọn cho một nơi nhân đạo hơn, một lái buôn gia súc người Armenia, rồi nơi nương náu của một cô nhi viện thuộc giáo hội chính giáo Hy Lạp... Giống như các công trình khác xây cùng thời ở Kars, ngôi nhà ngót trăm tuổi này có lò sưởi xây chìm trong tường để bốn cạnh ngoài của nó đồng thời sưởi ấm cả bốn phòng, gọi là Pech. Song vì thời Cộng hòa không người Thổ nào biết sử dựng loại lò sưởi Nga này nên ông chủ người Thổ đầu tiên, người cải tạo ngôi nhà thành khách sạn, đã đặt một chiếc lò sưởi bằng đồng thau to đùng bên cửa ra sân. Mãi về sau hệ thống trước kia mới được phát hiện ra và khôi phục lại.
Ka đang duỗi người trên giường và nghĩ ngợi mơ màng thì có tiếng gõ cửa. ông để nguyên áo choàng như khi lên giườngvà dậy mở cửa. Cậu lễ tân Cavit, thường suốt ngày ngồi cạnh lò sưởi xem tivi, đang đứng trước cửa và nói: "Lúc nãy tôi quên mất: có ông Serdar Bey, chủ tờ Thành phố biên giới, rất mong gặp ông."
Họ cùng đi xuống tiền sảnh. Đúng lúc Ka định ra khỏi khách sạn thì ông sững lại: Ipek vừa bước vào sảnh qua cửa cạnh quầy lễ tân; và trông cô còn xinh đẹp hơn nhiều so với trong hồi ức của Ka. Đột nhiên ông nhớ lại thời họ còn là sinh viên cô đẹp đến mức nào, và thình lình tim ông đập rộn lên. Phải, đúng là xưa kia cô đẹp như thế đó. Như hai tiểu tư sản Tây hóa từ Istanbul, trước tiên họ bắt tay nhau, sau đó ngập ngừng một thoáng rồi vươn tới, ôm nhau hôn lên má mà không để thân thể chạm nhau.
Ipek hơi lùi lại và nói với vẻ cởi mở tới mức Ka phải ngạc nhiên: "Tôi biết là anh ở đây. Taner có gọi điện kể cho tôi biết." Cô nhìn thẳng vào mắt Ka.
"Tôi tới đây vì kỳ bầu cử địa phương và những cô gái trẻ tự sát."
"Anh ở đây bao lâu?"Ipek hỏi. "Cạnh khách sạn Châu Á có tiệm bánh ngọt Đời Mới. Bây giờ tôi có việc bận với bố tôi. Một rưỡi mình có thể gặp nhau ở đó nói chuyện được."
Ka cảm thấy tình cảnh hơi kỳ khôi, vì nó không diễn ra ở Istanbul, đại để ở quận Beyoğlu chẳng hạn, mà lại ở Kars. Ông cũng không rõ bao nhiêu phần trăm sự xúc động là do sắc đẹp của Ipek gây ra. Sau khi ra đường và đi về phía tòa soạn dưới trời tuyết, ông nghĩ: mình mua cái áo choàng này thật đúng sách.
Trên đường đi, trái tim luôn tin chắc vào những cảm giác của mình cả quyết với ông thêm hai điều mà khối óc ông không bao giờ chịu thú nhận. Thứ nhất, Ka không từ Frankfurt về Istanbul chỉ để chịu tang mẹ, mà sau mười hai năm cô đơn ông muốn tìm một cô gái Thổ để kết hôn. Thứ hai, Ka từ Istanbul về Kars, vì ông thầm mong mỏi rằng cô gái đó chính là Ipek.
Giả sử một người bạn có lòng đồng cảm sâu sắc nói ra trước mặt ông ý định thứ hai kia, Ka sẽ không chỉ không bao giờ tha thứ cho người ấy, mà còn suốt đời xấu hổ và tự dằn vặt mình, bởi phỏng đoán ấy đúng quá. Ka là một trong những nhà luân lý luôn tự giác ngộ mình rằng hạnh phúc lớn nhất của đời người là không làm gì mưu lấy hạnh phúc riêng tư cả. Hơn thế nữa, làm sao có thể dung hòa sự giáo dục Tây phương ưu tú của mình với chuyện ông đi tìm một người phụ nữ hầu như không quen biết để kết hôn?
