To sit alone in the lamplight with a book spread out before you, and hold intimate converse with men of unseen generations - such is a pleasure beyond compare.

Kenko Yoshida

 
 
 
 
 
Tác giả: Andrew Lang
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 17
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1116 / 6
Cập nhật: 2017-06-11 10:57:08 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chàng Ngốc Peronnik
eronnik là một chàng ngốc chẳng có bà con thân thuộc gì cả, cậu sẽ chết đói nếu không nhờ có lòng tốt của bà con láng giềng vẫn thường cho cậu miếng ăn khi cậu hỏi xin. Còn về chỗ ngủ ư, khi đêm xuống và cơn buồn ngủ đến, cậu sẽ tìm một đống rơm, khoét một lỗ rồi chui vào trong như một con thằn lằn. Dù là một kẻ ngốc nghếch, cậu không lấy gì làm buồn lòng về điều đó và bao giờ cũng biết cách bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đã cho mình miếng ăn vào lúc đói lòng. Cậu thường đứng lại, hát cho họ nghe. Cậu biết bắt chước tiếng hót của chim sơn ca hay đến nỗi không có ai phân biệt được đâu là tiếng của cậu đâu là tiếng của chim sơn ca.
Một hôm cậu lang thang trong một khu rừng suốt mấy giờ liền, khi chiều bắt đầu buông xuống cậu bỗng thấy như có kiến bò bụng. May thay, ở quãng rừng này cây cối đã thưa dần và cậu có thể nhìn thấy một nông trại nhỏ cách đấy không xa. Peronnik đi thẳng về phía đó, trông thấy vợ một bác nông dân đang đứng ngoài cổng, tay cầm một cái tô lớn đựng thức ăn thừa của lũ con.
“Cháu đói quá, bác có gì cho cháu ăn không?” Peronnik ngỏ lời.
“Nếu cậu có thể thấy trong này có gì ăn được thì xin mời” bà đáp, chìa cái tô đựng đồ ăn thừa ra. Quả thật, chẳng còn gì nhiều để người ta có thể thọc muỗng vào. Nhưng Peronnik ăn rất ngon lành và nghĩ rằng mình chưa được nếm một cái gì ngon hơn thế.
“Món này được làm từ một thứ bột mì hảo hạng, trộn với loại sữa béo nhất và được nhào bằng đôi tay của một người đầu bếp cừ nhất nước,” cậu lẩm bẩm nói một mình nhưng người đàn bà đã nghe thấy.
“Thằng bé tội nghiệp này đến là khờ” bà lẩm bẩm trong miệng, “nó chẳng biết mình đang nói gì nữa. Nhưng mình sẽ cắt cho nó một lát bánh mới ra lò.” Khi bà đưa cho cậu miếng bánh, cậu ăn đến cả những mẩu vụn li ti và tuyên bố rằng, có lẽ chỉ có người thợ làm bánh của đức giám mục có thể làm ra được một cái bánh ngon đến thế. Lời khen làm cho bà chủ sướng đến nỗi bà cho thêm cậu một khoanh bánh nữa cùng với một lát bơ để cậu trét lên. Trong lúc cậu bé vẫn đứng ăn ngoài cửa thì một hiệp sĩ mặc bộ áo giáp và mang một thanh gươm dài đi đến.
“Quý vị có thể chỉ đường cho tôi đến lâu đài Kerglas không?”
“Đến Kerglas? Chẳng lẽ tráng sĩ thực sự muốn đến chỗ ấy?” Người đàn bà kêu lên, mặt tái xanh tái mét.
“Phải và chỉ vì muốn đến đấy mà tôi đã phải ra đi từ một vùng đất xa xôi, ròng rã suốt ba tháng trời không nghỉ, làm cho con ngựa này phải chạy đến kiệt sức.”
“Nhưng tại sao ngài lại muốn đến đấy?”
“Tôi đi tìm cái tô bằng vàng và cái giáo bằng kim cương giấu trong tòa lâu đài đó” tráng sĩ đáp và nghe đến đây Peronnik ngẩng đầu lên.
“Đó có phải là những vật có giá trị không?” cậu hỏi.
“Còn đắt giá và quý báu hơn cả các vương miện trên đời này,” người lạ mặt hào hứng đáp, “bởi vì cái tô vàng không những cung cấp cho cậu tất cả những món ngon vật lạ mà cậu có thể mơ ước, khi cậu uống nước đựng trong đó, nó còn chữa cho cậu bất cứ căn bệnh nào có thể nguy hiểm đến tính mạng. Hơn nữa nó còn có phép cải tử hoàn sinh nếu cậu chạm cái tô ấy vào môi người chết. Còn về chiếc giáo kim cương, nó có thể chặt được cả đá và kim loại.”
