Tính cách không thể được hình thành trong yên bình. Chỉ có trải nghiệm mới hun đúc tâm hồn, làm rõ tầm nhìn, sản sinh ra tham vọng, và giúp đạt được thành tựu.

Helen Keller

 
 
 
 
 
Tác giả: Robert Dugoni
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 429 / 20
Cập nhật: 2020-04-26 15:09:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 21
áng thứ Hai, Tracy lái xe tới tòa nhà bằng bê tông to bè bè trên đường Phi Cảng, vốn là nơi tọa lạc của Phòng Nghiên cứu Tội phạm Sở Cảnh sát bang Washington. Hôm thứ Bảy, khi rời quán cà phê, cô thấy vừa tràn trề năng lượng vừa rệu rã khôn cùng. Cô đã có những bằng chứng pháp y chắc chắn chứng minh Kimi Kanasket không tự gieo mình xuống dòng sông Cá Hồi Trắng. Ngược lại hoàn toàn. Cô ấy đã bị săn lùng, bị xe đâm và bị quăng đi một cách không thương tiếc như một túi rác. Giờ đây, mọi suy nghĩ của Tracy đều tập trung vào nhóm Tứ Thiết Nhân.
Cô cố kiềm chế không gọi cho Jenni. Cô đã học được cách không chạy ngay tới chỗ thượng cấp mỗi khi nghĩ rằng mình đã tìm ra manh mối quan trọng trong một vụ án. Quá nhiều lần manh mối ấy hóa ra lại là một đầu mối sai lầm khiến cô phải quay lại để giải thích tại sao mình đã sai.
Văn phòng của Michael Melton nằm ở tầng một. Là một chuyên viên pháp y F-5, Melton có mức lương ở bậc cao nhất trong quận, dấu hiệu không chỉ cho thấy tuổi tác mà còn thể hiện chuyên môn và những cống hiến của ông cho công việc. Nếu làm việc cho một công ty pháp y tư nhân – như hướng đi mà nhiều người đã chọn sau khi được đào tạo và đánh bóng hồ sơ nhờ làm việc cho Phòng Nghiên cứu Tội phạm, Melton đã có thể kiếm được gấp ba số tiền lương hiện giờ. Tuy nhiên, sau bao nhiêu năm tháng, ông vẫn ở lại, ngay cả khi phải chu cấp tiền học đại học hay lo đám cưới cho sáu cô con gái. Các điều tra viên đều biết Melton ở lại vì bổn phận với các nạn nhân và gia đình của họ. Ông có tên trong ban quản trị của Hiệp hội Nạn nhân Tội ác Seattle. Ông và ba nhà khoa học khác còn chơi trong một ban nhạc đồng quê Viễn Tây tên là Pháp Y để quyên tiền cho hiệp hội. Tuy có vóc dáng cao lớn, mái tóc bù xù và bộ râu rậm màu nâu xám nhưng Melton lại có những ngón tay đủ nhanh nhẹn để gảy đàn guitar và giọng ca mượt mà đến ngỡ ngàng hoàn toàn tương phản với vẻ ngoài của ông.
Tracy gặp Melton trong văn phòng của ông. Nơi đây trưng bày các bức ảnh gia đình và bằng chứng từ các vụ án mà Melton đã giúp phá án – búa đầu tròn, dao găm và một cái chảo gang đúc.
“Nhờ phúc ai mà tôi có hân hạnh được diện kiến cô điều tra viên mà tôi yêu quý nhỉ?” Melton nói. “Để tôi đoán xem nhé, vụ Tim Collins chứ gì?”
“Thực ra là một vụ khác cơ.” Tracy đáp.
“Miễn sao không cần gấp tối nay. Tôi có buổi biểu diễn ở Kel’s.”
Kel’s là quán bar Ireland nổi tiếng ở khu chợ Pike Place mà Tracy thường lui tới. “Thế mà ông không nói gì với tôi hết.”
“Vừa mới biết thôi. Bọn tôi hát thay cho một ban nhạc dân gian Ireland.”