Mặc dù vậy ông không thấy áy náy gì khi đến tòa soạn Thành phố biên giới, vì lần gặp gỡ đầu tiên với Ipek suôn sẻ hơn so với những gì ông tưởng tượng ra lúc ngồi xe buýt, cho dù ông không tự thú nhận điều đó.
Tòa báo Thành phố biên giới nằm cách một phố phía dưới khách sạn của ông ở phố Faikbey. Tổng diện tích phòng biên tập và nhà in cộng lại chỉ rộng hơn phòng khách sạn nho nhỏ của Ka một chút. Căn phòng ngăn đôi bởi một bức tường gỗ, trên đó treo hình Atatürk, lịch, mẫu in danh thiếp và thiệp cưới, ảnh chụp Serdar Bey cùng các nhân vật nhà nước cao cấp và những người Thổ nổi tiếng từng đến Kars, và số báo đầu tiên ra đời cách đây bốn mươi năm đóng trong khung. Đằng sau là tiếng máy in chạy điện có bánh đà kêu rộn rã, sản phẩm hơn một trăm năm tuổi do công ty Baumann ở Leipzigchế tạo, đã qua sử dụng một phần tư thế kỷ ở Hamburg, thời tự do báo chí sau khi công bố Hiến pháp đầu tiên được bán sang Istanbul và năm 1955, sau bốn mươi lăm năm phục vụ sắp được bán cho đồng nát thì mồ ma ông thân sinh của Serdar Bey chở tàu hỏa về Kars. Một cậu con trai của Serdar Bey đang nhấm nước bọt vào đầu ngón tay phải và đưa từng tờ giấy trắng vào máy in, tay trái khéo léo xếp các tờ đã in xong - khay nhận đã bị hỏng trước đây mười năm trong một cuộc cãi vã giữa hai anh em - và còn đủ thì giờ nháy mắt chào Ka. Người con trai thứ hai không giống bố như anh, mà lập tức khiến Ka nhớ đến mẹ anh ta, một người đàn bà mắt híp, mặt tròn xoe, thấp và béo.
Anh ta ngồi bên bàn dụng cụ đen nhẻm vì mực in, trước những ngăn kéo chia thành hàng trăm ô, xung quanh là các con chữ đủ cỡ bằng chì và mẫu in. Nhẫn nại và cẩn trọng như một nghệ sĩ thư pháp quên hết cảnh đời xung quanh, anh xếp bằng tay các quảng cáo cho số báo ba ngày sau đó.
"Anh thấy báo chí ở Đông Anatolia đấu tranh sinh tồn trong điều kiện nào chưa." Serdar Bey nói.
Đúng lúc ấy thì mất điện. Trong lúc máy in dừng chạy và nhà xưởng chìm vào bóng tối bí hiểm, Ka nhận ra màu trắng của tuyết rơi ngoài trời đẹp xiết bao.
"Được bao nhiều tờ rồi?" Serdar Bey hỏi. Ông châm một cây nến và mời Ka ngồi xuống chiếc ghế văn ở phía đầu phòng.
"Một trăm sáu mươi, bố ạ."
"Khi nào có điện thì con in ba trăm bốn mươi bản, hôm nay ta có nhóm diễn viên đến."
Báo Thành phố biên giới ở Kars được bán ở một điểm duy nhất đó là cửa hàng đối diện Nhà hát nhân dân; mỗi ngày có chừng hai chục người đến đó mua báo, nhưng như Serdar Bey tự hào kể, nhờ có những người đăng ký mua dài hạn mà tổng số ấn bản là ba trăm hai mươi. Hai trăm trong số đó là các công sở và doanh nghiệp ở Kars mà thỉnh thoảng Serdar Bey phải đăng tin khen ngợi thành công của họ. Ngược lại, tám mươi khách còn lại là các nhân vật "trọng đại và cao quý" của quốc gia tuy đã rời bỏ Kars đến sinh sống ở Istanbul nhưng vẫn không cắt mối liên hệ với thành phố.
Đã có điện trở lại. và Ka thấy trên trán Serdar Bey một mạch gân hằn lên giận dữ.