“Vậy những vật kì tuyệt đó thuộc về ai?” Peronnik hỏi giọng kinh ngạc.
“Về một pháp sư tên là Rogear, sống trong tòa lâu đài Kerglas,” người đàn bà đáp. “Hàng ngày, ông ta vẫn đi qua đây, cưỡi trên lưng một con ngựa đen tuyền có một con ngựa non chừng 13 tháng tuổi lẽo đẽo theo sau. Chẳng có ai dám đến gần thầy pháp vì ông ấy bao giờ cũng mang kè kè cây giáo bên người.”
“Đúng thế,” tráng sĩ nói, “nhưng may thay vẫn còn có một quy định không cho phép ông ta dùng ngọn giáo trong phạm vi tòa lâu đài. Ngay cái lúc ông ta bước vào lâu đài, cả tô vàng lẫn ngọn giáo sẽ được di chuyển đến một tầng hầm đen tối mà không có một chiếc chìa khóa nào có thể mở được cánh cửa. Và đó là nơi tôi muốn chiến đấu với pháp sư.”
“Ngài sẽ không bao giờ được đón chào đâu, thưa hiệp sĩ,” người đàn bà vừa nói vừa lắc đầu quầy quậy. “Có đến hàng trăm chàng trai dũng mãnh đã đi qua ngôi nhà này để đến đấy, nhưng rốt cục chẳng có ai còn có ngày về.”
“Tôi cũng biết thế, bà chủ nhân hậu ạ,” tráng sĩ đáp, “nhưng người ta như tôi giống tôi, không có được lời chỉ dẫn của đạo sĩ Bluvet.”
“Đạo sĩ bảo ngài cái gì vậy?” Peronnik hỏi.
“Ngài bảo tôi rằng tôi sẽ phải qua một khu rừng có đủ những trò ma quái và những tiếng nói làm tôi hoảng sợ mà lạc đường. Đó chính là những hồn ma của những người đi trước tôi giờ đây lang thang không có chốn đi về, họ thật sự khốn khổ vì cái đói cái rét và bị kiệt sức.”
“Phải, giả sử ngài đi qua rừng an toàn, chuyện gì sẽ xảy ra?” Peronnik ngốc nghếch hỏi.
“À, sau đó tôi sẽ gặp một sơn thần bé nhỏ có một mũi kim lửa có thể đốt thành tro những gì chạm vào nó. Sơn thần này canh gác một cây táo mà tôi phải hái cho được một quả.”
“Còn sau đó?”
“Sau đó tôi sẽ gặp một bông hoa biết cười, được một con sư tử có cái bờm là những con rắn độc bảo vệ. Tôi cần phải hái được bông hoa này, sau đó đi đến cái hồ của những con rồng để chiến đấu với một người da đen. Hắn nắm trong tay một quả bóng sắt không bao giờ lạc đường, bao giờ nó cũng sẽ trở về với người sở hữu nó. Sau đó, tôi đến thung lũng khoái lạc, nơi những kẻ không chế ngự được những cám dỗ sẽ phải nằm lại đây phơi xương trắng xóa. Nếu tôi qua được những thử thách này tôi sẽ đến một dòng sông chỉ có một chỗ có thể lội qua được, nơi đó có một người đàn bà áo đen ngồi đợi. Bà ta sẽ nhảy lên lưng ngựa, ngồi phía sau tôi và bảo tôi phải làm gì tiếp theo.”
Tráng sĩ dừng lại, người đàn bà lắc đầu.
“Ngài sẽ không có khả năng làm tất cả những chuyện đó,” bà nói. Nhưng hiệp sĩ nhắc bà nhớ rằng đó là vấn đề của những người anh hùng rồi phóng ngựa đi theo con đường người đàn bà chỉ.
Vợ bác nông dân thở dài, đoạn cho Peronnik thêm một ít thức ăn nữa và chúc cậu ngủ ngon. Chàng ngốc đứng dậy ra về, vừa lúc đó cánh cổng mở ra, ông chủ trang trại bước vào.
“Tôi cần một cậu bé chăn đàn bò cho tôi,” ông vào đề ngắn gọn, “bởi vì thằng nhỏ làm việc cho tôi đã bỏ đi. Cậu có muốn ở lại đây làm việc này không?”
Dù Peronnik chỉ thích rong chơi và ngại làm việc, cậu nhớ lại những món ngon lành mà mình vừa được nếm và đồng ý ở lại.
Mặt trời vừa mới mọc cậu đã cẩn thận tập hợp đàn bò lại, lùa chúng đến một đồng cỏ tươi tốt nằm ven rừng rồi chặt cho mình một cây gậy bằng gỗ phỉ dùng để điều khiển đàn bò.
