In books lies the soul of the whole Past Time: the articulate audible voice of the Past, when the body and material substance of it has altogether vanished like a dream.

Thomas Carlyle

 
 
 
 
 
Tác giả: Guy de Maupassant
Dịch giả: Nhiều Dịch Giả
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 44
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 51
Cập nhật: 2020-10-24 12:43:16 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 19
gười gác rừng
(Le garde)
Sau bữa ăn tối, mọi người kể lại những cuộc phiêu lưu và những tai nạn đi săn.
Một người bạn cũ của chúng tôi, ông Boniface, một tay săn sát thú và cũng là một bợm rượu, một người vạm vỡ và vui tính, một con người có lý trí biết điều và hay triết lý, một thứ triết lý khôi hài và nhẫn nhục, thể hiện qua những câu chuyện cười châm biếm chứ không bao giờ bằng những nỗi sầu muộn, ông ta bỗng nói:
“Mình có một câu chuyện, một chuyện đi săn, hay đúng hơn, một thảm kịch đi săn khá đặc sắc. Nó không giống một tí nào với những gì mà mọi người thường biết trong thể loại này; vì vậy, mình chưa hề kể cho ai nghe, vì nghĩ rằng nó chẳng gây thích thú cho ai.”
“Nó không được thiện cảm, các bạn có hiểu mình không? Mình muốn nói rằng nó không có cái thứ hấp dẫn có thể lôi cuốn, hoặc mê hoặc, hoặc gây xúc động người nghe một cách dễ chịu.”
“Câu chuyện như sau:
*
Lúc ấy, mình khoảng ba mươi lăm tuổi, và mình đi săn như một thằng điên.
Vào thời ấy, mình có một mảnh đất nằm rất hẻo lánh trong vùng lân cận của Jumièges*, nó được bao bọc toàn là rừng, và là nơi lý tưởng của họ hàng nhà thỏ. Hàng năm, mình đến đấy một mình trong bốn, năm ngày thôi, vì cơ ngơi không cho phép mình dẫn bè bạn theo.
Jumièges, khu di tích của một thư viện thời đế quốc La Mã nằm trong tỉnh Seine Duyên hải (Pháp).
Mình đã cử một viên hiến binh về hưu làm nhiệm vụ canh gác ở đó. Ông ta là một con người trung thực, dữ dằn, nghiêm khắc khi thi hành mệnh lệnh, khủng khiếp đối với bọn săn trộm, và không sợ chi cả.
Ông ta sống xa làng mạc, và đơn độc trong một căn nhà nhỏ, nói đúng hơn, đó là một căn nhà tồi tàn gồm hai phòng ở dưới dùng làm nhà bếp và kho ủ rượu, và hai phòng ở trên lầu. Một trong hai phòng ấy như một cái hang, vừa đủ kê một cái giường, một cái tủ và một ghế dựa, được dành riêng cho mình.
Lão Cavalier chiếm phòng còn lại. Nói rằng ông sống đơn độc trong căn nhà này thì cũng không đúng. Ông nuôi một thằng cháu, một thứ tướng cướp mười bốn tuổi, để đi mua bán lặt vặt trong làng cách đó khoảng ba cây số, và để giúp ông những việc hằng ngày.
Hắn gầy gò, cao lêu nghêu, hơi khòng, tóc hắn hơi vàng, giống như lông tơ của gà mái, và lưa thưa như hói. Ngoài ra, hắn có đôi chân to tướng và đôi bàn tay khổng lồ.
Hắn hơi lé và không bao giờ nhìn ai cả. Trong loài người, hắn cho mình có cảm giác như một con thú hôi hám đối với đồng loại của nó. Nó là một con chồn hôi, hay cáo, cái thằng nhãi ấy.
Nó ngủ trong một cái hốc trên chiếc cầu thang nhỏ dẫn lên lầu.
Nhưng trong thời gian lưu lại ngắn ngủi của mình ở “Sơn lâu” - mình gọi cái nhà ấy như thế - Marius nhường cái ổ ấy cho một bà lão ở Ecorcheville, tên là Céleste, bà đến để nấu ăn cho mình, vì thức ăn của lão Cavalier quá thiếu.
