Chướng ngại chỉ đe dọa được bạn một khi bạn rời mắt khỏi mục tiêu.

Henry Ford

 
 
 
 
 
Tác giả: James Rollins
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Black Order
Dịch giả: Đỗ Trọng Tân
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 498 / 28
Cập nhật: 2019-12-06 08:58:33 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần III - Chương 11 - Con Quỷ Trong Cỗ Máy
2 giờ 33 phút sáng
Trên bầu trời Ấn Độ Dương
— Đại úy Bryant và tôi tại đây, ở Washington này, sẽ làm hết sức mình để điều tra vụ nhà Waalenbergs. - Logan Gregory nói qua điện thoại.
Painter đeo một bộ tai nghe vắt một cái micro lủng lẳng. Anh đang cần được thoải mái đôi tay khi chọn lọc lại đống giấy tờ mà Logan đã fax tới vùng chiến dịch tại Kathmandu. Gồm tất cả mọi thứ về Waalenbergs: tiểu sử gia đình, các báo cáo tài chính, các mối quan hệ quốc tế, thậm chí cả những chuyện lượm lặt về các sự kiện xã hội và những chuyện đàm tiếu, cạnh khoé, bóng gió.
Trên cùng núi giấy tờ ấy là một bức ảnh đã lấm tấm cũ: một người đàn ông và một người phụ nữ đang trèo ra khỏi một chiếc xe hơi to sang trọng. Gray Pierce đã gỡ lấy bức tranh từ một phòng khách sạn bên kia phố trước khi cuộc bán đấu giá bắt đầu. Việc cảnh giới kỹ thuật số đã khẳng định nội dung đánh giá của Logan. vết xăm có mối dây dính dáng tới bè đảng nhà Waalenbergs. Hai người trong bức ảnh đó là Isaak và Ischke Waalenberg, những người thừa kế trẻ nhất một cặp sinh đôi trong một gia đình giàu sụ, giàu tới mức ngang tầm với tổng sản phẩm quốc nội của nhiều nước.
Nhưng quan trọng hơn, Painter đã nhận ra nước da xanh tái và bộ tóc trắng. Cặp đôi này còn hơn mức người thừa kế. Họ là người Sonnekõnige. Giống như Gunther, giống như tên ám sát, trở lại câu chuyện tại lâu đài trên núi.
Painter nhìn liếc nhanh về phía trước buồng lái của Gulístream.
Gunther đã ngủ, nằm ườn ra trên ghế sofa, hai chân đung đưa đầu ghế. Em gái hắn, Anna, ngồi trong một cái ghế ngay gần đó, đang ngán ngẩm nhìn đống tài liệu nghiên cứu giống Painter. Thiếu tá Brooks và hai biệt động Mỹ canh giữ cả hai. Vai trò bây giờ đã đảo ngược lại. Người chuyên đi bắt giam bây giờ đã trỏ thành tù nhân. Nhưng mặc dù thay đổi quyền lực thì cũng không có gì thực sự thay đổi giữa bọn họ. Anna cần những mối quan hệ của Painter và hỗ trợ hậu cần. Còn Painter thì cần am hiểu của Anna về Cái chuông và kiến thức khoa học đằng sau nó. Anna tuyên bố trước: “Khi xong chuyện này, chúng ta sẽ giải quyết mọi vấn đề pháp lý và trách nhiệm.”
Logant cắt đứt phút mơ màng của anh.
— Kate và tôi phải có hẹn làm việc sáng nay với đại sứ Nam Phi. Chúng tôi sẽ xem liệu họ có thể giúp gì làm sáng tỏ thêm về gia đình ẩn dật này.
Và cuộc đời ẩn dật đã được sắp đặt một cách nhẹ nhàng. Gia đình Waalengbergs chính là kiểu gia đình Kennedy của Nam Phi: giàu có, tàn nhẫn, có một lãnh thồ riêng, một đồn điền với kích thước của đảo Rhode, nằm bên ngoài Johannesburg. Mặc dù gia đình này còn sở hữu đất đai rộng lớn của nhiều vùng khác, nhưng hiếm khi gia đình Waalengbergs đi đâu xa ra khỏi đồn điền chính của họ.
Painter nhặt bức ảnh kĩ thuật số lấm tấm mờ lên.
Một gia đình dòng Sonnekõnige.
Vì chẳng còn nhiều thì giờ, duy nhất chỉ có một chỗ Cái chuông có thể được người ta cất giấu. Một nơi nào đó trong đồn điển này.
— Một nhân viên người Anh sẽ gặp anh khi anh hạ cánh xuống Johannesburg. Cục phản gián Anh quốc MI5 đã theo dõi nhà Waalenbergs trong nhiều năm, theo dõi cả những vụ giao dịch không bình thường, nhưng họ đã không đủ khả năng thâm nhập xuyên qua bức tường riêng tư và bí mật.
Khi nhà Waalenbergs thực tế làm chủ quốc gia này thì chẳng có gì khó đối với họ. Painter nghĩ.
— Họ sẽ giúp ta tại địa bàn và có chuyên gia địa phương, - Logant kết thúc. - Tôi sẽ trình bày chi tiết hơn lúc anh hạ cánh sau ba tiếng nữa.
— Rất tốt. - Painter nhìn chăm chú vào bức ảnh. - Thế còn Gray và Monk thì sao?
— Họ lạc khỏi bản đồ giám sát rồi. Chúng tôi tìm thấy xe của họ tại sân bay ở Frankfurt.
Frankfurt? Chả có ý nghĩa gì cả. Thành phố đó là một đầu mối không vận quốc tế lớn nhưng Gray đã được đi máy bay phản lực của chính phủ rồi cơ mà, nhanh hơn bất cứ hãng hàng không thương mại nào. - Và không một lời nhắn lại sao?
— Không, thưa ngài. Chúng tôi đã nghe trên tất cả các kênh liên lạc.
Tin tức chắc chắn bị rối loạn.
Lấy tay xoa vào cái đầu đang đau nhức, thậm chí Codeine cũng không làm giảm đau, Painter tập trung vào tiếng kêu ì ì của máy bay khi nó lướt xuyên vào những vùng trời tối sậm. Chuyện gì đã xảy ra với Gray vậy? Những phương án đưa ra rất ít: anh ấy đã trốn à, bị bắt à, hay là đã bị giết. Anh đang ở đâu?
— Logan, lùng sục cho kỹ mọi chỗ đi.
— Tôi đang làm. Hy vọng là khi anh liên lạc được với Johannesburg, tôi cũng sẽ có nhiều tin tức hơn về vấn đề này.
— Cậu đã ngủ chưa hả Logan?
— Có một Starbucks ở góc phố thưa ngài. Cứ cho là ở mọi chỗ đi. - Lời nói của anh phảng phất giọng trêu chọc mệt mỏi. - Nhưng còn ngài thì sao?
Anh đã tranh thủ chợp mắt ở Kathmandu trong khi tất cả đã chuẩn bị xong xuôi và ngọn lửa đã bị dập tắt - theo nghĩa đen và theo nghĩa chính trị ở Nê - pan. Họ đã bị gây trở ngại quá lâu ở Kathmandu.
— Tôi vẫn khỏe thôi, Logan. Khỏi lo.
Đúng vậy.
Khi Painter ngừng nói, ngón tay cái của anh xoa một cách lơ đãng lên chỗ chai ở ngón tay thứ tư của anh - và bây giờ là ngón chân. Tất cả các ngón tay khác của anh đều buốt - và bây giờ là những ngón chân. Logan đã cố gắng thuyết phục anh bay trở lại Washington, để kiểm tra bệnh tại bệnh viện Johns Hopkins, nhưng Painter tin rằng nhóm của Anna còn bị nặng hơn anh xét về chứng bệnh đặc biệt này. Cơ thể bị tàn phá ở cấp lượng tử. Không có phác đồ điều trị thông thường nào có tác dụng. Để làm chậm tiến triển của căn bệnh, họ cần một Cái chuông đang hoạt động khác. Theo Anna, phác đồ điều trị định kỳ bằng bức xạ của Cái chuông dưới những điều kiện có kiểm soát có thể cho họ thời gian sống thêm tính bằng năm chứ không phải bằng ngày. Và có thể ở nơi cuối đường, may ra có một phương cứu chữa thậm chí hoàn chỉnh. Anna kết luận đầy hy vọng.
Nhưng trước tiên họ cần một Cái chuông khác.
Và nhiều thông tin hơn nữa.
Một giọng nói phía sau gờ vai làm anh giật mình.
— Tôi nghĩ chúng ta nên nói chuyện với Anna. - Lisa nói, như thể cô đã đọc được hết những suy nghĩ của anh.
Bainter quay đầu lại, anh cứ nghĩ rằng Lisa đang ngủ ở phía sau. Cô ấy đã dọn dẹp vệ sinh, tắm rửa, và giờ đang ngồi tựa vào cái ghế của anh; mặc một chiếc quần kaki rộng và chiếc áo màu kem.