Công việc của cậu không dễ dàng như cậu nghĩ bởi vì lũ bò thường tản mát vào trong rừng, kiếm được con này về thì con khác lại xổng mất. Nhiều khi cậu phải lặn lội vào sâu trong rừng. Một lần chạy đi tìm một con bò đen khiến cho cậu bực bội, khó nhọc hơn tất cả những con khác, cậu nghe có tiếng vó ngựa và nhìn qua các kẽ lá cậu thấy pháp sư Rogear ngồi trên lưng con ngựa cái có một con ngựa non đi theo sau. Chiếc tô bằng vàng móc vào một sợi dây xích quàng quanh cổ, bàn tay hộ pháp nắm chặt chiếc giáo bằng kim cương phát ra những tia sáng chói lòa như mặt trời. Người và ngựa vừa đi khuất khỏi tầm nhìn thì chàng ngốc không sao tìm ra con đường ông ta vừa đi qua.
Chuyện cứ lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi chàng ngốc quen với nhân vật này và không gặp khó khăn gì trong chuyện theo dõi ông ta. Nhưng cũng chính điều này đã khiến cho nỗi khát khao có được trong tay chiếc tô bằng vàng và ngọn giáo của cậu thêm mãnh liệt hơn.
Một buổi tối khi cậu đang một mình ngoài bìa rừng thì có một người đàn ông râu tóc bạc phơ dừng chân bên cạnh cậu. “Ông có muốn biết đường đi đến Kerglas không?” Cậu hỏi, còn người đàn ông thì đáp: “Ồ, lão biết rất rõ.”
“Và ông sẽ đến được đó mà không bị pháp sư giết chết chứ?” Peronnik kêu lên.
“Ồ, lão chẳng có gì phải sợ ông ta cả,” người râu bạc đáp, “lão chính là anh của Rogear, là phù thủy Bryak. Khi lão muốn đến gặp em, lão bao giờ cũng đi qua con đường này và kể cả khi không qua được khu rừng thiêng vì bị lạc lão có thể gọi con ngựa non đến dẫn đường cho lão.”
Vừa nói ông già vừa cúi xuống vẽ ba vòng tròn trên mặt đất lẩm bẩm mấy câu rất chậm mà Peronnik không thể nghe ra được. Đoạn ông ta nói thêm, giọng to hơn:
“Ngựa non, mày muốn tự do
Nhanh nhanh chạy đến cho ta gặp nào.”
Ngay lập tức con ngựa non hiện ra, vẫy đuôi rối rít và nhảy cỡn lên vui mừng. Lão phù thủy ném một sợi dây thòng lọng vào cổ con vật và nhảy lên lưng nó, phóng đi.
Peronnik không nói với ai về việc này, nhưng cậu hiểu rất rõ rằng nếu có bao giờ cậu đến được Kerglas, đầu tiên cậu phải bắt cho được con ngựa non vì nó biết rõ đường đi lối về. Nhưng thật đáng tiếc, cậu chẳng nhớ được một câu thần chú mà lão phù thủy đã đọc, cậu cũng không biết vẽ ba vòng tròn màu nhiệm, vì thế cậu phải nghĩ ra cách nào đó để bắt cho được con ngựa non. Suốt cả ngày trong lúc đi chăn đàn bò, cậu cứ nghĩ đi nghĩ lại mãi về chuyện này, cảm thấy rằng một khi đã ngồi lên lưng ngựa rồi cậu sẽ vượt qua được những nguy hiểm khác. Cậu chuẩn bị sẵn sàng để chờ thời cơ và cậu làm những việc này vào ban đêm, trong lúc mọi người đang ngủ. Nhớ lại những gì mà cậu đã thấy lão phù thủy làm, cậu kết một sợi dây thòng lọng và treo ở một góc chuồng bò, một sợi dây thừng để trói chân ngựa và một cái lưới dùng để bẫy chim. Việc tiếp theo là khâu mấy miếng vải bố với nhau thành một cái túi, rồi cậu cho vào đấy keo dính và lông chim chiền chiện, một chuỗi hạt, một cái còi làm bằng gỗ già, một lát bánh mì bóp nát trộn với mỡ heo muối. Sau đó cậu đi theo con đường mà pháp sư Rogear cùng hai con ngựa ngày nào cũng đi qua, vừa đi vừa rải vụn bánh mì một bên lề đường.
Chính xác đến từng phút, cả ba xuất hiện và Peronnik trốn trong một bụi rậm, chăm chú quan sát. Giả sử cách này chẳng có tích sự gì, giả sử cả con ngựa cái lẫn ngựa non đều không màng đến vụn bánh mì? Nhưng mà không, con ngựa cái và ông chủ của nó lững thững đi qua, biến mất sau một lối rẽ, trong khi con ngựa non cúi đầu xuống sát đất, hít hít mấy cái và bắt đầu tham lam ăn từng miếng bánh. Chao ôi bánh mới ngon lành làm sao! Chưa có ai từng rải những mẩu bánh như vậy và con ngựa non nớt hoàn toàn chú mục vào việc tìm thêm những miếng bánh vụn khác nên không nghe thấy tiếng động sột soạt. Chàng ngốc bò ra khỏi bụi rậm, tròng sợi dây vào cổ nó và quăng một sợi dây trói quanh chân nó đó. Và thế rồi thoắt một cái, một kị sĩ nhảy lên lưng nó.