Vậy là các bạn đã biết nhân vật và địa điểm, còn đây là câu chuyện:
Hồi đó là năm 1854, ngày 15 tháng Mười, mình vẫn nhớ cái ngày hôm ấy, và sẽ chẳng bao giờ quên nó được.
Mình đi ngựa từ Rouen, và dắt theo con Bock, một con chó săn to tướng vùng Poitou, ngực rộng, mồm khoẻ, luồn lách trong bụi rậm chẳng thua gì giống chó săn Tây Ban Nha của vùng Pont-Audemer.
Mình khoác trên lưng chiếc túi hành lý, và khẩu súng đeo vai. Hôm ấy là một ngày lạnh lẽo, một ngày gió lộng buồn thảm, trên trời thì mây đen đuổi bắt nhau lũ lượt.
Khi leo lên sườn dốc Canteleu, mình trông xuống thung lũng mênh mông của sông Seine, và thấy dòng sông uốn lượn qua tới tận chân trời. Bên trái, thành phố Rouen vươn thẳng những tháp chuông lên nền trời, và bên phải, tầm mắt của ta bị chắn ngang bởi sườn núi xa xăm được rừng phủ kín. Đoạn, mình băng qua rừng Roumare, khi thì phải chậm bước, lúc lại phi mau, và khoảng năm giờ, mình đến trước cổng “Sơn lâu”, ở đấy, lão Cavalier và Céleste đang chờ mình.
Từ mười năm nay, cũng cùng dạo này, mình đến đó bằng cùng một cách, và cũng những cái mồm kia chào mình bằng cũng những câu ấy.
“Chào ông chủ. Sức khoẻ của ông chủ khả quan chứ?”
Lão Cavalier không thay đổi mấy. Ông ta chống chọi lại với thời gian như một cây cổ thụ; nhưng Céleste, nhất là từ bốn năm nay đã thay đổi quá nhiều.
Bà lão gần như bị gãy đôi, và mặc dù vẫn còn lanh lợi nhưng khi đi, bà còng người ra trước, làm cho thân hình bà tạo thành một góc vuông với đôi chân.
Bà lão rất tận tụy ấy lúc nào cũng có vẻ xúc động khi gặp lại mình, và mỗi khi mình ra đi, bà lại nói:
“Thưa ông chủ kính mến, hãy nghĩ rằng có thể đây là lần cuối cùng.”
Và hàng năm, lời chào vĩnh biệt buồn bã và rụt rè ấy của người đầy tớ già tội nghiệp, sự cam chịu tuyệt vọng trước cái chết không thể tránh khỏi, chắc chắn không xa của bà, làm lòng mình xao xuyến một cách lạ lùng.
Mình xuống ngựa, bắt tay Cavalier, và trong lúc ông ta dắt ngựa vào một gian nhà nhỏ dùng làm chuồng, Céleste theo mình vào nhà bếp, nơi đây cũng được dùng làm phòng ăn.
Rồi người gác rừng quay vào với mình. Chỉ nhìn sơ qua, mình cũng thấy rằng vẻ mặt ông ta không bình thường. Dường như ông ta đang bận tâm, khó chịu và lo lắng về một điều gì đấy.
Mình nói với ông ta: “Sao rồi. Cavalier? Mọi việc đều trôi chảy theo ý ông chứ?”
Ông ta lẩm bẩm: “Có cái được, có cái không. Có nhiều cái không vừa ý tôi lắm.”
Mình hỏi: “Vậy cái gì thế? Ông bạn? Hãy kể cho tôi nghe đi.”
Nhưng ông ta lắc đầu: “Không, chưa đâu, thưa ông. Tôi không muốn làm ông bận tâm khi vừa mới đến như thế, bằng những chuyện bắng nhắng của tôi.”
Mình nài nỉ, nhưng ông ta dứt khoát từ chối cho mình biết trước bữa ăn tối. Tuy nhiên, theo kiểu suy nghĩ của ông ta, mình hiểu rằng đây là một việc nghiêm trọng.
Vì không còn biết việc gì để nói nữa, nên mình hỏi:
“Còn thú săn, có nhiều chứ?”
“Ồ! Thú săn, vâng, nhiều lắm, nhiều lắm! Ông sẽ tha hồ mà săn, ơn Chúa, tôi đã trông thấy.”
