My test of a good novel is dreading to begin the last chapter.

Thomas Helm

 
 
 
 
 
Tác giả: Jack Kerouac
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: On The Road
Dịch giả: Cao Nhị
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 44
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 20
Cập nhật: 2023-06-22 21:34:15 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
[9]
uổi tối, tôi tham gia vụ đi chơi núi đó và suốt năm ngày không được gặp cả Dean lẫn Carlo. Babe Rawlins đã mượn được ô tô của chủ trong dịp nghỉ cuối tuần này. Chúng tôi mang theo com lê, treo lên cửa sổ ô tô rồi phới lên Central City, Ray Rawlins cầm lái, Tim Gray ngồi băng sau, còn Babe ngồi ghế trước. Đây là lần đầu tiên tôi thấy vùng đất phía trong dãy Rocky. Central City là một thành phố mỏ cũ kỹ, xưa được mệnh danh là “Dặm đất Giàu có Nhất Thế giới, nơi những kẻ đào vàng vốn tràn ngập các ngọn đồi nơi đây đã phát hiện ra một mỏ bạc ra tấm ra món. Trong chớp mắt họ phất lên và cho xây cả một nhà hát opera nhỏ nhưng rất đẹp ngang đỉnh dốc cheo leo, giữa khu nhà ở. Lillian Russell đã từng đến đây cùng với những ngôi sao opera châu Âu. Thế rồi Central City trở thành một thành phố chết cho đến khi có những người quả cảm ở phòng thương mại của miền Tây mới quyết định hồi sinh lại nó. Họ tu tạo lại nhà hát Opera và cứ mùa hè đến lại có các diễn viên từ Metropolitan lên biểu diễn. Nơi này trở thành một trung tâm nghỉ mát. Khách du lịch khắp nơi đổ về, cả những ngôi sao Hollywood. Trèo lên đó, chúng tôi thấy những đường phố đẹp đầy khách du lịch chạy theo mốt. Tôi liền nghĩ ngay tới nhân vật Sam trong truyện ngắn của Major và thấy Major đã có lý. Major cũng có mặt ở đây, hắn ban phát cho từng người nụ cười lịch sự rộng nở, thấy gì cũng ô, a một cách đầy thích thú và kinh ngạc - mà cũng hết sức thành thực nữa. “Sal,” hắn gào lên, bấu chặt cánh tay tôi, “nhìn cái thành phố cũ kỹ này mà xem. Hãy nghĩ đến chuyện cách đây một trăm, làm quái gì đến, chỉ tám mươi, sáu mươi năm thôi, người ta đã nghe opera rồi!”
“Thì rõ,” tôi bắt chước một nhân vật của hắn, “mà bọn họ kia kìa.”
“Bọn khốn,” hắn gầm lên.
Babe Rawlins là một cô gái tóc vàng bạo dạn. Cô nghe nói có một căn nhà cũ của thợ mỏ ở ngoại vi thành phố nơi cánh con trai có thể ngủ qua đêm trong kỳ cuối tuần, chỉ cần quét dọn một chút là ở được. Ở đấy còn có thể tiệc tùng hoành tráng nữa. Đến nơi thì đó là một ngôi nhà tồi tàn bên trong phủ hàng inch bụi, có hàng hiên và giếng ở phía sau. Tim Gray và Rawlins tức thời xắn tay áo lên quét dọn, vật lộn mất cả buổi chiều và một phần đêm. Bù lại họ được hưởng cả một xô bia và cuộc đời vẫn đẹp sao.
Về phần tôi, theo kế hoạch thì chiều hôm đó sẽ phải tháp tùng Babe đến nhà hát opera. Tôi mặc bộ com lê của Tim. Chỉ cách đây mấy ngày, tôi đến Denver như một thằng đầu đường xó chợ, giờ đây trông tôi choáng lộn, khoác tay một người đẹp tóc vàng điệu đàng, nghiêng đầu chào các vị chức sắc và tán gẫu trong sảnh dưới ánh đèn chùm rực rỡ. Tôi tự hỏi không biết Mississippi Gene sẽ nghĩ gì khi gã nhìn thấy tôi lúc này.