Phi nhanh như bộ vó mảnh khảnh bị tròng dây cho phép, con ngựa non rẽ vào một khu vực rộng nhất trong rừng, trong khi người kị sĩ trên lưng nó run bắn cả người khi thấy cảnh tượng trước mặt. Đôi khi mặt đất dường như mở ngoác cái miệng ra trước mắt họ và cậu bé nhìn xuống một cái hố sâu không đáy, thỉnh thoảng cậu lại gặp các thân cây bốc cháy rừng rực như những bó đuốc và cậu thấy mình trong một biển lửa. Thường thì họ phải vượt qua những dòng thác hung dữ, nước chồm lên đe dọa cuốn cả người lẫn ngựa. Lại nữa, khi họ đến chân một ngọn núi, những tảng đá lớn từ trên đỉnh lăn xuống như thể chúng chỉ muốn nghiền nát cả người lẫn ngựa dưới sức nặng của nó. Cho đến ngày chết, Peronnik cũng không bao giờ biết rõ được đó là những điều đã xảy ra hay cậu chỉ tưởng tượng. Cậu kéo cái mũ len xuống che mắt, hoàn toàn tin vào con ngựa non, cứ để nó đưa cậu đi đâu thì đi.
Cuối cùng khu rừng cũng bị bỏ lại phía sau, họ đến một trảng rừng thưa nơi không khí trở nên trong lành, mát rượi. Chàng ngốc mạnh dạn hé mắt nhìn ra, nhẹ người thấy rằng khu rừng ma quái đã chấm dứt, mặc dù vậy cậu vẫn rùng mình ớn lạnh khi thấy những bộ xương người nằm rải rác trên mặt đất, cạnh những bộ xương ngựa. Và những cái bóng xám đang chạy ở phía xa kia là cái gì vậy? Có phải là... có lẽ nào họ lại là ma sói?
Vạt rừng rộng, dầu vậy, có vẻ rất đơn điệu không phải là một đoạn đường dài. Chẳng bao lâu sau con ngựa non đã đi vào một vườn cây sum suê tỏa bóng trong đó có mọc một cây táo, cành sà thấp xuống sát đất với vô số quả chín mọng. Đứng trước cây táo trĩu quả là một Korigan – một sơn thần bé nhỏ – lăm lăm trên tay một thanh gươm sáng loáng, sẵn sàng biến thành tro tất cả những gì chạm đến cây táo. Nhìn thấy Peronnik, sơn thần hét lên một tiếng dữ tợn, vung thanh gươm lên hùng hổ nhưng chàng ngốc chẳng hề tỏ vẻ ngạc nhiên chỉ giở chiếc mũ lên, cúi chào, nói cho đúng thì cậu cũng giữ một khoảng cách an toàn với người này.
“Đừng sợ, thưa hoàng tử,” Peronnik cung kính nói, “tôi đang trên đường đến lâu đài Kerglas, chả là ngài Rogear cao quý đã có lời mời tôi đến gặp ngài bàn chuyện làm ăn ấy mà.”
“Mời ngươi tới,” người lùn lặp lại “vậy ngươi là ai mới được chứ?”
“Tôi là người đầy tớ mà ngài mới thuê, chắc hoàng tử cũng biết rõ.”
“Ta chẳng biết gì hết,” sơn thần sa sầm nét mặt nói, “theo chỗ ta biết, ngươi có thể là một tên cướp lắm.”
“Tôi xin lỗi,” Peronnik nhũn nhặn cúi đầu nói, “có thể tôi đã không đúng khi gọi mình là đầy tớ, bởi vì thực ra tôi là người bẫy chim. Xin hoàng tử đừng cản đường tôi bởi vì pháp sư Rogear thần thông quảng đại đang chờ tôi. Hoàng tử thấy đấy ngài đã cho tôi mượn con ngựa non để tôi có thể đi đến tòa lâu đài nhanh chóng hơn.”
Nghe đến đây, lần đầu tiên, Korigan đưa mắt xuống nhìn con ngựa non mà hắn biết rất rõ rằng nó thuộc về pháp sư. Có lẽ chàng trai trẻ này nói thật chăng? Sau khi xem xét con ngựa, người lùn lại soi mói nhìn người cưỡi, một thanh niên ngây thơ, thật ra thì lại có vẻ ngờ nghệch, ngốc nghếch, không có cái vẻ có thể bịa chuyện. Nhưng người lùn vẫn chưa cảm thấy yên tâm cho lắm bèn hỏi xem pháp sư cần một kẻ bẫy chim để làm gì.