Ông ta nói điều ấy với một vẻ thật nghiêm trang, một sự nghiêm trang ràu ràu đến độ trở nên khôi hài. Cặp ria màu nâu to tướng của ông có vẻ như chực rơi ra khỏi vành môi.
Chợt mình phát hiện ra rằng tự nãy giờ mình chưa gặp thằng cháu của ông ta.
“Còn Marius? Nó đâu rồi vậy? Tại sao nó không ló mặt ra?”
Lão gác rừng như giật thót người, và bỗng nhìn thẳng vào mặt mình:
“Vậy thì, thưa ông, tôi xin được nói ngay với ông chuyện ấy; vâng, tôi xin nói: chính vì chuyện liên quan đến nó mà tôi bị dằn vặt trong lòng.”
“Chà! Chà! Vậy thì nó đâu rồi?”
“Nó đang ở trong chuồng ngựa, thưa ông, tôi chờ lúc thuận tiện để gọi nó ra trình diện.”
“Nó đã làm gì vậy?”
“Chuyện như thế này, thưa ông…”
Tuy nhiên, lão gác rừng cũng do dự, giọng lão run run và lạc hẳn đi, gương mặt chợt dăn dúm bởi những vết nhăn sâu thẳm, những vết nhăn của tuổi già.
Ông chậm rãi nói tiếp:
“Như thế này. Mùa đông vừa qua, tôi biết chắc rằng có kẻ đánh bẫy trong rừng Hồng, nhưng tôi không thể bắt quả tang được ai. Tôi rình rập nhiều đêm thưa ông. Nhưng chẳng thấy gì. Và trong khi đó, chúng lại bắt đầu đặt bẫy ở phía Ecorcheville. Tôi mất ăn mất ngủ vì tức tối. Nhưng, còn chuyện bắt tên trộm, thì kể như bất lực! Ta có thể nói rằng hắn biết trước các cuộc rình rập và những dự định của tôi, cái thằng khố rách ấy.
“Nhưng một hôm, lúc giặt quần cho Marius, chiếc quần mặc ngày lễ, tôi tìm thấy bốn mươi xu. Nó kiếm đâu ra số tiền này vậy, thằng nhãi ấy?
“Tôi suy nghĩ suốt tám ngày trời, và một hôm, tôi thấy nó đi ra, nó đi ra ngay vào lúc tôi đi nghỉ, vâng, thưa ông.
“Thế là tôi rình nó, nhưng vẫn không nghi ngờ gì chuyện ấy. Ồ! Vâng, không nghi ngờ gì cả. Và một buổi sáng, tôi vừa đi nằm trước mặt nó, rồi tôi choàng dậy ngay lập tức, và đi theo nó. Còn việc theo dõi ai, thì không kẻ nào bì lại tôi đâu, thưa ông.
“Và thế là tôi bắt được nó, vâng. Marius là người đặt bẫy trên đất ông, thưa ông, nó là cháu tôi, còn tôi, tôi là người gác rừng của ông!
“Máu tôi như ngừng chảy, và suýt tí nữa là tôi đã giết nó ngay tại chỗ vì đã đánh nó khá nhiều. Chà, vâng, tôi đã gặp nó và tôi đã hứa với nó là khi nào ông trở lại đây, trước mặt ông chính tay tôi, tôi sẽ sửa nó một trận nữa, để nhớ đời.
“Thế là tôi gầy gò đi vì đau buồn, ông biết thế là thế nào rồi, khi ta bị trêu ngươi như thế đấy. Nhưng nếu ở vào vai trò của tôi, ông đã làm gì? Nó không còn cha còn mẹ, cái thằng ranh ấy, nó chỉ còn mỗi mình tôi là máu mủ; tôi đã giữ nó lại, tôi không thể tống cổ nó đi được, phải thế không?
“Nhưng tôi đã nói với nó rằng nếu nó còn tái phạm, thì kể như xong đời nó, không còn thương hại nó nữa. Thế đấy. Tôi xử sự có đúng không thưa ông?”
Mình vừa trả lời vừa chìa tay ra bắt.
“Ông đã xử sự đúng lắm, Cavalier ạ; ông là một người lương thiện.”
Ông ta chợt đứng lên.
“Cám ơn ông. Bây giờ tôi đi tìm nó. Phải sửa nó để làm gương.”