"Lúc tôi và anh chia tay nhau, anh đã gặp những kẻ không nên gặp và lấy những tin không nên lấy về thành phố biên giới của chúng tôi." Serdar Bey nói.
Ka hỏi: "Sao ông biết tôi đi đâu?"
"Tất nhiên cảnh sát theo chân ông", ông chủ báo giải thích. "Và vì lý do nghề nghiệp mà chúng tôi nghe lén cảnh sát trò chuyện qua điện đài. Chín mươi phần trăm tin tức trên mặt báo của chúng tôi là lấy từ tòa thống sứ và Sở cảnh sát. Toàn Sở cảnh sát biết là anh hỏi tất cả mọi người tại sao Kars lạc hậu và nghèo như vậy và tại sao các thiếu nữ ở đây tự sát."
Ka đã nghe rất nhiều lời giải thích cho sự tụt hậu của Kars.Ví dụ như thương mại với Liên Xô đi xuống hồi chiến tranh lạnh, trạm hải quan ở biên giới đóng cửa, bọn cộng sản làm mưa làm gió hồi những năm bảy mươi đe dọa và xua đuổi lớp người giàu, những ai cào cấu được chút vốn nào đều chuyển đi Istanhul và Ankara sạch, nhà nước và Allah đã quên mất xứ này, những xung đột triền miên giữa người Thổ và người Armenia...
"Tôi quyết định cho anh biết sự thật," Serdar Bey nói.
Nhờ đầu óc tỉnh táo và niềm lạc quan chưa hề thấy trong người từ nhiều năm nay. Ka hiểu ngay vấn đề chính là sự xấu hổ.Ở Đức trong nhiều năm ròng đó cũng là vấn đề chính của ông, nhưng ông đã giấu đi nỗi xấu hổ trước chính mình. Giờ chỉ vì Ka mang niềm hy vọng hạnh phúc trong lòng mà ông tự cho phép mình thú nhận sự thật này.
"Ngày xưa mọi người đều là anh em," giọng Serdar Bey như tiết lộ một bí mật,"nhưng từ mấy năm gần đây tất cả sinh ra kiểu nói: tôi là người Azerbaijan, tôi là người Kurd, tôi là người Terekeme. Tất nhiên ở đây có đủ chủng tộc sinh sống. Người Terekeme, chúng ta cũng gọi là Karapapaklà anh em của người Azerbaijan. Nhóm người Kurd - chúng tôi vẫn coi họ là bộ lạc - xưa kia chẳng biết gì về nền văn hóa Kurd cả. Những người còn lại từ thời Ottoman không vỗ ngực: tôi là ma cũ ở đây! Người Turkmenia, người Laz từ Ardahan, nạn kiều Đức dưới thời Sa hoàng, tất cả đều có mặt, nhưng chẳng ai làm ầm lên về nguồn gốc của mình. Đài phát thanh cộng sản ở Tbilisi đã rêu rao thứ tự hào dân tộc này vì họ có ý định chia rẽ và tiêu diệt Thổ Nhĩ Kỳ.Hôm nay ai cũng tự hào hơn - và nghèo hơn trước."
Serdar Bey kết luận là đã đủ gây ấn tượng cho Ka, ông chuyển đề tài. "Người Hồi đi gõ cửa từng nhà theo từng nhóm, tặng các bà nội trợ dụng cụ gia đình, nồi niêu, máy ép cam, hàng thùng xà phòng, tấm đại mạch và bột giặt, bắt thân với đám phụ nữ, lấy kim thêu chỉ vàng lên vai áo trẻ con để chống tà ma. Họ nói: hãy bỏ phiếu cho đảng của Allah - đảng Phồn vinh - và nói mọi cùng cực bần hàn chất nặng trên vai chúng ta đều sinh ra do đi chệch khỏi đường của Thượng đế. Đàn ông nói với đàn ông, đàn bà nói với đàn bà. Họ nhận được sự tin cậy của người thất nghiệp có lòng tự trọng bị tổn thương và đầy căm uất, họ đem niềm vui đến cho những người phụ nữ đang không biết tối nay ném gì vào nồi nấu, hứa sẽ đem thêm quà cáp và khiến họ thề thốt bỏ phiếu cho mình. Họ không chỉ nhận được sự tôn kính từ những người nghèo khổ nhất suốt ngày bị chà đạp, mà còn từ các sinh viên mỗi ngày chỉ được một đĩa xúp nóng vào bụng, từ công nhân, thậm chí cả thợ thủ công và doanh nhân, vì đám Hồi giáo ấy là những người chăm chỉ hơn, thật thà hơn và giản dị hơn cả.