“Theo những gì mà ngài nói thì ngài cần một người như thế ghê lắm.” Peronnik đáp, “vì rằng ngài nói tất cả ngũ cốc và cây trái trong vườn của ngài đều bị lũ chim ăn sạch.”
“Vậy làm thế nào mà người anh em có thể ngăn chặn được việc này?” Korigan hỏi. Peronnik chìa ra chiếc lưới bắt chim mà cậu đã chuẩn bị sẵn, nhấn mạnh rằng không một con chim nào có thể trốn thoát cái lưới này.
“Đó chính là điều ta muốn thử trước xem sao,” Korigan đáp, “những trái táo quý báu của ta bị lũ chim đen và chim hét chén sạch. Giăng lưới ra, nếu ngươi có thể bắt được chúng, ta sẽ để cho ngươi đi qua đây.”
“Đó là một cuộc trao đổi công bằng,” Peronnik nói, nhảy xuống đất, cột con ngựa vào một gốc cây, đoạn cậu giăng một đầu lưới dưới gốc cây táo, nhờ người lùn giữ đầu lưới bên kia trong lúc cậu lôi ra một cái chốt. Người lùn làm theo lời cậu, bất thình lình Peronnik quăng thòng lọng, thít chặt vào cổ người lùn và người này bị tóm gọn như con chim nằm trong lưới.
Vùng vẫy và la hét như điên, người lùn cố thoát ra khỏi sợi dây thừng nhưng chỉ làm cho nó thít chặt hơn. Hắn phải buông lưỡi gươm xuống đất trong khi Peronnik khéo léo giữ chặt đầu lưới bên kia sao cho cậu có thể dễ dàng hái một quả táo và nhảy lên lưng ngựa mà không bị sơn thần lùn cản trở vì cậu quyết định để mặc hắn cho số phận xử lý.
Sau khi bỏ lại sau lưng trảng rừng thưa, Peronnik và con ngựa đi đến một thung lũng hẹp có mọc um tùm nhiều loài cây, tất cả đều tỏa hương thơm ngát – hoa hồng đủ màu sắc, hoa đậu chổi vàng ươm, hoa kim ngân hồng tươi – nhưng nổi bật hơn tất cả và vươn lên như một ngọn tháp là một bông hoa păng xê đỏ rực, tuyệt đẹp, có một vẻ gì rất kì lạ. Đó là bông hoa – cười, không có ai trông thấy nó mà lại không thấy lòng hân hoan chỉ muốn cười. Trái tim Peronnik đập thình thịch, cậu biết rằng mình đã qua được thử thách thứ hai, và cậu bình tĩnh liếc nhìn con sư tử có cái bờm và vô số con rắn độc đang vẫy đầu, ngoáy đuôi còn bản thân sư tử thì bệ vệ đi đi lại lại trước lùm cây.
Chàng trai bước lại gần, bỏ mũ ra vì mặc dù ngốc nghếch cậu cũng hiểu rằng khi tiếp xúc với một người mạnh hơn mình, cái mũ sẽ có ích khi nằm trên tay bạn chứ không phải trên đầu bạn. Rồi sau khi trịnh trọng hỏi thăm sức khỏe và bày tỏ ước muốn sư tử và gia đình gặp được những điều may mắn, tốt đẹp, Peronnik hỏi xem có phải cậu đang đi đúng con đường dẫn đến Kerglas không.
“Nhà ngươi có việc gì ở Kerglas?” Sư tử hỏi với một tiếng gầm, nhe cả hai hàm răng dữ tợn.
“Chỉ để bày tỏ lòng ngưỡng mộ,” Peronnik đáp, vờ sợ hãi, “tôi là đầy tớ của một mệnh phụ vốn là bạn của ngài Rogear rất mực cao quý, tôi có nhiệm vụ trao tận tay ngài mấy con chim chiền chiện để làm món chả nướng.”
“Chim chiền chiện!” Sư tử kêu lên, liếm mép. “Có đến hàng trăm năm rồi ta chưa hề thấy một con nào! Chẳng lẽ ngươi mang rất nhiều chim đến đây!”
“Nhiều như cái bị này cho phép đấy ạ.” Peronnik đáp, hé mở cái bị mà cậu nhét vào đấy đầy lông chim và keo dán. Để chứng minh điều mình nói, cậu xoay lưng về phía sư tử nhại lại khúc hát của con chim chiền chiện.
“Đâu đưa đây,” sư tử rối rít kêu lên, nước miếng ứa ra trong miệng “cho ta coi mấy con chim nào! Ta cần biết chắc xem nó có đủ mập đối với ông chủ của ta không?”