“Không, tôi không cần gì ngay tối nay.” Tracy nói. Cô đặt ca táp xuống, lấy tập ảnh ra, lật tìm tập ảnh chụp vết bánh xe trên mặt đất “Tôi mong ông có thể cho tôi biết hãng và loại lốp xe đã tạo nên các vết này. Ông sẽ phải tra ngược lại khá xa đấy. Chúng được chụp năm 1976.”
Cũng giống như giày dép, lốp xe tạo ra những dấu vết riêng biệt. Ngay cả lốp xe cùng hãng, cùng loại cũng có thể khác nhau về độ mòn gân lốp và mức độ hư hại khác nhau dưới dạng các vết cắt hay vết khứa nhỏ trên bề mặt cao su. Trong đó, sự khác biệt ở các vết cắt hay khứa chỉ có thể thấy được nếu so sánh được vết bánh xe trong ảnh với bánh xe thật, một việc bất khả thi. Tuy nhiên, biết được nơi sản xuất và loại bánh xe cũng cực kỳ hữu ích trong trường hợp, giả dụ, nó trùng khớp với bánh xe tải của Tommy Moore hay một chiếc xe khác mà Tracy có thể tìm thấy khi cô tới thăm lại thư viện cá nhân của Sam Goldman.
“Máy tính không tra được về tận thời đó đâu.” Melton nói.
Như một cơn gió đổi chiều khiến con tàu đang băng băng lướt sóng chợt khựng lại, câu trả lời của ông khiến Tracy thảng thốt. “Còn có cách nào khác không?”
“Tôi có một người bạn là thiên tài trong lĩnh vực này. Để tôi hỏi anh ta xem có cách nào không.”
“Cái này có thể hỗ trợ thêm.” Cô đưa Melton ba tấm ảnh chụp chiếc xe tải trắng. Buzz Almond tập trung chụp những hư hại trên phần thân của chiếc xe tải nhưng có hai tấm ảnh ông chụp được một phần bánh trước. “Hy vọng ông có thể hô bùa phép và phóng to cái này ra đủ để đọc được hãng sản xuất và loại lốp xe.”
“Cô muốn biết nó có trùng khớp với loại lốp đã để lại những vết này không chứ gì?”
“Hoặc là không trùng.” Cô nói.
“Vậy thì chúng có ích.” Melton hạ kính trễ xuống chóp mũi và giơ mấy bức ảnh chụp xe tải của Tommy Moore lên ngắm nghía. “Cô có phim âm bản không?”
“Chúng ở trong túi ảnh.”
Melton lấy cuộn phim âm bản trong chiếc túi nhỏ phía trước một túi ảnh Kodak và cũng giơ nó ra ánh sáng. Rồi ông mở ngăn kéo, lôi ra một chiếc kính lúp, rà trên bức ảnh trước, sau đó tới phim. Ông hạ kính xuống, không nói không rằng.
“Tôi thấy đây không phải là một vụ điều tra hiện tại.”
“Một vụ án tồn từ năm 1976, và là một vụ tệ lắm, Mike à.”
“Đó là tất cả ư?”
“Một cô gái mười bảy tuổi mất tích trên đường từ chỗ làm về nhà. Chiều hôm sau, người ta tìm thấy xác cô ấy trên sông và đi đến kết luận là cô gái tự tử. Các bằng chứng cho thấy sự thật không phải thế. Có người đã đâm vào cô ấy.”
Những gì cô nói khiến Melton lặng đi một lúc, đúng như suy nghĩ của cô. Ông lắc đầu. “Làm sao người ta vẫn sống được sau khi làm một chuyện như thế cơ chứ?”
Tracy nhớ tới bài báo viết để kỷ niệm hai mươi lăm năm chức vô địch bang mà Sam Goldman kể rằng ông từng bỏ xó khi nhận ra nó chẳng vui vẻ như ông mong đợi. “Có thể họ cũng sống không tốt lắm đâu.” Cô nói.