Ánh mắt cô tìm kiếm trên khuôn mặt anh, trầm ngâm, phán xét. - Anh trông giống như một kẻ tào lao vậy, - cô nói.
— Thái độ chăm sóc bệnh nhân bên giường hay đấy nhỉ, - anh nói rồi đứng lên và vươn người.
Chiếc máy bay nghiêng đi và tối sầm lại. Lisa chộp lấy khuỷu tay của anh rồi bám chắc vào anh. Thế nhưng nó lại bừng sáng và ổn định lại ngay. Nó không phải là do máy bay mà chính xác hơn là do cái đầu của anh.
— Hãy hứa với tôi anh sẽ ngủ thêm một lát trước khi chúng ta hạ cánh, - cô nói và ép chặt khuỷu tay của anh xuống bằng một cú véo.
— Nếu có thời gian. Ôi dào!
Cô véo tay cứng như sắt.
— Ok, tôi hứa, - giọng anh dịu lại.
Cô nới lỏng tay véo. Cô gật đầu với Anna. Người phụ nữ ấy đang khom mình trên một chồng hoá đơn, xem xét kĩ lưỡng những hoá đơn vận chuyển của đồn điền nhà Waalenberg. Mụ đang tìm một dấu hiệu nào đó để có thể chứng minh được rằng gia đình nhà Waalenberg đã thu về những khoản lợi tức phù hợp cùng với quá trình hoạt động của Cái chuông.
— Tôi muốn biết nhiều hơn xem Cái chuông hoạt động như thế nào, - Lisa nói. - Những nguyên lý cơ bản ở đằng sau nó. Nếu như căn bệnh phá hủy cơ thể ở cấp lượng tử, chúng ta phải hiểu như thế nào và tại sao. Chị và Gunther chỉ là những người sống sót của nhóm Granitschlob. Tôi nghi rằng Gunther đã được hướng dẫn về những điểm tốt hơn nguyên lý hoạt động của Cái chuông.
Painter gật đầu. - Làm một con chó giữ nhà còn hơn là một nhà nghiên cứu khoa học.
Như thể để xác nhận ý nghĩ này, một tiếng ngáy to nghe rừ rừ phát ra từ phía người đàn ông đó.
— Tất cả các kiến thức còn lại của Cái chuông đều nằm trong đầu Anna. Nếu tâm trí của cô ta bị lú lẫn…
Họ sẽ đánh mất tất cả.
— Chúng tôi cần bảo đảm thông tin trước khi điều đó xảy ra. - Painter thoả thuận.
Ánh mắt Lisa nhìn vào mắt anh. Cô không che giấu những ý nghĩ của mình. Ý nghĩ cứ việc thể hiện rõ rệt trên gương mặt cô. Anh nhớ lại lúc cô leo lên sàn máy bay khi ở Kathmandu. Bị kiệt sức mệt lử, bị cọ vào thành gồ gề, cô vẫn cứ vươn tới đi tiếp. Cô ấy hiểu. Giống như bây giờ.
Đó không phải là Anna, người mà kí ức và trí nhớ đang lâm nguy.
Painter cũng đang ở trạng thái nguy hiểm.
Chỉ có một người đã đi theo dấu vết này ngay từ đầu, một người có trí tuệ y học và khoa học đã lần theo tất cả, một tâm trí không hề bị chứng mất trí xâm lấn. Trở lại chuyện đồn điền, Lisa và Anna đang trao đổi dài, chỉ riêng họ thôi. Cũng về phần mình, Lisa đã tìm hiểu chiều sâu của phần thư viện nghiên cứu của Anna. Ai mà biết được một sự việc tí tẹo nào đó cũng có thể chứng minh một vấn đề then chốt, tạo ra khác biệt giữa thành công và thất bại?
Lisa đã hiểu ra.
Đã không có thảo luận nào ở Kathmandu.
Cô ấy đã dễ dàng trèo lên sàn máy bay.
Tay Lisa thả khuỷu tay anh ra và lướt nhẹ trên cánh tay anh. Cô bấm vào những ngón tay anh và gật đầu với Anna. - Hãy nhặt nhạnh và sử dụng chất xám của chị này.
***
— Để hiểu được Cái chuông làm việc thế nào, - Anna giải thích. - Trước tiên, anh phải hiểu được thuyết lượng tử.
Lisa đã nhìn ngắm kỹ người phụ nữ Đức này. Con ngươi của mụ màu cà phê pha nhạt. Mụ hưởng gen quá nhiều. Những ngón tay của Anna run run. Cô giữ chặt chiếc kính bằng cả hai tay, cứ như thể gọng kính là một cái mỏ neo vậy. Họ đã rút về phía sau chiếc máy bay phản lực. Gunther vẫn ngủ dưới sự canh gác ở phía trước.
— Tôi nghĩ chúng ta không có đủ thời gian cho một chương trình Tiến sĩ đầy đủ. - Painter nói.
— Đương nhiên. Chỉ có ba nguyên lý cần phải hiểu. - Anna buông lỏng cặp kính của mụ đủ để nâng lên cao bằng một ngón tay. - Trước tiên, chúng ta phải hiểu rằng một khi vật chất bị phá vỡ thành cấp tiểu nguyên tử - thế giới của electron, proton và nơtron - sau đó những định luật cổ điển về vũ trụ bắt đầu bị xói mòn. Max Planck đã khám phá ra rằng electron, proton và nơtron lúc ấy sẽ hoạt động như hạt và sóng. Điều này nghe có vẻ ngạc nhiên và mâu thuẫn. Các hạt có quỹ đạo và đường đi riêng biệt, trong khi những dải sóng thì lại khuếch tán nhiều hơn, ít tách biệt hơn, thiếu hẳn toạ độ cụ thể.
— Và những hạt tiểu nguyên tử này hoạt động theo cả hai cách à? - Lisa hỏi.
— Chúng có thế năng hoặc là của sóng hoặc là của phân tử, - Anna nói. - Điều sẽ đưa chúng ta đến điểm tiếp theo. Nguyên lý không chắc chắn Heisenberg.
Lisa đã đọc được điều này lúc trong phòng thí nghiệm của Anna.
— Về cơ bản Heisenberg đã tuyên bố được rằng không có gì là chắc chắn cho đến khi ta thấy nó. - Mụ nói
— Nhưng tôi không hiểu cái gì có liên quan tới electron, proton và nơtron.
— Ví dụ tốt nhất cho nguyên lý của Heisenberg là con mèo của Schrodinger, - Anna trả lời. - Đặt con mèo vào một cái hộp kín mít được móc vào một thiết bị mà có thể hoặc không thể làm con mèo bị đầu độc bất cứ lúc nào. Hoàn toàn là những số lẻ ngẫu nhiên. Chết hoặc vẫn sổng. Heisenberg nói với chúng ta rằng trong trường hợp đó, với một cái hộp bị bịt kín, con mèo có cả hai khả năng sống và chết. Duy chỉ có khi nào một người nào đó mở cái hộp và nhìn vào bên trong thì thực tế mới lựa chọn được trạng thái này hoặc trạng thái kia. Chết hay còn sống.
— Nghe như triết học hơn là khoa học. - Lisa nói.
— Có lẽ khi chị đang nói về một con mèo. Nhưng nó lại được chứng minh là đúng ở cấp độ tiểu nguyên tử.
— Được chứng minh? Như thế nào? - Painter hỏi. Anh vẫn ngồi yên lặng nãy giờ, để cho Lisa chỉ đạo cuộc thầm vấn. Cô có cảm giác anh đã biết rất nhiều về điều này rồi nhưng vẫn muốn Lisa tự kiếm tất cả các thông tin mà cô cần.
— Trong thí nghiệm trượt đúp kinh điển, - Anna nói, - cái đưa chúng ta tới điểm thứ ba. - Mụ nhặt hai mảnh giấy và vẽ hai đường rạch lên từng mảnh rồi giơ chúng lên, tò này nằm sau tờ kia.
— Điều mà tôi định nói là anh đang dần trở nên xa lạ và chống lại những cảm giác thông thường… Giả sử mảnh giấy này là một bức tường làm bằng bê - tông và hai đường kẻ rạch là hai cái cửa sổ. Nếu anh có một khẩu súng và anh bắn đạn vào cả hai khe rạch, anh sẽ có một khuôn mẫu nào đó trên bức tường trên cái mặt sau. Giống như thế này.
Mụ cầm mảnh giấy thứ hai và chọc những cái lỗ tròn trên giấy.
— Gọi cái này là mẫu Nhiễu xạ A. Đường đi của những viên đạn hay những phần tử sẽ xuyên qua những khe hở này.
Lisa gật đầu. - Được đấy.
— Tiếp theo, thay vì những viên đạn, hãy chiếu sáng một cái đèn pha lên bức tường, cho ánh sáng xuyên qua cả hai khe hở. Bởi vì ánh sáng di chuyển theo những bước sóng nên chúng ta sẽ có những mô hình khác nhau trên bức tường phía xa.