Ông chủ báo Thành phố biên giớicho rằng thị trưởng bị giết ngày xưa bị ai nấy ghét không phải chỉ vì muốn bãi bỏ xe ngựa "lạc hậu" (lệnh này vì ông bị sát hại mà không để thi hành nữa), mà vì ông ta ăn hối lộ và tham nhũng. Nhưng các đảng cộng hòa cánh tả hay cánh hữu, vốn có những nợ máu từ xưa, đầu óc kỳ thị chủng tộc và dân tộc chủ nghĩa nên không từ một thủ đoạn cạnh tranh sát phạt nhau - đánh họ cũng không dựng nổi một ứng viên đủ mạnh tho chức thị trưởng. "Người ta chỉ tín nhiệm duy nhất sự trong sạch của ứng viên đảng của Allah." Serdar Bey nhận định. "Ông ấy là chồng cũ của Ipek Hanim, con gái ông Turgut Bey chủ khách sạn ông đang ở. Không phải đặc biệt thông minh. nhưng là người Kurd. Ở đây dân Kurd chiếm bốn phần mười dân số. Đảng của Allah sẽ thắng kỳ bầu cử thị trưởng này."
Tuyết rơi dày hơn, thức dậy trong Ka lần nữa cảm giác đơn côi; và sự đơn côi ấy đi kèm với nỗi sợ hãi phải chứng kiến khung cảnh mà ông đã trưởng thành và sinh sống ở Istanbul sắp kết thúc, thậm chí kết thúc cả cuộc sống kiểu Tây phương trên đất Thổ. Ở Istanbul ông thấy những đường phố thời thơ ấu đã biến dạng, những ngôi nhà cổ thanh nhã có từ đầu thế kỷ của bạn bè ông bị cào bỏ, những gốc cây ngày xưa bị để héo kiệt và cưa mất, những rạp chiếu bóng đóng cửa sau chục năm để biến thành dãy cửa hàng quần áo chật chội tối tăm. Điều đó không chỉ có nghĩa là chấm dứt thời thơ ấu của ông, mà cả giấc mơ một ngày nào đó quay về Istanbul sống. Ông cũng nghĩ đến chuyện em gái mình sẽ không dám ra phố nếu thiếu khăn trùm đầu, khi một chính phủ sùng luật Sharia lên cầm quyền ở Thổ.
Ka tiếp tục nhìn những bông tuyết cực lớn rơi nhè nhẹ như truyện cổ tích trong ánh đèn ống của tòa báo, tưởng tượng ra cảnh ông cùng Ipek quay về Frankfurt. Họ cùng dạo hàng trên lầu hai, ngăn bán giày phụ nữ của cửa hàng Kaufhof, nơi ông mua chiếc áo khoác màu xám tro đang quấn chặt quanhnguời.
"Tất cả chỉ là một phần của phong trào Hồi giáo chính trị quốc tế muốn biến nước Thổ thành một dạng giống Iran..."
"Chuyện các cô gái tự sát cũng nằm trong phong trào đó?" Ka hỏi.
"Chúng tôi có tin báo rằng, rủi thay, họ cũng bị lôi kéo, nhưng chúng tôi không viết chuyện ấy, vì sẽ làm các thiếu nữ bị kích động thêm và gia tăng các vụ tự sát. Người ta kể là tên khủng bố Hồi giáo nổi tiếng tên Lam đang có mặt tại thành phố để tư vấn cho nhóm thiếu nữ trùm khăn và những cô bé tự sát."
"Người Hồi giáo chính trị không phản đối tự sát hay sao?"