Về tới bàn làm việc ở Trung tâm Tư pháp, Tracy gửi email cho Cục Cấp giấy phép ở Olympia để đề nghị kiểm tra chiếc xe tải của Tommy Moore. Buzz Almond đã chụp ảnh biển số xe. Cô cũng cho chạy tên của Eric Reynolds, Hastey Devoe, Lionel Devoe, Darren Gallentine và Archibald Coe trên Accurint cũng như trên Trung tâm Dữ liệu Tội phạm Quốc gia. Cô cũng gửi email thứ hai cho Cục Cấp giấy phép để tìm kiếm nhãn hiệu cũng như loại xe được đăng ký dưới tên những người này hoặc tên bố của họ, vì khi đó họ còn đang học trung học.
Chiều muộn hôm đó, cô nhận được email trả lời. Căn cứ vào số đăng ký xe của Tommy Moore, Cục Cấp giấy phép có thể xác nhận rằng Moore đã bán chiếc xe vào tháng Một năm 1977 cho một người mua ở Oregon, và sau đó chiếc xe đã bị tháo rời để lấy phế liệu. Việc Moore bán chiếc xe chỉ hai tháng sau cái chết của Kimi khiến Tracy đặt câu hỏi về lời khai rằng ông ta đã sửa lại kính chắn gió và thân xe. Tại sao phải mất công làm vậy nếu ông ta định bán nó đi? Mặt khác, có thể đó là lý do để trả hóa đơn bằng tiền mặt. Lionel Devoe, khi đó đang phụ trách việc kinh doanh của bố mình, có thể đã thương lượng để Moore trả bằng tiền mặt, như thế Lionel sẽ không phải ghi sổ hay nộp thuế kinh doanh.
Báo cáo thứ hai cho thấy Hastey Devoe bố sở hữu vài chiếc xe tải, bao gồm xe cứu hộ, rất có thể được trang bị loại lốp đa địa hình. Earl Kanasket sở hữu một chiếc Ford 1968. Một chiếc Ford Bronco đời 1973 được đăng ký dưới tên của Ross Reynolds. Bernard Coe, Tracy nghĩ đây là bố của Archibald Coe, có một chiếc xe tải Chevy đời 1974. Chiếc xe nào cũng có thể có lốp đa địa hình. Thực tế thì Tracy ngờ rằng tất cả đều mang loại lốp ấy. Cô cũng ngờ rằng khả năng bất kỳ chiếc xe nào trong số ấy hiện vẫn đang lưu thông chỉ là con số không. Khả năng vào năm 1976 chúng có cùng loại lốp lại càng quá ư lố bịch.
Báo cáo của Accurint xác nhận Hastey Devoe sống ở Stoneridge và một hóa đơn điện cho thấy Archibald Coe sống ở gần đó, ở Central Grove, đúng như lời Sam Goldman nói. Theo địa chỉ thì đó có vẻ là một tòa chung cư. Địa chỉ của Eric Reynolds cũng là Stoneridge, tuy nhiên bản đồ Google và vệ tinh cho thấy đó là một nơi xa thị trấn, bao quanh bởi những vườn cây ăn quả. Tracy không tìm thấy dữ liệu sử dụng dịch vụ công nào của Darren Gallentine, nhưng cô cũng chẳng mong đợi gì vì Sam Goldman nói người này đã tự tử.
Ngoài Tommy Moore, chỉ Hastey Devoe là từng có tiền sự. Ông ta từng bị bắt ba lần vì lái xe khi uống rượu, lần đầu vào năm 1982, lần thứ hai vào năm 1996 và lần gần nhất vào năm 2013. Tracy có thể tưởng tượng ra một sự nghiệp đã bao lần sa sút vì rượu chè nhưng không bị bắt, hay từng bị bắt nhưng được tha bổng nhờ người anh trai đang là Giám đốc Sở Cảnh sát.