Mình biết rằng cố gắng thuyết phục ông ta từ bỏ một ý định gì là vô ích. Vì vậy, mình để ông ta hành động theo ý thích.
Ông ta đi tìm thằng ranh con ấy, và bẹo tai điệu nó đến.
Mình đang ngồi trên một chiếc ghế rơm, gương mặt nghiêm nghị như một ông quan toà.
Marius trông lớn hẳn ra, còn xấu xí hơn những năm về trước, với vẻ mặt xấu xa, xảo quyệt.
Và đôi bàn tay của nó như tay hộ pháp.
Ông già đẩy nó đến trước mặt mình, và dùng giọng nhà binh ra lệnh:
“Xin lỗi ông chủ.”
Thằng ranh con không nói lấy một tiếng.
Thế là lão cựu chiến binh kéo lấy thằng bé dưới nách, nhấc bổng nó lên, và lão bắt đầu quất vào mông nó, với một vẻ mặt dữ tợn đến nỗi mình phải đứng lên ngăn ông ta lại.
Thằng bé lúc này mới gào lên:
“Con van bác, con van bác! Con xin hứa…”
Cavalier đặt nó xuống đất, và ấn vào vai nó, bắt nó quỳ xuống. Ông ta bảo:
“Xin lỗi đi!”
Thằng bé cúi mặt xuống lẩm bẩm:
“Con xin lỗi.”
Rồi ông ta dựng nó dậy và tống nó ra ngoài bằng một cái tát, suýt tí nữa làm nó lộn cổ.
Nó vùng dậy bỏ chạy, và suốt tối hôm đó, tôi chẳng gặp mặt nó.
Nhưng lão Cavalier tỏ vẻ phiền muộn.
“Đó là một đứa xấu xa,” ông nói.
Và trong suốt bữa ăn, ông cứ lặp đi lặp lại:
“Ồ! Việc này làm tôi đau lòng, thưa ông, ông không biết được nó làm tôi đau lòng đến thế nào đâu.”
Mình cố an ủi ông ta, nhưng vô ích.
Và mình đi ngủ thật sớm để sáng hôm sau còn đi săn.
Lúc mình tắt nến, con chó của mình đã nằm ngủ trên sàn nhà, dưới chân giường mình.
Nửa đêm, mình bị dựng dậy bởi tiếng sủa điên cuồng của con Bock. Và mình nhận ra ngay lập tức là căn phòng đang tràn ngập khói. Mình nhảy ngay ra khỏi giường, đốt đèn lên, và chạy ra mở cửa. Một luồng lửa ùa vào. Căn nhà đang bốc cháy.
Mình vội đóng cánh cửa bằng gỗ sồi lại, và lột quần dài ra. Trước hết, mình thả con chó xuống đất qua lối cửa sổ, nhờ một sợi dây làm bằng tấm vải trải giường cuộn lại; đoạn mình ném quần áo, túi đi săn và khẩu súng ra ngoài, rồi mình thoát ra cũng bằng lối ấy.
Và mình bắt đầu kêu toáng lên:
“Cavalier! Cavalier! Cavalier!”
Nhưng lão gác rừng không thức giấc. Ông ta ngủ một giấc ngủ say sưa của anh hiến binh già.
Tuy nhiên, qua lối các cửa sổ phòng dưới, mình thấy cả tầng trệt chỉ còn lại một biển lửa rừng rực; và mình nhận ra rằng có người đã chất rơm vào đấy để làm mồi cho lửa.
Vậy là có người đốt nhà!
Mình lại tiếp tục gào lên điên cuồng:
“Cavalier!”
Lúc ấy, mình chợt nghĩ là ông ta bị ngạt thở. Mình chợt sáng ý, và lắp hai viên đạn vào súng, mình bắn một phát vào nơi cửa sổ.
Sau ô cửa kính bể vụn, mảnh vỡ bắn tung toé vào phòng. Lần này, lão già đã nghe thấy, và ông ta xuất hiện trong chiếc áo mỏng, mặt mày hốt hoảng, ngỡ ngác bởi ánh sáng chiếu rừng rực cả phía trước căn nhà.
Mình kêu ông ta:
“Nhà của ông cháy rồi. Nhảy qua cửa sổ, nhanh lên!”