Mụ tô đậm nhạt các dải sáng và tôi sang các phần còn trắng của tò giấy.
— Mô hình này được tạo ra bởi các dải sóng ánh sáng trượt qua bên phải và bên trái các cửa sổ giao nhau với từng bên. Vì vậy hãy gọi cái này là mẫu Giao thoa B… cái mà do các sóng điện từ tạo nên.
— Đã hiểu, - Lisa nói, không chắc rồi điều này sẽ đi đến đâu.
Anna giơ hai mô hình lên. - Bây giờ hãy lấy một khẩu súng electron và bắn một đường electron đơn vào hai khe rạch. Cô sẽ có mô hình nào?
— Khi chị bắn những electron như những viên đạn, tôi đoán sẽ là mẫu Nhiễu xạ A. - Lisa chỉ vào bức tranh đầu tiên.
— Trên thực tế, trong các thử nghiệm tại phòng thí nghiệm, cô sẽ có mẫu thứ hai, mẫu Giao thoa B.
Lisa suy nghĩ về điều này.
— Mô hình sóng điện từ. Vậy khi đó những electron phải được bắn ra từ khẩu súng - không giống như những viên đạn - nhưng giống như ánh sáng phát ra từ chiếc đèn pha, di chuyển theo bước sang và tạo nên mẫu B.
— Đúng vậy.
— Vì vậy nên những electron di chuyển giống như sóng điện từ.
— Đúng. Nhưng chỉ khi không có ai thực tế chứng kiến các electron đi xuyên qua các khe hở.
— Tôi không hiểu.
— Trong một thí nghiệm khác, các nhà khoa học đã đặt một máy báo âm nhỏ vào một trong hai rãnh hở. Nó sẽ kêu bíp khi nó nhận ra được một electron đang đi qua khe hở, đo và quan sát được đường đi của một electron đi qua bộ dò. Mẫu nào sẽ nằm ở mặt phẳng thứ hai khi mà thiết bị được bật lên?
— Nó sẽ không thay đổi, có phải vậy không?
— Trong một giới hạn rộng thì cô đúng. Nhưng nó lại không đúng đối với giới hạn của tiểu nguyên tử. Khi mà thiết bị đó đã được bật lên, nó lập tức sẽ chuyển sang mẫu Nhiễu xạ A.
— Vậy, một hành động đơn giản là đo đạc đã thay đổi mẫu?
— Đúng như Heisenberg dự đoán. Mặc dù nó có vẻ là không thể, nhưng nó là sự thật. Được xác minh hết lần này đến lần khác. Những hạt electron tồn tại ở một trạng thái bất biến của cả sóng và hạt, cho đến khi một cái gì đó đo được các electron và ép nó về thực tế cái này hoặc cái kia.
Lisa cố gắng chụp một bức ảnh của thế giới tiểu nguyên tử, nơi mà mọi thứ được giữ ở trạng thái thế năng. Nó chẳng làm nên ý nghĩa gì.
— Nếu như hạt tiểu nguyên tử tạo nên nguyên tử, - Lisa hỏi, - và những nguyên tử tạo nên vạn vật mà chúng ta biết, sờ được, cảm được, thì đâu là đường phân định giữa một thê giới cơ học lượng tử ma và một thế giới của chúng ta với những vật thể đang hiện hữu?
— Lại một lần nữa, cách duy nhất để làm sụp thế năng là phải có một cái gì đấy để đo lường được nó. Những công cụ đo lường như vậy hiện hữu thường xuyên trong môi trường. Nó có thể là một vụ va đập cực mạnh của một phần tử này vào một phần tử khác, một pho - ton ánh sáng va đập vào một cái gì đó. Điều ấy có nghĩa là môi trường đang đo đạc thế giói tiểu nguyên tử, phá võ thế năng tạo ra thế giới cứng cục này. Ví dụ bàn tay của cô. Ở cấp độ lượng tử thì những phần tử tiểu nguyên tử, cái mà tạo nên nguyên tử của cô sẽ hoạt động theo định luật của lượng tử xoắn, nhưng mở rộng ra, vào một thế giới của hàng tỉ nguyên tử tạo nên móng tay của cô. Những nguyên tử này va đập, xô đẩy, tác động vào nhau - đo lường lẫn nhau - phá vỡ thế năng để tạo nên một thực thể cố định này.
— Được rồi.
Anna hẳn đã nghe thấy giọng hoài nghi trong giọng nói của cô. (Phần này tác giả sử dụng một số các kiến thức về lưỡng tính sóng hạt của vật lý học lượng tử: Nguyên lý bất định của Haidenbec, các thí nghiệm về giao thoa, bức xạ của Huyghen - Fretnen…)
— Tôi biết chuyện này quái dị, nhưng những cái tôi vừa bàn đến chỉ là bề mặt của thế giói lượng tử xoắn. Tôi bỏ qua một số khái niệm khác như phi vị trí, cổng thời gian, và đa vũ trụ.
Painter gật đầu. - Có nhiều chuyện kỳ dị ở đó.
— Nhưng tất cả những cái cô cần hiểu chỉ cần ba điểm sau đây, - Anna nói và đánh dấu chúng trên những ngón tay mụ. - Những phần tử tiểu nguyên tử tồn tại ở trạng thái lượng tử có thế năng. Để phá vỡ thế năng đó cần có một công cụ đo. Và đó chính là môi trường, hoạt động liên tục làm cái việc đo đạc ấy để định hình thực thể của chúng ta.
Lisa nhấc tay lên và ngầm bằng lòng trong chốc lát.
— Nhưng tất cả những thứ đó thì có liên quan gì đến Cái chuông? Hãy quay trở lại với thư viện, chị có nhắc đến thứ gì đấy gọi là tiến hóa lượng tử.
— Chính xác, - Anna nói. - DNA là gì? Chẳng là gì cả, chẳng qua chỉ là một cỗ máy sản xuất chất đạm, đúng không nào? sản xuất ra những thành phần cơ bản của tế bào, của cơ thể.
— Nói đơn giản nhất là như vậy.
— Vậy hãy nói đơn giản hơn. Có phải DNA không đơn thuần là một mã gien được khoá bởi những hoá chất gắn kết? Vậy cái gì phá vỡ những kết nối này, bật tắt gien?
Lisa quay trở lại kiến thức hoá học cơ bản.
— Vận động của những electron và proton.
— Vậy những phần tử tiểu nguyên tử này sẽ tuân theo quy luật nào: vật lý cổ điển hay thuyết lượng tử?
— Lượng tử.
— Như vậy nếu proton ở hai vị trí - A hoặc B - bật hoặc tắt khoá gien - thì người ta có thể tìm thấy nó ở vị trí nào?
Lisa nheo mắt. - Nếu có thế năng ở cả hai vị trí thì nó sẽ xuất hiện ở cả hai vị trí đó. Gien cũng có cả hai trạng thái bật và tắt. Cho đến khi có một cái gì đó đo lượng nó.
— Thế cái gì sẽ đo lượng nó?
— Môi trường.
— Và môi trường của gien là…?
Đôi mắt của Lisa từ từ mở to.
— Chính là phân tử DNA của nó.
Một cái gật đầu và một nụ cười.
— Ớ cấp độ cơ bản nhất của nó, tê bào sống đóng vai trò như một thiết bị đo lường lượng tử của chính nó. Và chính việc đo lường liên tục các tế bào mối thực sự là cỗ máy tiến hóa. Nó lý giải vì sao những sinh vật đột biến không phải là ngẫu nhiên. Tại sao tiến hóa lại xảy ra với tốc độ nhanh hơn là một cơ hội ngẫu nhiên.
— Gượm đã, - Lisa nói. - Chị phải quay lại tóm tắt vấn đề ấy đi.
— Vậy hãy xem một ví dụ nhé. Cô có nhớ những vi khuẩn không thể tiêu hoá lactoza, khi chúng bị bỏ đói, chỉ được cho ăn lactoza, chúng đã đột biến với một tốc độ phi thường để biến thành một loại Enzyme có thể tiêu hoá lactoza. Chống lại những khắc nghiệt của thiên hà. - Anna rướn lông mày. - Cô có thể giải thích nó ngay bây giờ không? Dùng ba nguyên lý của thuyết lượng tử. Đặc biệt nếu tôi nói với cô rằng đột biến có lợi đòi hỏi duy nhất một proton để di chuyển từ một nơi này sang nơi khác.
Lisa sẵn sàng muốn thử.
— Được thôi, nếu proton có thể ở cả hai vị trí, khi đó thuyết lượng tử sẽ nói rằng proton đã ở cả hai vị trí. Vậy nên gien cũng có thể bị đột biến mà cũng có thể không bị đột biến. Được giữ trong thế năng giữa cả hai.
Anna gật đầu. - Nói tiếp đi.