“Tôi rất vui sướng được làm thế,” chàng ngốc đáp, “nhưng nếu tôi mở to miệng túi, lũ chim sẽ bay hết ra ngoài mất.”
“Được, vậy thì chỉ cần mở vừa đủ để ta liếc nhìn vào thôi.”
Cho đến lúc này mọi việc đều diễn ra như chàng ngốc đã hi vọng, thế là cậu chìa cái túi ra trong khi con sư tử cẩn thận mở rộng miệng túi rồi chui tọt đầu vào để có thể chỉ một miếng mà đớp hết những con chim béo núc ngon lành. Nhưng đám lông chim và keo dán đã dính chặt vào mặt nó và trước khi nó có thể chui đầu ra, Peronnik đã thít chặt sợi dây thòng lọng quanh cổ nó rồi buộc chặt nút mà không một ai có thể cởi ra được.
Nhanh nhẹn hái bông hoa cười, chàng ngốc vội vã phóng đi như con ngựa có thể bay trên đôi chân của nó.
Chẳng bao lâu con đường dẫn đến cái hồ do những con rồng canh giữ mà Peronnik sẽ phải vượt qua. Con ngựa non đã quen với việc này, nhảy tùm ngay xuống nước không để phí một giây do dự. Nhưng chẳng mấy chốc bầy rồng đã phát hiện có kẻ xâm nhập, không biết từ đâu chúng kéo đến mỗi lúc một đông hòng ăn sống nuốt tươi cả người lẫn ngựa.
Lần này Peronnik không mất công ngả mũ chào làm gì, cậu ném chuỗi hạt mang theo người xuống nước như cái cách bạn ném hạt bắp đen cho vịt và hễ nuốt phải hạt nào là có một con rồng quằn quại giãy giụa và chết ngay. Nhờ thế chàng ngốc sang được bờ bên kia mà không gặp khó khăn gì.
Qua khỏi hồ một đoạn Peronnik thấy trước mặt một thung lũng rộng mênh mông vốn do một người da đen canh giữ. Từ xa cậu đã thấy người này, một chân bị xích vào một tảng đá ở ngoài cổng, một tay nắm chặt quả cầu sắt không khi nào mất dấu, bao giờ cũng sẽ trở về trong tay chủ nó.
Người da đen có 6 con mắt, không lúc nào cùng nhắm một lúc, bao giờ cũng có một con mắt mở ra quan sát. Vào lúc này cả 6 con mắt đều mở và Peronnik biết rõ rằng nếu người da đen trông thấy cậu, hắn sẽ ném quả bóng về phía cậu. Vì thế, sau khi giấu con ngựa vào trong một bụi cây rậm rạp, cậu bò dọc theo một cái hào và lẻn đến sau tảng đá lớn mà người da đen bị xích vào.
Trời hôm ấy rất oi ả, chỉ một lúc sau, người đàn ông bắt đầu gà gật. Hai con mắt nhắm lại. Peronnik cất tiếng hát một khúc nhạc êm tai, dịu ngọt. Con mắt thứ ba khép lại. Peronnik lại tiếp tục hát, còn nhẹ nhàng êm dịu hơn. Mí mắt của con mắt thứ tư trĩu xuống rồi cả con mắt thứ năm thứ sáu đều díp cả lại. Người da đen chìm vào một giấc ngủ sâu.
Chỉ chờ có thế, chàng ngốc rón rén đi trên đầu ngón chân lên đến chỗ giấu ngựa rồi cậu khéo léo dắt ngựa đi qua một thảm rêu xanh mượt, vượt qua chỗ người da đen, đi vào thung lũng của niềm vui, một vườn địa đàng mọc đầy những loại cây. Quả sai trĩu cành, vàng mọng, lủng lẳng mời gọi bạn, những vòi phun nước phun ra thứ rượu quý được ủ lâu năm và chỗ nào cũng nở đầy những loài hoa đang rì rào ca hát bằng cái giọng mượt mà ấm áp của chúng. Xa hơn là những chiếc bàn chất đầy thức ăn, các cô gái xinh đẹp đang nhẹ nhàng uốn lượn những thân hình mềm mại theo điệu múa, mỉm cười mời gọi cậu tham gia trò chơi với họ.