Hôm nay diễn vở Fidelio*. “Ôi buồn sao!” một giọng nam trung vút lên, anh chàng nâng một tấm đá lên và chui ra khỏi ngục. Tôi khóc khi xem cảnh ấy. Đó cũng là cách tôi nhìn cuộc đời. Tôi mê mẩn vở opera đến nỗi trong một thoáng đã quên hết thực trạng điên rồ của đời mình để đắm mình trong âm nhạc sầu thảm vĩ đại của Beethoven cùng âm hưởng bi kịch hoành tráng của câu chuyện này.
“Thế nào, Sal, ông thấy sản phẩm năm nay thế nào?” Denver D. Doll hỏi tôi một cách tự hào khi chúng tôi đã ra tới ngoài phố. Gã cũng có chút dây mơ rễ má với ban giám đốc nhà hát.
“Ôi buồn sao, ôi buồn sao,” tôi nói. “Thật tuyệt cú mèo.”
“Việc tiếp theo các vị cần làm là đi chào các diễn viên trong đoàn,” gã tiếp tục cái giọng trịnh trọng đó, nhưng may là có nhiều việc khiến gã quên béng, và gã biến mất.
Babe và tôi quay về nhà tay thợ mỏ. Tôi trút bỏ bộ com lê, nhập vào kíp quét dọn. Cả một khối công việc đồ sộ. Roland Major cứ ngồi bảnh chọe ở giữa căn phòng phía trước đã dọn dẹp xong xuôi, nhất định không chịu giúp một tay. Trên cái bàn nhỏ kê trước mặt hắn là một chai bia và một cái cốc. Khi chúng tôi chạy loạn lên với xô nước và chổi thì hắn vẫn điềm nhiên ngồi kể chuyện kỷ niệm. “Chà, nếu có dịp các ông được theo tôi đi uống một ly Cinzano và nghe bọn nhạc công ở Bandol chơi đàn thì mới biết thế nào là cuộc đời. Và còn những mùa hè ở Normandy, cái món rượu tuyệt trần Calvados để lâu năm. Thôi nào, Sam,” hắn đang nói với một chiến hữu tưởng tượng. “Tách rượu khỏi nước xem thử nó có lạnh không khi chúng ta ngồi câu.” Cái này thì hắn thuổng thẳng ra từ truyện của Hemingway.
Bọn tôi gọi những cô gái đi ngang. “Vào giúp chúng tôi một tay dọn dẹp nhà cửa nào. Tối nay mọi người đều được mời dự tiệc.” Thế là đám con gái xô vào, tất cả xúm vào quét dọn. Cuối cùng mấy thành viên đội hợp xướng của nhà hát kéo đến giúp - phần lớn bọn này đều còn là nhóc con. Mặt trời ngả bóng.
Sau một ngày vất vả, Tim, Rawlins và tôi quyết định phải tự tỉa tót chút trước khi bước vào đêm vui lớn. Chúng tôi xuyên thành phố đến chỗ ở của diễn viên nhà hát. Qua bóng tối chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc dạo đầu của đêm biểu diễn. Rawlins nói, “Vừa đúng lúc. Chỉ cần thuổng lấy ít lưỡi dao cạo và khăn mặt là ta sẽ tút lại phong độ ngay.” Chúng tôi còn thuổng thêm cả bàn chải răng, nước hoa cologne, cả nước hoa bôi cằm sau khi cạo râu, rồi mang hết vào phòng tắm. Và cứ vừa tắm vừa hát vang lên, “Chẳng phải là vĩ đại sao?” Tim Gray cứ luôn mồm nhắc đi nhắc lại. “Dùng hẳn phòng tắm của các sao opera, cả khăn mặt, cả nước hoa bôi ria mép, cả máy cạo râu của họ.”
Một đêm huy hoàng. Central City ở độ cao hai dặm so với mực nước biển; trước hết bạn sẽ say vì độ cao, tiếp đó sẽ thấy mệt, rồi tâm hồn như đang lên cơn sốt. Chúng tôi đi dọc con phố hẹp tối tăm để lại gần nhà hát lung linh ánh đèn, rồi đột ngột rẽ phải và đổ bộ vào một quán rượu cũ có cửa xoay. Phần lớn khách du lịch đang ở trong nhà hát. Chúng tôi rồ máy sau khi uống thêm vài vại bia. Trong quán có một nhạc công piano. Qua cánh cửa sau là cảnh miền núi tắm trong ánh trăng. Tôi reo lên thích thú. Đêm vui bắt đầu.