Serdar Bey không trả lời câu này. Khi máy in ngừng chạy và sự im lặng lan tỏa trong phòng. Ka lại lặng lẽ chiêm ngưỡng tuyết rơi ngoài trời. Lo lắng về các vấn đề của Kars chính là việc thích hợp nhất để nén cảm giác chộn rộn và lo âu đangngày một trỗi lên mạnh hơn vì ông sắp gặp mặt Ipek. Nhưng bây giờ Ka chỉ muốn nghĩ đến Ipek và chuẩn bị cho cuộc hẹn-ở tiệm bánh ngọt, vì đã một giờ hai mươi rồi.
Serdar Bey mở rộng trước mặt Ka trang đầu của tờ báo mới in mà cậu con trai vạm vỡ đưa đến như một tặng phẩm được chuẩn bị một cám âu yếm và cẩn trọng. Vốn từ nhiều năm quen thấy tên mình trong các tạp chí văn học, mắt Ka tìm thấy ngay dòng tin bên lề:
KA, THI SĨ NỔI TIẾNG CỦA CHÚNG TA ĐẾN KARS
Thi sĩ KA, nổi tiếng toàn Thổ Nhĩ Kỳ hôm qua đã đến thành phố biên giới chúng ta. Thi sĩ của chúng ta. người đoạt giải Behçet Necatigil và được tôn vinh toàn quốc với hai tuyển tập thơ Tro và Quýt và Báo buổi chiều, sẽ theo dõi và đưa tin cuộc bầu cử hội đồng thành phố. Từ nhiều năm nay, thi sĩ KA nghiên cứu nghệ thuật thi ca phương Tây ở Frankfurt (Đức).
"Tên tôi in sai." Ka nói. "Chữ A phải viết thường." Chưa nói dứt lời Ka thấy hối hận. "Nhưng trông cũng hay," ông nói thêm, vẫn áy náy trong lòng.
"Thưa anh, các cháu đã đi tìm anh vì không chắc nên viết tên anh ra sao," Serdar Bey đáp. "Nhìn đây này, các con đã xếp chữ sai tên của thi sĩ," ông khiển trách hai đứa con trai với giọng hoàn toàn không bực dọc. Ka có cảm giác là lỗi sắp chữ không phải bây giờ mới phát hiện ra. "Chữa lại ngay đi!"
"Nhưng đâu có cần thiết," Ka nói và đồng thời phát hiện tên mình được in đúng ở đoạn cuối bản tin chính.
ĐÊM CHIẾN THẮNG CỦA ĐOÀN KỊCH
SUNAY ZAIM Ở NHÀ HÁT NHÂN DÂN
Đoàn kịch Sunay Zaim nổi tiếng toàn đất Thổ Nhĩ Kỳ qua những tác phẩm dân túy hiện đại theo tinh thần Atatürk và mang tính khai sáng tối hôm qua đã được đón chào nồng nhiệt tại Nhà hát nhân dân. Trong hàng khán giả có phó thống sứ, phó thị trưởng và các nhân vật trọng yếu khác của Kars. Buổi diễn kéo dài đến nửa đêm, luôn ngắt quãng bởi những lời tung hô và vỗ tay. Người dân Kars vốn từ lâu khát khao một ngày hội nghệ thuật như thếkhông chỉ được thưởng thức vở kịch trong Nhà hát nhân dân chật ních mà cũng có thể xem ngay tại nhà, vì kênh truyền hình biên giới Kars đã truyền buổi diễn hoành tráng này tới tất cả dân chúng Kars, buổi trực tiếp đầu tiên trong lịch sử hai năm tồn tại. Do kênh Truyền hình biên giới Kars chưa sở hữu một xe thu phát lưu động, người ta đã đặt một đường cáp nối trung tâm đài truyền hình ở phố Halit Paşa với các máy quay ở Nhà hát nhân dân, chạy thông qua hai phố. Các công dân nhiệt tình của Kars đã cho cáp chạy qua nhà mình phòng trường hợp bị tuyết làm hư hại (ví dụ như nha sĩ Fadil Bey của chúng ta đã cho đặt cáp từ bao lơn trước nhà ra đến tận vườn sau). Công dân Kars mong muốn vào các dịp khác sẽ lại được thưởng thức buổi truyền hình trực tiếp thành công như vậy. Như những người phụ trách Truyền hình biên giới Kars thông báo nhân dịp buổi truyền hình trực tiếp đầu tiên này tất cả các doanh nghiệp ở Kars đều đăng quảng cáo. Trong dịp trình diễn được cả thành phố biên giới theo dõi này, bên cạnh các vở hiện đại theo tinh thần Atatürk, các trích đoạn điển hình của nghệ thuật sân khấu khai sáng phương Tây, các tiểu phẩm phê phán quảng cáo xói mòn văn hóa và nhiều chuyện ly kỳ của thủ môn đội tuyển Vural; chúng ta sẽ còn được thưởng thức những thi phẩm ca ngợi tổ quốc và "Tuyết", sáng tác mới nhất của thi sĩ Ka nổi tiếng đến thăm thành phố chúng ta do chính ông trình bày. Đỉnh điểm của chương trình là tuyệt phẩm khai hóa Tổ quốc hay tấm khăn từ những năm đầu của nền cộng hòa được dàn dựng mới. mang nhan đề Tổ quốc hay khăn trùm.