Peronnik nghe tiếng mời chào tha thiết của họ, không hề nhận ra là cậu đã bất giác ghìm cương khiến ngựa đi chậm lại. Cậu háo hức hít hít mùi vị ngon lành của đủ các loại thức ăn và nghển cổ lên để nhìn các vũ nữ cho rõ hơn. Chỉ một tích tắc nữa là cậu đã dừng ngựa lại và để mình lạc mất đường đi lối về. Nhưng bất thình lình chiếc tô vàng và ngọn giáo kim cương hiện lên trong óc cậu. Rút chiếc còi gỗ từ trong túi áo ra, cậu phồng miệng thổi thật to, tiếng còi lanh lảnh át hẳn những khúc nhạc mê li của những đóa hoa, cậu lấy những mẩu bánh vụn còn lại trong túi ra ăn để xua tan nỗi thèm khát những trái cây chín mọng trong vườn địa đàng. Đôi mắt cậu cắm xuống nhìn đôi tai ngựa để không phải thấy các cô gái xinh đẹp.
Cứ như thế cậu ra khỏi vườn địa đàng và cuối cùng cậu cũng đến được tòa lâu đài Kerglas. Nhưng trước mặt cậu là một con sông chảy xiết, chỉ có một khúc cạn có thể lội qua. Có một người phụ nữ ngồi đợi ở đây như chàng hiệp sĩ đã bảo cậu không? Phải, chắc chắn là có rồi và bà ta đang ngồi trên một tảng đá, mặc một chiếc váy xa tanh đen. Bà có nước da và dáng điệu của một phụ nữ người Moore. Chàng ngốc thúc ngựa đến gần, bỏ mũ ra cúi chào lịch thiệp hơn bao giờ hết, đoạn hỏi xem người đàn bà có muốn đi qua sông không?
“Ta đang đợi cháu đến giúp ta đây. Lại gần đây để ta nhảy lên ngồi sau lưng cháu.”
“Cháu có biết cách giết chết pháp sư không?” Người đàn bà hỏi khi họ lội qua khúc sông cạn.
“Cháu nghĩ rằng là một pháp sư ông ta là người không bao giờ chết vì vậy không ai có thể giết được ông ta.”
“Hãy thuyết phục hắn ăn quả táo này, hắn sẽ chết ngay, và nếu như điều đó cũng vẫn chưa đủ ta chỉ cần chạm một ngón tay vào người hắn, vì ta chính là bệnh dịch.”
“Nhưng nếu cháu giết ông ta thì cháu làm thế nào để lấy được cái tô vàng và giáo kim cương giấu trong tầng hầm lâu đài trong khi không có chìa khóa?”
“Bông-hoa-cười sẽ mở được tất cả các cánh cửa và thắp sáng tầng hầm,” người đàn bà nói. Cũng lúc đó họ đã sang được bờ bên kia và tiến về phía tòa lâu đài sừng sững trước mặt.
Ngay trước lối đi vào lâu đài là một cái lều vải được dựng lên với những cây sào, trong lều chính là pháp sư khổng lồ đang ngồi sưởi nắng. Vừa nhìn thấy con ngựa non đi tới mang trên lưng Peronnik và người đàn bà áo đen, hắn đã ngẩng đầu lên, hét vang như sấm rền:
“Cái gì thế này... thằng ngốc... cưỡi con ngựa 13 tháng tuổi của ta!”
“Chào pháp sư kì tài nhất trong các pháp sư, ngài nói đúng đấy ạ.” Peronnik lễ phép đáp.
“Vậy làm sao ngươi có thể bắt được nó.”
“Dạ thưa, chỉ bằng cách lập lại câu thần chú mà kẻ bầy tôi này học được của anh ngài, phù thủy Bryak ở bìa rừng ạ. Tôi chỉ cần đọc:
“Ngựa non mày muốn tự do
Nhanh nhanh chạy đến cho ta gặp nào.”
là nó đến ngay lập tức.”
“Vậy... vậy ngươi biết anh trai ta? Nói cho ta biết tại sao Bryak lại bảo ngươi đến đây.”
“Dạ thưa, chỉ để mang biếu ngài hai món quà mà anh ngài có được từ đất nước của người Moore,” Peronnik kính cẩn đáp, “đó là quả táo của niềm vui sướng và người đàn bà phục tùng. Nếu ngài xơi quả táo này ngài sẽ không còn ao ước điều gì trên đời này nữa và nếu ngài đồng ý để người đàn bà này làm đầy tớ cho ngài thì trên đời này chẳng còn điều gì khiến ngài mong ước nữa.”
“Nếu vậy hãy đưa quả táo cho ta và bảo người đàn bà này xuống ngựa đi,” Rogear ra lệnh.
Chàng ngốc sẵn sàng làm theo. Mới cắn miếng táo đầu tiên người khổng lồ đã lảo đảo, đứng không vững nữa và khi ngón tay dài màu vàng vàng của người đàn bà chạm vào thì hắn ngã xuống đất, chết thẳng cẳng.