Chúng tôi ba chân bốn cẳng quay về căn nhà thợ mỏ. Mọi thứ đã sắp đặt xong. Cánh con gái, Babe và Betty, đã nấu xong món đậu và xúc xích Đức thơm phức, chúng tôi nhảy đầm và uống bia thả giàn. Khi nhà hát tan, bọn con gái ào ào kéo đến chật cả nhà. Rawlins, Tim và tôi cùng liếm mép, ôm cứng lấy bọn con gái và nhảy. Bọn tôi chỉ nhảy chay, không có nhạc. Gian phòng quá tải như muốn đổ ụp. Mọi người lại khuân thêm rượu đến, cứ chạy sang quán rượu rồi quay về, nhanh như chớp. Càng về khuya không khí càng cuồng loạn. Tôi ước gì Dean và Carlo cũng có mặt ở đây - rồi chợt nhận ra nếu ở đây họ sẽ lạc lõng và không vui. Họ giống như cái gã u sầu nâng tảng đá nhà ngục, chui lên từ lòng đất, là bọn hippy dưới đáy xã hội Mỹ, một thế hệ tàn tạ mới mà tôi hiện đang dần trở thành thành viên.
Bọn nhóc trong đội hơp xướng xông vào. Chúng bắt đầu hát bài “Adeline ngọt ngào”, có bịa thêm những lời mới như “Chuyển bia sang đây nào” và “Mày còn chờ gì nữa, đồ sâu bọ”, rồi hú lên ngân dài bằng giọng nam trung “Fi-de-li-o!” Còn tôi thì hát “Ôi, mới buồn làm sao!” Bọn con gái thật trên cả tuyệt vời. Họ chạy ra sân sau và ôm cổ chúng tôi âu yếm. Các phòng khác đều sẵn giường, những chiếc giường bẩn thỉu bụi bặm, tôi đang cùng một em ngồi trên một chiếc như thế và đấu hót với nàng thì bất thần bọn hợp xướng bên nhà hát ùa vào, túm lấy bọn con gái hôn hít, bỏ qua giai đoạn tán tỉnh. Trong vòng năm phút đồng hồ, các cô gái chuồn không còn một mống và bữa tiệc lớn kiểu thác loạn bắt đầu với tiếng mở bia bôm bốp và tiếng la hét ầm ĩ.
Ray, Tim và tôi bàn nhau đi bar đập phá. Major đã rút, Babe và Betty cũng biến. Chúng tôi đi trong đêm, chân đăm đá chân chiêu. Đám người trong nhà hát ra tràn vào đông kín các quán rượu, chật đến nghẹt thở. Có tiếng Major đang sủa trên đầu mọi người. Thằng cha Denver D. Doll đi bắt tay suốt lượt, không biết mệt, miệng nói, “Chào buổi chiều, anh khỏe không?” và đến nửa đêm vẫn cứ “Chào buổi chiều, anh khỏe không?” Đến một lúc tôi thấy cha này biến đâu mất với một vị chức sắc. Lát sau hắn quay lại với một bà nạ dòng, một phút sau, đã thấy hắn bả lả với hai nhân viên nhà hát. Phút tiếp theo, hắn lại đến bắt tay tôi mà không còn nhớ tôi là ai, và nói, “Chúc mừng năm mới, anh bạn trẻ.” Hắn đâu có say vì rượu, chỉ say một thứ duy nhất mà hắn rất mê: đám đông chen chúc. Mọi người đều biết hắn. “Chúc mừng năm mới,” hắn gào lên, và đôi khi lại, “Noel vui vẻ.” Cứ thế luôn mồm. Đến ngày Noel, hắn lại nói, “Chúc mừng Halloween.”