— Khi đó tế bào sẽ hoạt động như một công cụ đo lượng tử, ép các DNA vỡ vụn bên mặt này hoặc mặt kia của hàng rào. Để đột biến hoặc không đột biến. Và vì tế bào đang sống và bị ảnh hưởng bởi môi trường quanh nó, nó sẽ làm nghiêng cán cân, chối bỏ sự ngẫu nhiên để sản sinh ra đột biến có lợi.
— Cái mà các nhà khoa học ngày nay gọi là đột biến thích nghi. Môi trường thì tác động lên tế bào, tế bào tác độn£ lên DNA, và đột biến diễn ra để có lợi cho tế bào. Tất cả đều được dẫn lái bằng cơ học của thế giới lượng tử.
Lisa bắt đầu ý niệm được chuyện này đang dẫn tới đâu. Anna đã sử dụng cụm từ thiết kế thông minh trong phần thảo luận trước của họ. Mụ đàn bà này đã thậm chí trả lời câu hỏi của những người mà mụ nghĩ đứng đằng sau thứ thông minh đó.
Chính chúng ta.
Bây giờ thì Lisa đã hiểu. Chính các tế bào của chúng ta đang định hướng cho tiến hóa, để đáp ứng được với môi trường và làm sụp thế năng ở DNA để phù hợp hơn với môi trường đó. Chọn lọc tự nhiên của thuyết Darwin vận hành vào để bảo toàn những biến thể này.
— Nhưng còn quan trọng hơn, - Anna nói, giọng của mụ bắt đầu vẻ dứt khoát và rít lên một chút, - cơ học lượng tử giải thích tia lửa đầu tiên của cuộc sống đã bắt đầu như thế nào. Có nhớ sự không chắc chắn của bản sao mô hình protein đầu tiên đã hình thành ra từ nồi xúp thủa ban sơ không? Trong thế giới lượng tử, sự ngẫu nhiên được xuất hiện từ phương trình. Mẫu sao chép đầu tiên của protein hình thành vì nó là một trật tự có từ hỗn mang. Khả năng của nó, đo lượng và làm sụp thế năng lượng tử, siêu việt hơn sắp đặt ngẫu nhiên của va đập và xô đẩy đã diễn ra ở nồi xúp thủa ban sơ. Sự sống bắt đầu vì nó là công cụ đo lường lượng lượng tử tốt hơn.
— Và Chúa chẳng liên quan gì đến chuyện này à?
Lisa hỏi, lặp lại câu hỏi mà ban đầu Anna đã hỏi cô… cái mà dường như đã cách đây nhiều thập kỷ.
Anna nâng lòng bàn tay lên trán mụ, những ngón tay run rẩy. Mắt mụ chớp chớp. Mụ nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ với một nét mặt nhăn nhó vì đau. Giọng nói của mụ gần như quá yếu nghe không rõ. - Tôi không nói thế đâu… cô đang nhìn nhận sự việc theo cách sai lầm rồi, một hướng sai lầm rồi.
Lisa bỏ qua. Cô nhận ra rằng Anna đã quá kiệt sức để có thể tiếp tục nói chuyện. Tất cả bọn họ đều cần ngủ thêm. Nhưng vẫn còn một câu hỏi cần phải được hỏi.
— Thế còn Cái chuông thì sao? - Lisa hỏi. - Nó làm được những cái gì?
Anna hạ thấp bàn tay của cô ấy, nhìn chằm chằm vào Painter đầu tiên và sau đó đến Lisa. - Cái chuông là thiết bị đo lường điện tử tối thượng.
Lisa nín thở và cân nhắc điều Anna vừa nói.
Có gì đó dữ dội xuyên qua vẻ mệt lử của Anna. Khó mà đọc được: niềm kiêu hãnh, lời bào chữa, lòng trung thành,… nhưng cũng có chút vẻ sợ hãi.
— Trường hoạt động của Cái chuông, nếu ta có thể làm chủ, nắm giữ những khả năng, không chỉ để tiến hóa DNA thành một mẫu hoàn chỉnh hơn, mà còn đưa nhân loại về
— Thế còn chúng ta thì sao? - Painter nói, giọng khích động. Rõ ràng cảm xúc của anh hoàn toàn thờ ơ trước nhiệt tình của mụ. - Chị và tôi, cái gì sẽ xảy ra để làm cho chúng ta trở nên hoàn hảo?
Nguồn cảm hứng vụt tắt trong ánh mắt Anna, nó bị dập tắt bởi sự mệt mỏi và cảm giác thất bại.
— Bởi vì cũng như Cái chuông nắm giữ thế năng để tiến hóa, hướng trái ngược cũng ẩn trong sóng lượng tử của nó.
— Hướng trái ngược?
— Căn bệnh đã làm tổn thương các tế bào của chúng ta.
Anna liếc mắt ra chỗ khác. - Đó không chỉ là suy tàn… đó là thoái hoá.
Painter nhìn chằm chằm vào mụ, sửng sốt.
Những lời nói của mụ nhỏ đi tới mức thì thầm. - Thể xác của chúng ta đang đi ngược lại trở về hỗn mang nguyên thuỷ, nơi mà từ đó chúng ta đã đến.
***
• 5 giờ 5 phút sáng
Nam Phi
“Những chú khỉ đã đánh thức anh.”
Những con khỉ?
Sự khác lạ đã làm cho anh choáng, khiến anh còn đang mơ màng ngủ đã trở nên tỉnh táo ngay lập tức. Gray xoay dọc người lại. Những ký ức bị rạn nứt khi anh cố gắng hiểu xem cái gì đang diễn ra xung quanh mình.
Anh vẫn còn sống.
Trong một xà lim.
Anh đã nhở ra được luồng khí, bảo tàng Wewelsburg, những lời nói dối. Anh đã đốt cháy Kinh thánh Darwin, đã thiêu rụi cả những bí mật mà chỉ có nhóm của anh biết. Anh đã hy vọng sự cảnh cáo sẽ có nhiều ảnh hưởng hơn với ý định trả thù. Hình như nó có xảy ra. Anh vẫn còn sống. Nhưng những người khác thì đang ở đâu? Monk, Fiona, và Ryan?
Gray tìm kiếm quanh cái xà lim của anh. Nó chỉ có những cái thiết thực nhất. Một cái giường cũi, một bệ vệ sinh, một cái buồng tắm không có mái che. Không có cửa sổ nào. Cửa ra vào là những chấn song sắt dày và nhỏ. Nó mở ra một hành lang được những ánh đèn huỳnh quang chiếu sáng. Gray mất một lúc để xem xét lại chính mình. Ai đó đã lột hết quần áo của anh, nhưng có một chồng quần áo sạch sẽ được gấp gọn gàng để ở trên cái ghế phía cuối chân giường.
Anh quăng cái chăn sang bên và đứng dậy. Thế giới bị nghiêng đi, nhưng thở một vài hơi thấy nó vững lại. Vẫn thấy buồn nôn. Phổi của anh cảm thấy thô ráp và nặng nề. Hậu quả của nhiễm độc. Gray còn nhận thấy đau nhức bên trong bắp đùi của anh. Anh lần ngón tay vào một vết thâm tím cỡ nắm đấm tay bên sườn mình. Anh cảm thấy một số vết kim đâm đã đóng vảy. Còn có một miếng băng keo dán trên mu bàn tay phải của anh. Truyền dịch vào ven à? Hình như có một ai đó đã chữa trị các vết thương cho anh và cứu anh thoát chết.
Anh nghe thấy từ xa vọng lại những tiếng hú và những tiếng gọi nhau choe chóe.
Những con khỉ hoang.
Đó không phải là âm thanh bị giam cầm.
Nó giống như của một thế giới tự nhiên đang bừng tỉnh.
Nhưng đó là thế giới gì? Bầu không khí cảm thấy như khô hơn, ấm hơn và có hương thơm của xạ. Anh đang ở trong một miền khí hậu ôn hoà. Có thể là một nơi nào đó ở châu Phi. Anh đã ở ngoài trong bao lâu rồi? Họ không để cho anh cái đồng hồ đeo tay nào để xem giờ trong ngày, chí để mình anh với ngày nào đây. Nhưng anh cảm thấy chưa có ngày nào trôi qua. Râu mọc lởm chởm trên cằm khiến anh cảm giác chỉ là vừa trải qua một giấc ngủ dài.
Anh bước về phía ô cửa và với lấy đống quần áo.
Cử chỉ của anh đã lôi kéo sự chú ý của ai đó.
Ngay lập tức băng qua hành lang, Monk tiến về phía cánh cửa chắn xà ngang của cái xà lim phía xa. - cảm ơn Chúa… - anh thì thầm.
— Cậu ổn chứ?
— Cảm thấy hơi choáng váng…mệt rã rời.
Monk đã đóng bộ, mặc bộ áo liền quần màu trắng giống bộ đã để sẵn cho anh. Gray mặc bộ đồ của mình.
Monk nâng cánh tay phải của anh lên, để lộ ra cái khuỷu tay còn lại của anh, và chỗ khớp mô bằng Titan vẫn dùng để nối bộ phận giả vào cánh tay của Monk.