"Tôi không viết bài thơ nào tên là 'Tuyết' cả, và tối đến tôi cũng không ra nhà hát đâu. Nếu ông đăng tin này thì chẳng mấy chốc mọi người sẽ thấy là sai."
"Anh đừng tin chắc quá! Có rất nhiều người coi thường chúng tôi, vì chúng tôi đăng tin trước khi sự kiện diễn ra, và cho rằng đó không phải làm báo mà là bói toán. Nhưng sau đó họ không giấu được ngạc nhiên rằng sự kiện tiến triển đúng như chứng tôi miêu tả. Có vài vụ xảy ra chỉ vì chúng tôi đã đăng tin trước đó là làm báo kiểu hiện đại! Tôi tin chắc là để khỏi tước đi của Kars nét hiện đại và làm chúng tôi đau khổ, trước tiên anh sẽ viết bài thơ 'Tuyết', sau đó đến nhà hát và đọc."
Ka nhận thấy một tin mà thoạt tiên ông không để ý giữa các thông báo về bầu cử, tin có thuốc tiêm chủng mới từ Erzurum sẽ được dùng ở các trường cấp ba, tin chính quyền thành phố sẽ hoãn đòi tiền nước hai tháng nhằm giảm nhẹ cho công dân Kars một gánh nặng nữa:
TUYẾT LÀM TẮC ĐUỜNG - Mưa tuyết từ hai hôm nay đã cắt đứt mọi tuyến đường nối Kars với thế giới bên ngoài. Sau khi đường đi Ardahan sáng sớm hôm qua bị chặn, buổi chiều đường đi Sarikamiş cũng không sử dụng được nữa.Các đường trong khu vực Yolgeşmez không thể đi qua vì tuyết rơi mạnh và đóng băng, xe buýt của công ty Yilmaz đi Erzurum phải quay về Kars. Nha khí tượng cho biết đợt lạnh từ Siberia tràn về và tuyết bông lớn sẽ còn kéo dài ba hôm nữa. Kars phải tự cung tự cấp trong ba ngày như các mùa đông ngày xưa. Cũng là một dịp tốt để chúng ta sửa sang cửa nhà.
Ka đứng dậy và vừa định đi thì Serdar Bey nhảy bật dậy đứng chặn cửa để bắt nghe những lời ông sắp nói.
"Ai mà biết được Turgut Bey và các con gái ông ấy kể cho anh nghe những gì theo quan điểm riêng của họ," ông nói. "Họ là những người cực kỳ tốt mà tối đến tôi vẫn ngồi cùng trong đám bạn bè, nhưng anh chớ quên rằng chồng cũ của Ipek Hanim là ứng viên đảng của Allah cho chức thị trưởng! Và ông bố là dân cộng sản già đời! Và người ta nói là Kadife, em gái cô ấy, được chị và bố cho phép học đại học, là cô gái hung hăng nhất trong nhóm trùm khăn. Cho đến hôm nay không người nào ở Kars hiểu nổi vì sao cách đây bốn năm họ về đây, đúng hồi mạt vận nhất của thành phố."
Mặc dù không yên dạ khi một lúc phải nghe tất cả những chuyện này, Ka không để lộ gì ra mặt.
Tuyết Tuyết - Orhan Pamuk Tuyết