Tracy tra tên Gallentine trên Hệ thống Lưu trữ Số của bang Washington và thu được kết quả. Darren John Gallentine chết ngày 12 tháng 10 năm 1999 ở tuổi bốn mươi mốt. Giấy chứng tử do Sở Y tế bang Washington cấp nêu nguyên nhân tử vong là do tự bắn vào đầu. Cô tìm được một mẩu cáo phó ngắn trên bản lưu trữ của tờ Thời báo Seattle. Sau khi tốt nghiệp đại học vào năm 1980, Gallentine đã làm kỹ sư cho hãng Boeing gần hai mươi năm. Ông ta chết đi, để lại người vợ là Tiffany và hai cô con gái Rebecca (mười bảy tuổi) và Rachel (mười bốn tuổi).
Thay vì mua hoa phúng điếu, gia đình đã đề nghị mọi người quyên góp cho một tổ chức mang tên Cơ sở Y tế Evergreen Tây Bắc. Tracy tra trên Google và thấy phòng khám đó đã và giờ vẫn còn hoạt động ở eo biển Puget từ năm 1973. Các tìm kiếm theo tên Tiffany, Rachel và Rebecca Gallentine không cho ra kết quả gì. Vợ của Gallentine có thể đã qua đời, tái hôn, đổi tên hay chỉ đơn giản là không làm gì để được ghi nhận trên Google. Cái tên Rebecca và Rachel Gallentine cho ra rất nhiều Facebook của những phụ nữ ở độ tuổi phù hợp. Vì giờ hai chị em họ đã bước sang tuổi ba mươi, có thể đã lấy chồng và đổi họ, khiến những kết quả chứa từ Gallentine càng thêm đáng nghi.
Quyết định bắt đầu từ nơi dễ dàng nhất, Tracy gọi điện tới phòng khám ghi trong cáo phó của Darren Gallentine và yêu cầu được nói chuyện với giám đốc. Cô biết mình đang mạo hiểm. Theo luật HIPPA – một đạo luật bảo vệ tính riêng tư của những dữ kiện trong hồ sơ bệnh lý của bệnh nhân – thông tin y tế của một bệnh nhân vẫn được bảo mật ngay cả khi họ đã qua đời, đặc biệt là các ghi chép về tâm lý trị liệu lại càng được quản lý gắt gao. Cô được nối máy tới một vị tên là Alfred Womak. Vị này xác nhận trung tâm đã từng điều trị cho Darren Gallentine nhưng không tiết lộ là vì bệnh gì. Tracy nói cô đang ở nơi đó và sẽ rất cảm kích nếu được vị giám đốc dành cho vài phút. Womak đồng ý gặp cô hai mươi phút, từ hai giờ tới hai giờ hai mươi.
Trung tâm Y tế Tây Bắc Evergreen nằm trong một khu mua sắm sành điệu tên là Làng Issaquah gần đại lộ NW Gilman, cách phía đông Seattle ba mươi đến bốn mươi lăm phút chạy xe, ở một khu vực mà người ta hay gọi là Cao nguyên. Khu cao nguyên từng một thời không có gì ngoài những đồi rừng nguyên sinh giờ giống như một bức biếm họa về sự báng bổ thiên nhiên của đô thị trong mắt nhiều người dân Seattle. Trong mười năm qua, các nhà phát triển đô thị đã đốn trụi, san bằng từng cánh rừng lớn để lấy đất xây nhà, trung tâm mua sắm, trường học và trung tâm thể thao. Dân số nhanh chóng tăng gấp ba – chủ yếu là các gia đình trung lưu da trắng có con nhỏ vội vã mua những căn nhà lớn ở mức giá khả thi.
Các tòa nhà ở Làng Issaquah nối với nhau bằng những con đường lát gạch hay gỗ, ngoài phòng khám ra còn có cả nhà hàng, tiệm làm tóc, một tiệm dụng cụ bếp núc đắt tiền, phòng tranh và một phòng tập yoga. Tất cả khiến Tracy có cảm nhận rõ rệt hơn về nhóm khách hàng điển hình của Evergreen – những ông chồng gánh trọng trách trên vai, những bà nội trợ bất mãn và bị coi thường, những đứa trẻ được bố mẹ gửi đến để tư vấn về chứng rối loạn tăng động giảm chú ý, lo lắng hay trầm cảm.