— Bọn mất dạy thậm chí còn lấy đi cánh tay chết tiệt này.
Cái phần đã bị mất ở cánh tay của Monk là thứ nhỏ nhất trong những mối lo của họ. về mặt nào đó, nó còn có thể có lợi cho Mọ. Nhưng việc gì làm trước thì phải làm trước đã…
— Fiona và Ryan thì sao?
— Chả có manh mối gì cả. Có thể họ đang ở trong một cái xà lim nào khác ở đây… hoặc ở một nơi nào hoàn toàn khác.
Hoặc đã chết, Gray nhủ thầm thêm.
— Bây giờ thì làm gì, thưa sếp? - Monk hỏi.
— Không nhiều lựa chọn lắm. Chúng ta đợi kẻ bắt giam chúng ta động thủ trước. Chúng muốn những thông tin mà chúng ta có. Hãy xem xem chúng ta có thể mua được cái gì bằng kiến thức đó.
Monk gật đầu. Anh biết Gray đã phỉnh phờ để quay lại lâu đài nhưng mưu đồ đó cần phải được duy trì. Những xà lim ở đây có vẻ như trong tầm giám sát.
Như để minh chứng cho điều này, một cánh cửa bật mở ở phía cuối hành lang.
Có nhiều bước chân tiến lại gần. Một nhóm người.
Họ đã hiện ra trước mắt: một nhóm lính canh gác trong bộ quân phục ngụy trang màu đen và xanh lá cây, dẫn đầu là một người đàn ông cao, tóc vàng, da tái xanh, một người mua hàng trong cuộc bán đấu giá. Y vẫn có một kiểu dáng bảnh bao như thường lệ: trong một chiếc quần vải chéo màu đen và một chiếc áo sơ mi vải lanh là lượt, cùng với một cái áo khoác lửng màu trắng bằng da và chiếc áo len casomia màu trắng. Trông có vẻ như y đang mặc trang phục cho một bữa tiệc ngoài trời.
Có mười tên lính đi cùng với y. Chúng chia làm hai nhóm và bước chéo nhau trước mỗi xà lim. Gray và Monk bước ra, họ đi chân không với những cánh tay bị buộc chặt phía sau lưng bằng những dây ni - lông.
Viên chỉ huy bước đến phía trước họ.
Đôi mắt xanh lạnh lùng của y nhìn Gray.
— Xin chào, - Y nói với một giọng cứng quèo và hơi vẻ kệch cỡm, như thể y đang bị mẫn cảm với những camera gắn ở các phòng và biết là mình đang bị theo dõi. - ông nội tôi đề nghị tiếp kiến anh.
Bất chấp dáng bộ lịch sự của hắn, mỗi lời nói đều có vẻ cáu giận độc ác, một triển vọng của nỗi đau không nói ra được. Người này trước đó đã phủ nhận giết người và bây giờ chỉ đơn thuần chờ một cơ hội của mình. Dù vậy, cái gì thực sự là nguồn gốc dẫn đến cơn thịnh nộ của y? Cái chết của anh trai y… hay sự thật là Gray đã thắng y tại lâu đài? Hoặc lý do này hoặc lý do kia, đằng sau cái vẻ bề ngoài có vẻ văn hoá và kiểu cách ấy đang ẩn nấp thứ gì đó man dại.
— Đi đường này. - Y nói và quay đi.
Y lại dẫn nhóm lính đi xuống hành lang, Gray và Monk bị lôi đi. Khi họ đi, Gray xem xét xung quanh các xà lim khác ở cả hai bên. Trống không. Không có dấu hiệu gì của Fiona và Ryan. Liệu họ vẫn còn sống chứ?
Cách phía cuối hành lang khoảng ba bước có một cánh cửa to làm bằng thép mở ra phía ngoài.
Cổng được mở để ngỏ và có lính gác.
Gray bước ra khỏi khối nhà xà lim khô khốc, và bước vào một xứ sở thần tiên tối và xanh. Những tán cây nhiệt đới rậm rạp leo cao xung quanh, những dây nho leo có gai và những cây phong lan đang nở hoa. Những tán lá rậm rạp che phủ cả bầu trời. Mặc dù Gray biết rằng bây giờ mới chỉ là sáng sớm, trước khi mặt trời mọc. Ó phía trước có một cột đèn màu đen bằng sắt thời Victoria đánh dấu con đường đi vào khu rừng nhiệt đới hoang. Chim kêu ríu rít. Tiếng côn trùng kêu rinh rích o o. Trên tán cây, một con khỉ cô đơn ẩn mình đang gọi bầy bằng một tiếng hú ngắt quãng. Việc phá bĩnh của nó đã đánh thức một con chim lông màu lửa và làm nó sải cánh bay qua những cành cây thấp.
— Châu Phi, - Monk lẩm bẩm. - Chí ít là tiểu vùng Saharan. Cũng có thể là một vùng gần xích đạo.
Gray đồng tình. Anh ước đoán đây là buổi sáng của một ngày khác. Anh đã bị mất từ mười tám đến hai mươi tiếng đồng hồ. Thời gian này có thể đã đưa họ đến bất cứ nơi nào đó của châu Phi.
Nhưng mà nơi nào đây?
Những người lính hộ tống họ đi dọc theo một con đường đất. Gray nghe thấy những bước chân nhẹ nhàng của một cái gì đó to lớn đi xuyên qua những bụi cây thấp khoảng vài thước phía bên con đường mòn. Nhưng ngay cả khi rất gần thì cũng khó nhận thấy được hình thù của nó. Rừng rậm ở đây rất nhiều để có thể che cho họ nếu họ có ý định chạy trốn.
Nhưng cơ hội này chẳng bao giờ có. Con đường mòn chỉ dài khoảng năm mươi thước. Vài bước chân nữa và rừng nhiệt đới hết vây quanh họ.
Cánh rừng mở ra với một con đường đầy cỏ xanh được tỉa tót và chiếu đèn, một khu vườn có những đài phun nước tưng bừng và những dòng suối nở hoa. Ao và rãnh nước trong vườn đầy tiếng nước rơi tí tách. Những thác nước chảy rì rầm. Một con linh dương sừng dài quay đầu nhìn họ, đứng im re một giây, rồi nhảy dựng lên băm bổ chạy biến vào khu rừng.
Bầu trời trong veo, không có một áng mây nào, lấp lánh những vì sao, nhưng ở đằng đông, một vùng sáng ửng hồng báo hiệu trời sẽ sáng trong vòng một tiếng nữa.
Gần sát đó, một quang cảnh mới đập vào mắt Gray khiến anh phải chú ý. Trên khu vườn hiện ra một tòa biệt thự sáu tầng được làm bằng đá ong và gỗ quý. Nó làm anh nhớ đến khu nhà nghỉ của nhà Ahwahnee ở Yosemite, nhưng cái này còn rộng lớn hơn nhiều lần, phạm vi cỡ vùng Wagnerian. Một lâu đài Versailes trong rừng. Nó phải chiếm ít nhất một héc - ta, mọc lên với những chiếc cột, những thanh chống, ban công và những chấn song lan can. ở phía bên tay trái, một chái nhà quan sát bằng kính nhô ra, từ phía bên trong ánh sáng chiếu ra những vùng tối trước bình minh trông như mặt trời đang mọc lên.
Sự giàu có ở đây làm người ta phát choáng.
Họ quay đầu về phía ngôi biệt thự chính, cắt ngang con đường bằng đá, chia đôi vườn nước qua những chiếc cầu vòm vượt vài cái hồ và nhánh nước. Một con rắn dài hai mét đang trườn trên một chiếc cầu đá. Chỉ nhận ra nó khi nó đã cong đuôi lên và bạnh mang ra.
Một con rắn hổ mang chúa.
Con rắn trông chừng chiếc cầu cho đến khi gã tóc vàng da trắng lôi ra một cái ống sậy dài bên bờ suối và xua nó đi như xua một con mèo ngỗ ngược. Con rắn phì phì và chìa ra cặp răng nhọn hoắt, nhưng! cuối cùng thì nó cũng lùi lại tránh cây gậy và trườn xuống mặt nước tối tăm.
Họ tiếp tục đi, không bận tâm. Gray từ từ rướn cổ lên cùng lúc họ đang tiến dần đến ngôi biệt thự chính.
Anh phát hiện ra một nét lập dị khác của công trình này. Từ những tầng trên vươn ra phía ngoài là những đường hành lang mái rừng - những cái cầu treo lơ lửng làm bằng những thanh gỗ rừng - cho phép những người khách đến nhà có thể từ những tầng trên đi thẳng ngay vào chính tán rừng. Những đường này cũng được bóng đèn chiếu sáng. Trông như cụm sao trời xuyên vào khu rừng rậm âm u. Gray quay một vòng khi anh đang đi. Ánh đèn hừng sáng xung quanh.
— Ngửng đầu lên, - Monk lẩm bẩm, gật gật đầu sang phía trái.