Ngọn lửa bất ngờ thoát ra ngoài bằng các cửa nẻo ở tầng dưới, liền liếm lên bức tường, bùng lên cao đến chỗ ông ta, và sắp chặn mất lối thoát của ông. Ông liền nhảy ra và rơi xuống, hai chân chạm đất như một con mèo.
Vừa kịp lúc. Mái tranh sụp xuống ở chính giữa phía trên cầu thang, trông giống như ống khói của lò lửa ở tầng dưới; và một luồng lửa khổng lồ bừng lên không trung, toả rộng ra như một chùm tia nước, và rắc một trận mưa tàn lửa quanh mái tranh.
Và trong vài giây đồng hồ, ngôi nhà chỉ còn là một đống lửa.
Cavalier lòng trĩu nặng, hỏi:
“Nó bốc cháy như thế nào?”
Mình trả lời:
“Có người châm lửa ở nhà bếp.”
Ông ta lẩm bẩm:
“Ai có thể châm lửa được nhỉ?”
Và chợt đoán ra, mình nói:
“Marius.”
Ông lão hiểu. Ông ấp úng:
“Ôi! Jésus-Marie! Chính vì thế mà đêm qua nó không về!”
Nhưng một ý nghĩ khủng khiếp chợt hiện lên trong đầu mình. Mình kêu lên:
“Còn Céleste? Céleste?”
Ông ta không trả lời nhưng ngôi nhà đã sụp xuống trước mặt chúng tôi, nó chỉ còn là một cục than hồng, một cục than bằng da thịt con người.
Chúng tôi không nghe được một tiếng kêu nào.
Nhưng vì ngọn lửa lan sang nhà kho bên cạnh, nên mình chợt nghĩ ngay đến con ngựa và Cavalier chạy đi giải thoát cho nó.
Ông ta vừa mở cửa chuồng ngựa ra thì có một bóng người uyển chuyển và nhanh nhẹn luồn qua dưới chân, làm ông té sấp xuống đất. Đó là Marius, hắn đang chạy trốn bán sống bán chết.
Trong một giây đồng hồ, ông ta choàng đứng lên. Ông muốn chạy theo đuổi bắt thằng khốn nạn kia; nhưng chợt hiểu rằng ông sẽ không đuổi kịp được nó, và trong cơn giận điên cuồng không thể cưỡng lại được, với một động tác tức thì, không suy nghĩ, mà ta không thể đoán trước được, cũng như không thể ngăn chặn được, ông nhặt khẩu súng của mình đang nằm dưới đất, ngay bên cạnh ông ta, ông tỳ vai, và trước khi mình kịp phản ứng, ông ta bóp cò, mà thậm chí không biết rằng súng đã nạp đạn hay chưa.
Một trong hai viên đạn mà lúc nãy mình nạp để bắn báo hiệu vẫn còn nguyên; và phát súng trúng ngay vào giữa lưng kẻ chạy trốn, quật hắn ngã úp mặt xuống đất, làm máu me chảy lênh láng. Hắn liền bắt đầu cào bới đất, bằng tay và bằng đầu gối, như thể hắn còn muốn chạy bằng bốn chân, như những con thỏ rừng bị thương nặng, khi thấy người thợ săn chạy đến.
Mình lao tới. Thằng bé đã hấp hối. Nó trút hơi thở cuối cùng trước khi ngôi nhà tắt ngấm, không thốt lên được một tiếng nào.
Cavalier vẫn mặc áo mỏng, đôi chân để trần, đứng bên cạnh chúng tôi, bất động, đờ đẫn.
Khi chính quyền địa phương đến, họ mang người gác rừng của mình đi. Ông ta giống như người điên.
Mình ra toà làm chứng, và mình kể lại tất cả sự việc, từng chi tiết một, không hề thay đổi điều gì. Cavalier được trắng án. Nhưng ông ta biến mất ngay ngày hôm đó. Ông ta đã bỏ xứ.
Và mình chưa bao giờ gặp lại ông ta.
Câu chuyện đi săn của mình như thế đấy, thưa các bạn.
Trần Thanh Ái dịch
Tuyển Tập Truyện Ngắn Guy De Maupassant Tuyển Tập Truyện Ngắn Guy De Maupassant - Guy de Maupassant Tuyển Tập Truyện Ngắn Guy De Maupassant