Khi Tracy bước vào khu lễ tân màu sắc mát mắt thoảng tiếng nhạc êm dịu, có tiếng chuông đồng Tây Tạng reo leng keng báo hiệu. Womak gặp Tracy ở hành lang và đưa cô tới văn phòng. Căn phòng trông giống hệt bên trong một căn lều Yurt nhưng trên tường có cửa sổ lắp kính nhìn ra phía đông khu đồi. Cô ước chừng Womak khoảng ngoài sáu mươi. Ông có bộ râu ngả màu muối tiêu đặc trưng của một chuyên gia trị liệu tâm lý. Đầu ông hói, một đôi kính gọng tròn ngự trên mặt. “Thưa điều tra viên, như tôi đã nói qua điện thoại, luật liên bang không cho phép tôi tiết lộ bất kỳ điều gì về quá trình trị liệu của ông Gallentine.”
Tracy rướn về phía trước. Đó là nguyên nhân tại sao cô thích những cuộc gặp mặt trực tiếp hơn. Cúp máy điện thoại bao giờ cũng dễ dàng hơn phớt lờ một người đang ngồi lù lù trước mặt. Cô cũng đã học được cách tránh tranh cãi và chỉ tìm cách làm cho nhân chứng trả lời câu hỏi. “Tôi hiểu. Ông có thể xác nhận ông ấy là bệnh nhân của phòng khám này chứ?”
“Có, ông ấy là bệnh nhân ở đây.”
“Trong bao lâu?”
“Chưa tới hai năm.”
“Trong hai năm đó, ông ấy có tới đây thường xuyên không?”
“Hồ sơ thanh toán cho thấy ông ta tới thường xuyên.”
“Ông còn giữ hồ sơ của ông ấy ở đây không?”
“Hồ sơ giấy thì không. Chúng tôi chuyển những hồ sơ giấy có độ tuổi hơn năm năm tới kho lưu trữ, chỉ lưu lại file dữ liệu điện tử.”
“Tức là có người scan lại những dữ liệu đó à?”
“Đúng thế.”
“Vậy là ông có thể truy cập, tra cứu chúng, đại loại thế?”
“Chính xác.”
“Nơi này có ghi lại xem trước tôi đã từng có ai yêu cầu xem hồ sơ của ông Gallentine không?”
“Trước đây chưa từng có yêu cầu nào.”
“Ông Gallentine đã kết hôn rồi phải không?”
“Theo hồ sơ của ông ta thì đúng là thế.”
“Vợ ông ấy không yêu cầu xem hồ sơ sao?”
“Trong dữ liệu không có gì cho thấy bà ta đã làm việc đó.”
Tracy thấy điều đó thật kỳ quặc. Darren Gallentine đã tự tử. Cô cho rằng một người vợ sẽ muốn biết liệu hồ sơ trị liệu có tiết lộ thêm điều gì không. Vậy thì có lẽ Tiffany Gallentine biết được nguyên nhân. Tracy biết chắc nguyên nhân bố cô tự tử: nỗi đau đớn và suy sụp do cái chết của Sarah mang lại. “Khi đó, ông ấy có con gái nhỏ chứ?” Tracy hỏi.
“Hai đứa.”
“Vậy là không ai trong số họ yêu cầu xem hồ sơ.”
“Chưa từng có ai đề nghị với bất kỳ mục đích gì.” Giọng Womak đầy vẻ kẻ cả.
“Bà Gallentine hay có cô con gái nào của họ từng yêu cầu điều trị không?”
“Dữ liệu của chúng tôi cho thấy họ tới để được hỗ trợ vượt qua nỗi đau sau cái chết của ông Gallentine.”
“Việc đó diễn ra trong bao lâu?”
“Chỉ vài lần.”