Ở phía trên của con đường mòn tán lá rừng, một tên lính gác súng vác trên vai bước đi chậm rãi xuất hiện trong tầm nhìn, che khuất một chiếc đèn. Gray liếc nhìn qua Monk. Nếu ở đó xuất hiện một người thì tức là có thể có rất nhiều người, cả một đoàn quân có thể nấp đâu đó trong tán lá rừng này. Chạy trốn dường như càng ít đi cơ hội.
Sau cùng, họ đến một cầu thang dẫn lên một chiếc cổng rộng được làm từ gỗ vằn bóng loáng. Một phụ nữ chờ ở đó, người chị em sinh đôi với kẻ dẫn đường của họ, cũng màu mè và đỏm dáng. Người đàn ông bước tới và hôn vào từng má của mụ.
— Y nói với mụ bằng tiếng Hà Lan. Tuy không thông thạo thứ tiếng này nhưng Gray đủ quen để nắm bắt được những ý chính.
— Những người còn lại đã sẵn sàng chưa, Ischke? - Y hỏi.
— Chúng ta chỉ còn chờ lệnh từ ông mình thôi. - Mụ ta gật đầu về hướng chái nhà kính sáng đèn ở đằng xa cuối cổng vòm. - Sau đó có thể bắt đầu cuộc đi săn.
Gray cố sục tìm manh mối của ý nói đó, nhưng chỗ anh quá tối.
Thở dài, gã tóc vàng quay trở lại chỗ họ, vuốt lại lọn tóc che mắt hắn.
— Ông tôi sẽ gặp các anh ở phòng tắm nắng, - kẻ dẫn đường của họ nói gằn từng tiếng một. Y nhìn từ trên xuống dưới suốt chiều cao của cánh cổng vòm dẫn tới phòng. - Các anh sẽ phải ăn nói lễ độ và tôn trọng ông, bằng không cá nhân tôi sẽ thấy các anh đau đớn vì từng lời hỗn láo.
— Isaak… - người phụ nữ gọi hắn.
Hắn ngừng nói và quay lại: - Gì vậy Ischke?
Mụ tiếp tục nói bằng tiếng Hà Lan. - Chúng ta có nên lôi chúng ra không?
Hắn trả lời bằng một cái gật đầu, tiếp sau bằng một mệnh lệnh cuối cùng bằng tiếng Hà Lan.
Lúc Gray cố dịch nốt đoạn cuối cho Monk nghe thì anh bị lôi đi tiếp. Anh liếc qua vai về hướng người phụ nữ. Mụ ta biến mất vào trong ngôi nhà.
Đứa con trai và con gái.
Đó hẳn phải là Ryan và Fiona.
Cả hai vẫn còn sống. Gray cảm thấy an tâm phần nào với phần tiết lộ này, nhưng những lời cuối của Isaak làm anh lạnh rốn và phát hoảng.
Lấy máu chúng trước đã.
***
• 5 giờ 18 phút sáng
Trên bầu trời châu Phi
Painter ngồi với cây bút trong tay. Tiếng khó chịu duy nhất trên chiếc máy bay là những tiếng ngáy thi thoảng được phát ra từ Gunther. Gã dường như lãng quên sự nguy hiểm mà họ đang bay vào. Rồi cũng phải nói lại rằng, Gunther không phải chịu những khó khăn về thời gian như Anna và Painter. Mặc dù tất cả ba người đều hướng tới cùng một nơi - thoái hóa - Anna và Painter thì đang thoái hóa nhanh.
Không thể ngủ được, Painter dùng thời gian để xem lại lịch sử của nhà Waalenberg, để có thể hiểu thềm về truyền thống của gia đình này.
Để hiểu kẻ địch.
Dòng họ Waalenberg lần đầu đặt chân đến châu Phi qua con đường Algier vào năm 1617. Họ tự hào rà lại lịch sử dòng họ, trở lại thời bọn cướp biển Barbary nổi tiếng dọc bồ biển Bắc Phi. Người Waalenberg đầu tiên là một tướng hậu cần của tên cướp biển nổi tiếng Sleyman Reis De Veenboer, kẻ đã điều khiển cả một hạm đội cướp biển và lao dịch Hà Lan ra khỏi vùng Algiers.
Rốt cuộc, giàu lên nhờ những chiến lợi phẩm từ buôn bán nô lệ, dòng họ Waalenberg đã chuyển đến phía nam, định cư ở một thuộc địa lớn của Hà Lan tại mũi Hảo Vọng. Nhưng đời ăn cướp không dừng lại ở đó. Đấy chẳng qua chỉ là cướp trên bờ. Họ tiếp tục trở thành một thế lực lớn đối với dân di cư Hà Lan, khi tìm thấy vàng trên vùng đất này thì dòng họ Waalenberg kiếm lời nhiều nhất. Số vàng tìm thấy không phải là nhỏ. Núi Witwatersrand Reef, rặng núi thấp ở gần Johannesburg, là nguồn vàng chiếm tối bốn mươi phần trăm số vàng của cả thế giới. Mặc dù không phô trương như những mỏ kim cương của De Beeres, vàng của mỏ Reef vẫn là một kho tài sản giàu có quý báu nhất của cả thế giới.
Họ giàu có đến nỗi dòng họ này đã dựng lên một triều đại vượt qua cả hai cuộc đại chiến Boer, và qua tất cả những mưu đồ chính trị để trở thành Nam Phi ngày nay. Họ đã là một trong những gia đình giàu cỏ nhất trên hành tinh - mặc dầu những thế hệ trước, dòng họ Waalenberg trỏ nên ẩn dật hơn bao giờ hết, đặc biệt dưới thời bảo trợ của viên trưởng tộc hiện nay, ngài Baldric Waalenberg Và khi họ biến khỏi con mắt công chúng, những lời đồn đại mọc lên quanh gia đình này: tàn bạo, dối trá, nghiện ngập, loạn luân. Nhưng vẫn như trước đây, gia đình Waalenberg vẫn giàu thêm, vẫn nắm vốn chính trong kinh doanh kim cương, dầu mỏ, hóa dầu và dược phẩm. Họ biến cái đa thành đa quốc gia.
Liệu gia đình này có thực sự đang đứng sau những vụ việc ở lâu đài Granitschlob?
Họ tất nhiên có đủ thế lực và có đủ nguồn lực. Và hình xăm mà Painter đã tìm được ở trên người của kẻ ám sát tóc vàng rất giống với “Dấu thập” của gia huy dòng họ Waalenberg. Và sau đó là cặp sinh đôi, Isaak và Ischke Waalenberg. Mục đích của họ ở châu Âu là gì?
Có quá nhiều câu hỏi chưa được trả lời.
Painter lật một trang và gõ bút vào gia huy dòng họ Waalenberg.
Có điều gì đó về biểu tượng này…
Về lai lịch dòng họ Waalenberg, Logan đã chuyển đến cho họ thông tin về biểu tượng đó. Nó có gốc gác từ thời người Celts, một bộ lạc Bắc Âu. Biểu trưng cho mặt trời, biểu tượng mặt trời này thường thấy trên những tấm khiên của dòng họ Celts, mang lại cho nó một cái tên là nơ khiên.
Tay của Painter khựng lại.
Nơ khiên.
Painter nhớ lại những lời mà Klaus nói lúc hắn hấp hối, họ bị yểm bùa.
Tất cả các ngươi sẽ chết! Sẽ bị nghẹt thở khi nơ thít lại.
Painter đã nghĩ rằng Klaus nhắc tới một dây thòng lọng nào đấy. Nhưng sẽ thế nào nếu hắn thay vì đó nhắc đến một biểu tượng?
Khi nơ thít lại.
Painter lật một tờ giấy fax. Anh phác họa biểu tượng dấu thập của nhà Waalenberg. Anh vẽ biểu tượng đó như thể có người đang thít nơ lại chặt hơn, vẽ các vòng thòng lọng đan chéo nhau, như đang buộc dây giày.
— Anh đang làm gì vậy? - Lisa hiện ra đằng sau lưng anh.
Lại bị giật mình, anh phi xoạc chiếc bút lên tờ giấy, suýt nữa thì rách.
— Chúa ơi, cái bà này, cô có thể làm ơn đừng lén lút như thế được không!
Ngáp dài, cô ngồi lên thành chiếc ghế của anh, nghễu nghện. Đặt tay lên vai anh và nói:
— Con người mới mẫn cảm làm sao. - Tay vẫn đặt trên vai anh, cô tựa mình gần hơn. - Thật đấy. Thế anh đang vẽ cái gì vậy?
Bất chợt Painter cảm nhận được ngực phải của cô đang ở sát má anh.
Anh đằng hắng và quay lại với bản phác họa của anh.
— Chỉ là nghịch một chút với cái biểu tượng mà chúng ta đã tìm thấy trên người tên ám sát thôi, một nhân viên đặc vụ khác của tôi đã trông thấy nó trên hai người của dòng họ Sonnekõnige ở châu Âu. Cặp song sinh cháu của ngài Baldric Waalenberg. Nhất định là quan trọng đây. Có thể là một đầu mối mà chúng ta đã bỏ qua.