Trong quán có một giọng nam cao rất được kính nể. Denver Doll cứ nằn nì bắt tôi phải đến chào tay này, mà tôi thì chỉ muốn thoái thác; tên hắn là D’Annunzio hoặc đại loại như vậy. Chị vợ cùng ngồi với anh ta. Họ chiếm riêng một bàn, vẻ phớt đời. Trong quán cũng có một gã du lịch người Argentina. Rawlins thô bạo đẩy gã qua một bên để chiếm chỗ. Gã quay lại gầm gừ. Rawlins đưa tôi ly rượu rồi tống cho gã kia một quả khiến gã gục luôn. Tiếng kêu thét ầm ĩ, Tim và tôi kéo Rawlins đánh bài chuồn. Chỗ đó ầm ĩ lộn xộn đến nỗi cảnh sát không mở được lối đi để đến chỗ nạn nhân. Không ai nhận dạng được Rawlins. Bọn tôi rút sang quán khác. Major đang khật khưỡng trên con phố tối đen. “Có chuyện quái gì thế? Đánh nhau à? Gọi tôi với.” Tiếng cười tóe ra ở mọi góc. Tôi nghĩ bụng không hiểu ông thần Núi sẽ nghĩ gì về những chuyện này. Tôi ngước nhìn những cây thông núi dưới ánh trăng, thấy hồn ma của những người từng đi khai mỏ, và băn khoăn mãi. Sườn núi phía Đông tối om, tất cả đêm nay chỉ là im lặng và tiếng gió rì rào, trừ cái bờ vực là nơi chúng tôi đang gào thét. Bên kia sườn núi là Dốc Tây vĩ đại và một bình nguyên mênh mông chạy đến tận Steamboat Spring, dần thoai thoải đưa ta đến tận sa mạc vùng Colorado và sa mạc Utah ở miền Tây. Tất cả còn chìm trong bóng đêm, khi chúng tôi đang gào thét trong cái hẻm núi này như những tên Mỹ say rượu điên khùng trên một vùng đất hùng vĩ. Chúng tôi đang ở trên nóc nhà nước Mỹ và tất cả những gì chúng tôi có thể làm chỉ là rống lên như bò xuyên màn đêm về phía Đông, đến Đồng bằng Lớn, nơi, tôi đoán, là có lẽ một ông già tóc bạc đang đi về phía chúng tôi mang theo lời sấm, chỉ chốc lát nữa thôi sẽ tới và bắt chúng tôi câm họng.
Rawlins nhất định đòi quay lại cái quán hắn vừa đánh lộn. Tim và tôi không tán thành lắm nhưng vẫn phải theo hắn. Hắn xông đến chỗ D’Annunzio, tay có giọng nam cao nổi tiếng, tương hẳn một ly whisky vào giữa mặt gã. Chúng tôi phải lôi hắn ra ngoài. Một chú hát giọng nam trung của đội hợp xướng lại chỗ chúng tôi và cùng té đến một quán bar bình dân của Central City. Vào đây, Ray lại gọi một cô phục vụ là “hàng”. Một toán người sầm mặt kéo đến quầy bar; họ chúa ghét khách du lịch. Một gã nói, “Tốt nhất là bọn mày nên biến khỏi đây trước khi tao đếm đến mười.” Thế là cả bọn rút êm, mò về nhà và đi nằm luôn.
Sáng ra, tôi tỉnh dậy và trở mình; bụi từ đệm bốc lên như một đám mây lớn. Tôi định mở cửa sổ ra, nhưng nó đã bị đóng đinh chặt. Tim Gray cũng đang nằm trên giường với tôi. Bọn tôi ho và hắt hơi suốt. Bữa sáng của bọn tôi chỉ có mỗi bia thiu. Babe từ khách sạn đã quay về và mọi người thu xếp đồ đạc ra về.
Mọi thứ có vẻ hỏng bét. Khi chúng tôi đang ra xe, Babe trượt chân ngã đập mặt xuống đất. Con bé tội nghiệp đã phải làm việc quá sức. Ray, Tim và tôi phải vực con bé dậy. Bọn tôi vào ô tô, Major và Betty đến phút cuối cũng nhảy vào luôn. Chuyến trở về buồn bã.
Bất chợt chúng tôi ra khỏi miền núi và nhìn ngắm miền đồng bằng Denver mênh mông từ trên cao trong hơi nóng bốc lên như hun. Mọi người bắt đầu hát. Tôi thấy sốt ruột, muốn được phóng một lèo đến tận San Francisco.
Trên Đường Trên Đường - Jack Kerouac Trên Đường