“Bác sĩ điều trị cho ông Gallentine không còn làm việc ở đây nữa phải không?”
“Bà ấy không còn làm việc ở đây nữa.”
“Bà ấy bị đuổi việc phải không?”
“Tôi không trả lời những câu hỏi liên quan tới quá trình làm việc của nhân viên.”
“Tôi chỉ đang xác nhận liệu phòng khám của ông có thực hiện việc điều tra hay đặt câu hỏi tại sao một bệnh nhân của mình lại tự tử trong khi đang điều trị hay không.” Thi thoảng, khi Tracy thách thức một người nào đó ra quyết định, đặc biệt là giới bác sĩ, cô thấy cái tôi của họ bị xáo động, và họ sẽ cố gắng để bảo vệ hành động của mình, qua đó tiết lộ những thông tin mà lúc bình thường họ sẽ không tiết lộ.
Nhưng Womak vẫn giữ bình tĩnh. “Tuần nào chúng tôi cũng họp để thảo luận về liệu trình điều trị cho bệnh nhân và chúng tôi cũng có các cuộc thảo luận trong trường hợp một bệnh nhân chọn cách kết liễu cuộc đời.”
“Chuyện này đã từng xảy ra trước chuyện của ông Gallentine sao?”
“Thật không may.”
“Làm thế nào để tôi có được một bản hồ sơ?”
“Cách duy nhất là nếu ông Gallentine đã chỉ định một người đại diện thì người đó phải thông báo với chúng tôi rằng họ từ bỏ quyền đó.”
“Trong hồ sơ có lưu địa chỉ cuối cùng của ông Gallentine không?”
“Tôi có.” Womak cho cô biết địa chỉ.
“Ông có biết bà Gallentine đã tái hôn chưa hay bà ấy còn sống ở vùng này không?”
“Tôi e là tôi không biết.”
“Vậy còn hai cô con gái, Rebecca hay Rachel thì sao?”
“Xin lỗi, tôi không biết. Đã lâu lắm rồi.”
“Ông có biết liệu bà Gallentine có đi làm khi ông Gallentine đang điều trị không?”
“Một lần nữa, tôi không biết và cũng không có cách nào để biết.” Womak nhìn đồng hồ và đứng dậy khỏi ghế. “Tôi e rằng tôi không còn thời gian.”
“Ông ta tự sát năm nào?”
“Tháng Mười năm 1999.”
Cáo phó của Gallentine viết ông ta làm việc cho hãng Boeing tới năm 1997. “Vậy còn hồ sơ thanh toán? Có phải tiền điều trị của ông ấy do bảo hiểm ở hãng Boeing chi trả không?”
Womak lại ngồi xuống. Ngón tay ông gõ trên bàn phím, và ông hếch mũi lên để đọc qua cặp kính hai tròng. “Hồ sơ cho thấy tiền điều trị của ông ta được bảo hiểm thanh toán. Không. Không phải hãng Boeing. Nó được chi trả qua bảo hiểm nhân viên hãng Microsoft của vợ ông ta.”
Rời Evergreen, Tracy gọi cho Ron Mayweather, nhân tố thứ năm của đội A, nhờ anh ta lấy dữ liệu tài sản và tra cứu địa chi gia đình Gallentine mà Womak đưa cô. Cô cũng giao cho anh ta nhiệm vụ tra cứu dữ liệu quận King để xác nhận xem có di chúc nào được chứng thực cho một người tên là Darren Samuel Gallen tine vào năm 1999 không, đồng thời kiểm tra xem nó có đề cập đến người đại diện cá nhân không. Rồi cô gọi tổng đài để hỏi số điện thoại của hãng Microsoft.
“Chị cần gọi cho phòng ban nào cụ thể không?”
“Họ liệt kê những phòng ban nào?”
“Chị có bao nhiêu thời gian?”
“Phòng Nhân sự.” Tracy đáp.
Trảng Đất Trống Trảng Đất Trống - Robert Dugoni Trảng Đất Trống