— Hoặc có thể là lão già đểu này khoái cái trò triện dấu vào con cháu của lão như thích dấu vào súc vật. Chắc chắn chúng nuôi người ta như thế.
Painter gật đầu.
— Rồi Klaus còn nói ý gì đấy. Ý gì đấy về thít một cái nơ. Giống một chuyện bí mật chưa được nói ra.
Anh kết thúc bản phác họa, vẽ thêm một vài đường nét cẩn thận, đặt bức vẽ xuống.
Anh để hai hình ở cạnh nhau.
Một hình nguyên bản và một hình đã được thít lại.
Painter xem kỹ cả hai hình và hiểu ra ngụ ý.
Lisa hẳn đã chú ý đến nhịp hít nhẹ trong hơi thở của anh.
— Cái gì vậy? - Cô ta hỏi, tựa mình vào anh sát hơn. Painter chỉ bút vào bức vẽ thứ hai.
— Không còn nghi ngờ gì Klaus đã lạng sang phe chúng. Và có thể đó là lý do vì sao mà dòng họ Waalenberg đã trở nên ẩn dật như thế trong mấy thế hệ qua.
— Tôi không hiểu.
— Chúng ta không phải đang đối mặt với một kẻ thù mới. Chúng ta vẫn đang đối mặt với vẫn chính một kẻ thù.
Painter tô đậm lại phần trung tâm của chiếc nơ khiên đã nối khít, để lộ ra tâm điểm bí mật.
Lisa hổn hển. - Một hình chữ thập ngoặc.
Painter liếc nhìn gã khổng lồ đang ngái ngủ và em gái gã.
Anh thỏ dài: - Lại thêm quân Quốc xã.
***
• 6 giờ 4 phút sáng
Nam Phi
Chái nhà bằng kính đó hẳn phải cũ như chính ngôi nhà nguyên bản. Những cánh cửa sổ đã đen xỉn và cong queo như thể chúng bị chảy mềm dưới nắng mặt trời châu Phi, và xếp trong khung thép đen, làm Gray liên tưởng đến một cái mạng nhện. Tụ trên mặt phía trong kính phản chiếu lờ mờ hình khu rừng tối.
Ngay khi đặt bước chân đầu tiên vào bên trong, Gray đã bị hơi ẩm trong ngôi nhà làm choáng váng. Độ ẩm trong căn phòng chắc phải đạt đến một trăm phần trăm. Chiếc áo bông mỏng hút ẩm nặng trĩu cả người.
Nhưng căn phòng tắm nắng không phải để cho anh thoải mái. Phòng để đầy cây xanh trồng trong bình cây, giá đỡ, leo mọc trên bậc thang, treo lủng lẳng trên những chiếc giỏ móc dây xích màu đen. Một bồn phun nước bằng tre và đá giỏ tí tách ở chính giữa căn phòng. Đó là một vườn hoa đẹp, nhưng Gray tự hỏi ai lại cần một ngôi nhà ấm khi đã sống trên đất châu Phi.
Câu trả lời xuất hiện ngay trước mặt.
Một quý ông tóc trắng đang đứng trên bậc thang thứ hai với chiếc kéo bấm cành nhỏ xíu ở trong tay và một cái kìm tỉa cây ở tay kia. Với sự khéo léo như một nhà phẫu thuật, ông ta đang vươn người về phía một cây cảnh nhỏ - một cây mận nở hoa - và cắt tỉa một cành nhỏ. Ông ta đứng thẳng người với một tiếng thở phào mãn nguyện.
Cái cây trông có vẻ lâu năm, bị xoắn lại và bị trói bằng những sợi dây đồng. Trên đó là những bông hoa nặng trĩu, mỗi bông đều cực kỳ đối xứng, cân đối và hài hòa.
— Cái cây này một trăm hai mươi hai tuổi rồi.
Ông già nói đầy vẻ chiêm ngưỡng tác phẩm của mình. Giọng của ông ta rất trầm, ông của Heidi trong bộ gi - lê lửng. - Cái cây đã rất già khi mà ta nhận nó từ chính tay Nhật hoàng Hirohito vào năm 1941.
Ông ta bỏ những dụng cụ đó xuổng và quay lại. Trên người ông ta mang một cái tạp dề trên bộ áo hải quân với một chiếc ca - vát màu đỏ. Ông ta vẫy tay về phía đứa cháu.
— Isaak, tevreden…
Người thanh niên vội vàng bước đến và giúp ông già bước xuống từ bậc thang thứ hai. Y được thưởng một cái vỗ vai trìu mến. Ông già cởi chiếc tạp dề ra, rút lấy một cây gậy đen và nặng nề tựa lên cây gậy này. Gray để ý thấy gia huy nổi trên đầu cây gậy bằng bạc của ông ta. Hình chữ W hoa chạm vàng nổi trên biểu tượng lá sồi quen thuộc của nhà Waalenberg. Giống hệt như vết xăm trên hai anh em sinh đôi Ischke và Isaak.
— Tôi là ngài Baldric Waalenberg.
VỊ trưởng lão nói nhẹ nhàng, đảo mắt qua Gray và Monk.
— Nếu hai anh có thể, xin mời vào sa - lông chúng ta sẽ có khá nhiều điều để nói chuyện với nhau đó.
Đi xoay một vòng, ông hất bàn tay về phía đằng cuối căn phòng tắm nắng.
Ông già này có lẽ cũng đã gần chín mươi tuổi rồi, nhưng ngoài việc cần một cái gậy để chống ra thì ông trông không có vẻ gì tàn tạ. Ông ta còn để mái tóc bờm trắng như cước rất dày, xẻ mái chính giữa, thả xuống vai một chút, trông khá ngang tàng. Kính của ông ta treo bằng một sợi dây bạc vắt qua cổ, một mắt kính được gắn thêm cái gì đó trông như kính lúp của thợ kim hoàn.
Khi mà họ đi ngang qua hành lang bằng đá đen, Gray để ý thấy hoa cỏ trong ngôi nhà kính này được bố trí thành nhiều khu: khu cây cảnh và cây bụi, vườn dương xỉ, và cuối cùng là một khu với đầy ắp những phong lan.
Vị trưởng lão để ý đến sự quan sát của anh.
— Tôi đã lai giống những giống cây lạ ở đây sáu mươi năm qua.
Ông ta dừng lại cạnh một cây hoa quỳnh tía, như màu tím sậm.
— Đẹp gớm. - Monk nói, với chất giọng nhạo báng.
Isaak lườm Monk.
Ông già dường như phớt lờ.
— Ấy vậy mà phong lan đen lại lẩn trốn tôi. Giống phong lan chén thánh của Đức chúa Giêsu. Tôi đã theo dõi rất sát. Nhưng ở dưới kính phóng đại, chúng chẳng có nét sắc gì hoặc tím tía gì hơn một cục gỗ mun đặc.
Ông ta lơ đãng sờ tay vào chiếc kính lúp và tiếp tục.
Bây giờ thì Gray đã hiểu ra sự khác biệt giữa khu rừng nhiệt đới ở ngoài và ngôi nhà nóng này, ở đây thiên nhiên không phải là thứ để thưởng thức. Nó là cái gì đó để người ta chế ngự. ở dưới vòm nhà của chái nhà kính này, tự nhiên bị cắt tỉa, bị cầm hãm, bị phối giống, sự phát triển bị ức chế đến còi cọc bằng sợi dây đồng uốn dáng cây cảnh, chuyện thụ phấn do bàn tay con người đạo diễn.
Ở cuối phòng tắm nắng, họ đi qua một cánh cửa kính màu, đến một hội trường có ghế bằng mây và những bàn gỗ gụ rừng, một sa - lông nằm tụt vào một bên của ngôi nhà chính. Ở phía đằng xa, một cánh cửa mở hai chiều, bịt vành băng băng cách âm, dẫn vào nội thất của tòa biệt thự.
Baldric Waalenberg ngồi vào một chiếc ghế bành.
Isaak đi qua chiếc bàn, trang bị một chiếc máy tính HP với chiếc màn hình tinh thể lỏng treo tường. Một tấm bảng đen đặt sát bên cạnh.
Dễ dàng nhận ra được ở trên tấm bảng là một dãy những ký hiệu. Tất cả những ký hiệu đó được viết nguệch ngoạc, Gray nhìn thấy và nhận ra ký hiệu cuối là chữ Run Mensch từ cuốn Kinh thánh Darwin.
Gray đếm và ghi nhớ nó một cách bí mật. Năm ký tự. Năm quyển sách. Ớ đây là trọn bộ chữ Run của Hugo Hirszfeld. Nhưng chúng có ý nghĩa gì? Bí mật gì mà quá đẹp không thể để chết đi và lại quá ghê gớm không thể để thoát ra ngoài?