Để pháp sư nằm đó, Peronnik nhanh nhẹn bước vào tòa lâu đài, mang theo bông-hoa-cười. Năm mươi cánh cửa mở ra trước mắt cậu. Cuối cùng cậu đi đến một cầu thang dài hình như dẫn cậu vào sâu trong lòng đất. Đi mãi, đi mãi cuối cùng cậu thấy trước mặt một cánh cửa bằng bạc không có then cài hoặc khóa gì cả. Đến đây cậu giơ cao bông-hoa-cười lên trên đầu, cánh cửa từ từ bật mở, phơi ra trước mắt cậu một cái hang sâu thẳm nhưng sáng trưng như giữa ban ngày nhờ ánh sáng từ chiếc tô vàng và cây giáo kim cương. Chàng ngốc hấp tấp chạy lên cầu thang, chiếc tô vàng đeo trên cổ nhờ có sợi dây xích gắn vào, chiếc giáo trứ danh cầm trên tay. Cậu vừa cầm lấy cây giáo thì mặt đất đã rung chuyển dưới chân và với một cái vặn mình dữ dội cả tòa lâu đài biến mất, Peronnik thấy mình đang đứng gần khu rừng nơi cậu vẫn dẫn đàn bò đến đây gặm cỏ.
Mặc dầu nền trời mỗi lúc một tối lại, Peronnik không nghĩ đến chuyện quay về nông trại mà đi theo con đường dẫn đến nơi đóng đô của công tước xứ Britany. Khi đi ngang qua thành phố Vanner, cậu dừng lại ở một hiệu may, sắm một bộ triều phục bằng nhung nâu và một con ngựa trắng như tuyết với một nắm tiền vàng mà cậu nhặt được ở hành lang lâu đài Kerglas. Từ đấy cậu tìm đường đến xứ Nontes vào lúc ấy đang trong vòng vây của người Pháp.
Đi được một đoạn đường, cậu dừng lại, đưa mắt nhìn quanh. Cả một vùng đất kéo dài hết dặm đường này đến dặm đường khác hoàn toàn trơ trọi vì quân thù đã chặt không còn một ngọn cây, đốt trụi không còn một cọng cỏ và mặc dù ngốc nghếch, Peronnik vẫn biết được là bên trong các cánh cổng của các ngôi nhà ven đường là những người chết vì đói. Cậu vẫn còn đang bàng hoàng trước cảnh tượng hoang tàn thì một người cầm cờ hiệu, thổi kèn trumpet hiện ra. Sau một hồi kèn cấp bách, khẩn trương, người này thông báo công tước sẽ truyền ngôi vị cho ai đánh đuổi được quân xâm lược Pháp.
Sau khi nghĩ sứ giả loan tin như thế là đủ, Peronnik phóng ngựa tiến đến gần người này, nói:
“Anh không cần thổi kèn nữa, bởi vì chính tôi sẽ ra tay giết giặc ngoại xâm.”
Nói xong chàng phóng ngựa như bay về tên lính đầu tiên, tay giơ cây giáo lên. Cây giáo màu nhiệm vựa chạm vào người hắn đã lộn khỏi lưng ngựa chết không kịp ngáp. Những người đi theo cậu đứng ngây người, kinh ngạc. Chiếc áo giáp của người lính vẫn còn nguyên vẹn nhưng mà rõ ràng người ấy đã hồn lìa khỏi xác như thể anh ta bị một phát trúng tim. Nhưng trước khi họ hoàn hồn lại Peronnik đã kêu lên:
“Mọi người thấy kẻ thù của tôi sẽ chịu số phận như thế nào, còn bây giờ thì hãy nhìn xem tôi có thể làm gì cho bạn bè.” Nói đoạn, cậu cúi xuống, chạm cái tô vàng vào môi người chết, người này lập tức đứng dậy, khỏe mạnh hơn bao giờ hết. Peronnik nhảy phắt lên lưng ngựa, phóng qua chiến hào, tiến về phía trước, cổng thành chợt mở rộng cả hai cánh để đón cậu.
Tin tức về những chuyện kì lạ này nhanh chóng lan đi khắp thành phố làm cho dân trong thành lấy lại được tinh thần thượng võ và ai nấy đều tuyên bố họ sẵn sàng chiến đấu dưới ngọn cờ của chàng thanh niên lạ mặt. Vì chiếc tô thần đã cứu được tất cả những người đã chết, chẳng bao lâu Peronnik có một đội quân đủ đông và mạnh để đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi và hoàn thành lời hứa của cậu với những người ngay sau đó đã trở thành thần dân trung thành của cậu.
Còn về chiếc tô và cây giáo thần, không ai biết chuyện gì đã xảy ra với những thứ đó. Nhưng có lời đồn rằng phù thủy Bryak đang cố chiếm đoạt lại và bất cứ ai muốn sở hữu hai vật báu đó đều phải làm những điều như Peronnik đã làm.
Truyện Thần Tiên Truyện Thần Tiên - Andrew Lang Truyện Thần Tiên