Ông già khoanh tay trên đùi và gật đầu về phía Isaak.
Y gõ một phím trên máy vi tính và một hình ảnh độ phân giải cao hiện lên qua chiếc máy chiếu hình LCD.
Một chiếc lồng cao treo lơ lửng ở trên nền rừng. Nó được chia ra làm hai nửa. Bên trong mỗi nửa lồng có một hình nhỏ nằm co quắp.
Gray tiến lên một bước, nhưng một tên lính gác hất đầu mũi súng cản anh lại. Trên màn ảnh, một hình người nhìn lên, khuôn mặt bừng lên, được một ánh đèn pha phía trên chiếu sáng.
Fiona.
Và trong nửa kia của chiếc lồng là Ryan.
Fiona bị băng bó tay trái cuộn vào viền chiếc áo. Quần áo bị nhuốm bẩn sậm. Ryan giơ cánh tay phải kẹp dưới nách, ép chặt vào. Lấy máu chúng trước đã.
Chắc bọn chó đẻ đó đã chặt tay của họ. Gray đã cầu nguyện tất cả chỉ đến thế thôi. Một cơn giận dữ bùng lên trong lồng ngực anh. Ánh mắt sắc lên khi tim anh đập thình thịch.
— Bây giờ thì chúng ta có thể nói chuyện được chưa? - Ông già nói với một nụ cười nhăn nhở. - Như người thanh lịch.
Gray liếc qua lão già nhưng anh vẫn để mắt đến màn hình. Quá là thanh lịch.
— Các ông muốn biết cái gì? - Anh hỏi giọng lạnh lùng.
— Quyển Kỉnh thánh. Các anh đã tìm thấy gì khác nữa trong những trang sách đó?
— Rồi các ông sề thả họ ra chứ?
— Còn tao thì cần chúng mày trả lại cánh tay giả! - Monk buột miệng.
Gray hết nhìn Monk lại đến lão già.
Baldric hất đầu về phía Isaak, hắn quay qua một tên lính gác và sủa ra một mệnh lệnh bằng tiếng Hà Lan. Tên lính gác xoay người trên gót chân và chạy ù qua cánh cổng đôi, đi vào phía bên trong tòa nhà.
— Không cần chửi tục thêm đâu. Các anh cứ tin lời tôi đi nếu các anh hợp tác, tất cả các anh sẽ được bảo vệ tốt.
Gray chẳng thấy lợi gì khi gìn giữ, đặc biệt là anh chẳng có gì để giữ ngoại trừ những lời nói dối. Anh chuyển vị trí sang bên và để lộ cổ tay bị trói.
— Tôi phải chỉ cho ông thứ mà chúng tôi đã tìm thấy. Tôi không thể mô tả nó chính xác được. Nó là một biểu tượng khác, như những biểu tượng này.
Một cái gật đầu khác, và trong chốc lát, Gray được cởi trói. Anh xoa cổ tay và tiến đến phía chiếc bảng đen. Mấy mũi súng liền chĩa vào anh.
Anh phải vẽ một cái gì đó làm cho chúng tin tưởng, nhưng anh không thạo thứ chữ Run ấy. Gray nhớ lại chiếc ấm pha trà của Himmler, hồi tưởng lại chiếc ấm trong viện bảo tàng. Một biểu tượng của người Run trang trí cho đồ sứ. Vừa phải bí ẩn, vừa phải thuyết phục. Và bằng cách làm sai lệch đi một từ trong tác phẩm, nó cũng làm cho bọn này phải mất thời gian để giải bí mật.
Anh cầm một viên phấn lên và phác thảo lại biểu tượng ở trên chiếc ấm.
Baldric tiến đến gần hơn.
— Một bánh xe mặt trời, hay đấy.
Gray đứng bên cạnh chiếc bảng, viên phấn ở trong tay, như một cậu học sinh chờ đợi lời phán xét của thầy giáo về một bài toán.
— Và đó là tất cả những gì các anh đã tìm thấy trong cuốn Kinh thánh của Darwin? - Baldric hỏi.
Từ khóe mắt, Gray đã nhận thấy một nụ cười đểu trên khuôn mặt của Isaak.
Có điều gì đó sai rồi sao.
Baldric đợi Gray trả lời.
— Hãy thả họ ra trước đã, - Gray đòi hỏi, gật đầu về phía màn hình.
Lão già nhìn chằm chằm vào Gray. Mặc dù cố giấu giếm thái độ của mình, Gray vẫn nhận ra được một trí thông minh tàn ác và một ngụ ý tàn bạo. Lão già đang khoái trá với tất cả những diễn biến này.
Nhưng cuối cùng lão Baldric cũng phá tan vẻ chưng hửng của họ, liếc mắt qua chỗ đứa cháu trai của lão và gật đầu một lần nữa.
— Đứa nào trước đây? - Isaak hỏi.
Gray căng ra. Chắc chắn có sai sót gì rồi.
Baldric trả lời bằng tiếng Anh, mắt lão vẫn dán vào Gray, những muốn thưởng thức trọn vẹn trò tiêu khiển này.
— Đứa con trai, ta nghĩ thế, ta sẽ lưu đứa con gái để sau.
Isaak đánh một lệnh lên bàn phím.
Trên màn hình, đáy của chiếc lồng mở ra rơi xuống và Ryan rơi xuống đè len nó. Anh khẽ kêu lên, huỵch một tiếng lúc chạm đất. Anh ngã mạnh lên trên một đám cỏ khá cao. Anh đứng dậy thật nhanh, tìm kiếm xung quanh, rất kinh hãi. Cậu bé đơn giản là cảm nhận được mối nguy hiểm chính nó mà Gray bị mù, có lẽ cái gì đó như hậu quả của việc họ bị chảy máu.
Những lời trước đó của Ischke lại vang lên trong đầu anh.
Chúng tao chỉ đợi ông có lời… Và sau đó cuộc săn có thể bắt đầu.
Cuộc săn nào?
Baldic ra dấu cho Isaak, điệu bộ xoay xoay một cái núm.
Isaak ấn một phím và âm lượng của những chiếc loa tăng lên. Tiếng la hét vẳng lại. Giọng Fiona vang lên lanh lảnh. - Chạy đi Ryan! Trèo ngay lên một cái cây.
Cậu bé nhảy múa thêm một vòng rồi chạy ì ạch ra khỏi tầm của màn hình. Tồi tệ hơn, anh nghe thấy tiếng cười. Từ những tên lính gác ở ngoài tầm nhìn của máy quay.
Sau đó là một tiếng la ré lên từ chiếc loa.
Đầy hung tợn và khát máu.
Tiếng la khóc đã làm cho Gray ghê rợn sởn tóc gáy. Baldric ra dấu giơ tay cứa qua cổ mình và âm thanh được tắt đi.
— Ở đây chúng tôi không chỉ phối giống phong lan, ngài chỉ huy trưởng Pierce ạ. - Baldric nói, đánh rơi hết tất cả vẻ lịch lãm giả bộ.
— Ông đã nói ông giữ lời cơ mà? - Gray nói.
— Nếu các ngươi hợp tác! - Baldric đứng dậy, nhẹ nhàng lên giọng. Lão ta phẩy tay lên chiếc bảng. - Chúng mày nghĩ bọn ta là những thằng ngu à? Chúng ta thừa biết chẳng có gì hết trong quyển Kinh thánh đó. Chúng ta đã có cái chúng ta cần rồi. Đó tất cả chỉ là một bài kiểm tra, chúng mày thể hiện mà thôi. Chúng ta đem bọn mày đến đây là vì những lý do khác. Những câu hỏi khác cần được trả lời.
Gray quay cuồng với những gì anh đang nghe thấy, hiểu mông lung. - Khí gas…
— Chỉ muốn làm cho mày bất lực. Chẳng bao giờ giết chóc. Cái trò vờ vĩnh của mày cũng khá vui đấy. Ta phải công nhận như vậy. Bây giờ đã đến lúc làm thật rồi đó.
Baldric bước tới gần màn hình hơn.
— Mày là người bảo vệ con nhỏ này có phải không? Một con nhỏ bốc lửa. Zeer goed. Ta sẽ cho mày xem cái gì đang chờ đợi nó trong rừng.
Một cái gật đầu, một nút trên bàn phím được nhấn, và một bức tranh hiện lên toàn màn hình.
Mắt Gray mở to ra kinh hoàng.
Baldric tiếp tục:
— Chúng ta hy vọng được biết thêm về tên đồng lõa với chúng mày. Nhưng ta muốn cho chắc là chúng ta bây giờ đang chơi trò chơi, thế nhỉ? Hay là mày cần một trình diễn khác?
Gray tiếp tục dán mắt vào hình ảnh trên màn hình, thua cuộc:
— Ai vậy? Chúng mày muốn biết về ai?
Baldric bước tới sát hơn:
— Sếp của chúng mày, thằng Painter Crowe.
Trật Tự Đen Trật Tự Đen - James Rollins Trật Tự Đen